Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Tư tưởng giáo dục của khổng tử và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp giáo dục ở việt nam hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.44 KB, 95 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung Quốc là một trung tâm văn minh lớn của nhân loại và cũng là cái nôi
đầu tiên của lịch sử loài người. Trung Quốc có nền triết học từ rất sớm và đạt đến
trình độ cao, góp vào dòng chảy chung của lịch sử tư tưởng nhân loại, với nhiều
phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Trung Quốc còn là
nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh
Châu Á cũng như toàn thế giới. Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể
đến trường phái triết học Nho giáo do Khổng Tử sáng lập. Nét đặc thù của triết
học Trung Quốc thời kỳ này là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử có xu hướng đi
sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tư tưởng
giáo dục của Khổng Tử không chỉ có ảnh hưởng đối với Trung Quốc mà còn các
nước khu vực, trong đó có Việt Nam.
Ngay sau khi cách mạng tháng 8-1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký ngay sắc lệnh thành lập “Bình dân học vụ”, kêu gọi mọi người dân tham
gia học tập để xóa nạn mù chữ. Người xác định trong ba thứ giặc, giặc đói, giặc
ngoại xâm thì giặc dốt là nguy hiểm nhất, nếu không tiêu diệt được giặc dốt thì
nguy cơ mất nước ngày càng cao.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muốn xây dựng thành công
CNXH phải có con người XHCN” [25; 310], đó là những con người có tri thức và
tầm hiểu biết cao, có lòng nhiệt huyết, sức sáng tạo lớn. Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ X viết: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH, HĐH đất nước” [7; 94-95]. Nó
được xem là động lực của sự phát triển xã hội. Muốn vậy, phải đào tạo ra những
con người có tri thức, có trình độ, năng lực, có tài đức, vừa “hồng”, vừa
“chuyên”, đảm đương trách nhiệm, gánh vác công việc của đất nước trong thời
kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Do đó, đẩy mạnh công tác giáo dục - đào tạo
trong điều kiện đất nước bước vào thời kỳ CNH, HĐH, hội nhập quốc tế có vị trí
vô cùng quan trọng.



Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta có nhiều thay đổi lớn lao,
thu được nhiều thành tựu mới: đời sống nhân dân nâng cao có nhiều cải thiện, nền
kinh tế phát triển nhanh, đói nghèo cơ bản được đẩy lùi… bên cạnh những thành
tựu đã đạt được trên tất cả các lĩnh vực, thì ngành giáo dục cũng đã gặt hái được
những thành quả đáng khích lệ. Nhưng trong thời kỳ hội nhập mở cửa, thì những
mặt trái của cơ chế thị trường đang ngày càng tác động vào đời sống nhân dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ. Các giá trị truyền thống đang có nguy cơ mất dần, sự xuống cấp
về đạo đức, lối sống, thoái hóa biến chất của một số cán bộ, đảng viên, các tệ nạn
tham nhũng, lãng phí, quan liêu… ngày càng có xu hướng tăng.
Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đang ra sức giáo dục thế giới
quan, nhân sinh quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng
cường giáo dục đạo đức truyền thống của dân tộc cho quần chúng nhân dân, nhất
là thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước, nhằm mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa
đất nước phát triển nhanh, mạnh, bền vững, sánh vai các cường quốc năm châu
như Bác Hồ hằng mong mỏi…
Xác định được tầm quan trọng của giáo dục, Đảng và Nhà nước ta đã tích
cực đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, kế thừa phát triển những tư tưởng
giáo dục tiến bộ của nhân loại, trong đó có tư tưởng giáo dục của Khổng Tử một nhà giáo dục lớn của Trung Quốc cổ đại và của cả nhân loại.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, mặc dù có lúc bị lãng quên, không được
coi trọng ngay tại đất nước, quê hương Khổng Tử, nhưng do giá trị xuyên thời đại
của tư tưởng giáo dục tiến bộ, mà tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đã đến với mọi
quốc gia, dân tộc, nhất là các nước phương Đông như: Hàn Quốc, Nhật Bản,
Singapo, Việt Nam… Những giá trị tiến bộ, tích cực trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử được nhân loại kế thừa, phát triển trong những điều kiện mới.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đẩy mạnh “đối mới căn bản và
giáo dục toàn diện”. Vì vậy, nghiên cứu những quan điểm giáo dục của Khổng
Tử là vấn đề hết sức cần thiết, mặc dù một số nội dung không còn phù hợp với
điều kiện nước ta hiện nay nhưng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử vẫn còn nhiều
ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.



Với những nhận định bước đầu đó, tôi chọn đề tài: “Tư tưởng giáo dục
của Khổng Tử và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện
nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khổng Tử - nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà chính trị lỗi lạc của Trung Quốc
cổ đại, được tôn vinh là Vạn thế sư biểu. Là người sáng lập ra Nho giáo, một
trong những trường phái triết học lớn của Trung Quốc. Từ xưa cho đến nay rất
nhiều tác giả đã tìm hiểu và nghiên cứu về ông cũng như tư tưởng của ông, trong
đó có tư tưởng giáo dục.
Có thể nêu lên một số tác phẩm tiêu biểu sau:
- “Khổng Tử” của Lý Tường Hải, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002.
- “Luận ngữ” của Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn học, Hà Nội, 1995.
- “Nho giáo họ Khổng” của Nguyễn Hiến Lê, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1992.
- “Khổng Phu Tử và Luận ngữ” của Phạm Văn Khoái, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nôi, 2004.
- “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001.
- “Bàn về đạo Nho” của Nguyễn Khắc Viện, Nxb Thế giới, Hà Nội, 1993.
- “Nho học ở Việt Nam - giáo dục và thi cử” của Nguyễn Thế Long, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1995.
- “Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người” của TS. Nguyễn Thị
Nga - TS. Hồ Trọng Hoài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- “Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con
người” của TS. Nguyễn Thị Tuyết Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
Ngoài ra, còn nhiều bài viết đăng tải trên các tạp chí Triết học, giáo dục lý
luận như :
- Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam, Tạp chí triết học, số 3, Lê Ngọc
Anh, 1999.
- Quan điểm của Khổng Tử về giáo dục và đào tạo con người, Tạp chí Triết

học, số 3, Doãn Chính (6 – 2000).
- Góp phần tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ”,
Giáo dục lý luận, số 7, Cung Thị Ngọc (2005)…


Các tác phẩm trên phần nào đã thể hiện rõ tư tưởng giáo dục của Khổng Tử,
đó là một người hết lòng vì sự nghiệp, có tâm huyết với nghề nghiệp, là một
người đã đóng góp to lớn cho nền giáo dục của nhân loại. Như vậy, hiện đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Tuy nhiên, việc
trình bày tư tưởng giáo dục của Khổng Tử một cách hệ thống thì vẫn còn rất
khiêm tốn. Những nghiên cứu này cũng chỉ xem xét tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử như một bộ phận cấu thành trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo và là
giai đoạn trong sự phát triển hàng ngàn năm của giáo dục Nho giáo, do đó, không
có điều kiện đi vào nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc. Và còn rất ít những
nghiên cứu chuyên sâu về đề tài tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và ý nghĩa của
nó đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Khóa luận nhằm làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận tập trung làm rõ những vấn đề sau:
+ Những tiền đề của sự hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.
+ Những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.
+ Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.
+ Ý nghĩa của tư tưởng giáo dục Khổng Tử đối với sự nghiệp giáo dục ở
Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
+ Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp chung là phép biện chứng duy vật mác xít.
+ Đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích và tổng hợp,
logic và lịch sử, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn….


5. Đóng góp của khóa luận
- Góp phần hệ thống hóa, làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo
dục của Khổng Tử; ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
- Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành Triết học và những ai
quan tâm đến lĩnh vực này.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận gồm có 2 chương, 5 tiết.
Chương 1. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.
Chương 2. Ý nghĩa tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với sự nghiệp giáo
dục ở Việt Nam hiện nay.


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
1.1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
Như chúng ta đã biết, sự xuất hiện của mỗi học thuyết, tư tưởng không phải
một cách ngẫu nhiên hay từ hư vô, mà luôn có cơ sở khách quan của nó. Một

trong những cơ sở khách quan quan trọng mà từ đó mỗi học thuyết, tư tưởng ra
đời, tồn tại và phát triển là những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. C.Mác từng
viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời
đại mình, của dân tộc mình,…” [19;156].
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng giáo dục của Khổng Tử cũng
không phải là một ngoại lệ, nằm ngoài quy luật trên. Do đó, muốn nghiên cứu
tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử thì chúng ta phải tìm hiểu điều kiện kinh tế, xã hội,
chính trị của thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, thời đại mà tư tưởng Khổng Tử nói
chung cũng như tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng nảy sinh, hình thành
và phát triển.
Khổng Tử sống trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc (770 - 221 tr.CN).
Đây là thời kỳ mà xã hội Trung Quốc đang có những chuyển biến hết sức căn bản
và lớn lao. Chế độ chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông mà đỉnh cao là chế
độ “tông pháp” nhà Chu đang suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đanh hình thành.
Trong xã hội Trung Quốc thời kỳ này diễn ra những biến đổi hết sức sâu sắc trên
tất cả các mặt của đời sống xã hội, tạo điều kiện cho sự giải phóng tư tưởng của
con người thoát khỏi thế giới quan mang tính chất thần bí, ảnh hưởng sâu sắc đến
sự phát triển của tư tưởng triết học.
Về mặt kinh tế, thời Xuân Thu nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời
đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Sự ra đời của đồ sắt đã tạo ra một cuộc cách
mạng trong công cụ sản xuất. Nó thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển


nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực. Trong đó nông nghiệp là một ngành kinh tế có
truyền thống lâu đời và giữ vai trò hết sức quan trọng ở Trung Quốc. Với sự xuất
hiện của đồ sắt, đã đem lại cho người Trung Quốc những tiến bộ mới trong cải
tiến công cụ sản xuất và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp… Vào thời kỳ này, hệ
thống thủy lợi đã trải rộng khắp khu vực Trường Giang; diện tích canh tác được
mở rộng; kỹ thuật trồng trọt được cải tiến đã giảm được đáng kể sức sản xuất
trong nông nghiệp và năng suất lao động tăng. Ruộng đất do nông nô mở hoang

biến thành ruộng đất tư ngày một nhiều. Bọn quý tộc có quyền thế cũng chiếm
dần ruộng đất của công xã làm ruộng tư. Chế độ sở hữu tư nhân về rượng đất trên
cơ sở đó hình thành.
Đồ sắt ra đời không chỉ thúc đẩy nền nông nghiệp Trung Quốc phát triển
mà còn thúc đẩy nền thủ công nghiệp phát triển. Đồ sắt được sử dụng phổ biến
làm cho sự phân công lao động trong sản xuất thủ công nghiệp đạt tới trình độ
cao hơn, chuyên nghiệp hơn, thúc đẩy một loạt các ngành nghề thủ công nghiệp
phát triển, như nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm gốm…
Sự phát triển đa dạng của nhiều ngành nghề thủ công nghiệp đã có ý nghĩa tích
cực trong việc giải phóng sức lao động, góp phần phá vỡ nền kinh tế thuần nông.
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương nghiệp
ngày càng phát triển hơn trước, hoạt động giao lưu buôn bán diễn ra sôi động và
sự xuất hiện nhiều đô thị trở thành trung tâm thương mại.Tiền tệ đã xuất hiện. Do
nhờ buôn bán mà giàu có, trong xã hội hình thành một lớp thương nhân ngày
càng có thế lực như Huyền Cao nước Trịnh, Tử Cống… Tầng lớp này thường kết
giao với các bậc chư hầu, công khanh đại phu, tìm cách leo lên giành quyền lực
với tầng lớp quý tộc cũ, gây nhiều ảnh hưởng đối với chính trị đương thời.
Về chính trị - xã hội, những biến đổi về mặt kinh tế tất yếu đẫn đến những
biến đổi về mặt chính trị trong thời Xuân Thu. Nếu như trong thời Tây Chu chế
độ tông pháp, “phong hầu, kiến địa” vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý
nghĩa về mặt chính trị, ràng buộc về huyết thống, có tác dụng tích cực làm cho
nhà Chu giữ được sự hưng thịnh trong một thời gian dài, thì đến thời Xuân Thu,
chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn trọng, các quan hệ kinh tế, chính
trị, quân sự giữa thiên tử và các nước chư hầu trở nên lỏng lẻo, huyết thống ngày
càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu không còn được duy trì như trước. Nhiều nước


chư hầu mượn tiếng khôi phục lại địa vị tông chủ của nhà Chu đã đưa ra khẩu
hiệu “tôn vương bài di”, nhưng thực chất là mưu cầu lợi ích cá nhân, mở rộng
thế lực và đất đai, thôn tính các nước nhỏ, trang giành địa vị bá chủ thiên hạ đã

đua nhau xuất binh đánh nhau suốt mấy trăm năm. Thời Xuân Thu có khoảng
242 năm nhưng đã xảy ra tới 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Đầu thời Tây Chu có
hàng ngàn nước, đến cuối thời Xuân Thu chỉ còn hơn một trăm nước. Trong đó
có những hùng mạnh nhất thời bấy giờ thay nhau làm bá chủ thiên hạ như nước
Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt, Tần. Để tập trung tất cả tài lực và vật lực cho các
cuộc chiến tranh, các quốc gia này đều thi hành chính sách “bá đạo” dựa trên
sức mạnh và ra sức bóc lột nhân dân và các nước khác. Chính sách “bá đạo” đã
làm cho đời sống nhân dân hết sức khổ cực. Người dân phải tham gia vào quân
đội thực hiện các cuộc chinh phạt của các tập đoàn quý tộc, đồng thời phải chịu
sưu cao thuế nặng, phu phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai thường xuyên xảy ra,
nạn cướp bóc lại hoành hành khắp nơi. Đồng ruộng bỏ hoang, cuộc sống nhân
dân trăm bề khốn khổ.
Cùng với các cuộc thôn tính lẫn nhau của các quốc gia thì ngay bên trong
mỗi quốc gia cũng nổ ra không ít các cuộc tranh giành quyền lực và đất đai giữa
quý tộc với nhau. Điển hình là nước Tấn, năm 403 tr.CN có ba dòng họ lớn là Hàn,
Ngụy, Triệu đã nổi lên phế bỏ vua Tấn, dựng lên ba nước Hàn, Ngụy, Triệu.
Hậu quả của những cuộc tranh giành, thôn tính, chinh phạt lẫn nhau của tầng
lớp quý tộc đã dẫn tới sự diệt vong của hàng loạt các nước chư hầu nhỏ, đạo đức
xã hội bị suy đồi, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, mâu thuẫn giai cấp trong xã
hội trở nên sâu sắc, kể cả mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và nhân dân cũng như
giữa giai cấp thống trị với nhau, làm cho xã hội ngày càng thêm rối loạn. Lễ nghĩa
nhà Chu bị phá hoại, đặc biệt những nghi lễ chặt chẽ, tôn nghiêm trước đây đã
từng góp phần bảo vệ và làm hưng thịnh chế độ tông pháp nhà Chu, thì đến nay
cũng bị xem thường. Hậu quả tất yếu là một vài nơi đã nổi lên các cuộc khởi nghĩa
nông dân và nô lệ. Đẩy mâu thuẫn xã hội thời Xuân Thu lên đến đỉnh cao, đưa chế
độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc đi nhanh đến suy tàn và cáo chung.
Như vậy, kết quả của những biến động kinh tế đã dẫn đến sự biến đổi sâu
sắc trong kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều tầng lớp mới xuất hiện và mâu



thuẫn giai cấp trong xã hội ngày càng diễn ra gay gắt. Có thể tóm tắt mấy mâu
thuẫn chính nổi lên trong thời kỳ này là:
- Mâu thuẫn giữa tầng lớp mới nổi lên có tư hữu tài sản, có địa vị kinh tế
trong xã hội (Hiển tộc) mà không được tham gia chính quyền với giai cấp quý tộc
thị tộc cũ của nhà Chu đang nắm chính quyền.
- Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với giai
cấp quý tộc thị tộc Chu.
- Mâu thuẫn nông dân công xã thuộc các tộc bị nhà Chu nô dịch với nhà
Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng hết sức lao động của họ.
Đó là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế độ nô
lệ thị tộc, tiến nhập vào xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ
gia trưởng (còn gọi là Tông pháp), xây dựng nhà nước của giai cấp quốc dân, giải
phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Chính trong thời đại lịch sử đầy biến động của thời kỳ Xuân Thu - Chiến
Quốc đã đặt ra cho các nhà tư tưởng những câu hỏi lớn về mặt triết học, chính trị,
luân lý đạo đức, pháp luật, quân sự,… đòi hỏi các nhà tư tưởng phải có những
tìm hiểu, nghiên cứu để đưa ra những câu trả lời, đưa ra những giải pháp giải
quyết những vấn đề thực tiễn xã hội lúc bấy giờ. Trong nước xuất hiện những
trung tâm (như Tắc Hạ của nước Tề), những tụ điểm (như nhà Mạnh Thường
Quân) mà ở đó “kẻ xử sĩ bàn ngang” hay “bàn việc nước”. Nhìn chung họ đều
đứng trên lập trường của giai cấp mình, tầng lớp mình mà phê phán (để cải tổ hay
để lật đổ) trật tự xã hội cũ, xây dựng (trong tư tưởng) xã hội tương lai và tranh
luận, phê phán, đả kích lẫn nhau. Lịch sử gọi là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm
nhà trăm thầy), “Bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng) [31; 24-27]. Vì vậy,
trong thời kỳ này đã xuất hiện hàng loạt các nhà tư tưởng lớn và học thuyết lớn.
Chính thời kỳ “Bách gia tranh minh” đó hình thành nên trường phái triết học lớn
trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc và trường phái triết học Nho gia do Khổng Tử
là người sáng lập là một trong những trường phái triết học lớn thời kỳ này.
Trường phái triết học đã có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ thời đó mà cả một thời
kỳ lịch sử lâu dài sau này.



1.1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng Tử (551 - 479 tr.CN) tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra ở tại Ấp
Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông,
Trung Quốc). Khổng Tử sinh ra trong một gia đình nghèo, ông tổ ba đời là
Khổng Phòng Thúc, nguyên là người nước Tống, dòng dõi quý tộc bị sa sút, sau
dời sang nước Lỗ. Cha của Khổng Tử là Thúc Lương Ngột làm quan võ tại ấp
Trâu. Đến lúc gần già, thân phụ ông mới lấy bà Nhan thị - Nhan Trưng Tại và
sinh ra Khổng Tử.
Khi Khổng Tử ra đời thì thân phụ đã 70 tuổi, năm 3 tuổi ông mồ côi cha.
Sau khi chồng mất, dù gia cảnh nghèo khổ bần hàn, nhưng bà Nhan thị vẫn quyết
chí nuôi con ăn học. Do gia cảnh bần hàn ông làm nhiều nghề như: quản lí gia
súc, kho tàng lương thực, tham gia nhưng nghi thức tế tự, tang ma… Ông từng
nói: “ta lúc nhỏ nghèo hèn làm không ít việc bỉ lậu” [9; 14]. Ngay từ nhỏ Khổng
Tử nổi tiếng là người siêng năng, học giỏi, lúc 15 tuổi trở đi ông quyết chí học
tập “Ngô Thập hữu ngũ nhi chí ư học” [15; 39].
Năm 19 tuổi Khổng Tử lập gia đình với bà Khiên thị sinh ra được một
người con trai đặt tên là Khổng Lý, tự Bá Ngư và một người con gái. Sau đó năm
20 tuổi Khổng Tử làm chức Uỷ lại coi việc đong lường thóc ở kho (được khen là
“liệu lượng bình, cối kê đương”), năm 21 tuổi làm Tư chức lại coi việc chăn nuôi
gia súc phục vụ việc cúng tế (cũng được khen là “ngưu dương tráng thuật”).
Theo sách Thông khảo, thì năm 22 tuổi bắt đầu dạy học, sau đó ông tiếp tục học
nhạc và học dạo. Lúc này Khổng Tử còn trẻ tuổi nhưng đã nổi tiếng là tài giỏi,
cho nên Lễ Hầu sắp chết mà còn dặn lại con rằng:“Khổng Khâu là dòng giỏi quý
tộc. Họ Khổng bị phiêu bạt ở nước Tống vì loạn lạc đã bỏ sang nước Lỗ. Tổ tiên
Ngài là ngành trưởng vua nước Tống, nhưng nhường ngôi cho vua Li cho nên
gia thế Khổng có tiếng là nhún nhường. Người ta thường bảo rằng các bậc hiền
triết hay xuất hiện ở các gia đình quý phái tuy rằng không tất nhiên ở địa vị
quyền quý. Vậy mà, Khổng Khâu còn trẻ đã ham khoa sứ học. Y sẽ trở nên một

nhà hiền triết sau này. Cho nên ta khuyên các con sau này khi ta mất rồi, con nên
theo Y mà học tập” [29; 208]. Quả nhiên sau này, cả ba anh em Nam Cung Quát
và Hà Kỵ đều nhập môn họ Khổng để học lễ.


Năm 53 tuổi, Khổng Tử được vua Lỗ mời ra làm Trung đô tế (quan coi ấp
Trung đô). Thời gian này chính sự của ông được rất nhiều nơi sử dụng làm pháp
độ. Chẳng bao lâu ông được phong làm Đại Tư Khấu, rồi Nhiếp tướng bộ coi
việc in, ấn định luật lệ, phép tắc trong nước. Trong bốn năm nhận chức, Khổng
Tử đã thẳng tay trừng trị loạn quan, nịnh quan trong triều, đem lại cho nước Lỗ
cảnh “ban đêm ngủ không phải đóng cửa, ban ngày ra đường không ai nhặt của
rơi, luân thường đạo lý được coi trọng”. Song vua nước Lỗ đam mê tửu sắc, đàn
hát, ca múa, xa hoa, bỏ bê việc triều chính, ông can ngăn không được mới xin từ
chức. Từ đó, ông đi chu du các nước chư hầu như: Tề, Vệ, Tần, Sở, Tống. Đến 68
tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, ở nhà dạy học và làm sách để truyền đạo cho
muôn đời.
Cuộc đời Khổng Tử là những bước thăng trầm, vất vả, dù cho ông là người
uyên thâm, tài cao đức rộng, muốn mang đạo của mình ra giúp đời, nhưng không
một ông vua nào nhìn thấy để trọng dụng một con người đầy tài năng đức độ này
cả. Trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, Khổng Tử đã tổng kết lại cuộc đời
của mình như sau: “Ta 15 tuổi để chí vào việc học đạo; 30 tuổi biết tự lập tức
khắc kỷ phục lễ cư theo điều lễ mà làm; 40 tuổi không nghi hoặc nữa, tức có trí
đức nên hiểu rõ ba đức: nhân, lễ, nghĩa; năm 50 tuổi biết mệnh trời, biết được
việc nào sức người làm được, việc nào sức người không làm được; 60 tuổi đã
biết theo mệnh trời; 70 tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài
khuôn khổ đạo lý, không phải suy nghĩ gắng sức mà hành động tự nhiên hợp đạo
lý” [16; 39].
Sau 14 năm lang thang, phiêu bạt qua nhiều nước tìm bậc minh quân nhưng
không thành giống như “con chó lạc mất chủ” [10; 15] - như cách nói của ông Khổng Tử lại quay về tiếp tục sự nghiệp“trồng người”. Tuy có mấy lần ông ra
làm quan nhưng dạy học vẫn là sự nghiệp lớn mà Khổng Tử theo suốt cuộc đời.

Với tấm lòng tâm huyết của người thầy, Khổng Tử lấy giáo dục làm tối trọng đại.
Ông đã hết lòng vì học trò, luôn mang tư tưởng “dạy không biết chán, học không
biết mỏi”, nên Khổng Tử đã đào tạo nên một lớp thế hệ học trò xuất sắc, trong đó
nổi bật có 72 người hiền tài. Học trò của ông nhiều thành phần, nhiều người đến
từ nơi rất xa, “có đủ con nhà quý tộc, trung lưu, bình dân, có người làm quan Tể,
quan đại phu ở các nước, Tử Cống làm tướng quốc nước Vệ và có đi sứ ở nhiều


nước” [12; 390]. Qua sự giáo dục dạy dỗ của Khổng Tử học trò không chỉ thông
thạo kinh sử mà còn về đạo đức, ông dạy cách sống cũng như cách làm người,
những điều tưởng chừng như rất bình thường nhưng lại thực sự cần thiết đối với
mỗi người trong cách làm người. Vì thế nên học trò ông rất kính trọng ông, Nhan
Uyên khen: “Đạo thầy ta càng ngửng lên trông càng thấy cao, càng đục càng
thấy cứng, mới thấy ở trước mặt bỗng hiện ở sau lưng…” [16; 158].
Về tác phẩm, Ông có san định lại các Kinh (Lục Kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc,
Dịch, Xuân Thu). Có người còn cho rằng kinh Xuân Thu là kinh do chính tay ông
viết. Sách Luận Ngữ, tác phẩm chứa đựng những tư tưởng cơ bản của Khổng Tử,
là do những môn đệ chép lại những lời ông dạy.
Từ cuốn sách này chúng ta có thể thấy nhiều tư tưởng sâu sắc trong đó có tư
tưởng giáo dục. Có thể khẳng định “Luận ngữ” là một tác phẩm chứa nhiều quan
điểm giáo dục trên tất cả các phương diện: mục đích, đối tượng, nội dung,
phương pháp. Là tác phẩm chứa nhiều tư tưởng có giá trị góp phần quan trọng
vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo của chúng ta hiện nay.
1.2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
1.2.1. Mục đích giáo dục
Xã hội Trung Quốc thời Khổng Tử là thời kỳ nhà Chu suy vong đến cực độ.
Các cuộc chiến tranh liên tiếp xảy ra, không chỉ là các cuộc giao tranh giữa các
chư hầu mà còn có những cuộc giao tranh giữa chư hầu và thiên tử, luân thường,
đạo lý bị đảo lộn, kỷ cương phép nước không nghiêm. Xã hội loạn lạc như vậy
theo Khổng Tử là vô đạo, là lễ, nhạc hư hỏng. Trong bối cảnh đời suy đạo hỏng,

mọi người phải học để hành đạo giúp đời. Học để giúp vua, giúp quốc gia.
Nên mục đích giáo dục của Khổng Tử không đơn thuần chỉ là đào tạo ra
những người “lý tưởng”, biết đạo, hiểu đạo, mà còn cao hơn nữa ông muốn là
đào tạo ra người có đủ năng lực để tham gia gánh vác công việc quốc gia, bình
ổn xã hội.


Từ mục đích đó, Khổng Tử tập trung vào việc đào tạo người quân tử. Nếu
giáo dục được Khổng Tử xem là phương tiện chính góp phần cải biến xã hội từ
loạn thành trị, thì người quân tử là nhân tố cốt lõi, là động lực dẫn dắt xã hội đến
thịnh trị. Chính vì vậy, ông dành tâm huyết của mình cho việc đào tạo người
quân tử. Trần Trọng Kim cho rằng: “Đã nói rằng đạo của Khổng Tử là đạo
người quân tử cốt dạy người ta cho thành người có đức hạnh hoàn toàn và có
nhân phẩm tôn quý, cho nên bao nhiêu những sự dạy dỗ, học tập của Khổng
giáo đều chứa cả vào sự gây thành người quân tử” [13; 99].
Nhằm mục đích trên, Khổng Tử luôn hướng học trò vào mục đích làm
người cai trị. Khổng Tử cho rằng: mục đích của học giả đời xưa là học để có tri
thức, để sửa mình, còn mục đích của học giả đời nay là học để có địa vị và danh
phận trong xã hội, tức là học để làm quan, để dẫn dắt xã hội tới thịnh trị: “Người
đời xưa vì mình mà học đạo; người đời nay vì người mà học đạo” (Cổ chi học
giả vị kỷ; kim chi học giả vị nhơn) [15; 226-227]. Tư tưởng “Học dĩ ứng dụng”,
tức là học để ứng dụng có ích cho quốc gia xã hội, luôn là mục đích cao nhất của
người học. Nếu học mà không ứng dụng được, không thể đưa tài học để giúp
nước thì việc học đó chẳng há vô ích, học phải có mục đích rõ ràng ứng dụng
trong cuộc sống. Học để phân định phải trái, thực hư, điều gì thấy còn nghi ngờ,
còn khuyết thì đừng nói; điều gì thấy ít kinh nghiệm, còn khuyết đã thì không
nên làm; cẩn thận trong lời nói, trong việc làm thì ít lỗi, ít ăn năn. Học phải có gì


ích dụng nếu không thì cũng chẳng để làm gì. Khổng Tử dạy rằng: “Đọc ba trăm

thiên Kinh Thi, giao cho việc chính trị mà làm không nên, sai đi sứ bốn phương
mà không biết ứng đối như vậy học nhiều để làm gì ?” [16; 214].
Nếu người học chỉ có khư khư ôm lấy cái đạo học ấy mà không đem ra ứng
dụng thực hành thì sao có thể gọi là thực học được. Vì vậy, học đạo để hành đạo
là yêu cầu thiết thân đối với người giáo dục.
Tư tưởng học để làm chính sự, làm quan để biến xã hội từ “loạn thành trị”
của Khổng Tử được các học trò rất thấm nhuần. Tử Lộ, một học trò của ông cho
rằng: “người có học, có tài đức mà không ra làm quan là không hợp đạo nghĩa.
Người quân tử ra làm quan là để thi hành cái nghĩa lớn trung quân ái quốc mà
thôi, chứ không phải mưu cầu phú quý” [15; 291]. Tử Hạ, một học trò khác của
Khổng Tử, cho rằng: “học ra làm quan là một quá trình học đạo và hành đạo bổ
sung cho nhau. Người đã làm quan thì cũng cần phải học thêm, còn người học
thì nên làm quan” [15; 301].
Tuy nhiên, để truyền bá một cách rộng rãi tư tưởng nhân nghĩa của mình,
mục đích của Khổng Tử không chỉ là giáo dục cho người quân tử, mà đồng thời
ông cũng giáo dục cho cả bậc thứ dân. Một mặt, ông muốn kén chọn những
người có đủ đức, đủ tài trong nhân dân tham gia vào công việc chính trị quốc gia
để ổn định trật tự xã hội, nhưng quan trọng hơn, Khổng Tử còn nhằm giáo dục
cho dân chúng đạo lý tam cương, ngũ thường, nhân, lễ, hiếu, nghĩa,... với mục


đích để họ hiểu được đạo lý, sống đúng với đạo lý, khuyên họ nên biết an phận
thủ thường, nên sống đúng với cái danh của mình, chịu sự cai trị của tầng lớp
trên, phục tùng mênh lệnh của nhà cầm quyền, tất cả cũng nhằm duy trì trật tự,
kỷ cương và sự ổn định của xã hội phong kiến. Ông nói: “Người quân tử ở ngôi
trên nhờ học đạo mà thương dân mến chúng; kẻ tiểu nhân ở bậc dưới nhờ học
đạo mà biết tuân lệnh nhà cầm quyền” (Quân tử học đạo tắc ái nhân. Tiểu nhân
học đạo tắc dị sử dã) [15; 270-271].
Với Khổng Tử, dạy học trước hết là để biết, để hiểu đạo lý ở đời, để tự sửa
mình thành người có nhân cách, phẩm chất và để làm người quân tử mọi người

hiểu được đạo, hiểu được đạo mới biết cách thao thư để có cái phẩm giá đạo đức
hơn người thường. Cái đích của Khổng Tử là dạy người ta thành người nhân nghĩa,
trung chính, tức dạy người quân tử. Song có dạy mà không học thì dẫu sự dạy hay
thế nào cũng mặc lòng, cũng không sao thành công được. Vậy nên Khổng Tử lấy
sự học là một điều rất trọng yếu. Như cổ nhân từng nói: “Học là cốt học đạo của
thánh hiền để hiểu nghĩa lý, biết phải trái mà sửa mình để cho thành người có đức
hạnh, chứ không chỉ vì lấy biết nghề kiếm ăn” [13; 125]. Như vậy, cuộc đời của
con người quan trọng nhất là phải học, học để biết đạo lý làm người và nâng cao trí
thức cho mình, mang tài trí của mình ra giúp đời, cứu người.
Cuộc đời của Khổng Tử là một tấm gương ham học cầu tiến. Thể hiện rõ rệt
một phẩm cách tinh thần cứng cỏi, truy cầu không mệt mỏi, Khổng Tử đã nhiều
lần nhấn mạnh rằng: “không phải ta sinh ra đã có am hiểu tri thức, chẳng qua là


ta đam mê các tri thức văn hóa của bậc thánh hiền cổ xưa nên cố gắng tầm học”
[16; 129]. Khổng Tử là người có chí hướng cao xa, mong muốn được đem sự
hiểu biết của mình ra giúp dân cứu nước, nhưng chí nguyện không thành công,
đành quay về dạy học truyền bá tư tưởng thông qua học trò của mình, với hi vọng
học trò lĩnh hội và thực hiện được phần nào tư tưởng của ông.
Theo Khổng Tử, học để “Tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ” và đây
cũng chính là con đường đi của người quân tử. Và trong đó tu thân là nhiệm vụ
quan trọng nhất của mỗi người. Người quân tử muốn trở thành người có ích cho
xã hội, xây dựng một xã hội tốt đẹp, hòa đồng, thì trước hết phải tu thân. Ở đời tu
thân là quan trọng nhất, không tự tu thân thì không thể giúp đời được không làm
tròn bổn phận của mình với thiên hạ được“Những vị vua, những vị thánh thửa
xưa muốn cho đức của mình tỏa sáng, trước hết phải lo sửa trị nước mình; muốn
sửa, trị nước mình trước hết phải lo sửa mình; muốn sửa trị nhà mình trước hết
phải tu tập lấy mình bằng cách thấu suốt đạo trời đất để giữ cho lòng ngay
thẳng” [3; 80].
Việc tu thân không chỉ của người quân tử, mà là việc của tất cả mọi người.

Đây chính là mục đích sâu xa trong mục đích giáo dục, để xây dựng một xã hội trật
tự, một đất nước thanh bình của Khổng Tử. Vì vậy trong quá trình dạy học, ông luôn
khuyên học trò rèn luyện được như người quân tử với những phẩm chất sau:
1. Khi nhìn phải nhìn cho minh bạch, nhìn đúng vấn đề


2. Khi nghe phải nghe cho rõ ràng, nghe lời người trung thành
3. Nói về hình thức sắc mặt phải ôn hòa
4. Nói năng phải trung thực
5. Tướng mạo phải trang nghiêm
6. Làm việc trọng sự kính nể
7. Điều gì còn nghi hoặc thì phải xem xét, phải hỏi han cho rõ ngọn nguồn
của sự việc hay vấn đề.
8. Khi tức giận phải nhớ đến hậu họa
9. Khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa [28; 599]
Đó là mục đích giáo dục của Khổng Tử, mong muốn của ông là đào tạo
được nên những con người có phẩm chất tốt đẹp như vậy, để xây dựng một xã
hội lý tưởng từ “vô đạo” thành “hữu đạo”, đó là một xã hội được xây dựng trên
nền tảng “đức trị” nặng đức mà nhẹ hình.
Quan điểm giáo dục của Khổng Tử dựa trên cơ sở học thuyết về đạo nhân,
nên ông chủ trương giáo dục với mục đích là “Tiên học lễ, hậu học văn”, trước
hết là phải giáo dục ý thức, sau đó mới giáo dục tri thức, nên ông thường khuyên
học trò “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất sắc để cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân
nhân, hành hữu dư lực tắc dĩ học văn”- Con em ở trong nhà thì hiếu thảo với
cha mẹ, ra ngoài kính nhường bậc huynh trưởng, thận trọng lời nói mà thành


thật, yêu khắp mọi người mà gần gũi với người nhân đức, làm được như vậy rồi
mà còn dư sức sẽ học văn hóa” [16; 28].
Mục đích giáo dục của Khổng Tử, là để làm người và giáo dục lòng nhân vì

nhân là nội dung quan trọng trong tư tưởng Khổng Tử. Là phẩm chất bao trùm
mọi đức tính khác của con người. Khi người quân tử đã có được nhân đạt được
đạo, thì phải hành đạo giúp đời cứu người, phải được thực hành ứng dụng, sử
dụng những gì mình đã học để tham gia xây dựng quốc gia xã tắc đấy chính là
mục đích cao nhất của việc học, chứ đâu phải lấy sự học ra làm quan sang mà
hưởng bổng lộc.
Mục đích giáo dục của vị thánh sư này còn là thông qua việc giáo dục sẽ
giúp học trò tìm thấy chân lí trong cuộc sống, và ông cũng mong sao học trò sẽ
tìm thấy được chân lý cuộc đời qua mỗi bài học. Khổng Tử hết sức phản đối cái
học cầu danh lợi, tranh đấu vì quyền lợi mà chú trọng vào mục đích tìm chân lý
trong giáo dục. Chân lý ở đây tức là đạo lý, cho nên Khổng Tử định nghĩa cho
giáo dục là: “Tu đạo chi vị giáo - tu sửa đạo lý gọi là giáo dục. “Đạo của Khổng
Tử, lấy hai chữ chí thiện làm cực điểm, chí thiện tức là nhân. Từ đầu chí cuối chỉ
có một mối, chỉ lấy theo thiên lý làm gốc, dùng hiếu đễ, lễ nhạc mà khiến người
ta tiến đến bậc nhân” [13; 103], để trở thành bậc nhân, bậc thánh con người phải
hiểu đạo lý ở đời. Khổng Tử cho là cái đạo ấy có cái vui, cái thú và ông đã cực tả


lòng hâm mộ nhiệt thành đạo lý trong sự học ở câu nói: “Triêu văn đạo tịch tử
khả hỹ” - Buổi sáng được nghe mà hiểu đạo, buổi tối chết cũng thỏa [16; 76].
Tóm lại, mục đích giáo dục của Khổng Tử là nhằm đào tạo ra cho xã hội
con người có đủ “đức”- “tài”, đem tài trí và sức lực của mình ra giúp đời, dám
xả thân vì nghĩa lớn, vì sự bình yên cho xã hội, cho thiên hạ. Con người mà tài
đức song toàn Khổng Tử hướng đến là bậc quân tử có nhân cách cao thượng, tâm
địa rất thánh hiền sống vì điều nghĩa. Như vậy, xuất phát từ việc coi giáo dục là
một phương tiện chính trị hữu hiệu nhất nhằm ổn định trật tự xã hội, mục đích
của nền giáo dục Khổng Tử không thể không gắn liền và góp phần thực hiện
những mục tiêu chính trị. Có thể nói, trước yêu cầu của xã hội, Khổng Tử đã
“chính trị hóa” giáo dục một cách sâu sắc, trong đó, mục đích giáo dục con
người và mục đích phục hưng xã hội là thống nhất, không tách rời nhau. Những

mục đích này đã chi phối đến việc lựa chọn đối tượng giáo dục của Khổng Tử.
1.2.2. Đối tượng giáo dục
Xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu là xã hội loạn lạc, đời sống nhân dân lầm
than cơ cực, chiến tranh liên miên giữa các nước chư hầu, xuất hiện thêm nhiều
giai cấp tầng lớp mới trong xã hội. Trước xu thế biến đổi của thời đại, nhưng
Khổng Tử đã có những khuyng hướng tiến bộ trong chủ trương giáo hóa con
người đó là “Hữu giáo vô loại” [16; 298], có nghĩa là mọi người trong xã hội
đều có quyền được học, được giáo dục, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo,
chủng tộc, thiện ác, sang hèn, thông minh hay đần độn và được giáo dục là quyền


lợi của tất cả mọi người. Khi được giáo dục con người trở về với tính thiện, sẽ
hiểu được đạo, hành đạo và đạt đạo. Đây là tư tưởng có tính đột phá trong một xã
hội còn nhiều quan điểm bảo thủ, phải đặt tư tưởng Khổng Tử vào thời điểm lịch
sử lúc bấy giờ chỉ có tầng lớp thống trị có đặc quyền ấy mới thấy hết tính cách
mạng trong tư tưởng của ông, “Hữu giáo vô loại” như phát đại bác nã vào cái
thành trì giáo dục đẳng cấp nặng nề tồn tại từ lâu ở Trung Quốc cổ đại.
Khổng Tử còn đặt ra nền giáo dục toàn dân. Trước đây chỉ có con em quan
lại quý tộc, vua chúa mới được cắp sách tới trường. Trường học là của Nhà nước
chỉ tính trên đầu ngón tay. Giờ thì công việc học tập dành cho tất cả mọi đẳng
cấp trong xã hội. Đây là đóng góp to lớn của Khổng Tử cho nền giáo dục nhân
loại, mà ngày nay chúng ta đang học tập và làm theo.
Bên cạch đó, Khổng Tử cũng là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại thời
kỳ cổ đại mở trường tư với quy mô lớn. Trường học của Khổng Tử luôn mở rộng
cửa đón tất cả mọi người vào học, đối tượng giáo dục rộng lớn bất kể người nào,
chỉ cần có lòng ham muốn học hỏi, tìm hiểu tri thức, học đạo làm người là ông
nhận. Với quan niệm “hữu giáo vô loại”, Khổng Tử đã có đông đủ học trò theo
học. Học trò của ông đủ các lứa tuổi, tầng lớp, hạng người, bởi ai đến xin học
ông đều nhận dạy. Khổng Tử nói: “Ai dưng lễ xin học thì từ một bó nem trở lên
ta chưa từng chê là ít không dạy” [16; 123]. Theo Khổng Tử, người ham học hỏi

thì dù nghèo khó đến đâu thì ông vẫn tận tình dạy bảo tuần tự dẫn dắt từng bước


để người học tiến đến chỗ hiểu biết, kể cả những người kém cỏi, năng lực nhận
thức yếu ông vẫn nhận làm học trò và chỉ dạy chu đáo. Ông nói: “Nếu có kẻ thô
bỉ đến hỏi ta, dầu là kẻ tối tăm mờ mịt tới đâu, ta cũng đem hai bề từ đầu chí
đuôi mà dẫn giải cho thật tường tận mới nghe” [15; 134-135].
Thậm chí Khổng Tử còn sẵn sàng dạy cho cả những người ác nghịch, khó
dạy nhưng biết hối cải, có ý thức tự giác vươn lên. Ông nói: “Người ta có lòng
tinh khiết mà đến với mình, thì mình vì lòng tinh khiết ấy mà thâu nhận người,
chớ mình không bảo lãnh những việc đã qua của người. Lại nữa, ngày nay người
ta đến với mình thì mình thâu nhận, chớ mình chẳng bảo đảm người khi người
thôi ra. Chỉ có thế thôi, cần gì phải nghiêm khắc thái quá?. - Nhơn khiết kỷ dĩ
tấn, dữ kỳ khiết dã, bất bảo kỳ vãng dã; dữ kỳ tấn dã, bất dữ kỳ thối dã. Dã hà
thậm” [15; 112-113].
Với tư tưởng “hữu giáo vô loại”, học trò của Khổng Tử đến từ nhiều tầng
lớp khác nhau trong xã hội. Trong số các học trò của ông, vừa có con em quý tộc
như Tử Du, Tử Tiên, Nam Cung Kinh Thúc...; lại có cả bình dân gia cảnh bần
hàn, xuất thân hèn kém như Nhan Hồi, Mẫn Tử Khiêm, Nhiễm Cầu, Nhiễm
Ung..; vừa có những người buôn bán như Tử Cống, Tử Trương..; vừa có con nhà
lao động như Tăng Sâm; vừa có người trước đây là hạng bất thiện như Nhan Trác
Du, hay “cuồng phong” như Sầm Trương, Mục Bì...


Xét trong bối cảnh lịch sử thời bấy giờ, xã hội mà con người đặc biệt là
người nô lệ chỉ được xem là công cụ biết nói thì những tư tưởng tiến bộ có tính
nhân văn, là giá trị lịch sử mà Khổng Tử đem lại cho nhân loại.
Xuất phát từ quan niệm về bản chất con người, Khổng Tử đặt ra yêu cầu
giáo dục tính thiện cho con người. Khổng Tử nhận thấy nhân cách của con người
không phải bẩm sinh mà có, bởi bản chất con người khi sinh ra đều giống nhau,

nhưng do tập quán thói quen mà làm cho bản tính con người xa nhau.“Tính
tương cận dã, tập tương viễn dã” [16; 284]. Chính vì vậy, Khổng Tử lấy giáo dục
làm phương tiện để làm cho con người trở về bản tính ban đầu. Do đó, việc giáo
dục là quan trọng đối với mỗi người. Ông chủ trương giáo dục “học hạ tư
nhân”, tức là việc giáo dục phải tiến hành từng bước, trước tiên phải giáo dục từ
trong gia đình đó là trường học đầu tiên của mỗi người, sau đó mới đến nhà
trường phân ra các cấp học cơ sở, để phù hợp với mọi trình độ lứa tuổi, điều này
rất phù hợp trong thời đại xã hội ngày nay.
Với tư tưởng “hữu giáo vô loại”, hướng tới đối tượng giáo dục cho tất cả
mọi người, đối tượng dạy bảo là rộng lớn nhưng trong đó vẫn chủ yếu dành cho
người quân tử. Vì “Quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc dị sử
dã” - có nghĩa là người quân tử học đạo thì yêu người, còn tiểu nhân học đạo thì
dễ sai khiến [16; 285]. Cũng xuất phát từ lợi ích và địa vị đẳng cấp xã hội, nên
Khổng Tử cũng cho rằng đối với dân việc gì cần thiết thì cứ sai khiến không nên


giảng giải, vì dân không có khả năng hiểu ý nghĩa công việc mình làm “Dân khả
sử do chi, bất khả sử tri chi” [16; 143]. Như vậy, thực chất đối tượng giáo dục
mà Khổng Tử hướng đến chỉ là người quân tử, còn người dân lao động và kẻ tiểu
nhân thì có dạy cũng không hiểu gì cả.
Khổng Tử cho rằng, có hai hạng người không thể thay đổi được là thượng
trí và những kẻ hạ ngu.“Duy thượng trí dữ hạ ngu bất di” [16; 285], Khổng Tử
chia thiên hạ ra làm nhiều người: “Sinh ra đã biết là bậc trên, học rồi mới biết là
bậc thứ, gặp cảnh khốn nạn rồi mới chịu học, lại còn thấp hơn nữa, thấp nhất là
gặp cảnh khống nạn rồi vẫn không chịu học” [16; 277]. Đặc biệt, trong đối tượng
giáo dục của ông, Khổng Tử còn xem thường không có thiện cảm đối với sự giáo
dục, dạy học cho người phụ nữ: “Chỉ có hạng tì thiếp và tôi tớ là khó cư xử với
họ, thân cận với họ thì nhờn, xa cách với họ thì tắc oán” - Duy nữ tử dữ tiểu
nhân vi nan dưỡng dã. Cận chi tắc bất tốn viễn chi tắc oán [16; 297]. Đây là một
hạn chế do lập trường giai cấp nặng nề và là hạn chế của lịch sử, trong tư tưởng

giáo dục của Khổng Tử.
Như vậy, đối tượng giáo dục của Khổng Tử, một mặt mang tính chất bình
đẳng và hết sức tiến bộ, nhưng mặt khác, nó không vượt qua được hạn chế bởi
tầm nhìn lịch sử và tính chất hết sức nghiệt ngã của chế độ phong kiến. Nhìn
chung đối tượng giáo dục của Khổng Tử có thể chia làm hai loại: trước hết là
tầng lớp quý tộc thống trị, đây là đối tượng giáo dục chính của Khổng Tử. Sau đó


tầng lớp thứ dân, tuy vậy chỉ có những người biết lắng nghe lời khuyên bảo của
thánh hiền, còn đối với kẻ vô đạo, tiểu nhân thì mãi không cải tạo được. Mặc dù
còn nhiều hạn chế nhất định, nhưng chúng ta không thể phủ nhận những giá trị
mà ông đã đạt được trong giáo dục. Đặc biệt là về đối tượng giáo dục. Với quan
điểm đó, Khổng Tử là người có tầm nhìn vượt thời đại. Tư tưởng đó rất đáng trân
trọng, cần được giữ gìn và phát huy một cách tốt nhất trong thời đại ngày nay.
1.2.3. Nội dung giáo dục
Khổng Tử căn cứ vào nhu cầu xã hội đương thời mà xác định nội dung giáo
dục. Xuất phát từ quan niệm bản tính con người là ngay thẳng, là thiện; cũng như
quan niệm cho rằng nguyên nhân của “vương đạo suy vi, bá đạo nổi lên” là ở
con người. Do con người không có “đạo”, làm trái với “đạo”. “Đạo” mà Khổng
Tử nói đến ở đây thực chất là “đạo làm người”. Chính vì con người không có
“đạo” mới dẫn đến chuyện tranh giành quyền lực, địa vị, đất đai, chém giết lẫn
nhau làm cho kỷ cương phép tắc đảo lộn, làm cho xã hội rối loạn. Để cho xã hội
trở lại thanh bình, theo Khổng Tử phải làm cho con người có “đạo”, hiểu
“đạo”, làm theo “đạo”. Đạo mà Khổng Tử nói đến ở đây chính là Nhân, Lễ và
Chính danh định phận.
Nội dung giáo dục của Khổng Tử là dạy về đạo lý làm người. “Để chí vào
học, giữ gìn đức hạnh, nương theo điều nhân, vui với lục nghệ, tức là lễ, nhạc,
xạ, ngự, thư - viết số, số - toán pháp” [16; 123]. Tập trung vào ngũ thường - năm
phẩm chất của người quân tử là: nhân - lễ - nghĩa - trí - tín. Nội dung đó được tập



hợp trong sáu ngành: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số và bốn khoa: đức hạnh, chính trị,
ngôn ngữ, văn học. Đức hạnh nhằm phát triển cho những người thực hành phẩm
chất đạo đức. Chính trị dành cho những người hoạt động chính trị, cai quản quốc
gia. Ngôn ngữ chủ yếu dành cho những người cần biện luận lý thuyết. Văn học
dành cho những người muốn đi sâu nghiên cứu văn chương. Dựa vào bốn loại
đó, Khổng Tử đã đào tạo thành công các học trò của mình. Về đức hạnh có: Nhan
Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung. Về chính trị có: Nhiệm
Hữu, Qúy Lộ. Về ngôn ngữ có: Tể Ngã. Tử Cống. Về văn học có: Tử Du, Tử Hạ.
Đây là chính là Khổng Tử dựa vào sở trường của từng người mà bồi dưỡng thành
nhân tài. Từ đó chúng ta cũng có thể thấy sự phân loại trong giáo dục của ông.
Tài liệu học tập và giảng dạy chỉ tập trung vào Lục Kinh: Thi, Thư, Dịch,
Lễ, Nhạc, Xuân Thu. Kinh điển được ông coi trọng hơn cả là kinh Thi, vì vậy nó
đứng đầu lục kinh, sau đó là kinh Thư, kinh Dịch, kinh Lễ, kinh Nhạc, kinh Xuân
Thu. Kinh Lễ và kinh Nhạc là để bồi đắp thêm cho kinh Thi, ba cái đó cùng kết
hợp, bồi đắp với nhau.
Kinh Thi: là một bộ sách sưu tập các loài ca dao, dân ca, nghi lễ của các
nước, từ thời thượng cổ đến đời vua Bình Vương nhà Chu. Khổng Tử giới thiệu
Kinh Thi cho học trò với nhiều lý do: thứ nhất là giúp học trò hiểu được phong
tục tập quán của các quốc gia khác, thứ hai giúp học trò sống hòa thuận với


×