Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Sự biến đổi của quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế thị trường ở hương thủy (thừa thiên huế)” khóa luận tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.92 KB, 75 trang )

A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc học tập, nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải nắm
bắt được bản chất, bởi vì chủ nghĩa Mác chỉ là khoa học về thế giới quan và
phương pháp luận, là kim chỉ nam cho hành động chứ tuyệt nhiên không thể
lý giải cho mọi vấn đề cụ thể. Điều đó có nghĩa là phải vận dụng một cách
sáng tạo học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin vào những điều kiện cụ thể. Như
việc nhận thức và vận dụng các quy luật, đặc biệt các quy luật xã hội là hết
sức quan trọng, vì nó góp phần đẩy nhanh sự phát triển của xã hội. Trong các
quy luật xã hội thì quy luật: “quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì đây là quy luật cơ
bản, xuyên suốt và chi phối quá trình phát triển xã họi loài người, làm cho
lịch sử loài người hiện ra như quá trình lịch sử tự nhiên.
Vậy nên, việc nghiên cứu “sự biến đổi của quan hệ sản xuất” luôn là
đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn. Vì vậy, quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là một trong những nội
dung cần phải nghiên cứu và vận dụng ở Việt Nam hiện nay. Quy luật này
chỉ rõ lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và đồng thời quan hệ
sản xuất cũng có sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Bởi cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự
sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Có rất
nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ này, và một trong những nguyên nhân
quan trọng đó là sự trì trệ, bảo thủ của quan hệ sản xuất được xây dựng dựa
trên các hình thức sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước. Cách tổ chức quản lý
của các đơn vị sản xuất này không khuyến khích tính năng động sáng tạo
của người lao động. Phân phối bình quân đã làm thui chột động lực sản xuất,
lực lượng sản xuất bị kìm hãm, tư liệu sản xuất và người lao động không
[1]



được sử dụng một cách có hiệu quả. Có thể nói rằng, quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất không được vận dụng một
cách đúng đắn ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
Còn ở nước ta trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986) đã diễn ra cuộc
khủng hoảng kinh tế trầm trọng do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên
nhân nhận thức không đúng quy luật này nên đã thiếu tôn trọng quy luật
khách quan: muốn xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở trình độ
cao trong khi lực lượng sản xuất vẫn còn ở trình độ thấp - kém phát triển,
lạc hậu. Nói cách khác, muốn đưa quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản
xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển nhưng hiểu không đúng
quy luật. Quy luật này chỉ được nhận thức đúng với thực chất của nó được
thể hiện từ khi Đảng ta quyết định chuyển qua cơ chế thị trường (Đại hội
VI). Theo tinh thần của Đại hội, cả nước ta bước vào thời kỳ tiến hành cải tổ
quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Hương
Thủy - Thừa Thiên Huế cũng có những chuyển biến đầy phấn khởi trong
thời kỳ này.
Thị xã Hương Thủy- trung tâm kinh tế hạt nhân của tỉnh Thừa Thiên
Huế. Đây là mảnh đất có bề dày lịch sử và hứng chịu nhiều mất mác của
chiến tranh, nhưng cũng là mảnh đất kiên cường và anh hùng trong cuộc đấu
tranh thần thánh của dân tộc. Trãi qua những năm tháng đầy biến động và
thăng trầm cùng đất nước, ngày nay – sau gần 30 năm đổi mới, Hương Thủy
đã có bước chuyển mình mạnh mẽ. Vượt qua những khó khăn, thách thức
của bối cảnh của thế giới, Hương Thủy đã nắm bắt thời cơ, vận dụng sáng
tạo, kịp thời đường lối của Đảng và chỉ thị, nghị quyết của TW Đảng, của
tỉnh ủy, Đảng bộ thị ủy đã từng bước tạo ra sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế
- xã hội, đặc biệt là biến đổi quan hệ sản xuất ngày càng rõ rệt, ngày càng
phù hợp với sức sản xuất trên địa bàn. Nhờ vậy, thị xã Hương Thủy đã
nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân ngày
một nâng cao. Như vậy, việc biến đổi quan hệ sản xuất có một tầm quan


[2]


trọng đặc biệt - không những góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế liên tục trong những năm vừa qua của thị xã, tạo
động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong những năm tiếp theo.
Nhận thức được tầm quan trọng của quan hệ sản xuất và biến đổi của
quan hệ sản xuất trong việc phát triển kinh tế của đất nước nói chung và thị
xã Hương Thủy nói riêng, nên tôi chọn đề tài “Sự biến đổi của quan hệ sản
xuất trong điều kiện kinh tế thị trường ở Hương Thủy (Thừa Thiên Huế)”
làm đề tài khóa luận.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
“Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất” là một trong những nội dung trọng yếu của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, có vai trò rất quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Trong đó, vấn đề quan hệ sản xuất đã được nhiều nhà khoa học
quan tâm và đi sâu nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau góp phần làm
sáng tỏ vai trò, vị trí quan hệ sản xuất trong việc phát triển kinh tế ở Việt
Nam hiện nay; chẳng hạn như: Trần Văn Dực: “ Lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay” (Luận văn thạc sĩ
Triết học năm 1995); Lương Minh Cừ: “Tính đa dạng, sự liên kết và tính đan
xen của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghiã nước ta hiện nay” (tạp chí Triết học số 6/ tháng 12/ năm
1996); GS.TS Lương Xuân Quỳ: “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã
hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam”( Nxb chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2002) đã đưa ra một số giải pháp để xây dựng quan hệ
sản xuất ở thời kỳ quá độ; Nguyễn Văn Ngọc: “Quan hệ biện chứng giữa các
loại hình sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay”
(Luận án tiến sĩ Triết học năm 2002); TS.Phạm Thị Quý: “Xây dựng và hoàn
thiện quan hệ sản xuất ở Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002);

Nguyễn Trọng Chuẩn: “Kinh tế tư nhân và vấn đề Đảng viên làm kinh tế tư
nhân trong điều kiện nền kinh tế ở nước ta hiện nay” (tạp chí triết học số 9/

[3]


tháng 9/ năm 2002); Tô Huy Rứa: “Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Tạp chí
Cộng sản số 6/ năm 2004); Nguyễn Cúc – Kim Văn Chính: “Sở hữu nhà
nước và doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam (Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006); Nguyễn Kế Tuấn:
“Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010); Nguyễn Lê Quý Hiển:
“Chuyển biến quan hệ sở hữu trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam” (Luận án tiến sĩ Kinh tế năm 2012);.v.v…
Tóm lại, vấn đề phát triển và biến đổi quan hệ sản xuất là một đề tài
không mới nhưng có rất nhiều vấn đề và khía cạnh mới nảy sinh trong sự
chuyển động của nền kinh tế thị trường, đặc biệt ở các cấp cơ sở như thị xã
Hương Thủy là rất đáng quan tâm. Từ kết quả nghiên cứu của các đề tài nói
trên, tác giả khóa luận đã kế thừa có bổ sung để nghiên cứu sự biến đổi quan
hệ sản xuất ở thị xã Hương Thủy - Thừa Thiên Huế trong điều kiện nền kinh
tế thị trường giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích: Góp phần nhận thức đầy đủ hơn lý luận chủ nghĩa MácLênin về quan hệ sản xuất, sự biến đổi quan hệ sản xuất ở Việt Nam và vận
dụng sự biến đổi quan hệ sản xuất một cách linh hoạt vào việc điều chỉnh
quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất từ đó thúc
đẩy sản xuất phát triển – trong điều kiện kinh tế thị trương ở Hương Thủy
(Thừa Thiên Huế).
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ:
- Làm rõ kết cấu, vị tri, vai trò của quan hệ sản xuất, cũng như tầm

quan trọng của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất
và đối với quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế - xã hội.
- Làm rõ thực trạng và khuynh hướng biến đổi quan hệ sản xuất trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Hương Thủy (Thừa Thiên Huế); từ đó đưa ra

[4]


một số kiến nghị, giải pháp nhằm phát triển quan hệ sản xuất cho phù hợp
với lực lượng sản xuất trong tình hình mới ở địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nhiên cứu quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin về
quan hệ sản xuất , tính tất yếu của sự biến đổi quan hệ sản xuất, sự biến đổi
quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường ở Hương Thủy (Thừa Thiên
Huế).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát triển quan hệ sản xuất, các nghị quyết của thị xã Hương Thủy, tư liệu
của thị xã Hương Thủy cũng như các nguồn tư liệu, thông tin chính thống
khác.
Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phép biện chứng duy vật, phương
pháp phân tích tổng hợp vấn đề, phương pháp logic - lịch sử từ đó rút ra kết
luận. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như: so sánh, đối chiếu,
thống kê...nhưng trong đó chú trọng là phương pháp phân tích tổng hợp.
6. Đóng góp của khóa luận
Đề tài góp phần làm rõ lập trường, phương pháp Macxit về vấn đề
quan hệ sản xuất, tính tất yếu của sự biến đổi của quan hệ sản xuất, thực
trạng và khuynh hướng biến đổi của quan hệ sản xuất ở Hương Thủy, và đưa
ra một số giải pháp cho sự phát triển quan hệ sản xuất của địa phương.

7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận. Đề tài gồm 2 chương 5 tiết. Ngoài ra
còn có phụ lục kèm theo.

[5]


Chương 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
1.1 Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất
1.1.1 Khái niệm quan hệ sản xuất
Triết học Mác ra đời đã đưa lại cho con người cách nhận thức mới về
đời sống xã hội loài người, mà trước kia với vai trò chi phối của mình chủ
[6]


nghĩa duy tâm đã giải thích về đời sống xã hội xuất phát từ niềm tin tôn giáo,
tư tưởng chính trị...C.Mác - người đầu tiên phát hiện ra chủ nghĩa duy vật
lịch sử - đã phê phán những quan niệm sai lầm đó, tạo ra một bước ngoặc
cách mạng trong lịch sử nhận thức của nhân loại.
Triết học Mác nghiên cứu xã hội với điểm xuất phát là con người hiện
thực, tức xuất phát từ đời sống hiện thực của chính con người và đi đến xác
định tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và do đó là tiền đề của
mọi lịch sử, đó là “con người phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra
lịch sử”, tức là con người muốn tồn tại trước hết cần phải có thức ăn, thức
uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác…sau mới có thể lo đến những vấn
đề như khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, v.v… Như vậy để phục vụ cho sự tồn
tại của mình không có cách nào khác hơn con người phải tham gia hoạt động
sản xuất. Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác viết: “…hành vi lịch sử đầu tiên là…
sản xuất ra bản thân đời sống vật chất và đó là một hành vi lịch sử, một điều

kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như ngàn năm về trước, người
ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ để nhằm duy trì đời sống của con
người”[ 3;286-287]. Như vậy, C.Mác đã chỉ ra rằng: tiền đề đầu tiên của sự
tồn tại của con người và cũng là tiền đề của lịch sử là: “sản xuất vật chất”.
Có thể thấy được rằng, sự khác nhau cơ bản giữa con người và con vật
là ở chỗ: loài vật thích nghi với tự nhiên, với các điều kiện tồn tại của mình,
còn con người thay đổi tự nhiên, cải tạo các điều kiện tồn tại của mình cho
phù hợp với mục đích đã đặt ra, con người bắt giới tự nhiên phục vụ cho
mục đích của chính mình, thống trị giới tự nhiên thông qua lao động của
mình.
Con người tham gia vào hoạt động sản xuất của cải vật chất, đó là yêu
cầu khách quan của sự tồn tại xã hội. Nhưng hoạt động sản xuất của con
người ban đầu chỉ hành động theo thao tác bản năng, chưa thoát khỏi tính
động vật. Những hoạt động đó phụ thuộc vào giới tự nhiên, hoạt động còn
mang dáng dấp của giới tự nhiên, nhằm chiếm lấy những vật có sẵn trong

[7]


giới tự nhiên để thõa mãn nhu cầu trực tiếp của mình, đáp ứng nhu cầu sinh
tồn. Trong quá trình giao tiếp với giới tự nhiên hoạt động của con người dần
dần biến đổi và phát triển thành hoạt động có ý thức. Đến lúc này thì những
thứ có sẵn trong tự nhiên không đáp ứng đủ nhu cầu tồn tại và phát triển của
con người. Do đó, để duy trì và ngày càng nâng cao đời sống của mình, con
người phải tiến hành cải tạo giới tự nhiên. Những sản phẩm con người làm
ra lúc này không còn là những gì sẵn có trong tự nhiên, mà là kết quả của
một quá trình hoạt động có ý thức; hoạt động đó Mác gọi đó là sản xuất vật
chất và tương ứng với nó thì con người có được đời sống xã hội. Vậy chính
con người đã tạo ra chính đời sống xã hội và lịch sử của mình.
Lao động sản xuất là đặc trưng riêng chỉ có ở con người, là tiêu chí cơ

bản để phân biệt giữa con người với con vật. Trong tác phẩm “Chống
Đuyrinh” Ăngghen đã khẳng định: lao động đã tạo ra con người. Có được
dáng đi thẳng cũng như đôi bàn tay trở nên tự do và có thể làm các động tác
lao động khác nhau cũng chính là nhờ khả năng lao động. Thông qua quá
trình lao động mà đôi bàn tay ngày càng trở nên hoàn thiện, thần kỳ, tạo nên
những tuyệt tác văn hóa, làm cho thế giới con người vượt lên trên những thế
giới khác.
Sản xuất vật chất là cơ sở để xã hội loài người có thể tồn tại và phát
triển. Trong quá trình sản xuất vật chất đó, con người không ngừng làm biến
đổi giới tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản
xuất vật chất không ngừng phát triển, sự phát triển của sản xuất vật chất
quyết định sự biến đổi của phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định
sự phát triển của xã hội từ thấp đến cao. Chính vì vậy phải tìm cơ sở sâu xa
của các hiện tượng xã hội ở trong nền sản xuất vật chất của xã hội.
Với sự phát triển của đôi bàn tay và với quá trình lao động của con
người bắt đầu thống trị giới tự nhiên. Tính tất yếu của sự giao tiếp trong quá
trình lao động hay nhu cầu “phải nói với nhau cái gì đấy” khiến cho ngôn
ngữ và cơ quan phát âm xuất hiện. Lao động và ngôn ngữ được xem là hai

[8]


chất kích thích chủ yếu ảnh hưởng đến bộ óc con vượn dần dần chuyển
thành bộ óc con người, tâm lý của động vật thành ý thức con người.
Trong quá trình sản xuất con người phải luôn đồng thời tham gia vào
hai mối quan hệ mà C.Mác gọi là “mối quan hệ song trùng”, cũng có thể gọi
là quan hệ kép. Quan hệ kép này như “đường kinh độ và vĩ độ” của lịch sử
xã hội. Đó là quá trình sản xuất con người không chỉ quan hệ với giới tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của mình, đồng thời con
người không thể sản xuất có kết quả nếu tiến hành một cách riêng lẻ, đơn lẻ,

mà phải liên kết với nhau,quan hệ tác động qua lại với nhau trong quá trình
sản xuất. Quan hệ thứ nhất được gọi là lực lượng sản xuất, quan hệ thứ hai là
quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người
với con người trong quá trình sản xuất. Chính trên cơ sở giữa người và
người trong quá trình sản xuất mà hình thành nên các mối quan hệ xã hội
khác.
Khái niệm quan hệ sản xuất được hình thành trong tác phẩm “Hệ tư
tưởng Đức”. Nhưng trong tác phẩm này được gọi là hình thức giao tiếp.
Quan hệ sản xuất không phải là tồn tại vượt lịch sử, tồn tại bên ngoài hoạt
động của con người mà được bắt nguồn từ quá trình sản xuất vật chất. Con
người cùng với việc sản xuất sản phẩm vật chất cũng đã hình thành nên quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất và
quan hệ trong phân phối sản phẩm của mình. Nhưng quan hệ sản xuất không
phải được cấu thành một cách tùy tiện theo ý muốn chủ quan của con người,
mà có tính khách quan. Đối với quan hệ sản xuất, con người không thể tự do
chọn lựa, lại không thể tùy tiện thay đổi. Quan hệ sản xuất do con người tạo
ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tùy tiện của lực lượng sản xuất ở
một giai đoạn lịch sử nhất định. Để tiến hành sản xuất con người chẳng
những phải quan hệ với tự nhiên mà còn phải quan hệ với nhau để trao đổi
lao động và kết quả lao động, do đó sản xuất bao giờ cũng mang tính chất xã

[9]


hội. Trong tác phẩm “Lao động làm thuê và tư bản” C.Mác viết: “Trong sản
xuất con người không chỉ quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất
được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung
hoạt để trao đổi với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có những mối
liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên

tức là quan hệ sản xuất”[7;552].
Trong tác phẩm “Tư bản” C.Mác cho rằng tính khách quan của quan
hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, chúng hình thành ở một trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất. Thứ hai, các mối liên hệ và quan hệ kinh tế
của con người trong quá trình sản xuất vật chất không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của họ, mà phụ thuộc vào tính chất của phương tiện sản xuất và sở
hữu. Thứ ba, chúng không phụ thuộc vào các dự án và các mục tiêu định sẵn
trong đầu óc con người mà ngược lại.
Trong tác phẩm “Những “người bạn dân “ là thế nào...” Lênin đã đánh
giá vai trò của quan hệ sản xuất cũng như ý nghĩa phương pháp luận được
rút ra. Theo Lênin trong xã hội, mặt cơ bản là các quan hệ sản xuất, việc nêu
ra quan hệ sản xuất vật chất như là các quan hệ cơ bản và chủ đạo cho phép
khám phá ra những quy luật phát triển xã hội. Việc nhấn mạnh quan hệ sản
xuất vật chất khắc phục sự hòa lẫn bản chất và hiện tượng, vạch ra các tiêu
chí cơ bản để phân định ranh giới giữa các hiện tượng cơ bản và các hiện
tượng không cơ bản của đời sống xã hội là rất cần thiết.
Quan hệ sản xuất không phải là cố định bất biến mà nó mang tính lịch
sử. Bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng thích ứng với lực lượng sản xuất trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định. Do đó, lịch sử loài người đã và đang trãi
qua các quan hệ sản xuất: quan hệ sản xuất cộng sản nguyên thủy, quan hệ
sản xuất chế độ nô lệ, quan hệ sản xuất phong kiến, quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa – những quan hệ sản xuất
này cấu thành và tương ứng với những kiểu kết cấu xã hội, tức là những hình
thái kinh tế - xã hội.

[10]


Xét về mặt nội dung thì kinh tế xã hội là tổng hòa các mối quan hệ
sản xuất. Trong bất kỳ một kết cấu kinh tế xã hội nào thì hoàn toàn không

phải chỉ tồn tại một quan hệ sản xuất mà thường thường có rất nhiều quan hệ
sản xuất khác nhau cùng tồn tại, chúng chịu ảnh hưởng và tác động qua lại
lẫn nhau. Ví như, trong xã hội phong kiến ngoài chế độ sở hữu ruộng đất
phong kiến chiếm vị trí thống trị thì còn tồn tại những tàn dư của chế độ nô
lệ. Hậu kỳ của chế độ phong kiến còn có sự manh nha của chế độ sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Hoặc trong xã hội Việt Nam đương đại không chỉ có quan hệ
sản xuất công hữu đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, mà còn có các
quan hệ sản xuất phi công hữu – dù không đóng vai trò chủ đạo nhưng cũng
có vai trò quan trọng trong việc cấu thành nền kinh tế của Việt Nam.
Đồng thời, trong tất cả các quan hệ sản xuất trong một kết cấu xã hội
thì tất yếu sẽ có một quan hệ sản xuất chiếm vị trí thống trị, chi phối, đóng
vai trò chủ đạo. Chính quan hệ xã hội đóng vai trò chủ đạo này đã quyết
định tính chất của kết cấu kinh tế xã hội.
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng một phương thức sản xuất nhất
định. Phương thức sản xuất vật chất là cách thức con người thực hiện quá
trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn nhất định trong lịch sử tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Mỗi phương thức sản xuất vật chất bao giờ
cũng là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và
quan hệ sản xuất tương ứng.
Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người dù muốn
hay không cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với
nhau. Quan hệ này mang tính tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của ai cả - nó là quy luật tất yếu, khách quan trong quá trình vận động của
đời sống xã hội.
Tóm lại: Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba

[11]



mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản
lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
1.1.2 Kết cấu của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, gồm ba mặt: quan
hệ sỡ hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất,
quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Giữa ba mặt của quan hệ sản
xuất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính tương đối so với sự phát
triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Trong đó, quan hệ sở hữu trực
tiếp nói lên những lợi ích của con người trong sản xuất, nó thực sự là một
loại hình quan hệ lợi ích của con người. Quan hệ quản lý chỉ ra ai là người
có quyền trong điều hành sản xuất. Còn quan hệ phân phối thì trực tiếp quy
định phần được hưởng thụ nhiều hay ít của cải những con người tham gia
vào quá trình sản xuất. Ba mặt này thống nhất hữu cơ với nhau, nhưng đồng
thời mỗi mặt của quan hệ sản xuất vẫn có những chất năng và tính chất
riêng.
• Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò
quyết định đối với các quan hệ khác. Quan hệ sở hữu được xác định là quan
hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm, nó cấu thành toàn bộ nền
móng của quan hệ sản xuất. Bởi lẽ chỉ có quan hệ sở hữu mới có mới có thể
kết hợp được yếu tố con người với vật chất trong lực lượng sản xuất, làm
cho lực lượng sản xuất biến từ khả năng biến thành hiện thực. Quan hệ sản
xuất còn quyết định các khía cạnh khác của quan hệ sản xuất. Quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống
sản xuất xã hội. Chính nó quyết định mục đích, hình thức tổ chức kinh
doanh, phương pháp quản lý, phân phối sản phẩm làm ra.
Nói đến sở hữu là nói đến phương thức chiếm hữu mang tính lịch sử cụ
thể của con người đối với những đối tượng dùng vào mục đích sản xuất cũng
như mục đích phi sản xuất. Sở hữu không đơn thuần là giữa con người với


[12]


vật dụng - đối tượng của sự chiếm hữu, mà còn giữa người và người về vật
dụng đó. Nó chỉ rõ vật này là của người này chứ không phải của người khác
và ngược lại.
Trong quá trình lao động sản xuất, cần xác định - người lao động sử
dụng tư liệu sản xuất đó của ai và ai là người có quyền quyết định và định
đoạt tư liệu sản xuất đó, sản phẩm làm ra sau sản xuất phần lớn thuộc về ai
và ai có quyền định đoạt nó, thì người đó có quyền sở hữu tư liệu sản xuất.
Cần xem xét sở hữu dưới hai góc độ: Sở hữu về mặt pháp lý và sở hữu về
mặt kinh tế.
Sở hữu về mặt pháp lý: Quy định vật sở hữu đó là của ai? Ai là người
chiếm hữu nó và gắn liền với việc chiếm hữu đó là quyền sử dụng nó vào
mục đích gì? Tức quyền sở hữu về mặt pháp lý bao hàm trong nó là quyền
sở hữu và quyền sử dụng. Nó được quy định bằng pháp luật. Song nếu chỉ
dừng lại ở đó thì vấn đề sở hữu chỉ dừng lại ở bề ngoài sở hữu mà thôi. Việc
sử dụng quyền lực pháp lý về sở hữu hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện độc
lập với ý chí của người sở hữu.
Sở hữu về mặt kinh tế, tức là: Quyền sở hữu đó lại mang lại cho người
sở hữu một lợi ích kinh tế nào đó hay một khoảng thu nhập nào đó thì sở
hữu chủ thể mới có ý nghĩa. Khoản thu nhập mang lại cho người chủ sở hữu
chính là sở hữu về mặt kinh tế.
Cần có sự thống nhất kể cả mặt pháp lý và mặt kinh tế trong vấn đề
sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Phải gắn chủ sở hữu với lợi ích kinh tế.
Trong xã hội, giai cấp nào nắm quyền về sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu thì
giai cấp đó sẽ nắm quyền phân phối sản phẩm. Trong lịch sử, mỗi phương
thức sản xuất có một loại hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đặc trưng, chẳng
hạn sở hữu nô lệ, sở hữu phong kiến, sở hữu tư bản chủ nghĩa… Nhưng điều
đó không có nghĩa là mỗi phương thức sản xuất chỉ có một hình thức sở hữu

tư liệu sản xuất, mà có thể có nhiều hình thức sở hữu tư liệu khác nhau cùng
tồn tại. Lịch sử phát triển nhân loại chung quy lại có hai hình thức sở hữu cơ

[13]


bản về tư liệu sản xuất, đó là: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Thứ
nhất, sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập
trung vào tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu
sản xuất. Do đó quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và
trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bóc lột, đa số phục tùng tiểu số.
Đây là nguồn gốc sinh ra đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp. Quan hệ
này xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản
chủ nghĩa. Thứ hai, sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu
sản xuất thuộc về mọi thành viên cộng đồng là quan hệ bình đẳng không bóc
lột, là quan hệ hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau. Cho đến nay chỉ có một hình
thức sở hữu duy nhất là sở hữu công cộng của thị tộc. Tất nhiên, để tư liệu
sản xuất là tài sản chung của xã hội phải có chính sách cơ chế rõ ràng để xác
định cụ thể chủ thể sở hữu và sử dụng đối với những tư liệu sản xuất nhất
định thì mới khắc phục được tình trạng “sở hữu xã hội” là sở hữu chung của
tất cả mọi người, tức là không của ai cả, là vô chủ.Ở trong thị tộc thì sở hữu
chung về ruộng đất, về lao động tập thể, những liên kết bền chặt trong phạm
vi công xã. Đến chủ nghĩa cộng sản với lực lượng sản xuất cao thì hình thức
sở hữu công cộng mới phát triển cao hơn và hoàn thiện hơn, ở đó mối quan
hệ hợp tác tương trợ giữa những người lao động đã thoát khỏi bóc lột và sản
xuất được tổ chức một cách khoa học nhằm thõa mãn nhu cầu vật chất, văn
hóa của mọi thành viên trong xã hội.
Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất
Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản
xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy

hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do
quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Trong
một vài trường hợp ngoại lệ thì quan hệ tổ chức không phù hợp, thích ứng
với quan hệ sở hữu làm biến dạng quan hệ sở hữu.

[14]


Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất là quan hệ nói lên rằng trong quá
trình sản xuất thì ai là người quyết định tổ chức, quản lý trong quá trình sản
xuất. Về nguyên tắc ai là người sở hữu những quan hệ sản xuất chủ yếu thì
người đó quyết định tổ chức, quản lý sản xuất. Trong chế độ mà nền kinh tế
dựa vào chế độ tư nhân về quan hệ sản xuất như chế độ chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa thì người sở hữu tư liệu sản xuất là kẻ bóc lột,
chiếm giữ vai trò quản lý, những người này chiếm rất ít trong xã hội, còn
người lao động không có tư liệu sản xuất nên họ là người bị quản lý, bị bóc
lột. Còn trong chế độ xã hội mà tư liệu sản xuất dựa trên chế độ công hữu thì
mọi thành viên trong xã hội có vị trí bình đẳng như nhau trong tổ chức lao
động và phân phối sản xuất. Chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu, mọi
người làm việc cho mình. Trong chế độ này, quản lý nền sản xuất xã hội là
việc chung của toàn xã hội, nó được tiến hành một cách tự giác, theo một kế
hoạch thống nhất bao trùm cả xã hội “tất cả các ngành sản xuất sẽ do toàn
thể xã hội quản lý, tức sẽ được tiến hành vì lợi chung, theo một kế hoạch
chung và với sự tham gia của tất cả mọi thành viên trong xã hội”[7;23].
Mỗi quan hệ sản xuất có một kiểu quản lý và mỗi kiểu quản lý bao
gồm nhiều hình thức quản lý khác nhau. Xét trên bình diện chính trị, pháp lý
ta gọi mỗi quan hệ quản lý là một chế độ quản lý.
Hiện nay, có trường hợp người sở hữu tư liệu sản xuất không trực tiếp
đứng ra tổ chức quản lý sản xuất, mà có hiện tượng như thuê người khác
đứng ra quản lý, thì gián tiếp người đó vẫn giữ vai trò quyết định cuối cùng.

Đây là một hiện tượng khá phổ biến. Nên trong quan hệ tổ chức, quản lý dù
hình thức quản lý như thế nào đi nữa: trực tiếp hay gián tiếp thì quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất vẫn đóng vai trò chi phối quyết định. Quan hệ quản
lý là mặt tích cực của quan hệ sản xuất và có ảnh hưởng trở lại với quan hệ
sở hữu.
Tóm lại, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có sự trực tiếp đến quá
trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất.

[15]


Quan hệ phân phối
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra do quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý chi phối. Phân phối là một trong
những mặt của quan hệ sản xuất, là khâu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Đây
là mối quan hệ giữa người với người trong việc phân phối ra sản phẩm xã
hội. Quan hệ phân phối có khả năng kích thích thực tiễn vào lợi ích của con
người nên quan hệ phân phối đóng vai trò như “chất xúc tác” của các quá
trình kinh tế - xã hội, quan hệ phân phối có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển sản xuất của xã hội. Đây là quan hệ nói lên rằng trong quá trình
sản xuất người nào là chủ thể nắm quyền quyết định phân phối và ai là người
tiếp nhận.
Quan hệ phân phối do quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ
chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào
nắm được tư liệu sản xuất thì có quyền chi phối quan hệ phân phối theo
quyền lợi của giai cấp ấy. Chẳng hạn như: Dưới chế độ công xã nguyên thủy,
tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu chung của công xã, nhưng năng xuất lao
động rất thấp, chưa có sản phẩm thặng dư, do đó phân phối tất yếu là
phương thức bình quân. Còn dưới chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, có sự đối kháng giai cấp, người bóc lột người nên phương thức phân

phối dựa trên tài sản tư nhân. Các giai cấp thống trị như chủ nô, địa chủ
phong kiến và tư sản bóc lột người lao động dưới nhiều hình thức khác nhau.
Giai cấp địa chủ chiếm hầu hết sản phẩm của nông dân dưới hình thức địa
tô, nông dân được hưởng sản phẩm còn lại không đáng kể, nên đời sống
thường cực khổ, thiếu thốn. Giai cấp tư sản lại chiếm đoạt giá trị thặng dư
dưới các hình thức lợi nhuận, giai cấp công nhân chỉ được lãnh tiền công, số
tiền này thường thấp hơn sức lao động. Các phương thức phân phối này
mang tính chất thống trị giữa người với người.
Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động làm chủ tư liệu sản xuất,
làm chủ quá trình sản xuất và phân phối. Toàn bộ sản phẩm thuộc về xã hội

[16]


nên nó được phân phối vì lợi ích chung của toàn xã hội, nhằm thõa mãn nhu
cầu ngày càng cao về vật chất và văn hóa của toàn dân.
Như vậy, quan hệ phân phối có tính chất lịch sử cụ thể. Mỗi phương
thức sản xuất có quan hệ phân phối riêng, thích hợp với tính chất của quan
hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Và điều đó đã được
chứng minh một cách sinh động bằng lịch sử loài người với nhiều phương
thức sản xuất khác nhau và do đó cũng có nhiều phương thức phân phối
khác nhau.
Quan hệ phân phối và quan hệ sở hữu có mối quan hệ tác động qua lại
với nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định, nhưng đồng thời
quan hệ phân phối cũng có sự tác động đối với quan hệ sở hữu và do đó đối
với quan hệ sản xuất: có thể làm tăng hay giảm quy mô sở hữu, hoặc có thể
làm biến dạng tính chất của quan hệ sở hữu.
Vậy, ba mặt cấu thành của quan hệ sản xuất không tách biệt nhau mà
luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ tạo thành một hệ thống tương đối ổn
định của quan hệ sản xuất. Trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định

và chi phối quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Nhưng đồng thời quan hệ
quản lý và quan hệ phân phối cũng có tính độc lập tương đối của nó, tác
động trở lại đối với quan hệ sở hữu, thể hiện ở chỗ nếu không có chúng thì
quan hệ sở hữu hay lợi ích căn bản nào cũng không thể thực hiện được.
1.2 Tính tất yếu của sự biến đổi quan hệ sản xuất
1.2.1 Lực lượng sản xuất biến đổi dẫn đến sự biến đổi của quan hệ
sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất và tác
động biện chứng lẫn nhau trong một phương thức sản xuất xã hội. Chính sự
thống nhất và tác động lẫn nhau đó đã hình thành quy luật phổ biến của lịch
sử loài người: quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc

[17]


khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đến lượt mình, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát
triển” tất yếu của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng thái mà ở đó các yếu tố
cấu thành quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất
phát triển. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ phát
triển của công cụ lao động, trình độ tổ chức và lao động xã hội, trình độ ứng
dụng khoa học vào sản xuất, kỷ luật và kinh nghiệm của con người, trình độ
phân công lao động. Như vậy trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói
lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực
hiện quá trình cải tiến thế giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của mình. Tính chất của lực lượng sản xuất cũng là tính chất của tư liệu
sản xuất và của người lao động. Những công cụ sản xuất như: búa, rìu, cày

bừa, cuốc, xẻng,...do một người sử dụng và để sản xuất ra vật dùng, không
cần đến lao động tập thể thì lực lượng sản xuất mang tính cách cá nhân. Khi
máy móc sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, lực lượng sản xuất đòi hỏi phải
vận động trong sự hợp tác của xã hội một cách rộng rãi trên cơ sở chuyên
môn hóa. Tính chất tự cung, tự cấp cô lập của nề sản xuất nhỏ lúc này được
thay bằng tính chất xã hội hóa.
Trong mọi thời đại của lịch sử xã hội tồn tại và phát triển trên cơ sở
một phương thức sản xuất nhất định, trong đó quan hệ sản xuất như thế nào
là do tính chất và trình sản xuất của thời đó quy định. Mác nói: cái cối xay
gió bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa
lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp. Chẳng hạn như, lực lượng sản xuất với
công cụ bằng đá là chủ yếu của xã hội nguyên thủy có năng xuất lao động
thấp đến mức chưa tạo ra sản phẩm thặng dư tương đối, đã buộc con người
lúc đó phải tổ chức sản xuất theo kiểu làm chung, phân phối bình quân và sở
hữu chung mới đảm bảo duy trì sự tồn tại của cả cộng đồng. Như thế, tính

[18]


chất của sở hữu, quản lý, phân phối và những kích thích của chúng, không
do ý muốn chủ quan của con người, mà có cở sở khách quan từ phía lực
lượng sản xuất. Ngay cả việc lợi ích và thực hiện lợi ích, nhu cầu và thỏa
mãn nhu cầu trong sản xuất, cũng phụ thuộc khách quan vào tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất ở mỗi thời đại lịch sử.
Như vậy, trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của quan hệ sản xuất đạt
tới thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối
ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất. Với trạng
thái phù hợp như vậy lực lượng sản xuất phát triển hết khả năng của nó.
Lịch sử nhân loại chứng minh; vào cuối thời kỳ trung cổ, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành trong xã hội phong kiến đã

từng bước làm xuất hiện những yếu tố xã hội hóa trong lực lượng sản xuất.
Đến khi máy móc xuất hiện, lao động tập thể phát triển với quy mô ngày
càng lớn. Điều này làm cho lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa ngày
càng cao. Với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, làm cho nó
nhanh chóng vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của quan hệ sản xuất phong
kiến đang tồn tại, lúc này quan hệ sản xuất phong kiến trở thành “xiềng
xích”, kìm hãm sự phát triển của lực lượng. Do đó, quan hệ sản xuất phong
kiến bị phá vỡ, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính
quan hệ sản xuất mới này đã phù hợp với lực lượng sản xuất, nên đã tạo nên
được địa bàn đầy đủ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, chủ nghĩa tư bản
đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản
xuất của các thế hệ trước cộng lại. Lực lượng sản xuất mà chủ nghĩa tư bản
tạo ra là nền đại công nghiệp và gắn với nó là giai cấp công nhân. Chủ nghĩa
tư bản ngày càng phát triển thì nền đại công nghiệp và giai cấp công nhân
ngày càng phát triển. Sự ra đời của nền đại công nghiệp quyết định sự thắng
lợi của giai cấp tư sản đối với chế độ phong kiến. Nhưng đến lượt nó, nền
đại công nghiệp phát triển đến một trình độ nhất định lại mâu thuẫn với chế
độ chiếm hữu tư nhân – tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản ngày càng phát

[19]


triển thì mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt và đòi hỏi thủ tiêu nó, tức là xóa bỏ
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ xã hội có tính
chất công hữu – chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Trong thời đại ngày nay, với lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng, khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như tiên
đoán của C.Mác ở thế kỷ XIX. Nó phát triển như vũ bão đưa tới những tác
động lớn và đột ngột cho tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, gây ra sự
chuyển biến sâu sắc và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia, đưa xã

hội loài người bước sang một nền văn minh “tri thức”, “khoa học”, “công
nghệ”. Vì vậy trong quá trình xây dựng quan hệ sản xuất của thế giới nói
chung, của Việt Nam nói riêng phải có những quan niệm đổi mới đối với sự
phát triển và hoàn thiện con người. Vì đây là lực lượng sản xuất hàng đầu
của nhân loại. Ngày nay tài nguyên quý giá nhất để phát triển của mỗi quốc
gia không phải là khoáng sản, đất đai hay tài nguyên rừng, biển mà chính là
chất xám nằm trong bộ não con người. Lực lượng sản xuất của thời đại ngày
nay không chỉ mang tính chất, đặc điểm của một quốc gia mà mang tính chất
quốc tế. Do đó, quan hệ sản xuất phải phát triển phù hợp với lực lượng sản
xuất, tức phải mang tính chất xã hội hóa cao, phải theo hướng xã hội hóa,
quốc tế hóa.
Thực tế ở nước ta trước đây chỉ ra rằng không phải cứ “càng công
hữu, càng quy mô, càng thuần nhất thì càng tốt” mà phải căn cứ vào tình
hình và hiện trạng thực tế phát triển của lực lượng sản xuất để xác định cơ
cấu các hình thức sở hữu, phân phối và quản lý cho hợp lý nhằm mở đường
và thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay với sự phát triển
nhanh chóng, đa dạng gắn với sự trình độ phát triển khác nhau của lực lượng
sản xuất, tất yếu không thể tồn tại đơn sở hữu mà phải đa sở hữu, trong đó
các hình thức sở hữu ngày càng đan xen phức tạp. Các hình thức sở hữu
ngày càng đa dạng làm xuất hiện nhiều hình thức tổ chức quản lý và phân
phối gắn với nó. Điều này chứng minh rằng lực lượng sản xuất phát triển

[20]


mạnh và ngày càng theo hướng hiện đại, tiên tiến tất yếu vừa đòi hỏi, vừa là
điều kiện quyết định để đổi mới và hoàn thiện các tổ chức, quản lý và phân
phối.
Và trong khuôn khổ của một kiểu quan hệ sản xuất thường xuyên diễn
ra sự biến đổi, thay thế giữa các hình thức và các mặt (sở hữu, quản lý và

phân phối) của nó, sự kiện này cũng do yêu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất quyết định. Chẳng hạn sự chuyển biến kinh tế ở nước ta, từ kế hoạch
hóa tập trung sang thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kèm theo những
thay đổi về hình thức sở hữu, quản lý và phân phối là biểu hiện của sự kiện
đó.
Điều đó cho thấy khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng
biến đổi, sự biến đổi đó xét đến cùng, bao giờ cũng là sự biến đổi và phát
triển của lực lượng sản xuất, mà trước hết là công cụ lao động và tư liệu sản
xuất. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định: sự thay đổi và phát triển của bất
kỳ phương thức sản xuất nào cũng bắt đầu từ sự thay đổi và phát triển của
lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản xuất vật chất để lao động bớt nặng
nhọc và đạt được hiệu quả cao, con người luôn tìm cách cải biến và hoàn
thiện công cụ lao động, đồng thời chế tạo ra công cụ lao động mới tinh xảo
hơn. Cùng với sự biến đổi về công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất và
thói quen, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ.
Lực lượng sản xuất luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, là yếu tố
động, không ổn định. Trong khi quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định, chậm
phát triển. Do đó, từ chỗ quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đến chỗ quan hệ sản xuất trở nên lạc
hậu, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó sẽ nảy sinh mâu
thuẫn gay gắt giữa hai mặt trong một phương thức sản xuất. Mặt khác, trong
một cấu trúc của một phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất bao giờ
cũng là mặt nội dung. Trong mối quan hệ đó thì nội dung quyết định hình
thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước sau đó hình

[21]


thức mới biến đổi theo. Vì vậy từng bước phát triển của lực lượng sản xuất
sẽ dẫn đến quan hệ sản xuất giữa người với nhau, những quan hệ kinh tế của

họ cũng biến đổi và phù hợp với những biến đổi của lực lượng sản xuất của
xã hội trong lịch sử. Nên khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất xảy ra thì tất yếu quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ bị xóa bỏ, thay thế
một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Kết quả là
phương thức sản xuất cũ, lạc hậu sẽ được thay thế bằng một phương thức
sản xuất mới, tiến bộ hơn. Như vậy, sự biến đổi và thay thế nhau giữa các
kiểu quan hệ sản xuất trong lịch sử nhân loại xét đến cùng là do sự phát triển
của lực lượng sản xuất quy định.
Như vậy, lực lượng sản xuất thay đổi quyết định sự biến đổi của lực
lượng sản xuất. Tuy nhiên, việc nhấn mạnh yếu tố sản xuất không có nghĩa
là xem nhẹ vai tò tích cực của quan hệ sản xuất. Bởi vì sự biến đổi hay nói
cách khác việc củng cố, phát triển các quan hệ sản xuất mới làm thay đổi
không những kết cấu kinh tế mới, mà còn đưa đến sự phát triển vượt bậc của
lực lượng sản xuất. Tuy lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất,
nhưng quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, tác động đến thái độ
của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân phối lao động xã
hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ...Tất cả những yếu tố đó
lại ảnh hưởng và quy định thái độ của quần chúng lao động - lực lượng sản
xuất chủ yếu của xã hội và do đó tác động đến lực lượng sản xuất. Quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
là động lực thúc đẩy của lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lai, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “ tiên tiến” hơn một
cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lúc đó, quan
hệ sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ở nước ta, tại

[22]



Đại hội VI, Đảng ta khẳng định “lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ
trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà còn cả khi quan hệ sản xuất
phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với lực lượng sản
xuất”[27;57]. Trước năm 1986, nước ta chủ trương đẩy mạnh và phát triển
quan hệ sản xuất “cách mạng về quan hệ sản xuất” với ảo tưởng rằng quan
hệ sản xuất có thể “đi trước một bước” và “mở đường” cho lực lượng sản
xuất phát triển. Lúc đó ta chưa thấy thực trạng của đất nước đã trải qua hàng
chục năm chiến tranh, hậu quả về kinh tế là hết sức nặng nề. Những tàn dư
của chế độ thực dân phong kiến ở trong xã hội còn rất nhiều. Các thế lực thù
địch thì luôn tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập của
nhân dân ta, đời sống của nhân dân còn gặp muôn vàn khó khăn. Do nôn
nóng có xã hội chủ nghĩa càng nhanh, chúng ta đã đẩy mạnh phong trào hợp
tác hóa với cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã hình thành trong thời kỳ
này. Chúng ta đã quá nhấn mạnh quan hệ sở hữu mà chưa chú ý đúng mức
quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối. Trong từng mặt của quan hệ
sản xuất cũng sai lầm như: đối với quan hệ sở hữu chúng ta chỉ thừa nhận
hai hình thức sở hữu, còn quan hệ quản lý thì thực hiện theo cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp; phân phối theo bình quân. Đây là sai lầm do không
bám sát thực tế, không thực hiện đúng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, trong
một thời gian dài quan hệ sản xuất trở thành lực cản trở sự phát triển của lực
lượng sản xuất, dẫn đến đời sống kinh tế và xã hội gặp nhiều khó khăn.
Từ Đại hội VI (12/1986) chúng ta đã có nhận thức đúng đắn hơn về
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đây
là quy luật khách quan cần phải tuân theo trong quá trình sản xuất vật chất
của con người. Như vậy từ năm 1986 tới nay việc xác lập quan hệ sản xuất
mới đã tạo sự chuyển biến trong lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất thực
sự được “cởi trói”. Vì vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Nước ta
đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, lạm phát giảm, đời sống của nhân dân


[23]


ngày một nâng cao. Quan hệ sản xuất ở nước ta biến đổi trên cả ba mặt hợp
thành nó: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ tổ chức và quan
hệ quản lý; quan hệ phân phối. Ba mặt này cùng biến đổi, cùng tác động lẫn
nhau, tạo thành một hệ thống quan hệ sản xuất tương đối phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất hiện tại của nước ta.
1.2.2 Thực chất quá trình biến đổi của lực lượng sản xuất
• Quan hệ sản xuất trước năm 1986
V.I.Lênin đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng của C.Mác và
Ăngghen vào điều kiện cụ thể ở nước Nga, và chỉ ra hai con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội, đó là: Đối với các nước tư bản phát triển, sau khi giai cấp
vô sản giành được chính quyền sẽ chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đối
với các nước lạc hậu, con đường đó phải trải qua nhiều khâu trung gian,
nhiều bước quá độ khác nhau. Ngay sau cách mạng Tháng Mười Nga, trong
tác phẩm “về bệnh ấu trĩ tả khuynh” và “tính tiểu tư sản”, Lênin đã kịch liệt
phê phán những tư tưởng nóng vội muốn xác lập ngay chế độ công hữu. Đặc
biệt trong chính sách kinh tế mới ,ông đã đưa ra tư tưởng nền kinh tế nhiều
thành phần, về các hình thức kinh tế quá độ, nhất là vấn đề sử dụng tư bản
chủ nghĩa nhà nước với tư cách là sự chuẩn bị đầy đủ vật chất nhất cho chủ
nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử, là
bước tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Sau khi Lênin mất, Liên Xô đã đi vào công nghiệp hóa, đẩy mạnh
quốc hữu hóa và tập thể hóa, thực hiện quản lý kinh tế theo mô hình kế
hoạch hóa tập trung, tuyệt đối hóa công hữu dưới hai hình thức: toàn dân và
tập thể. Thậm chí vào những năm tám mươi của thế kỷ XX, ở Liên Xô đã
không ít người cho rằng hình thức sở hữu tập thể đang từng bước chuyển
thành sở hữu toàn dân.

Theo quy luật thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể nóng vội xác lập

[24]


quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong khi lực lượng sản xuất chưa phát
triển.
Về quan hệ sở hữu
Trước năm 1986, ở các nước của hệ thống xã hội chủ nghĩa cũng như
ở nước ta chỉ thừa nhận một chế độ sở hữu với hai hình thức sở hữu đó là sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Quan điểm đã thống trị ở nước ta trong thời
gian không ngắn, nó đã bỏ qua những điều kiện hiện thực, hoàn toàn không
tính đến điều kiện lịch sử - cụ thể và khả năng của một đất nước đang ở
trong trình độ thấp kém về nhiều mặt, nhất là chưa kinh qua sự phát triển
của tư bản chủ nghĩa nói chung, còn rất lạc hậu về nhiều mặt, lại phải dồn
mọi nguồn lực và khả năng cho công cuộc chống ngoại xâm. Sau cuộc chiến
tranh kết thúc, đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, đáng lẽ phải
tập trung huy động mọi nguồn lực mọi khả năng có thể từ tất cả các thành
phần kinh tế để phát triển thì chúng ta lại thực hiện một cách giáo điều, duy
ý chí công cuộc cải tạo mà thực chất là xóa bỏ các thành phần kinh tế được
coi là phi xã hội chủ nghĩa nhằm thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa,
thiết lập quan hệ xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước.
Chúng ta đã phạm sai lầm khi cho rằng quan hệ sản xuất phải đi trước
lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Và một hệ
quả tất yếu đã xảy ra là quan hệ sở hữu, các hình thức sở hữu và các hành
phần kinh tế ngoài nhà nước, ngoài tập thể bị đối xử như vật cản trở đáng
ghét cần phải xóa bỏ, cần phải cải tạo để chuyển sang thành phần kinh tế
quốc doanh và tập thể để đảm bảo sự đi lên và sự thành công của xã hội chủ
nghĩa. Các thành phần cá thể bị thu hẹp, số hộ nông dân vào hợp tác xã gia

tăng một cách nhanh chóng, quy mô hợp tác xã công nghiệp được mở rộng,
kể cả sau khi đất nước hoàn toàn được giải phóng. Các thành phần kinh tế tư
nhân, tư bản nhà nước không những không phát triển được mà còn bị cải tạo
và xóa bỏ. Hình thức kinh tế tư nhân bị coi là phi xã hội chủ nghĩa, là mầm
mống sản sinh ra tư bản chủ nghĩa. Do đó, từ năm 1961 đến năm 1975, ở

[25]


×