Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Vấn đề con người tự lập thân trong chủ nghĩa thực dụng mỹ khóa luận tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.95 KB, 67 trang )

1

MỞ DẦU
1. Lý do chọn đề tài
G.W.F. Hegel từng cho rằng, triết học là “thời đại phát triển đến trình
độ của tư tưởng” sẽ đóng vai trò như một khoa học khái quát hoá ở tầm cao
và hoạch định tinh thần của thời đại mình. Với tính cách là một trong
những hình thái ý thức xã hội, triết học sẽ “tri thức hoá” tính đa biến, đa
chiều của tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa thực dụng giống như một “tấm gương phản chiếu” hiện thực
huy hoàng của nước Mỹ tư bản chủ nghĩa vào nửa sau thế kỷ XIX đang sải
bước thần tốc vươn lên vị thế số một thế giới. Nó vừa khắc hoạ cuộc sống
hiện thực, vừa hướng đến xây dựng hệ chuẩn lý luận về cuộc sống đó, và hơn
thế, chủ nghĩa là một lý thuyết định hướng hành động của con người Mỹ. Tôn
chỉ hành động của người theo chủ nghĩa thực dụng là lấy hiệu quả làm thước
đo, hữu dụng là chân lý.
Chủ nghĩa thực dụng có nội dung vô cùng phong phú với rất nhiều trắc
diện khác nhau. Dựa vào tính đa nguyên tri thức ấy, người ta đã ví von chủ
nghĩa thực dụng đã giống như một phiên bản thu nhỏ của triết học Mỹ vậy.
Trong số rất nhiều chủ đề lý luận của chủ nghĩa thực dụng, con người tự lập
thân nổi lên như một điểm nhấn quan trọng mà nhìn vào đó nhiều người đã
thừa nhận chủ nghĩa thực dụng như là người dẫn đường đáng tin cậy cho sự
nghiệp lập thân trên miền đất hứa nhưng cũng đầy bất trắc.
Ở Mỹ, đã có một huyền thoại hấp dẫn lâu đời về “con người tự lập thân”
(self -made-man). Nhân vật ấy không chỉ được xây dựng ở những nghiên cứu
lịch sử mà còn ở những tiểu thuyết của Horatio Alger nói về những con người
làm giàu bằng hai bàn tay trắng của mình. Cho đến nay, trải qua nhiều thế kỷ
tồn tại và phát triển, hình ảnh con người tự lập thân đã trở thành một ý niệm


2



mang tính truyền thống vững bền của nước Mỹ, đồng thời là hình mẫu lý
tưởng của mỗi con người Mỹ. Nhưng con người Mỹ phải tự lập thân như
thế nào và bằng cách nào? Chúng tôi nghĩ rằng, có thể tìm thấy lời giải đáp
hợp lý cho những câu hỏi đó khi khám phá di sản lý luận của chủ nghĩa
thực dụng Mỹ.
Ở Việt Nam hiện nay, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước
ta luôn xem trọng vấn đề phát triển và nâng cao nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu đột phá chiến lược, là yếu tố quyết
định (Nghị quyết XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.130). Thiết
nghĩ, muốn phát triển nguồn nhân lực vững mạnh đủ sức gánh vác nhiệm vụ
trọng đại của quốc gia thì một việc làm cần thiết là phải phát huy tinh thần tự
lực, tự cường, và tự lập trong mỗi con người Việt Nam. Ở khía cạnh này,
chúng tôi nghĩ rằng, việc nghiên cứu về con người tự lập thân trong chủ nghĩa
thực dụng Mỹ sẽ cung cấp những gợi mở hữu ích.
Từ những lý do trên đây, chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu về “Vấn đề
con người tự lập thân trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ” với mong muốn làm
sáng tỏ một trong những khía cạnh lý luận quan trọng của chủ nghĩa thực
dụng Mỹ nói riêng, của triết học Mỹ nói chung.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chủ nghĩa thực dụng nói chung và vấn đề con người tự lập thân nói riêng
đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến, được trình bày thành sách hoặc là
các bài đăng trên các tạp chí khoa học. Có thể kể đến với những công trình
tiêu biểu sau:
- “Lịch sử triết học phương Tây hiện đại” của Bùi Đăng Duy và Nguyễn
Tiến Dũng (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2005). Trong quyển sách
này hai tác giả đã dành một phần để bàn về chủ nghĩa thực dụng với bối cảnh
ra đời, những triết gia tiêu biểu của trào lưu này. Qua cuốn sách cũng đã trình



3

bày một số nét cơ bản của vấn đề con người tự lập thân như vấn đề niềm tin,
kinh nghiệm. Tuy nhiên, do nội dung trình bày có hạn nên những vấn đề này
chỉ được bàn đến một cách sơ qua, không rõ ý.
- Trong cuốn “Triết học Mỹ” của Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng,
(Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2005), hai tác giả đã bàn đến chủ
nghĩa thực dụng như là một đặc sản tinh thần của người Mỹ, là một “triết học
tung bay ở ngoài trời”. Các tác giả đã đi sâu và khái quát tư tưởng của các nhà
thực dụng Mỹ như S. Peirce, William James, John Dewey; bàn đến bối cảnh
hình thành nước Mỹ, để từ đó cho thấy chính bối cảnh Mỹ lúc bấy giờ đã góp
phần hình thành nên tính cách và triết học Mỹ như thế nào. Cuốn sách đã bàn
đến nhiều khía cạnh, trường phái chủ yếu của triết học Mỹ, tuy nhiên vấn đề
con người tự lập thân chỉ được bàn đến một cách sơ lược và đan xen với các
vấn đề khác.
Ngoài ra còn một số sách bàn đến nội dung này như “Lịch sử triết học”
của Nguyễn Hữu Vui, Nxb Chính trị quốc gia; “Phong cách Mỹ” của Gary
Althen (do Phạm Thị Thiên Tứ dịch) của NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí
Minh; “Văn hóa và tính cách người Mỹ” của Robert H. Bella chủ biên, do
Chu Tiến Ánh và Phạm Khiêm Ích Biên dịch và giới thiệu; “Uylliam
Giêmxơ” của Vương Ngọc Bình (Quang Lâm dịch)…
Một số vấn đề có liên quan đến đề tài còn được đặt ra và giải quyết ở
mức độ nhất định trong những công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn
thạc sỹ.
- Công trình “Vấn đề con người trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ” (Luận
văn thạc sỹ triết học, 2011) của Lữ Hồng Anh. Qua luận văn này, ở chương 1
tác giả đã khái quát những tiền đề cơ bản hình thành nên chủ nghĩa thực dụng
Mỹ gồm tiền đề lịch sử - xã hội, tiền đề tư tưởng và tiền đề khoa học. Ở
chương 2 tác giả bàn đến những nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực dụng là

vấn đề con người tự lập thân và con người hành động. Nhìn chung, đóng góp


4

chính của luận văn là đã khái quát những nét cơ bản của vấn đề con người
trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ, những giá trị cũng như ý nghĩa của nó.
- Trong “Vấn đề kinh nghiệm trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ” (Luận văn
thạc sỹ triết học, 2011) của Phan Văn Thám. Ở luận văn này, tác giả tập trung
vào vấn đề kinh nghiệm. Điểm mới và hay của tác giả là đã cho thấy một
trong những tiền đề ra đời của chủ nghĩa thực dụng nói chung và vấn đề kinh
nghiệm nói riêng là sự đối chọn giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa phi duy lý
của nước Mỹ.
- “Chủ nghĩa thực dụng và cuộc đấu tranh chống lối sống thực dụng ở
nước ta hiện nay”, (Luận văn thạc sỹ triết học, 2004) của Lê Thị Hương;
“Những chủ đề của triết học nhân sinh Mỹ”, Luận văn thạc sỹ triết học, 2009)
của Lê Văn Tùng; “Triết học của John Dewey”, (Luận văn thạc sỹ triết học,
2006) của Trần Thị Hoa...
- Nguyễn Tiến Dũng với “Một số khía cạnh về văn hóa và con người
trong triết học phương Tây hiện đại” và “Triết học Mỹ với việc thiết lập nền
tảng triết học cho khoa học” được công bố trên Tạp chí Triết học.
Trong bài báo thứ nhất tác giả khẳng định con người luôn là trung tâm
của sự phát triển văn hóa, vấn đề con người cần được chú trọng và được xây
dựng như một bộ môn khoa học. Thời đại ngày nay không chỉ có sự thống trị
của công nghệ, của trí năng nhân tạo, mà còn có con người đối thoại với nhau
bằng lý trí lạnh lùng, vừa bằng sự tưởng tượng cảm giác. Văn hóa màn hình
quả thực đã làm cho chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa phi duy lý xích lại gần
nhau, nhưng bản tính của nó là tính kỹ thuật, tính duy lý, cho nên thân phận
của con người trong thời đại công nghệ vẫn còn đó, con người vẫn cần có vai
trò của triết học và văn hóa.

Trong bài báo thứ hai, bằng việc điểm qua một số trào lưu của triết học
Mỹ, tác giả cho thấy các nhà triết học Mỹ đã sớm hoặc đồng thời với sự ra đời
của khoa học hiện đại, góp phần xây dựng khoa học hiện đại. Tất cả họ đều


5

nhất trí chống lại chủ nghĩa thực chứng logic thuần túy, đều nhất trí đòi phục
hồi triết học, siêu hình học, đòi xác lập một thế giới mới. Triết học đó là
những giá trị nhân văn, là cái tôi chủ thể, cái bất biến ở con người.
- Nguyễn Hào Hải với bài báo “Chủ nghĩa thực dụng Mỹ qua một số đại
biểu của nó” trong Tạp chí triết học số 4. Qua bài bào này, tác giả đã khái quát
lại chủ nghĩa thực dụng qua 3 đại biểu cả nó với lý luận về lòng tin của C.S.
Peirce, học thuyết về chân lý của William James và thuyết công cụ của John
Dewey. Với ba nội dung cơ bản đó khẳng định chủ nghĩa thực dụng đã chiếm
vị trí nổi bật, có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Mỹ.
Ngoài ra, còn một số bài báo khác như: “William James với quan niệm
về đạo đức” (Tạp chí Triết học) của Nguyễn Văn Dũng; Bài báo “Nước Mỹ
và sự hình thành tính cách Mỹ” (Tạp chí Triết học số 3, 2012) của Trịnh Sơn
Hoan; “Quan điểm nhân học trong triết học Socrates” (Tạp chí Triết học) Đỗ
Minh Hợp; “Charles Sander Peirce (1839 - 1914) - người sáng lập ra chủ
nghĩa thực dụng Mỹ” (Tạp chí Triết học) của Nguyễn Văn Hùng ...
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập ở mức độ nhất định đến những
khía cạnh khác nhau của chủ nghĩa thực dụng Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề con
người tự lập thân vẫn chưa được đi sâu bàn luận một cách kỹ lưỡng.
Tóm lại, mỗi cuốn sách, mỗi bài báo hay công trình nghiên cứu, mặc dù
nghiên cứu những mảng khác nhau, nhưng đều đã đóng góp, phát hiện một số
vấn đề nhất định, góp phần làm giàu thêm những nội dung của chủ nghĩa thực
dụng Mỹ. Những tài liệu này là cơ sở quý giá, hỗ trợ cho chúng tôi khi nghiên
cứu về vấn đề con người tự lập thân trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ nội dung căn bản của vấn đề
con người tự lập thân trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:


6

- Phân tích những tiền đề hình thành vấn đề con người tự lập thân trong
chủ nghĩa thực dụng Mỹ.
- Luận giải nội dung căn bản của vấn đề con người tự lập thân trong chủ
nghĩa thực dụng Mỹ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là vấn đề con người tự lập thân trong chủ
nghĩa thực dụng Mỹ.
Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề con người tự lập thân đã được đặt ra và bàn
luận trong một số trường phái triết học, tuy nhiên khóa luận chỉ bàn đến nội
dung vấn đề con người tự lập thân trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó nhấn mạnh hai quan điểm khách quan và
biện chứng.
Đề tài sử dụng nhất quán và có hệ thống các phương pháp nghiên cứu
phổ biến trong nghiên cứu khoa học, nhất là các khoa học xã hội và nhân văn
như phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích và tổng hợp, khái quát hóa và
trừu tượng hóa, lôgíc và lịch sử.
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài đã hệ thống, trình bày những tiền đề hình thành vấn đề con người
tự lập thân trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ. Qua đó thấy được cơ sở, nguyên
nhân của sự hình thành của vấn đề này nói riêng và của chủ nghĩa thực dụng

Mỹ nói chung.
- Đề tài đã phân tích, chỉ rõ những nội dung mà vấn đề con người tự lập
thân bàn đến trong con người tự chủ, con người có niềm tin và con người
hành động. Trên cơ sở những nội dung tìm hiểu sẽ là cơ sở giúp cho người
đọc hiểu rõ hơn về chủ nghĩa thực dụng, chống lại hay bác bỏ những quan


7

niệm sai lầm về chủ nghĩa thực dụng như chủ nghĩa thực dụng là triết học của
con buôn, là triết học chỉ mang tính thương mại...
- Đề tài đã gợi mở nhiều hướng nghiên cứu mới cho các nhà nghiên
cứu sau này về chủ nghĩa thực dụng, về nội dung của vấn đề con người tự
lập thân.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài gồm
có 2 chương (6 tiết).


8

CHƯƠNG 1:
NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TỰ LẬP
THÂN TRONG CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG MỸ
Chủ nghĩa thực dụng là một chủ thuyết phi duy lý trong triết học phương
Tây hiện đại, nó ra đời ở nước Mỹ nhiều màu sắc và trưởng thành cũng chủ
yếu ở đó. Chủ nghĩa thực dụng là một chủ thuyết triết học hướng về con
người, đề cao vai trò con người là trung tâm của mọi tồn tại; chủ nghĩa thực
dụng nhấn mạnh đến con người cá nhân cả về bản thể lẫn nhận thức. Triết học
này xây dựng con người cá nhân với tư cách là một chủ thể toàn quyền, điều

này làm cho màu sắc con người trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ có những nét
riêng làm cho nó nổi bật giữa đám đông các chủ thuyết triết học hiện đại. Chủ
nghĩa thực dụng bàn đến nhiều nội dung, và một trong những nội dung đó là
vấn đề con người tự lập thân. Cũng như những trường phái, trào lưu hay vấn
đề triết học nào, vấn đề con người tự lập thân trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ
ra đời dựa trên những tiền đề nhất định, đó là tiền đề lịch sử - xã hội, tiền đề
tư tưởng và tiền đề khoa học.
1.1. Tiền đề lịch sử - xã hội
Bất kỳ một nền triết học nào, không phải tự nhiên mà nảy sinh, hình
thành mà không có những điều kiện về kinh tế - xã hội đó quyết định. Đối với
chủ nghĩa thực dụng Mỹ cũng vậy, nó ra đời trên cơ sở những điều kiện về
kinh tế - xã hội Mỹ. Nước Mỹ hình thành từ làn sóng di dân “tứ chiếng” dân
tộc, từ nhiều nước trên thế giới. Mỗi nhóm di dân đến Mỹ đều mang theo
truyền thống, trong đó có triết học của mình. Ở đây, họ không phải đương đầu
với chủ nghĩa phong kiến và ý thức hệ của nó khi còn ở đất nước của họ. Từ
tình hình đó, một thể chế chính trị về dân chủ, tự do, về quyền con người cũng


9

được phát triển thuận lợi đẩy đà cho sự phát triển. Mảnh đất màu mỡ chưa
khai phá này cho phép người ta không phải khốc liệt “đấu tranh sinh tồn” như
ở nhiều nơi khác. Một ý thức hệ của một cộng đồng mới cần hình thành,
không thể lấy món ăn tinh thần xa lạ, cũ kỹ của châu Âu (như chủ nghĩa duy
linh, chủ nghĩa thực chứng...). Trước sức hút của ý thức hệ đó, các ý thức hệ
cũ của nhóm di dân cũng nhanh chóng phai mờ để tất cả hợp lưu trong một
dòng chảy mới là chủ nghĩa thực dụng. Như vậy chủ nghĩa thực dụng đã được
xác lập trên đất Mỹ.
Trên cơ sở sự ra đời của chủ nghĩa thực dụng Mỹ thì vấn đề con người tự
lập thân cũng được xác lập. Khi chủ nghĩa tư bản ở châu Âu lục địa ra đời và

phát triển, thì nước Mỹ đang là mảnh đất của những người thổ dân da đỏ mà
kết cấu xã hội của nó có thể nói là đang ở thời kỳ Cộng sản nguyên thủy. Sự
bành trướng của chủ nghĩa tư bản nhằm mở rộng thị trường tìm kiếm lợi
nhuận và khai thác tài nguyên khoáng sản quý hiếm đã biến vùng đất này
thành nơi thử nghiệm mục đích trên. Đến mảnh đất mới này, chủ nghĩa tư bản
tha hồ khai thác tài nguyên, mở rộng thị trường buôn bán, xâm chiếm biến
vùng đất màu mỡ này thành của riêng mình. Sự “định cư” của chủ nghĩa tư
bản đã làm cho lịch sử nước Mỹ bước sang một thời kỳ mới, làm thay đổi tận
gốc rễ nền sản xuất xã hội. Nền sản xuất xã hội trước đó vốn dựa trên tính tự
cung tự cấp, không có trao đổi, mua bán, sản phẩm làm ra được chia đều cho
tất cả các thành viên trong xã hội. Và giờ đây thay vào đó là sự ra đời các
công trường lao động, các xí nghiệp khai thác khoáng sản có hàng ngàn, hàng
vạn công nhân lao động sản xuất trong các công trường, xí nghiệp, hầm mỏ.
Điều này tạo nên sự hình thành một xã hội hoàn toàn mới, trong hoàn cảnh
này con người cũng phải có sự thay đổi tâm lý, tính cách, đó là tính hay làm,
thân lập thân, cần cù, chịu thương chịu khó, sáng tạo trong lao động, tự do
theo đuổi mục đích, theo đuổi thành công của mình. Những phẩm chất đó đã
trở thành nét độc đáo của con người “mới” ở Mỹ.


10

Sự ra đời của con người tự lập thân Mỹ còn được lý giải bởi bối cảnh
hỗn mang của nền công nghiệp Mỹ vào nửa đầu thế kỷ XVIII. Tốc độ công
nghiệp hóa ngày càng đồng nghĩa với việc người lao động đi vào lối chuyên
môn hóa. Thị trường rộng lớn, tài nguyên phong phú và đặc biệt là hệ tư
tưởng dân chủ, bình đẳng trong xã hội rất được đề cao. Môi trường vô cùng
thuận lợi đã tạo điều kiện cho những con người can đảm, không sợ thất bại
tham gia thử nghiệm những lĩnh vực kinh doanh mới. Sự cạnh tranh tự do
được chú trọng và nó thúc đẩy tính cơ động của xã hội Mỹ. Bởi thế, đã tạo

điều kiện cho nhiều người thử nghiệm những ngành nghề kinh doanh mới. Sự
chạy đua đi tìm những cái “khổng lồ” lan rộng trong lĩnh vực sản xuất, phân
phối, dịch vụ..., các ông vua lần lượt tranh ngôi bá chủ. Và họ được người Mỹ
xem là những tấm gương đầu trong lập thân, lập nghiệp, như: Henry Ford
(1863 - 1946) là người sáng lập ra công ty Ford Motor, đi đầu trong lĩnh vực
sản xuất ô tô giá rẻ và là một trong những người giàu nhất thế giới; Carnegie
(1835 - 1919) ông vua gang thép Mỹ; Adward Boke (1863 - 1930) vua xuất
bản Mỹ; Rockerfeller (1839 - 1937) vua dầu lửa của Mỹ; Duke (1856 - 1925)
vua thuốc lá Mỹ; William Hearst (1863 - 1951) vua báo chí Mỹ; Frederick
Smith - ông trùm của tập đoàn dịch vụ vận tải Fedex; Raymond Kroc - ông
chủ của tập đoàn McDonal’s...
Như vậy với một ý thức hệ mới mẻ cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
kinh tế tư bản chủ nghĩa đã làm cơ sở cho sự hình thành và phát triển của con
người tự lập thân Mỹ. Trên cơ sở hệ tư tưởng dân chủ, bình đẳng trong xã hội
được đề cao, môi trường kinh tế thì vô cùng thuận lợi đã tạo điều kiện cho
những con người can đảm, không sợ thất bại tham gia những thử nghiệm,
khẳng định bản lĩnh của cá nhân.
Không chỉ nảy sinh từ những điều kiện về lịch sử, kinh tế, vấn đề con
người tự lập thân trong chủ nghĩa thực dụng còn là kết quả của sự đối chọn
giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa phu duy lý của nước Mỹ.


11

Cho đến khi có sự xuất hiện của các trào lưu triết học phi duy lý thì trước
đó là cả một sự thống trị lâu dài trong lịch sử triết học của chủ nghĩa duy lý.
Với chủ nghĩa duy lý, người phương Tây đã tự hào xem đó là công cụ vạn
năng để đi vào khám phá những bí ẩn của vũ trụ và tạo ra cho xã hội loài
người nền văn minh được xem là đã phát triển đến đỉnh điểm của nó.
Tư duy duy lý là lối tư duy đề cao lý trí hay còn cách gọi khác là lý

tính, là lối tư duy dựa trên lý trí, lấy lý trí tư duy về sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan. Các nhà duy lý xem việc lấy tư duy duy lý nhận
thức về thế giới là cách tư duy duy nhất đúng, còn ngoài lối tư duy duy lý
thì không có cách tư duy nào khác có thể khám phá được bản chất của thế
giới. Trong lịch sử triết học, các nhà triết học theo chủ nghĩa duy lý đã sử
dụng lối tư duy duy lý làm công cụ nhận thức để khám phá ra bản chất của
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Người khởi xướng lối tư duy duy lý trong lịch sử triết học là nhà triết
học Hy Lạp cổ đại Parmenide 1 và người đưa lối tư duy này trở thành hệ thống
là Plato. Trong quan điểm triết học của mình, Plato 2 đã tạo ra một “thế giới ý
niệm” xem đó là cái toàn thể, là cái duy nhất tồn tại thực. Bằng lối giải thích
hết sức tư biện, Plato đã xem các sự vật hữu hình trong thế giới khách quan là
bản sao, hình bóng của một bản thể tối cao (thế giới ý niệm). Ông đã chia ra
làm hai thế giới, thế giới duy lý và thế giới hữu hình. Trong đó thế giới duy lý
có cấp độ cao hơn thế giới hữu hình và tương tự như thế, thực tại và chân lý
trong thế giới hữu hình thấp hơn cấp độ của chính chúng trong thế giới duy lý.
Sau Plato, tư duy duy lý phát triển mạnh đến nỗi không ít trường phái
triết học và các chính khách dùng nó làm phương tiện phục vụ cho ý đồ triết
học hay mục đích chính trị của họ.
Đến thời kỳ cận đại, chủ nghĩa duy lý đã phát triển đầy đủ nhất trở thành
hệ thống triết học hoàn chỉnh. Người đại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa duy lý
thời kỳ này là Descartes 3 . Có thể khẳng định một điều chắc chắn rằng,


12

Descartes là cha đẻ của chủ nghĩa duy lý thời cận đại. Các nguyên tắc và
phương pháp triết học của ông khai mở cho một hệ thống triết học thuần lý rõ
ràng và tổ chức chúng thành một hệ thống các chân lý từ đó có thể rút ra
những thông tinh chính xác về thế giới. Trên cơ sở đề cao lý tính của con

người, Descartes đã đưa ra lý thuyết về trí tuệ bẩm sinh cho rằng: con người
ngay từ khi mới sinh ra đã có tri thức, có tư tưởng và chân lý rồi, mà chân lý
của chúng lại rất xác thực. Tất cả những tri thức bẩm sinh đó cấu tạo thành trí
tuệ của cá nhân và chỉ cần nó hoạt động theo phương pháp thích hợp thì nó có
thể khám phá ra bản chất của vũ trụ. Và những điều gì được suy nghĩ một
cách rõ ràng trong trí tuệ thì tồn tại hiện thực trong thế giới bên ngoài. Như
vậy, lý trí giống như một chiếc chìa khóa để cho chúng ta mở toang cánh cửa
đi vào khám phá thế giới khách quan tìm ra được những tri thức đích thực về
sự vật và hiểu được bản chất của chúng.
Đến Hegel 4 thì chủ nghĩa duy lý đã phát triển đến đỉnh cao và trở thành
một hệ thống hoàn chỉnh. Hegel đã xây dựng một hệ thống triết học đồ sộ và
lớn nhất trong lịch sử triết học, toàn bộ hệ thống đó được trình bày theo một
logic chặt chẽ với công thức tam đoạn luận Chính đề - Phản đề - Hợp đề. Ông
đã tạo ra một vũ trụ ý niệm (ý niệm tuyệt đối) xem chúng là bản thể của thế
giới. Bản thể đó là tuyệt đối, là cái toàn thể sinh ra mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan. Với Hegel, “Ý niệm tuyệt đối” phải hiện hình ra
những sự vật cụ thể (cái toàn thể hiện ra cái bộ phận), cái mà Kant 5 gọi là thế
giới hiện tượng được Hegel xem là cái hiện hình của thế giới ý niệm. Thế giới
ý niệm là bản chất của thế giới, và ý niệm tuyệt đối muốn tồn tại thì phải hiện
hình ra bằng hiện tượng và phải triển khai thế giới ý niệm tuyệt đối. Vì vậy,
muốn nhận thức bản chất thì phải nhận thức thông qua hiện tượng của sự vật.
Không có cái gì là không nhận thức được, chỉ có những sự vật hiện tượng
chưa hiện hình ra nên chúng ta chưa nhận thức được. Không có bản chất nào
mà không có hiện tượng, không có hiện tượng nào mà không có bản chất.


13

Nhưng ý niệm tuyệt đối là cái tinh thần mà không ở đâu trong thế giới này có
cái tinh thần tồn tại ngoài vật chất cả. “Ý niệm tuyệt đối” dường như nó tồn

tại tuyệt đối vì chỉ có nó duy nhất tồn tại. Nhưng nó cũng hư vô tuyệt đối vì
không chỉ ra được một thuộc tính nào gắn với nó cả. Nhưng chính ý niệm
tuyệt đối hiện ra tất cả, những sự vật, hiện tượng là sự hiện hình của ý niệm
tuyệt đối, vì thế con người là sự hiện hình trong quá trình vận động của ý
niệm tuyệt đối, cho nên sức mạnh của con người là ở ý niệm tuyệt đối mà ý
niệm tuyệt đối là toàn thể vũ trụ vì vậy con người phải đặt sức mạnh của mình
vào sức mạnh của vũ trụ và hòa hợp cùng với sức mạnh của vũ trụ. Vì vậy,
con người hay nói cách khác chính con người lý trí là chủ thể của toàn bộ vũ
trụ. Con người là trung tâm và dùng lý trí của mình thống trị muôn loài trong
vũ trụ. Bằng sự giải thích theo lối tư duy tư biện nhưng mang tính biện chứng
sâu sắc, Hegel đã tuyệt đối hóa lý trí xem vạn vật là do sự tổng hợp của lý trí.
Ông đã đưa ra tuyên bố sau đây như là sự khẳng định cho lập trường triết học
duy lý của mình: “tất cả cái gì hiện thực đều là duy lý và tất cả những gì duy
lý đều là hiện thực” [dẫn theo 27, tr.39-40].
Từ sự trình bày trên đây có thể khẳng định một điều rằng, tư duy duy lý
có một vị trí và vai trò mang một “sức nặng” rất lớn trong quá trình con người
đi tìm lời giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra là: Con người là gì? Con
người có từ khi nào? Con người được sinh ra từ đâu? Con người sẽ đi về
đâu?. Vũ trụ bao la và đầy bí ẩn này từ đâu mà có? Trí tuệ con người có thể
nhận thức được bản chất của vũ trụ không?... Có bao nhiêu câu hỏi thì có bấy
nhiêu câu trả lời. Chính con người - chủ thể của lịch sử đã dùng lý trí của
mình lần lượt trả lời cho các câu hỏi trên. Tuy nhiên, không phải lúc nào con
người dùng lý trí của mình cũng có thể giải đáp một cách tường minh cho các
vấn đề được đặt ra trong đời sống lịch sử xã hội của nhân loại. Nhưng có một
điều chắc chắn rằng, nhờ lý tính mà con người nhận thức được bản chất của
sự vật hiện tượng, để từ đó con người ngày càng chinh phục tự nhiên với một


14


trình độ từ thấp đến cao, cải tạo tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ nhu cầu
cuộc sống ngày càng cao của con người. Và cũng chính trong quá trình đó,
con người làm nên lịch sử vẻ vang của mình, cải tạo xã hội đưa xã hội bước
vào nền văn minh đỉnh cao của loài người. Trong xã hội phương Tây người ta
xem lý tính như là công cụ vạn năng có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề
trong đời sống, trong tất cả các lĩnh vực từ tự nhiên đến xã hội và tư duy.
Sự phát triển của khoa học đã ngày càng đóng góp vào sự phát triển của
xã hội. Tuy nhiên thực tiễn xã hội phương Tây nói chung và nước Mỹ nói
riêng cho thấy, sự sùng bái lý tính, đặc biệt là việc đề cao vai trò của chủ
nghĩa duy lý đã dẫn con người đến bờ vực thẳm của sự suy đồi về mặt nhân
phẩm, cá tính,… tước mất ở con người những gì làm cho con người xứng
đáng là người nhất. Mặt khác, sự bất lực của lý tính trong việc giải quyết mọi
vấn đề tâm linh và thế giới nội tâm của con người. Nhu cầu này đòi hỏi con
người phải đi tìm lối thoát cho mình mà không thể dựa vào tư duy lý tính.
Vào thế kỷ trước, phong trào triết học phi duy lý xuất hiện chính là sự phản
ứng lại những mặt trái mà chủ nghĩa duy lý đã gây ra và đáp ứng nhu cầu bức
thiết đó của con người.
Sự ra đời của các trào lưu triết học phi duy lý là sự phản ứng một cách
quyết liệt chủ nghĩa duy lý, phá bỏ mọi nguyên tắc truyền thống, nghi ngờ
tính xác tín của các quy luật khoa học, phá bỏ mọi trật tự mà sự duy lý về
khoa học đã đặt ra. Cái tất nhiên không còn là sự phổ biến của mọi biến đổi
trong đời sống mà xuất hiện sự thừa nhận có tính hệ thống của cái ngẫu nhiên,
tính tương đối cũng được đề cao, không một quy luật, một chân lý nào được
coi là tồn tại vĩnh viễn cả mà cái được gọi là chân lý tồn tại thực sự khi nó
đem lại sự có ích, có hiệu quả đối với đời sống con người. Nằm trong chùm
triết học phi duy lý, chủ nghĩa thực dụng ra đời cũng nhằm phản ứng lại sự
tuyệt đối hóa của chủ nghĩa duy lý, mà quan tâm, coi trọng đến vấn đề con
người, xem con người là chủ nhân của chính cuộc sống mình. Con người



15

được xem xét ở nhiều khía cạnh, phương diện, kể cả phương diện vật chất và
tinh thần, trong đó con người khẳng định được sự tồn tại của mình.
1.2. Tiền đề tư tưởng
Đối với bất cứ một trào lưu triết học nào, dù hình thành một cách độc lập
ra sao thì với tư cách là một triết học, nó không thể không bắt nguồn từ những
tài liệu trong quá khứ. Đó chính là tiền đề tư tưởng. Đối với chủ nghĩa thực
dụng nói chung và với vấn đề con người tự lập thân trong chủ nghĩa thực
dụng Mỹ nói riêng, nó ra đời cũng dựa trên cơ sở sự kế thừa những tư tưởng
trong các nền triết học có trước, trong lịch sử triết học nhân loại. Đó là di sản
tư tưởng của triết học lục địa, tư tưởng của chủ nghĩa nhân vị Mỹ, tư tưởng
của chủ nghĩa cá nhân Mỹ và nó còn ra đời dựa trên sự ảnh hưởng từ lối sống,
cá tính và quan điểm của con người Mỹ.
1.2.1 Di sản tư tưởng của triết học lục địa
Vấn đề con người tự lập thân trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ được ra đời
dựa trên sự kế thừa những tư tưởng, di sản của nền triết học châu Âu cổ, mà
điển hình là các nền triết học với các triết gia: thời đại Hy Lạp - La Mã cổ đại
với các triết gia như Socrates, Protagoras; thời kỳ triết học Tây Âu phục hưng
và cận đại; thời kỳ triết học cổ điển Đức.
Trước hết, trong nền triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại, nhiều nhà triết học
đã sớm xác nhận được vai trò của con người như là chủ thể của đời sống xã
hội. Ta có thể bắt gặp điều này qua tư tưởng của nhà triết học Socrates 6 . Ông
là người đầu tiên hiểu rằng triết học không phải là cái gì khác hơn là sự nhận
thức của con người về chính bản thân mình [21, tr.182]. Socrates đã đưa ra
một luận điểm hết sức nổi tiếng “Con người, hãy nhận thức chính mình”, nó
đã trở thành câu cửa miệng trong các buổi đàm thoại triết học của ông. Đối
với Socrates nhận thức chính mình - tức là nhận thức bản thân mình không
chỉ như một nhân cách mà còn như một con người nói chung. Hay như tư
tưởng của nhà triết học Protagoras 7 với luận điểm “Con người là thước đo tất



16

thảy mọi vật” - luận diểm đặc biệt đề cao vai trò, vị trí của con người trong
thế giới hiện thực. Theo Protagoras, đặc tính cơ bản của sự vật không phải là
tính khách quan mà là sự biến đổi không ngừng của nó. Phát triển luận điểm
nổi tiếng của Hêraclít “người ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông”,
Protagoras khẳng định rằng không chỉ mọi sự vật mà ngay cả con người nhận
thức chúng cũng biến đổi không ngừng. Ông còn nhận thấy không có gì liên
quan trên thế giới có thể hoàn toàn tồn tại độc lập được cả. Mọi sự vật đều có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau, thậm chí trong quá trình vận động, mỗi sự vật
đều có thể trở thành cái đối lập với chính nó. Vì vậy, trong nhận thức về cùng
một sự vật, có thể có những ý kiến trái ngược nhau là chuyện bình thường. Từ
đó, Protagoras đi đến khẳng định rằng mọi ý kiến trái ngược nhau đó đều
đúng cả, ngay khi chúng là kết quả của sự tưởng tượng cũng không sai, miễn
là chúng có lợi cho người này hay người khác. Dưới con mắt của ông, những
gì đem lại cho con người sự hài lòng, thú vị thì được coi là tốt. Còn cái gì làm
cho người ta phiền muộn là xấu. Tiêu chuẩn để cảm nhận phân biệt cái tốt, cái
xấu đó là sự nhìn nhận, quan niệm riêng biệt của mỗi người. Theo Protagoras
để có một lập trường nhất quán, con người buộc phải lựa chọn giữa các ý kiến
trái ngược nhau, lấy một trong số chúng. Họ được hoàn toàn tự do lựa chọn.
Chính cái lợi cho con người là chuẩn mực để đánh giá và phán xét mọi cái, kể
cả tri thức và các chuẩn mực đạo đức. Những tư tưởng này của các nhà triết
học Hy Lạp - La Mã cổ đại đã được chủ nghĩa thực dụng Mỹ kế thừa và phát
triển, làm sâu sắc thêm vấn đề con người tự lập thân trong chủ nghĩa thực
dụng Mỹ.
Tiếp theo, trong thời kỳ triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại đã
quan tâm sâu sắc đến vấn đề con người và giải phóng con người. Chính sự phát
triển to lớn của sản xuất và khoa học đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của con

người. Thời kỳ này, ở Italia đã dấy lên khẩu hiệu “con người hãy thờ phụng
chính bản thân mình chiêm ngưỡng cái đẹp của chính mình” [21, tr.246]. Hình


17

ảnh trừu tượng “Người khổng lồ” (David) của nhà điêu khắc Michel Angelo
đã trở thành biểu tượng của con người thời phục hưng và cận đại. Đó là con
người tràn đầy sức sống và hoài bão tự do. Giờ đây vấn đề mà người ta quan
tâm không phải là quan hệ giữa chúa và thế giới (như trong thời kỳ triết học
Tây Âu trung cổ) mà chính là vấn đề quan hệ giữa con người và thế giới trở
thành trung tâm của các quan niệm triết học. Nhiều nhà tư tưởng đã ý thức
được sự cần thiết phải xây dựng một triết học thực tiễn, nhờ đó con người
hiểu hết sức mạnh của tất cả các sự vật khác xung quanh ta cũng thấu đáo như
những công việc của người thợ thủ công, bằng cách đó chúng ta có thể sử
dụng chúng trong các hoạt động của mình, đồng thời biến mình thành những
chủ nhân và chúa tể của giới tự nhiên [21, tr.247]. Chúng ta có thể bắt gặp
những tư tưởng này trong triết học Nicolai Kuzan 8 , ông coi con người là sản
phẩm tối cao và tinh túy nhất trong sự sáng tạo của thượng đế, con người
chính là thế giới con người bao quát dưới dạng tiềm tàng toàn bộ thượng đế
và thế giới, nội tâm triển vọng của con người đó là tất cả. Hay trong triết học
thời kỳ phục hưng ở Italia, họ ca ngợi sức mạnh và vẻ đẹp của con người. Con
người không phải lấy thượng đế, mà phải lấy chính mình làm trung tâm và
thước đo tất thảy mọi vật. Các giá trị hiện thực của con người được đề cao.
Hình tượng con người cường tráng ngẩng cao đầu đòi tự do và công lý, không
khuất phục trước mọi trở ngại,… trở thành phương châm tư tưởng và văn hóa
thời kỳ này. Như nhà danh họa Leonardo de Vinci (1452 - 1519) đã khẳng
định con người là vũ khí vĩ đại nhất của tạo hóa. Dựa trên các sự vật tự nhiên,
con người sáng tạo ra các sự vật mới phục vụ cho cuộc sống của mình và nhà
triết học, nhà khoa học tự nhiên Bruno 9 đã đặc biệt đề cao đến khả năng nhận

thức trí tuệ của con người.
Trong triết học cận đại, tính chủ thể của con người lại được chủ nghĩa
duy lý của Francis Bacon 10 , Descartes thổi vào một màu sắc mới của cái “Tôi
suy nghĩ, vậy tôi tồn tại” (Cogito, ergo sum).


18

Tiếp tục kế thừa những tư tưởng của các nền triết học thời kỳ trước, chủ
nghĩa thực dụng Mỹ khi bàn đến vấn đề con người tự lập thân còn kế thừa tư
tưởng của nền triết học cổ điển Đức là việc đặc biệt đề cao vai trò tích cực của
hoạt động con người, coi con người như là một chủ thể hoạt động, là nền tảng
và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Trước những thành tựu khổng lồ
về kinh tế - xã hội và văn hóa mà nhân loại đạt được trong thời kì bình minh
đầy tính cách mạng của chủ nghĩa tư bản, các nhà triết học cổ điển Đức từ
Kant đến Hegel đều đề cao sức mạnh trí tuệ và hoạt động con người tới mức
cực đoan. Họ thần thánh hóa con người tới mức coi con người là chúa tể của
tự nhiên, bản thân giới tự nhiên cũng chỉ là kết quả hoạt động của con người.
Kế tục tư tưởng của Socrates thời kì triết học cố đại hiểu triết học là tự ý thức
của con người về chính bản thân mình và khuynh hướng đề cao con người từ
thời phục hưng, Imanuen Kant, nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức, lần đầu
tiên hiểu con người là chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình hoạt động của
mình, khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn hoạt động lý luận. Bản thân
lịch sử là phương thức tồn tại của con người. Kant coi nhiệm vụ hàng đầu của
mình là phải xác định bản chất của con người. Ông cho rằng sở dĩ hiện nay
các nhà khoa học vẫn chưa có được một nền tảng phát triển vững chắc bởi vì
“khoa học về con người” vẫn chưa được chú trọng và phát triển. Do đó, toàn
bộ các vấn đề triết học phải được hướng vào việc giải quyết những vấn đề của
cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người. Triết học cần đem lại cho
con người một cơ sở và nền tảng thế giới quan mới, vạch ra những nguyên tắc

cơ bản của cuộc sống con người, vì những lý tưởng nhân đạo.
Như vậy trong lịch sử triết học Châu Âu cổ từ triết học Hy Lạp - La Mã
cổ đến triết học cổ điển Đức đã để lại cho chủ nghĩa thực dụng Mỹ những tư
tưởng quý giá về con người. Trên cơ sở những tư tưởng của thời đại trước,
đặc biệt là những tư tưởng như: con người hãy nhận thức chính mình của
Socrates; con người là thước đo của tất thảy mọi vật của Protagoras hay con


19

người không phải lấy thượng đế, mà phải lấy chính mình làm trung tâm thời
kỳ phục hưng, chủ nghĩa thực dụng đã xây dựng nên học thuyết của mình mà
thấp thoáng chúng ta thấy xuất hiện những tư tưởng nỗi bật về con người như
đã nêu trên trong những vấn đề của chủ nghĩa thực dụng.
1.2.2 Chủ nghĩa nhân vị Mỹ
Chủ nghĩa nhân vị Mỹ được cho là do Borden Parker Bowne 11 - giáo sư
trường Đại học Boston sáng lập. Điều này được chứng minh bằng những tác
phẩm của ông bàn về chủ nghĩa nhân vị, đặc biệt nhất là cuốn “Chủ nghĩa
nhân vị” đã đặt nền tảng lý luận cho một tư trào đúng với tư cách triết học.
Khái niệm trung tâm mà chủ nghĩa nhân vị bàn đến là nhân vị. Theo
Bowne, nhân vị là tôi (je) ý thức về “cái tôi”, nó là một sự “bột phát hồn
nhiên”, là chủ thể mang những khả thể như tình cảm, ý chí, sự tự ý thức.
Cũng theo Bowne, nhân vị là sự thống nhất tính hoạt động ý thức (tình
cảm, ý chí của con người) với tính đồng nhất tự thân, do vậy chỉ có nhân vị
mới có ý nghĩa. Nhân vị là tính thứ nhất trong nhận thức của con người.
Bowne cũng chỉ ra nguồn sức mạnh của nhân vị là đưa lại cho cái tôi một
yá chí tự do sáng tạo. Bowne chú trọng nhân vị đến nỗi tuyệt đối hóa sự tồn
tại của nhân vị, cho nó là sự tồn tại chân thật nhất, thậm chí duy nhất của
thế giới. Nó là loại chủ thể có các cơ năng, như khả năng tự ý thức khống
chế, cảm giác, tình cảm và ý chí.

Tiếp tục những tư tưởng này, nhà triết học Brightman 12 đã đề xuất khái
niệm “chủ nghĩa nhân vị thời gian”, cho rằng tự đồng nhất cái tôi không cố
định, bất biến mà có tính thời gian. Nhân vị như một bản thể biến đổi không
ngừng, là chiếc chìa khóa mở ra một tầm nhìn mang tính thống nhất và tính
liên tục của thực tại, của thế giới. Ông còn khẳng định bản chất phải do cái tôi
sinh ra thì mới có sáng tạo. Đại biểu Hocking 13 cũng nêu quan điểm của mình
cho rằng, cá nhân là đơn vị cuối cùng của cơ cấu xã hội, mọi phúc lợi xã hội
phải được thực hiện thông qua cá nhân. Mục đích xã hội là sự tiếp tục của


20

mục đích cá nhân và chỉ có ở sức sống cá nhân. Ông đi đến kết luận cá nhân
so với nhà nước vẫn là tính thứ nhất, và nguyên tắc của mỗi nhà nước trong
tương lai là mỗi con người, là con người của tính thống nhất.
Như vậy, chủ nghĩa nhân vị cùng các đại biểu tiêu biểu của nó đều ra sức
đề cao nhân vị - tôi, cái được xem như là bộ mặt đặc hữu của mỗi cá nhân con
người. Nhân vị là cái quan trọng nhất, quyết định nhất, hay nói một cách
khác, trong đời sống con người là tính thứ nhất của tồn tại xã hội. Qua chủ
nghĩa nhân vị, con người - cá nhân được đề cao bậc nhất. Chính những tư
tưởng này đã ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề con người nói chung và vấn đề
con người tự lập thân nói riêng trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ.
1.2.3 Chủ nghĩa cá nhân Mỹ
Vấn đề con người tự lập thân trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ còn ra đời
dựa trên chủ nghĩa cá nhân Mỹ. Đây được xem là tiền đề tư tưởng trực tiếp.
Chủ nghĩa cá nhân ra đời và phát triển ở châu Âu, đặc biệt nó xuất hiện mạnh
mẽ từ thời Phục hưng, là cội nguồn của chủ nghĩa cá nhân Mỹ và ngày nay thì
biên giới của nó được mở rộng ra nhiều nền văn minh khác nhau. Có thể tìm
thấy chủ nghĩa cá nhân trong tư tưởng của Thomas Hobbes. Tư tưởng của ông
được xem là một trong những tiền đề lý luận xây dựng nên vấn đề con người

trong chủ nghĩa thực dụng, mà đặc biệt là vấn đề con người tự lập thân.
Hobbes cho rằng mỗi cá nhân có một quyền lực tối cao đối với tất cả những gì
thuộc về quyền lực của mình, nói khác đi quyền của mỗi người mở rộng đến
nơi quyền lực nhất định thuộc về của anh ta. Mỗi cá nhân đều có quyền tối
cao là duy trì trong trạng thái của mình, nghĩa là tồn tại và có những hành vi
theo quyết định của anh ta
Chủ nghĩa cá nhân Mỹ là nền tảng của văn hóa Mỹ. Chủ nghĩa thực dụng
Mỹ chỉ là một biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa cá nhân Mỹ. Ở Mỹ, chủ nghĩa
cá nhân luôn hướng đến “sự khẳng định mạnh mẽ quyền lợi của cá nhân”; “sự
bảo vệ những thực thể văn hóa nhỏ chống lại thực thể văn hóa lớn”. Cá nhân


21

được quan niệm như là kẻ mang trọng trách đẩy cả xã hội lên bằng những
thành công của mình.
Franklin14 là người đề xướng rất rõ chủ nghĩa cá nhân. Trong cuốn “Tự
truyện”, ông đã chỉ cho người di cư thấy được viễn cảnh, khi đặt chân tới
vùng đất mới thì mọi người đều có thể trở nên khá giả và sung túc. Đây chính
là tự bạch của một cậu bé nghèo khổ đã vươn lên thành người từ nghề thủ
công tầm thường. Thông qua những suy nghĩ của cậu bé, chủ nghĩa cá nhân
hiện ra một cách gần gũi và bộc bạch nhất, đó chính là châm ngôn hành động
của một con người. Có thể kể ra đây một số câu như sau: “Thượng đế sẽ cứu
giúp những người biết tự chủ”, “Ngủ sớm, dậy sớm đó là khôn ngoan, là sức
khỏe, là kiếm sống tốt”. Tuy nhiên Franklin cũng cho rằng tự do chỉ có thể
thực hiện được trong một xã hội với một giới hạn nào đó tùy thuộc vào thói
quen của những “con người thuộc tầng lớp giữa”.
Vào giữa thế kỷ XIX, “chủ nghĩa cá nhân vị lợi” chỉ lo cho riêng mình
thống lĩnh khắp nơi. Và dường như ngay lập tức nó đã bị phản kháng lại bởi
một chủ nghĩa cá nhân biểu hiện cuộc sống nội tâm, sự tự thực hiện cái tôi

cao quý của mỗi người. Chủ nghĩa cá nhân này do C.Melville, R. Emerson,
C.Toro, W. Whitman mở đầu.
Whitman cho rằng, thành đạt không đồng nghĩa với sự giàu có về vật
chất. Một cuộc đời thành đạt phải là cuộc đời phong phú về những tình cảm
đẹp đẽ, trước hết là tình yêu. Tự do chính là tự do thể hiện bản thân, không bị
ràng buộc bởi chuẩn mực lâu đời. Người Mỹ sử dụng quyền tự chủ của mình
để nuôi dưỡng “cái tôi”, để tìm thấy bản thân ngay trong các mục tiêu xã hội
và thế giới, họ khác hẳn người châu Âu ở tự do và sáng kiến cá nhân. Người
châu Âu sang Mỹ đã từ thân phận hèn kém trở thành một nhân cách, từ một
tên đầy tớ trở thành ông chủ, từ tên nô lệ của một lãnh chúa tàn bạo trở thành
người chủ có quyền sở hữu ruộng đất, của cải của một xã hội tự quản lý, một
cuộc đổi đời.


22

“Con người mới” của Mỹ dường như có nét tương đồng với con người
duy lý ở thời đại khai sáng Pháp. Đó là những con người trẻ trung được giải
phóng, biết sử dụng ý chí và nghị lực để chinh phục và cải tạo thiên nhiên,
quản lý xã hội nhằm mang lại hạnh phúc cho mình. Nhưng hình như
Crèvecoeur chỉ chú ý đến các cơ sở do bản thân con người tạo ra mà quên mất
sự ảnh hưởng của những truyền thống khác ở Mỹ như: truyền thống tôn giáo,
nền văn hóa mang tính chính trị sâu sắc.
Nếu Crèvecoeur tiếp cận nhanh và không chút ngỡ ngàng với chủ nghĩa
cá nhân thì A.Tocquevillel15 lại trở nên khá bối rối trước sự phát triển không
thể nào kìm hãm được của chủ nghĩa cá nhân. Tiếp cận với Mỹ, Tocqueville
không khỏi băn khoăn khi thấy chủ nghĩa cá nhân vụ lợi ở ai đó có thể tách
rời con người với xã hội. Mặc dù những con người đó chưa quá giàu có, chưa
nhiều thế lực tới mức thống trị người khác nhưng đã đủ tự tin để lo cho mình
và nhận thấy cuộc đời mình nằm trong khả năng tự định đoạt và không phụ

thuộc vào ai.
Những người Mỹ sống bằng “làm công ăn lương” thì lao động của họ
không chỉ đơn thuần là nuôi sống bản thân mà đó còn là sự tự khẳng định bản
thân mình, là lòng tự trọng và trên hết là sự tự đánh giá. “Tự đánh giá” có vai
trò quan trọng trong việc đi tìm “cái tôi đích thực”, hình như điều đó lý giải
cho sự đau khổ của con người khi rơi vào tình trạng thất nghiệp. Điều đó cũng
đồng nghĩa với day dứt trong nội tâm vì họ cho rằng bản thân chẳng còn giá
trị gì đặc biệt nữa. Những con người theo chủ nghĩa cá nhân gắn bó với nhau
bởi phong cách sống. “Phong cách sống” theo cách hiểu của nhiều người là:
sự riêng tư, sự nghỉ ngơi, là những điều ít hoặc không liên quan đến công
việc. Họ chỉ có thể chia sẻ phong cách sống với nhau một khi tìm được những
điểm đồng đều, tương ứng như: giống nhau về địa vị xã hội, giống nhau về
của cải, giống nhau về trình độ học vấn… Mặc dù tôn trọng sở thích cá nhân,
mỗi người có thể hành động do “cái tôi” chỉ dẫn, nhưng không phải vì thế mà


23

vi phạm đến sự riêng tư của người khác bởi vì điều đó cũng đồng nghĩa với
việc đánh mất “cái tôi của mình”, đồng nghĩa với việc vá nhân mất luôn
quyền tự thể hiện. Ở Mỹ, người ta không dừng lại ở đạo lý thiện ác mang tính
tự nhiên mà còn muốn vươn tới những giá trị cụ thể hơn. Đó chính là tính
hiệu quả của công việc, cái gì có hiệu quả là thiện, là tốt và ngược lại, không
có hiệu quả là ác, là xấu. Đây chính là cơ sở để các nhà sáng lập của chủ
nghĩa thực dụng đưa tính hiệu quả của công việc trở thành tiêu chí để xác lập
chân lý trong sự phát triển nhận thức của con người.
Chủ nghĩa cá nhân Mỹ được bắt rễ ngay trong nền tảng gia đình. Người
Mỹ có suy nghĩ hết sức độc đáo về mối quan hệ giữa cá nhân với cha mẹ và
gia đình. Thậm chí còn bị người của các dân tộc khác “lên án” vì cho rằng họ
đã cắt đứt với mọi tư tưởng thuộc về truyền thống, đoạn tuyệt mối liên hệ với

gia đình với cộng đồng. Dường như họ bị hiểu nhầm là những con người chưa
kịp lớn mà đã chối bỏ gốc gác của bản thân. Ở Mỹ, xuất thân “con ông cháu
cha” không phải là điều khiến họ khoe khoang, nếu một khi nó cản trở “con
người tự lập thân”. Họ chỉ thực sự tự hào khi sự nghiệp mình có, gia tài mình
sở hữu là do “self made man”. Đó là mẫu người thực sự điển hình cho “tinh
thần Mỹ”, đại diện cho một “thế giới mới”. “Con người tự mình làm nên
mình” là kết tinh của: chủ nghĩa cá nhân, kinh phúc âm và ý thức công dân
của nền cộng hòa.
Chủ nghĩa tự do (liberalism) là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học. Nó
vốn là nền tảng ý thức hệ của chủ nghĩa tư bản nói chung và có nguồn gốc từ
phong trào khai sáng ở phương Tây. Có thể thấy tư tưởng về chủ nghĩa tự do
được thể hiện trong các công trình nghiên cứu của A.Smith, D.Ricardo, John
Locke, J.J. Rousseau, Thomas Jefferson, Jeremy Bentham, J.Stuart Mill, Hill
Green, L.T.Hobhouse, John Rawls, R.Nozick… Tuy nhiên, chủ nghĩa tự do lại
mang nhiều nghĩa khác nhau trong những giai đoạn khác nhau, không gian khác


24

nhau; ở Mỹ thì nó có một diện mạo mới - chủ nghĩa tự do mới (neo-liberalism).
Chủ nghĩa tự do mới với chủ trương: tự do hóa, tư hữu hóa và thị trường hóa.
Chủ nghĩa tự do lấy cơ sở là quyền tự nhiên của con người và theo đó
nhà nước xuất hiện. Ngay từ khi đặt chân tới bờ biển Mỹ, những người Anh di
cư đã ký với nhau Khế ước Hoa tháng năm (Mayflower Compact). Văn kiện
được ký kết thể hiện sự trung thành đối với vua và với các luật lệ địa phương,
đồng thời chính nó cũng hàm chứa những ý tưởng về một quốc gia tự trị nằm
dưới sự che chở của Chúa, phôi thai nên Hiến pháp của nước Mỹ về sau. “Và
hơn một trăm năm mươi năm, nó mang trong lòng nó mầm mống nền độc lập
của Hiến Pháp liên bang và của nước cộng hòa Mỹ”.
Tuyên ngôn độc lập (1776) và Hiến pháp liên bang (1787) của Mỹ là sự

khẳng định rõ ràng nhất cho tư tưởng chủ nghĩa tự do của Mỹ. Chủ nghĩa tự
do là một trong những tiền đề lý luận quan trọng của vấn đề con người tự lập
thân trong chủ nghĩa thực dụng, với lý do đơn giản là bởi nó chính là ý thức
hệ của chủ nghĩa tư bản Mỹ mà con người thì lại nảy sinh trên cái nền hiện
thực xã hội ấy.
Tuyên ngôn độc lập chính là điểm dựa tinh thần về ý thức hệ của dân tộc
Mỹ, nó trở thành nơi xuất phát của tất cả lý thuyết về giá trị học hay đạo đức
học. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ là một văn bản chính trị tuyên bố ly khai
khỏi Anh của 13 thuộc địa Bắc Mỹ, các thuộc địa đã đồng thuận nguyên tắc
cơ bản về quyền làm người. Nguyên tắc này được ghi rõ trong bản Tuyên
ngôn như sau: “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người
sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất
khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu
hạnh phúc…”. Quan trọng không kém, Tuyên ngôn độc lập còn khẳng định
quyền của người dân được xóa bỏ những ràng buộc chính trị áp bức: “…Để
đảm bảo những quyền này, các chính phủ phải do dân bầu ra, quyền lực là
quyền lực của nhân dân. Nếu chính phủ nào hủy hoại những mục tiêu này thì


25

người dân có quyền thay đổi hoặc lật đổ chính phủ và hình thành nên chính
phủ mới, dựa trên những nguyên tắc và tổ chức quyền lực theo hình thức mà
người dân cho là chắc chắn sẽ đảm bảo được sự an toàn và hạnh phúc của
họ…”.
Với Tuyên ngôn độc lập, thế giới lần đầu tiên chứng kiến sự thử nghiệm
trên thực tế việc xây dựng một chính phủ mà sự vận hành của nó được đánh
giá dựa trên mức độ tôn trọng và bảo vệ các quyền của người dân. Lần đầu
tiên trong lịch sử loài người, những giá trị cơ bản của con người đã được công
bố bởi một dân tộc hoàn toàn mới mẻ, mở ra thời kỳ cách mạng và hướng đến

sự tự do trên toàn thế giới. Có thể khẳng định rằng, đây là một văn bản thừa
nhận về quyền tự nhiên của con người thông qua những đề cương mang tính
nhân văn sâu sắc.
Chính vì thế, Tuyên ngôn độc lập có sức sống bền bỉ, trở thành một trụ
cột tinh thần của dân tộc Mỹ, nó chứa đựng “khởi đầu vĩnh cửu”, cho mọi sự
phát triển về mặt tinh thần sau này ở nước Mỹ.
Cùng với Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp liên bang Mỹ thể hiện tinh thần
tiến bộ, khoa học và nhân bản của người Mỹ trong việc xây dựng một nhà
nước cộng hòa đầu tiên trên thế giới trong lịch sử cận đại. Thủ tướng Anh
William Ewart Gladstone đã thốt lên đây là “tác phẩm tuyệt vời nhất từng
được sản sinh ra vào một thời điểm nhất định bởi trí óc và mục đích của con
người” khi miêu tả về Hiến pháp này. Hiến pháp liên bang đã có một quá trình
sửa đổi lâu dài, tới 26 lần để trở thành bộ luật tối cao của nước Mỹ.
Lời mở đầu của Hiến pháp đã nêu lên lý do lập hiến: “Chúng tôi, nhân
dân Hợp chúng quốc Hoa Kỳ với mục đích xây dựng một Liên Bang hoàn hảo
hơn nữa, thiết lập công lý, đảm bảo an ninh trong nước, tạo dựng phòng thủ
chung, thúc đẩy sự thịnh vượng trong toàn khối, giữ vững nền tự do cho bản
thân và con cháu chúng ta, quyết định xây dựng Hiến pháp này cho Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ”. Với những lời tuyên bố hùng hồn như vậy thì thật sự


×