Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Mở thoại và kết thoại trong tiếng anh và tiếng việt tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.67 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------

NGUYỄN QUỲNH GIAO

MỞ THOẠI VÀ KẾT THOẠI
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 62 22 02 40

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI – VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thiện Giáp

Phản biện 1: GS.TS. Đinh Văn Đức
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Văn Khang
Phản biện 3: PGS.TS. Lê Thị Lan Anh
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Khoa học Xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh
Xuân, Hà Nội.
Vào hồi ……..giờ……….ngày…….tháng……..năm ……….

Có thể tìm hiểu luận án tại:


- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Quỳnh Giao (2012), “Bước đầu tìm hiểu về mở thoại
trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt)”, Hội thảo ngôn ngữ
học 2012: Những vấn đề ngôn ngữ và nghiên cứu ngôn ngữ
học, Viện Ngôn ngữ.
2. Nguyễn Quỳnh Giao (2016), “Các hành vi ngôn ngữ trong
mở thoại tiếng Việt”, Hội thảo khoa học 2016: Giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt và giáo dục ngôn ngữ trong nhà
trường. Hội Ngôn ngữ học, ĐH Quảng Bình, Viện Ngôn ngữ
(tr.733-739).
3. Nguyễn Quỳnh Giao (2016), “Mở thoại và kết thoại trong
tiếng Anh”, Tạp chí ngôn ngữ và đời sống - số 6 (248) (tr.8286).
4. Nguyễn Quỳnh Giao (2016), “Tiền dẫn nhập cho sự kiện lời
nói chê trong tiếng Anh”, Tạp chí nhân lực khoa học xã hội số 06 (37) (tr.105-111).


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Hội thoại, với tư cách là hoạt động giao tiếp cơ bản và phổ biến
nhất, được ngữ dụng học đặc biệt quan tâm, bởi ở đó thể hiện tập
trung hoạt động lời nói của con người khi tham gia giao tiếp.
1.2. Mỗi một ngôn ngữ, mỗi một cộng đồng văn hóa đều có những
cách thức riêng khi bắt đầu hay kết thúc một cuộc thoại. Nghiên cứu
mở thoại và kết thoại của hai ngôn ngữ Anh và Việt sẽ có ý nghĩa

đáng kể trong nghiên cứu đặc trưng văn hóa - ngôn ngữ nói chung và
ngôn ngữ hội thoại nói riêng.
1.3. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có không ít những công
trình nghiên cứu về hội thoại. Tuy nhiên, chưa một công trình nào
nghiên cứu, phân tích kĩ lưỡng những yếu tố chức năng, những biểu
thức ngôn ngữ, những hành động ngôn từ, và những nhân tố chi phối
cách thức mở thoại và kết thoại của hai ngôn ngữ Anh và Việt. Với
việc thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học sâu về Mở thoại
và kết thoại trong tiếng Anh và tiếng Việt trên dữ liệu các tác phẩm
văn học và kịch bản phim, chúng tôi mong muốn phần nào khỏa lấp
“khoảng trống” nêu trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là tìm ra sự tương đồng và khác biệt trong
mở thoại và kết thoại giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt, từ đó nêu lên
những đặc trưng văn hóa dân tộc của hai ngôn ngữ này. Việc tìm ra
những điểm khác biệt này hi vọng sẽ giúp cho việc học tập và giảng
dạy tiếng Anh và tiếng Việt như một ngoại ngữ, nhằm nâng cao khả
năng giao tiếp nói và viết cho người dạy và người học.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, đề tài “Mở thoại và kết thoại trong tiếng Anh
và tiếng Việt” sẽ giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
(i) Tổng quan và hệ thống hóa những lí luận về hội thoại và các
vấn đề có liên quan đến việc nghiên cứu mở thoại và kết thoại.
(ii) Nhận diện Mở thoại và Kết thoại.
(iii) Miêu tả những yếu tố chức năng trong mở thoại và kết thoại
tiếng Anh và tiếng Việt.
(iv) Miêu tả những biểu thức ngôn ngữ và hành động ngôn từ
trong mở thoại và kết thoại tiếng Anh và tiếng Việt.
1



(v) Nêu những nhân tố chi phối cách thức mở thoại tiếng Anh và
tiếng Việt.
(vi) Rút ra những nhận xét về sự tương đồng và khác biệt về văn
hóa của hai dân tộc Anh và Việt.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là mở thoại và kết thoại trong
tiếng Anh và tiếng Việt trên cơ sở những cuộc thoại xuất hiện trong
một số tác phẩm văn học và điện ảnh tiếng Anh và tiếng Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngữ liệu được thu thập từ 25 truyện, kịch, phim tiếng Anh và 36
truyện, kịch bản phim tiếng Việt. Những cuộc thoại được lựa chọn,
về mặt cấu trúc, đảm bảo tính chất của lí thuyết hội thoại: một cặp
trao đáp trở lên, có người khởi xướng và có người phản hồi, và khởi
thoại được tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định với chất
liệu lời nói được sử dụng để mở đầu và kết thúc; về mặt chủ đề: đảm
bảo tính thống nhất về đề tài diễn ngôn, và cuộc thoại đi theo hướng
nhất định từ đầu cho đến khi kết thúc cuộc thoại. Phạm vi nghiên cứu
của luận án là 735 cuộc thoại (song thoại) (387 cuộc thoại tiếng Anh
và 348 cuộc thoại tiếng Việt).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, đạt được mục đích
nghiên cứu đã nêu trong luận án, chúng tôi sử dụng những phương
pháp và thủ pháp nghiên cứu chính như sau:
4.1. Phương pháp phân tích hội thoại
Phân tích hội thoại quan tâm nhiều đến sự giải thích câu trong
mối quan hệ với ngữ cảnh, đến hàm ý hội thoại, v.v. Phương pháp
này được chúng tôi áp dụng để phân tích các lời mở thoại và kết thoại

xuất hiện trong các cuộc hội thoại của một số tác phẩm văn học Anh,
Việt khác nhau, từ đó thấy được chức năng của mở thoại và kết thoại
trong từng trường hợp cụ thể.
4.2. Phương pháp miêu tả
Dựa vào hình thức của mở thoại và kết thoại, luận án tiến hành miêu
tả và thống kê số lượng các loại câu, các loại hành động ngôn từ trong mở
thoại và kết thoại tiếng Anh và tiếng Việt, từ đó tìm ra sự giống nhau và
khác nhau của mở thoại và kết thoại trong hai thứ tiếng, rút ra những kết
luận về đối tượng nghiên cứu.
2


4.3. Phương pháp so sánh-đối chiếu
Trong luận án này, chúng tôi miêu tả mở thoại và kết thoại trong
tiếng Anh và tiếng Việt, sau đó đối chiếu với nhau để tìm ra sự tương
đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ, cả trên bình diện cấu trúc và
ngữ dụng.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Đóng góp trong lĩnh vực ngữ dụng học, góp phần làm rõ vai trò
của mở thoại và kết thoại trong hội thoại.
- Góp phần hữu dụng trong dịch thuật và giảng dạy hai ngôn ngữ.
6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận án sẽ góp phần hệ thống hóa những quan điểm về lí thuyết
hội thoại nói chung, và bổ sung cho lí thuyết về mở thoại và kết thoại
nói riêng. Những miêu tả về sự tương đồng và khác biệt của mở thoại
và kết thoại giữa hai nền văn hóa cũng sẽ là đóng góp tích cực cho
lĩnh vực nghiên cứu ngữ dụng, nghiên cứu hành động ngôn từ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
1. Cung cấp thêm những chứng cứ và góp phần đưa ra những giả

định về tính phổ quát và đặc trưng ngôn ngữ giữa hai loại hình
ngôn ngữ khác nhau này.
2. Những kết quả nghiên cứu đạt được sẽ bổ sung nguồn tham
khảo hữu ích trong giảng dạy tiếng Anh và tiếng Việt như ngoại
ngữ, đặc biệt hỗ trợ khắc phục được những lỗi thường gặp do sự
khác biệt văn hóa gây nên, từ đó nâng cao năng lực giao tiếp cho
người học tiếng Anh và tiếng Việt như một ngoại ngữ.
7. Cơ cấu của luận án
Phần chính văn của luận án gồm 150 trang (không kể phụ lục).
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được bố cục theo bốn
chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu; Chương 2. Cơ
sở lí luận; Chương 3. Mở thoại trong tiếng Anh và tiếng Việt;
Chương 4. Kết thoại trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu chung về hội thoại
Trên thế giới, vấn đề hội thoại đã được các nhà nghiên cứu quan
tâm từ lâu. Morris (1938), đã nghiên cứu ngôn ngữ dựa trên ba bình
3


diện: kết học, nghĩa học và dụng học. Austin (1962) đã đi sâu vào
bình diện dụng học và đặc biệt chú trọng vào sự hành chức của ngôn
ngữ trong giao tiếp hàng ngày. Searle (1969) đã nghiên cứu hành
động ở lời giữa người nói và người nghe. Humer (1972) đã đề cập
đến các thành tố có mặt trong hoạt động giao tiếp. Với Grice (1978),
vấn đề hội thoại được đề cập đầy đủ. Schegloff, Sack, Sinclaire và
Coulthard đã nghiên cứu sâu về cấu trúc hội thoại. Levinson và Yule
(1983 và 1991) đã giới thiệu, phân tích những vấn đề như lịch sự,
hàm ý hội thoại, cấu trúc hội thoại, v.v.

Ở Việt Nam, thực tế vấn đề hội thoại cũng thu hút được khá nhiều
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Căn cứ vào đề tài và mục đích
giao tiếp lại có những kiểu hội thoại phân chia theo hoạt động xã hội
như hội thoại bác sĩ - bệnh nhân, hội thoại bạn bè, hội thoại mua bán,
hội thoại gia đình, hội thoại trên lớp học, v.v. Nghiên cứu về cấu trúc
hội thoại nói chung, có thể kế đến Nguyễn Chí Hòa (1997) Dương
Tuyết Hạnh (1999), Phạm Văn Thấu (2001), Đặng Thị Hảo Tâm
(2003)… Nghiên cứu về hội thoại mua bán: Trịnh Thị Mai (2006), Mai
Thị Kiều Phượng (1996), Trương Thục Phương (1998). Hội thoại trên
lớp học cũng dành được sự quan tâm lớn của các nhà nghiên cứu,
Nguyễn Thị Hồng Ngân (2012), v.v.
1.2. Tình hình nghiên cứu về mở thoại và kết thoại
1.2.1. Tình hình nghiên cứu mở thoại và kết thoại trên thế giới
Schegloff (1968) trong “Sequencing in Conversational
Openings” (Chuỗi mở đầu của hội thoại), đã phân tích mở thoại
(MT) của 500 cuộc hội thoại tự nhiên qua điện thoại, tìm hiểu cấu
trúc MT và quy luật phân phối lượt lời của người nói-người nghe, tìm
hiểu ai là người cung cấp chủ đề của cuộc hội thoại. Bên cạnh đó tác
giả cũng tìm hiểu những yếu tố làm hạn chế cuộc hội thoại tự nhiên
qua điện thoại từ đó đưa ra các chiến lược giao tiếp hiệu quả.
House (1982), khi nghiên cứu về các khuôn mẫu mở đầu và kết
thúc cuộc thoại, đã đưa ra kết luận rằng người Anh thích sử dụng
những “bước đệm” mang tính “công thức” ngắn gọn và thường sử
dụng trong cuộc sống đời thường để mở đầu một tương tác; trong khi
đó người Đức lại thường biểu hiện bằng ngôn ngữ dài dòng để hướng
về nội dung tương tác.
Nghiên cứu về “Openings and Closings in Telephone Conversations
between Native Spanish Speakers” (Mở thoại và Kết thoại qua điện thoại
4



giữa những người nói tiếng Tây Ban Nha bản ngữ), Serafin (1998) muốn
góp phần làm rõ sự khác biệt về văn hóa cũng như về chức năng do MT
và kết thoại (KT) thực hiện. Cũng nghiên cứu về MT, Wong (2003) với
“Telephone Conversation Openings” (Những cách mở đầu cuộc thoại
qua điện thoại) đã nghiên cứu cách dạy mở thoại tiếng Anh (MTTA) cho
người học. Trong đó, Wong đặc biệt chú ý tới luyện cách nói MT trong
cuộc nói chuyện qua điện thoại, vì tác giả nhận thấy rằng trên lớp học dạy
tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai, dường như sinh viên không được hướng
dẫn kỹ cách nói chuyện qua điện thoại.
Griswold với “How Do You Say Good-Bye?” (Chào tạm biệt như
thế nào?) lại chú trọng tới tính liên kết của cuộc thoại tiếng Anh và đặc
biệt luyện phần KT. Marshall với “How to End a Conversation” (Cách
kết thúc cuộc thoại) cũng giới thiệu một số cách kết thúc cuộc thoại một
cách lịch sự và thân thiện. Edwards, trong “How Are You, Auntie
Elizabeth?” (Dì có khỏe không, dì Elizabeth?), Herrin trong “Hello, I
must be going!” (Xin chào, tôi phải đi ngay!), đã tập trung xây dựng
những bài luyện MT và KT tiếng Anh.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu mở thoại và kết thoại ở Việt Nam
Ở Việt Nam, một trong những công trình quan tâm đến cách
thức bắt đầu một cuộc thoại là của Nguyễn Thị Mỹ Phương (1999)
trong “A study on gambits in English conversations” (Nghiên cứu về
chuyện phiếm trong hội thoại Anh). Đề tài quan tâm đến cấu trúc
cuộc thoại nói chung, và việc khởi đầu cuộc thoại tiếng Anh nói
riêng, trong đó có giới thiệu một số mẫu câu thường sử dụng khi mở
đầu cuộc nói chuyện. Trong luận án “Some Noteworthy English Vietnamese Cross-cultural differences in initiating small talk in
initial meetings” (Một số điểm khác biệt nổi bật về giao thoa văn hóa
Anh - Việt trong khởi đầu chuyện phiếm trong cuộc gặp đầu tiên)
(năm 2000), Trương Văn Dinh đã so sánh nét khác biệt trong cách
bắt đầu câu chuyện phiếm trong tiếng Anh và tiếng Việt khi gặp gỡ

lần đầu… Nghiên cứu tập trung vào vấn đề đề tài trong cuộc thoại
chứ chưa quan tâm tới cách MT hay KT.
Ngoài ra, cũng đã có một số nghiên cứu bàn về hành động dẫn
nhập hay mở đầu trong một cuộc thoại. Vũ Thị Thanh Hương (1990),
trong bài “Bước đầu tìm hiểu các hành vi giao tiếp mở đầu tương tác
bác sĩ - bệnh nhân” đã đi vào phân tích hội thoại về mặt tâm lí thông
qua phương thức biểu hiện và cơ chế sản sinh các phát ngôn mở đầu
5


đoạn thoại bác sĩ - bệnh nhân. Nguyễn Thị Lý (1994) khi nghiên cứu
tham thoại trong giao tiếp mua bán ở chợ, đã mô hình hóa các dạng
tham thoại mở thoại, thân thoại và kết thoại trong cuộc thoại mua
bán. Dương Thị Tú Thanh (1994) đã đi vào nghiên cứu cặp thoại
trong giao tiếp mua bán và đưa ra mô hình hoạt động của các cặp
thoại: cặp thoại mở thoại, cặp thoại thân thoại và cặp thoại kết thoại.
Trên cơ sở tìm hiểu một số cuộc thoại mua bán ngày nay và thời bao
cấp, Nguyễn Thị Đan (1994) đã chỉ ra đặc điểm, cấu trúc và chức
năng của ba phần: đoạn mở thoại, đoạn thân thoại và đoạn kết thoại.
Theo tác giả, đoạn mở thoại thường có cấu trúc một cặp thoại làm
chức năng dẫn nhập, mở ra sự phát triển của toàn bộ cuộc thoại tiếp
theo. Đoạn kết thoại thường có cấu trúc một cặp thoại, thực hiện kết
quả cuối cùng của cuộc mua bán.
Năm 1995, Chu Thị Thanh Tâm đã nghiên cứu về Đề tài diễn
ngôn: sự cộng tác hội thoại để hình thành đề tài diễn ngôn và các
hành vi dẫn nhập đề tài diễn ngôn. Tác giả đã nghiên cứu các hành vi
được sử dụng trong cộng tác hội thoại để hình thành đề tài diễn ngôn.
Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của luận án mới chỉ giới hạn trong
phạm vi hội thoại giữa bạn bè. Tác giả Hà Thị Sơn (1997) lại quan
tâm đến đoạn dẫn nhập trong hội thoại mua bán hiện nay và rút ra kết

luận rằng: đoạn dẫn nhập do người bán thực hiện có số lượng nhiều
hơn đoạn dẫn nhập do người mua thực hiện; dẫn nhập do người mua
thực hiện thường có cấu trúc ngắn gọn hơn dẫn nhập do người bán
thực hiện.
Gần đây, Chu Thị Phong Lan (2009), nghiên cứu về “Hành vi
dẫn nhập trong phần mở đầu cuộc thoại mua bán trên cứ liệu ghi âm
tại các chợ và một số trung tâm mua sắm ở Hà Nội”… Từ khía cạnh
giới, Trần Thanh Vân (2010) trong bài “Người mua là nam và nữ sử
dụng hành động dẫn nhập cuộc thoại mua bán ở chợ Đồng Tháp” đã
thống kê hành động dẫn nhập của 1039 cuộc hội thoại mua bán, và
nêu lên sự khác biệt trong ứng xử ngôn ngữ của mỗi giới gắn với việc
lựa chọn các hành động ngôn ngữ dẫn nhập cuộc thoại mua bán.
Như vậy, có thể thấy, đã có khá nhiều nghiên cứu được thực
hiện xung quanh vấn đề hội thoại. Một số nghiên cứu của nước ngoài
đã giới thiệu một số phương pháp luyện cách MT và KT tiếng Anh.
Ở trong nước, vấn đề MT trong một số kiểu hội thoại tiếng Việt nhất
định cũng đã được đề cập tới, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở chỗ cho
6


rằng MT chỉ mang tính nghi thức. KT cũng dành được sự quan tâm
nghiên cứu MT hay dẫn nhập cuộc thoại. Nhìn chung, hiện chưa có
công trình nào trong nước dành riêng cho việc nghiên cứu MT và KT
tiếng Anh và tiếng Việt.
1.3. Tiểu kết
Chương này chúng tôi đã tổng quan tình hình nghiên cứu hội
thoại nói chung và MT, KT nói riêng ở trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Có thể thấy rằng, đã có khá nhiều nghiên cứu được thực hiện
xung quanh vấn đề hội thoại. Các học giả nước ngoài đã nghiên cứu
MT và KT thông qua phương pháp luyện tập cách MT và KT tiếng

Anh trên lớp học, một số khác lại tập trung nghiên cứu MT và KT
của những cuộc thoại qua điện thoại. Tình hình nghiên cứu về MT và
KT trong nước thường là những vấn đề mở đầu/dẫn nhập hay kết
thúc của những cuộc thoại mua bán, hội thoại lớp học, v.v. Điểm lại
các công trình nghiên cứu về MT và KT trong nước cũng như ngoài
nước, chúng tôi chưa thấy có một nghiên cứu nào được thực hiện từ
góc nhìn so sánh đối chiếu giữa hai ngôn ngữ. Luận án này hi vọng
sẽ là nghiên cứu lấp vào khoảng trống đó.
Chương 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1. Lí thuyết giao tiếp
2.1.1. Vai giao tiếp và quan hệ giao tiếp
2.1.1.1. Vai giao tiếp
Trong cuộc thoại, luôn có sự phân vai giao tiếp: vai người nói
(người phát), và vai người nghe (người nhận).
2.1.1.2. Quan hệ giao tiếp
Quan hệ giao tiếp có thể xét theo trục tung (cao-thấp), còn gọi là
trục quyền uy và trục hoành (thân-sơ), còn gọi là trục khoảng cách.
Hai trục này đều có sự chi phối trong quá trình giao tiếp, cả nội dung
lẫn hình thức diễn ngôn.
2.1.2. Lịch sự trong giao tiếp
Lịch sự là vấn đề ứng xử giữa người nói và người nghe, là một
trong những nhân tố quan trọng trong giao tiếp. Theo Yule (1991),
lịch sự là phương tiện dùng để chứng tỏ sự nhận thức được thể diện
của người khác. Do đó, lịch sự có thể được thực hiện trong những tình
7


huống có khoảng cách xã hội xa hay gần. Vũ Thị Thanh Hương (2000)
cho rằng lịch sự trong tiếng Việt bao gồm: lễ phép, tế nhị, đúng mực,

khéo léo. Theo Nguyễn Thiện Giáp, lịch sự như một chuẩn mực xã hội,
là phép xã giao.
2.2. Lí thuyết hội thoại
Có nhiều quan niệm, nhận định, cách diễn giải khác nhau về hội
thoại, tuy nhiên, luận án theo quan điểm của Nguyễn Thiện Giáp về
hội thoại, ông coi “Hội thoại là hành vi giao tiếp phổ biến nhất, căn
bản nhất của con người. Đó là giao tiếp hai chiều, có sự tương tác
qua lại giữa người nói và người nghe với sự luân phiên lượt lời”.
2.2.1. Cuộc thoại
Theo Nguyễn Thiện Giáp (2010), nói tới hội thoại, trước tiên
phải nói tới cuộc thoại. Cuộc thoại được xác định “là một lần trao
đổi, nói chuyện giữa cá nhân trong hoàn cảnh xã hội nào đó”. Mỗi
cuộc thoại luôn có mở thoại, thân thoại và kết thoại. Ranh giới của
cuộc thoại được đánh dấu bằng MT và KT. Và cũng theo tác giả,
“mỗi cuộc thoại có thể bao gồm nhiều chủ đề khác nhau, mỗi chủ đề
lại chứa các vấn đề, và tập hợp những lượt nói trao đổi về một vấn đề
lại làm thành một đoạn thoại”.
2.2.2. Đoạn thoại
Đơn vị nhỏ hơn cuộc thoại là đoạn thoại. Một cuộc thoại có thể
có nhiều đoạn thoại khác nhau, mỗi đoạn thoại là những chủ đề nhỏ,
phản ánh những nội dung nhất định nhằm làm sáng tỏ chủ đề lớn. Đỗ
Hữu Châu định nghĩa: “đoạn thoại là một mảng diễn ngôn do một số
cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với nhau về mặt ngữ nghĩa hoặc về ngữ
dụng”. Nguyễn Đức Dân định nghĩa đoạn thoại là “tập hợp các lượt
lời trao đổi về một vấn đề”.
2.2.3. Cặp thoại
Cặp thoại hay cặp trao đáp được Nguyễn Thiện Giáp gọi là cặp
kế cận. Trong hệ thống cấu trúc hội thoại, cặp kế cận là đơn vị song
thoại nhỏ nhất, “có quan hệ trực tiếp với nhau”. Đây là đơn vị lưỡng
thoại tối thiểu, tuy nhiên chưa phải là đơn vị cuối cùng. Một đoạn

thoại có thể bao gồm nhiều cặp kế cận khác nhau. Một số ví dụ của
cặp kế cận như là hỏi - trả lời, lời mời - lời chấp thuận, lời chào - lời
chào, khen - tiếp nhận lời khen, ra lệnh/yêu cầu-tuân lệnh/ đáp ứng.

8


2.2.4. Lượt nói
Nguyễn Thiện Giáp quan niệm lượt nói là “Chuỗi đơn vị ngôn
ngữ được một nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt đầu cho đến lúc
chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của mình”.
2.2.5. Bước thoại
Bước thoại “do một người nói ra có thể là một lượt nói mà cũng
có thể là một bộ phận của lượt nói”. Xét về mặt cấu trúc hội thoại,
bước thoại là đơn vị nhỏ nhất.
2.2.6. Ngữ cảnh
Có thể hiểu ngữ cảnh là bối cảnh phi ngôn ngữ trong đó ngôn
ngữ được sử dụng.
2.3. Lí thuyết hành động ngôn từ
2.3.1. Định nghĩa
Luận án áp dụng cách phân loại của Searle. để tiến hành phân
loại các hành động ngôn từ (HĐNT) trong MT và KT, theo đó
HĐNT được chia thành 5 nhóm lớn: (i) Tuyên bố (Declarations),
(ii) Tái hiện/ biểu kiến (Representatives), (iii) Bộc lộ/ biểu cảm
(Expressives), (iv) Điều khiển (Directives) và (v) Cam kết/ Ước
kết (Commissives).
2.3.2. Hành động ngôn từ trực tiếp và hành động ngôn từ gián tiếp
2.3.2.1. Hành động ngôn từ trực tiếp
Hành động ngôn từ trực tiếp (direct speech act) là hành động mà
người nghe có thể nhận diện ra đích tại lời nhờ vào các câu chữ biểu

thị chúng mà không cần phải suy ý, không cần dựa vào ngữ cảnh.
2.3.2.2. Hành động ngôn từ gián tiếp
Hành động ngôn từ gián tiếp (indirect speech act) là hành vi tại
lời được thực hiện bằng cách sử dụng các phương tiện biểu đạt của
HĐNT này để đạt tới hiệu lực tại lời của một HĐNT khác.
2.4. Lí thuyết dụng học tương phản
Vượt qua phạm vi nghiên cứu của ngôn ngữ học tương phản
truyền thống khi so sánh đối chiếu về ngữ âm học và cú pháp học,
ngữ dụng học đã mở rộng phạm vi nghiên cứu sang dụng học xuyên
văn hóa (Cross-cultural Pragmatics). Những nghiên cứu mang tính
chất xuyên văn hóa luôn liên đới tới hai ngôn ngữ, đồng thời hai nền
văn hóa. Ngôn ngữ có thể tồn tại ở dạng tĩnh (hệ thống cấu trúc) hay
dạng động (HĐNT trong hành chức, trong hoạt động) sẽ bị chế định
bởi thuộc tính của ngôn ngữ và văn hóa.
9


2.5. Tiểu kết
Chương 2 chúng tôi đã hệ thống hóa lại các cơ sở lí thuyết hội
thoại và lí thuyết dụng học, đặc biệt là lí thuyết hành động ngôn từ
và lí thuyết dụng học tương phản. Luận án dựa trên cách phân loại
về hành động ngôn từ của Searle (1969) để làm cơ sở cho việc phân
nhóm các HĐNT của MT và KT. Ngoài ra, hệ thống các khái niệm
công cụ được sử dụng trong luận án là theo quan điểm của Nguyễn
Thiện Giáp, chẳng hạn: khái niệm cuộc thoại, khái niệm hành động
ngôn tác, hành động ngôn tạo, hành động ngôn trung, lượt nói,
bước thoại, v.v. Nhìn chung, các khái niệm cơ bản và những lí
thuyết có liên quan đến hội thoại được đưa ra để dẫn dắt luận án giải
quyết các vấn đề về MT và KT ở các chương sau.
Để làm rõ những điểm giống và khác nhau trong MT và KT

tiếng Anh và tiếng Việt, đề tài lấy đối tượng nghiên cứu là MT và KT
của những cuộc thoại xuất hiện trong một số tác phẩm văn học và điện
ảnh tiếng Anh và tiếng Việt. Việc áp dụng lí thuyết phân tích hội thoại
để tìm ra những đặc trưng của MT và KT tiếng Anh và tiếng Việt hi
vọng sẽ soi sáng thêm cho lí thuyết hội thoại.
Chương 3
MỞ THOẠI TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
3.1. Tiêu chí nhận diện mở thoại
Luận án dựa trên nền tảng lí thuyết về 4 loại cặp kế cận nghi
thức liên quan đến bắt đầu cuộc thoại của Schegloff (1979) để triển
khai, theo đó những yếu tố chức năng có trong MT gồm những yếu tố
sau đây: 1. Hô gọi/ hồi đáp (Summon/ Response); 2. Nhận diện/ xác
nhận (Identification/ Recognition; 3. Chào (Greeting); 4. Hỏi thăm
(Inquiry); 5. Đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại (Direct mention of
conversation issue).
3.2. Những yếu tố chức năng trong mở thoại tiếng Anh và tiếng Việt
3.2.1. Những yếu tố chức năng trong mở thoại tiếng Anh
Khảo sát 387 cuộc thoại tiếng Anh, thấy xuất hiện cả 5 cách
mở đầu hội thoại, trong đó yếu tố Đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại
và Chào có tỉ lệ sử dụng cao nhất (55% và 54,5%), tiếp theo đến yếu
tố Hô gọi/ hồi đáp và Nhận diện/ xác nhận (50% và 37%), và Hỏi
10


thăm có tỉ lệ thấp nhất, 32,8%. Năm yếu tố chức năng ở MT có thể
xuất hiện trong những kiểu kết hợp như: Hô gọi/ hồi đáp + đề cập
trực tiếp vấn đề cuộc thoại, Hô gọi/hồi đáp + nhận diện/ xác nhận +
đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại, Chào + đề cập trực tiếp vấn đề
cuộc thoại, Chào + hỏi thăm; v.v. Ví dụ mở thoại tiếng Anh (MTTA)
có chuỗi Hô gọi + đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại:

“Wood! I've found you a Seeker.” (Wood, cô đã phát hiện ra
một Tầm thủ.)
Wood’s expression changed from puzzlement to delight. (Vẻ
mặt đang bối rối của Wood bỗng trở nên rạng rỡ.)
“Are you serious, Professor?” (Thiệt hả cô?)
(Harry Potter and the Sorcerer's Stone, tr.73)
3.2.2. Những yếu tố chức năng trong mở thoại tiếng Việt
Trong 348 cuộc thoại tiếng Việt được khảo sát, cũng có sự tham
gia của cả 5 cách mở đầu hội thoại. Nhận diện/ xác nhận và Chào là
hai yếu tố xuất hiện nhiều hơn cả (51,1% và 50,5%), tiếp đến là yếu
tố Hô gọi/ hồi đáp (48,8%), và cuối cùng là Hỏi thăm và Đề cập trực
tiếp vấn đề cuộc thoại, (34,2% và 29,9%). Các yếu tố chức năng kết
hợp với nhau tạo thành chuỗi MT: Hô gọi/ hồi đáp + nhận diện + hỏi
thăm; Hô gọi/ hồi đáp + chào + hỏi thăm; Hô gọi/ hồi đáp + đề cập
trực tiếp; Chào + đề cập trực tiếp; Chào + nhận diện + hỏi thăm;
Nhận diện + hỏi thăm + đề cập trực tiếp; Chào + hỏi thăm. Ví dụ
mở thoại tiếng Việt (MTTV) có chuỗi Hô gọi/ hồi đáp + nhận diện/
xác nhận:
Cán bộ (luýnh quýnh): Chị ơi, đây phải nhà anh Nên không chị?
Chị Năm: Dạ phải, có chuyện chi không anh?
(Lòng dân, tr.47-48)
3.3. Những biểu thức ngôn ngữ và hành động ngôn từ ở mở thoại
tiếng Anh và tiếng Việt
3.3.1. Những biểu thức ngôn ngữ ở mở thoại tiếng Anh và tiếng Việt
3.3.1.1. Những biểu thức ngôn ngữ ở mở thoại tiếng Anh
Với 387 cuộc thoại tiếng Anh, chúng tôi thống kê được 1646
lượt nói ở MT. Câu đơn được sử dụng chủ yếu (787 lần, chiếm
47,8%), tiếp đến câu đặc biệt (209 lần, 12,7%), câu phức và câu ghép
được sử dụng không đáng kể (153 lần, 9,3% và 102 lần, 6,2%). Số
lượng MTTA có lượt nói gồm 1 câu xuất hiện tới 1251/1646 lần

(chiếm 76%); số lượng MTTA có lượt nói là một chuỗi câu xuất hiện
11


395/1646 lần (chiếm 24%), trong đó số lượt nói có 2 câu: 280/1646
lần (chiếm 17%); 3 câu: 82/1646 lần (chiếm 5%), 4 câu: 33/1646
(chiếm 2%).
3.3.1.2. Những biểu thức ngôn ngữ ở mở thoại tiếng Việt
Với 348 cuộc thoại tiếng Việt, chúng tôi thống kê được 1182
lượt nói ở MT. Cũng như trong tiếng Anh, câu đơn xuất hiện nhiều
nhất, 531 lần (chiếm 44.9%), tiếp đến là câu ghép,106 lần (chiếm
9%). Câu phức xuất hiện rất ít, 19 lần (chiếm 1,6%). Số lượng
MTTV có lượt nói gồm 1 câu chiếm số lượng nhiều nhất, 745 lượt
(chiếm 63%); tiếp đến là lượt nói gồm 2 câu, 302 lượt (chiếm
25,5%); sau đó là 82 lượt nói gồm 3 câu (chiếm 6,9%), 42 lượt nói
gồm 4 câu (chiếm 3,6%), và cuối cùng là 11 lượt nói gồm 5 câu
(chiếm 1%).
Xét về số lượng lượt nói trong MT của cả hai ngôn ngữ Anh
và Việt, cho thấy MTTA diễn ra dài hơn MTTV nhưng không
đáng kể, trung bình mỗi MTTA có 4,3 lượt nói (1646 lượt nói/387
cuộc thoại) và mỗi MTTV có 3,4 lượt nói (1182/348 cuộc thoại).
3.3.2. Những hành động ngôn từ ở mở thoại tiếng Anh và tiếng Việt
3.3.2.1. Những hành động ngôn từ ở mở thoại tiếng Anh
Trong 387 MTTA, có 1251 lượt nói chỉ gồm 1 HĐNT, và 395
lượt nói có từ 2 đến 4 HĐNT. Tổng số các HĐNT được lặp lại trong
MTTA là 2189 lần (trong đó có 1251 lần của những lượt nói chỉ gồm
một HĐNT và 938 lần của những lượt nói có từ 2 HĐNT trở lên),
chia thành 3 nhóm: nhóm điều khiển xuất hiện 1477/2189 lần; nhóm
biểu kiến xuất hiện 477/2189 lần; nhóm biểu cảm xuất hiện
235/2189 lần.

3.3.2.2. Những hành động ngôn từ ở mở thoại tiếng Việt
Trong 348 MTTV, có 745 lượt gồm 1 HĐNT, 437 lượt có từ 2
đến 5 HĐNT. Tổng số các HĐNT được lặp lại trong MTTV là 1818
lần (trong đó có 745 lần của những lượt nói chỉ gồm 1 HĐNT và
1073 lần của những lượt nói có từ 2 HĐNT trở lên), chia thành 3
nhóm: nhóm điều khiển xuất hiện 1487/1818 lần; nhóm biểu kiến
xuất hiện 1444/1818 lần; nhóm biểu cảm xuất hiện 187/1818 lần.
3.3.2.3. Hành động ngôn từ trực tiếp và gián tiếp trong mở thoại
tiếng Anh và tiếng Việt
Trong MTTA số lượng HĐNT trực tiếp xuất hiện 1784/2189 lần
(chiếm 81,5%); và số lượng HĐNT là gián tiếp xuất hiện 405/2189
12


lần (chiếm 18,5%). Các HĐNT gián tiếp dùng câu nghi vấn để chào
và dùng câu trần thuật để yêu cầu, ra lệnh cùng xuất hiện 93/405 lần
(chiếm 23%). HĐNT gián tiếp dùng câu nghi vấn để điều khiển (ra
lệnh, đề nghị) xuất hiện ít hơn, 63/405 lần (chiếm 15,5%). Các
HĐNT gián tiếp dùng câu cầu khiến để đánh giá, dùng câu cầu khiến
để thông báo và dùng câu cảm thán để chào nằm trong nhóm chiếm
tỉ lệ thấp nhất, tương ứng với 1,8% và 1,5%.
Trong MTTV số lượng HĐNT trực tiếp xuất hiện 1334/1818 lần
(chiếm 73,4%); và số lượng HĐNT là gián tiếp xuất hiện 484/1818
lần (chiếm 26,6%). HĐNT gián tiếp chủ yếu được sử dụng là: dùng
câu trần thuật để cầu khiến, chiếm 27,7% (134/484), dùng câu nghi
vấn để chào, chiếm 20,9% (101/484) và dùng câu trần thuật để hỏi.
Trong đó, HĐNT gián tiếp dùng câu trần thuật để cầu khiến có tỉ lệ
cao hơn cả, chiếm 27,7% (134/484), gần bằng số lượng đó là HĐNT
gián tiếp dùng câu nghi vấn để chào, chiếm 20,9% (101/484). Các
HĐNT dùng câu nghi vấn để đe dọa và dùng câu cảm thán để đe dọa

xuất hiện ít nhất, 2/484 lần (chiếm 0,4% tổng số HĐNT gián tiếp).
Như vậy, cả MTTA và MTTV đều sử dụng HĐNT trực tiếp
nhiều hơn HĐNT gián tiếp. Có một điểm khác biệt nhỏ giữa HĐNT
gián tiếp được sử dụng trong kết thoại tiếng Việt (KTTV) và (kết
thoại tiếng Anh) KTTA là tỉ lệ HĐNT gián tiếp trong tiếng Việt cao
hơn so với tiếng Anh (26,6% so với 18,5%).
3.4. Những nhân tố chi phối cách mở thoại tiếng Anh và tiếng Việt
Tổ chức của MT sẽ bị chi phối bởi những nhân tố như chủ đề
cuộc thoại, vai giao tiếp và ngữ cảnh giao tiếp.
3.4.1. Chủ đề cuộc thoại với mở thoại
Những chủ đề trong giao tiếp hàng ngày ít nhiều ảnh hưởng đến
cách thức mở thoại.
3.4.1.1. Các yếu tố chức năng được chọn trong mở thoại
Sự khác biệt về cách lựa chọn chuỗi MT cho thấy trong tiếng
Anh khi bắt đầu câu chuyện thường trực tiếp đi vào vấn đề, còn trong
tiếng Việt những câu chào xuất hiện ở đầu MT nhiều hơn. Kết quả
này cũng giống với những kết luận của những nghiên cứu đi trước
rằng người Việt hay nói vòng vo, còn người Anh thường đi thẳng vào
chủ đề chính cần nói.

13


3.4.1.2. Các kiểu biểu thức ngôn ngữ được chọn trong mở thoại
Những MTTA và MTTV có số lượt nói là 1 câu khi người tham
gia muốn vào đề đơn giản, ngắn gọn. Trong trường hợp khẩn thiết,
thì MT thường ngắn, và đi luôn vào mục đích cuộc thoại. Những MT
gồm nhiều câu thường là được dùng để diễn giải hoặc bày tỏ một sự
tình nào đó.
3.4.1.3. Các hành động ngôn từ được chọn trong mở thoại

Có một điểm chung trong MT tiếng Anh và tiếng Việt, đó là
hành động hỏi, hành động cầu khiến và hành động chào được sử
dụng với tần số cao. HĐNT trực tiếp luôn được sử dụng nhiều hơn
HĐNT gián tiếp ở cả hai ngôn ngữ Anh và Việt.
3.4.2. Vai giao tiếp với mở thoại
Vai giao tiếp, chủ thể giao tiếp quy định đến việc lựa chọn các
yếu tố chức năng mở thoại, biểu thức mở thoại, và HĐNT. Người nói
có vai giao tiếp thấp hơn người nghe, có khoảng cách về quan hệ,
thường có xu hướng lựa chọn chiến lược MT lịch sự, một trong
những chiến lược đó là sử dụng hành động gián tiếp.
3.4.3. Ngữ cảnh với mở thoại
Các khung cảnh góp phần quyết định đến các vai giao tiếp.
Trong khung cảnh trịnh trọng, hay không bị thúc ép về thời gian,
người giao tiếp có xu hướng sử dụng các biểu thức ngôn ngữ như câu
phức, câu ghép nhiều hơn. Đồng thời họ có điều kiện để sử dụng
nhiều yếu tố chức năng trong MT hơn. Còn khi tình huống đã quá
gấp gáp, như khung cảnh chiến tranh, chiến đấu, xung đột, v.v thì các
câu đơn mang thông tin cốt yếu được sử dụng nhiều, các kính ngữ
biểu thị lịch sự bị giảm thiểu đến mức tối đa.
3.4.4. Đặc trưng văn hóa dân tộc với mở thoại
Trên cơ sở miêu tả và phân tích các HĐNT trong MT tiếng
Anh và tiếng Việt, chúng tôi thấy hành động chào là có sự khác biệt
rõ nét nhất giữa hai nền văn hóa Anh và Việt. Đối với MTTV, vai
giao tiếp sẽ quy định việc lựa chọn từ xưng hô (theo giới tính, quan
hệ, tuổi tác, quan hệ thân sơ) trong phát ngôn chào: chào anh/chị,
chào ông/bà, v.v.; trong khi đó ở MTTA đơn giản và quy chuẩn hơn,
hầu hết các lời chào đều có thể dùng chung cho mọi đối tượng giao
tiếp: Hi, Hello, Good morning, Good afternoon, v.v. Và những kiểu
chào như: Hi, how have you been? rất phổ biến, có thể xuất hiện
trong mọi hoàn cảnh giao tiếp. Tuy nhiên, những câu tương tự như

14


thế này trong MTTV thường xuất hiện những hoàn cảnh giao tiếp mà
những người tham gia giao tiếp có mối quan hệ gần gũi, thân thiết
với nhau. Trong tiếng Việt, có những hành động chào không có động
từ ngữ vi chào như: Bác đi đâu đấy ạ? Đi làm về đấy à? Dạo này bận
bịu ghê! v.v. thường được người Việt sử dụng trong những hoàn cảnh
giao tiếp thân mật. Ngược lại, trong tiếng Anh những hành động chào
này sẽ khiến người nghe lúng túng vì họ cho rằng những câu hỏi đó
không phù hợp và có vẻ xâm phạm đời tư.
3.5. Tiểu kết
Trên cơ sở nhận diện MT của Schegloff (1968) và dựa vào thực
tế tư liệu, luận án đã xác định được 5 yếu tố chức năng trong MTTV
và MTTA: hô gọi/ hồi đáp, nhận diện/ xác nhận, chào, hỏi thăm và
đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại. Các yếu tố chức năng này có thể
kết hợp với nhau để cùng tồn tại trong MTTV và MTTA. Các chuỗi
chức năng thường xuất hiện trong MTTA: Chào + hỏi thăm, Hô gọi/
hồi đáp + nhận diện/ xác nhận + đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại,
Chào + đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại, Hô gọi/ hồi đáp + đề cập
trực tiếp vấn đề cuộc thoại, v.v. Các chuỗi chức năng thường xuất
hiện trong MTTV: Hô gọi/ hồi đáp + chào, Nhận diện/ xác nhận +
chào, Chào + đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại, Chào + hỏi thăm,
Nhận diện/ xác nhận + hỏi thăm, v.v.
MTTA và MTTV đều có từ 2 đến 8 lượt nói, trong đó loại 2 lượt
nói ở MT chiếm số lượng nhiều nhất, tiếng Anh là 85/387 cuộc thoại,
tiếng Việt là 135/348 cuộc thoại. Biểu thức ngôn ngữ là câu đơn được
sử dụng chủ yếu trong cả MTTA và MTTV (47,8% và 44,9%), biểu
thức ngôn ngữ là câu phức được sử dụng không đáng kể ở MTTA và
MTTV (9,3% và 1,6%). Các nhóm HĐNT thường xuất hiện trong

MTTA và MTTV là: điều khiển, biểu kiến và biểu hiện, tuy nhiên
nhóm điều khiển lại được MTTV sử dụng nhiều hơn MTTA (81,8% so
với 67,5%).
MTTA sử dụng HĐNT trực tiếp nhiều hơn MTTV (81,8% so với
73,4%), điều này cũng có nghĩa là MTTV sử dụng nhiều HĐNT gián
tiếp hơn MTTA (26,6% so với 18,5%). MTTA thường dùng câu nghi
vấn đề chào, câu trần thuật để cầu khiến, câu nghi vấn đề nhận định,
v.v.; trong khi đó MTTV lại hay dùng câu trần thuật để cầu khiến, câu
nghi vấn để chào, câu trần thuật để hỏi, v.v.
15


Điểm khác biệt lớn giữa tiếng Việt và tiếng Anh là hành động
chào trong MT. Người Việt thường bắt đầu một cuộc thoại bằng cách
chào hỏi, thể hiện tình cảm “miếng trầu là đầu câu chuyện”, hay “lời
chào cao hơn mâm cỗ” nhằm tạo ấn tượng ban đầu cũng như dẫn dắt
vấn đề. Yếu tố lịch sự trong hành động chào của MTTV được thể
hiện qua đại từ xưng hô, qua ngữ khí từ ạ, và một số trợ từ xin, kính,
trân trọng, v.v. Trong khi đó, chỉ báo/yếu tố lịch sự trong MTTA
thường xuất hiện nhiều ở những câu cầu khiến: May I, Could I,
Should I, v.v, những từ Please. Một điểm chung cho cả MTTA và
MTTV là phần lớn các MT của cả hai ngôn ngữ này đều công thức
hóa, có tính chất đưa đẩy, ngoài chức năng mở ra một cuộc hội thoại,
còn có chức năng thương lượng hội thoại, đặc biệt có một nguyên tắc
chung là người mở thoại (Sp) thường tránh sự xúc phạm đến thể diện
của người nghe.
Chương bốn
KẾT THOẠI TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
4.1. Tiêu chí nhận diện kết thoại
Luận án dựa vào 4 yếu tố mà Serafin (1998) đã gợi ý để nhận diện

và phân tích KT cụ thể trong ngữ liệu của mình, đó là: 1. Tiền kết thoại
(Preclosing); 2. Giới thiệu chủ đề mới (New Topic); 3. Tóm tắt lại/ chốt
vấn đề (Recapitulation); 4. Kết thoại sau cùng (Final Closing).
4.2. Những yếu tố chức năng trong kết thoại tiếng Anh và tiếng Việt
4.2.1. Những yếu tố chức năng trong kết thoại tiếng Anh
Trong tổng số 387 KTTA, chúng tôi đã thống kê được cả 4 cách
kết thúc một cuộc thoại: kết thoại sau cùng (69,5%), Tiền kết thoại
(66,9%), Tóm tắt lại/ chốt vấn đề (62%) và Giới thiệu chủ đề mới
(24%). Một trong bốn yếu tố này có thể đồng xuất hiện trong 1 KTTA.
Bốn yếu tố chức năng ở KTTA có thể xuất hiện trong những kiểu kết
hợp sau: Tiền kết thoại + giới thiệu chủ đề mới, Tiền kết thoại + chốt
vấn đề, Tiền kết thoại + kết thoại sau cùng, Tiền kết thoại + chốt vấn
đề + kết thoại sau cùng, v.v., trong đó chuỗi Tiền kết thoại + kết thoại
sau cùng xuất hiện nhiều nhất.
4.2.2. Những yếu tố chức năng trong kết thoại tiếng Việt
Trong tổng số 348 KTTV, chúng tôi thống kê được: Tiền kết
thoại (75,8%), Kết thoại sau cùng (74,1%), Tóm tắt lại/ chốt vấn đề
16


(42,5%), Giới thiệu chủ đề mới (18,7%). Một trong bốn yếu tố này có
thể đồng xuất hiện trong 1 KTTV. Căn cứ vào tư liệu có được, chúng
tôi thấy trong KTTV thường xuất hiện những cách kết hợp sau: Tiền
kết thoại + kết thoại sau cùng, Tiền kết thoại + tóm tắt lại/ chốt vấn
đề + kết thoại sau cùng v.v., trong đó chuỗi Tiền kết thoại + kết thoại
sau cùng xuất hiện nhiều nhất. Ví dụ KTTV có chuỗi Tiền kết thoại
+ kết thoại sau cùng:
Lý: Chúc anh đi gặp nhiều may mắn!
Xe từ từ chuyển bánh.
Đăng: Mình đi nhé! Rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau. Lý nhìn theo

vẫy tay.
(Một ngày và một đời, tr.150)
4.3. Những biểu thức ngôn ngữ và hành động ngôn từ ở kết thoại
tiếng Anh và tiếng Việt
4.3.1. Những biểu thức ngôn ngữ ở kết thoại tiếng Anh và tiếng Việt
4.3.1.1. Những biểu thức ngôn ngữ ở kết thoại tiếng Anh
Với 387 cuộc thoại tiếng Anh, chúng tôi đã thống kê được
2590 lượt nói ở KT. Câu đơn, từ-câu (câu đặc biệt) xuất hiện với tần
số khá cao (694/2590 lần, chiếm 26,8% và 638/2590 lần, chiếm
24,6%). Câu phức xuất hiện không nhiều (140/2590 lần, chiếm
5,4%). Số lượng lượt nói trong KTTA là 1 câu: 1873/2590 lần (chiếm
72,3%), chuỗi câu: 616/2590 lần (chiếm 23,8%), im lặng: 101/2590
lần (chiếm 3,9%). Những lượt nói gồm 2 câu vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất
69,8% (430/616 lượt nói), 3 câu chiếm 13% (80/616 lượt nói), 4 câu
chiếm 14% (86/616 lượt nói), 5 câu chiếm tỉ lệ ít nhất 3,2% (20/616
lượt nói).
4.3.1.2. Những biểu thức ngôn ngữ ở kết thoại tiếng Việt
Với 348 cuộc thoại tiếng Việt, chúng tôi đã thống kê được 1124
lượt nói ở KT. Câu đơn được sử dụng chủ yếu (261 lần, chiếm 23,2%),
tiếp đến câu đặc biệt (152 lần, chiếm 13.5%), câu ghép (135 lần, chiếm
12%), sự im lặng và câu phức được sử dụng không đáng kể (24 lần,
chiếm 2,1% và 22 lần, chiếm 2%). Số lượng lượt nói trong KTTV chứa
1 câu xuất hiện tới 570/1251 lần (chiếm 50,7%), chuỗi câu: 530/1251 lần
(chiếm 47,2%), im lặng: 24/1124 lần (chiếm 2,1%). Những lượt nói gồm
2 câu xuất hiện nhiều hơn cả: 339/1124 lần (chiếm 30,2%), 3 câu:
149/1124 (chiếm 13,3%), và 4 câu: 42/1124 lần (chiếm 3,7%).
17


Xét về số lượng lượt nói trong KT của cả hai ngôn ngữ Anh và

Việt, cho thấy KT TA diễn ra dài hơn KTTV, trung bình mỗi KTTA
có 6,7 lượt nói (2590 lượt nói/387 cuộc thoại) và mỗi KTTV có 3,2
lượt nói (1124/348 cuộc thoại).
4.3.2. Những hành động ngôn từ ở kết thoại tiếng Anh và tiếng Việt
4.3.2.1. Những hành động ngôn từ ở kết thoại tiếng Anh
Trong 387 KTTA, các HĐNT được lặp lại là 3417 lần (trong đó
có 1873 lần của những lượt nói chỉ gồm một HĐNT và 1544 lần của
những lượt nói có từ 2 HĐNT trở lên), chia thành 4 nhóm: nhóm
điều khiển gồm những hành động như: hỏi, ra lệnh, yêu cầu, hô gọi,
đề nghị, nhắc nhở và mời, xuất hiện 1679/3417 lần (chiếm 49,1%);
nhóm biểu kiến xuất hiện 1243/3417 lần (chiếm 36.1%); nhóm biểu
cảm xuất hiện 461/3417 lần (chiếm 13,5%), và nhóm ước kết xuất
hiện 34/3417 lần (chiếm 1%).
4.3.2.2. Những hành động ngôn từ ở kết thoại tiếng Việt
Trong 387 KTTV, có 570 lượt nói chỉ gồm 1 HĐNT, và 530
lượt nói có từ 2 đến 4 HĐNT. Tổng số các HĐNT được lặp lại trong
KTTA là 1863 lần (trong đó có 570 lần của những lượt nói chỉ gồm 1
HĐNT và 1293 lần của những lượt nói có từ 2 HĐNT trở lên), chia
thành 4 nhóm: nhóm điều khiển xuất hiện 1122/1863 lần (chiếm
60,2%); nhóm biểu kiến xuất hiện 469/1863 lần (chiếm 25,2%);
nhóm biểu cảm xuất hiện 235/1863 lần (chiếm 12,6%), và nhóm ước
kết xuất hiện 37/1863 lần (chiếm 2%).
4.3.2.3. Hành động ngôn từ trực tiếp và gián tiếp trong kết thoại
tiếng Anh và tiếng Việt
HĐNT trực tiếp được sử dụng nhiều hơn HĐNT gián tiếp ở cả
KTTA và KTTV. Trong KTTA, HĐNT trực tiếp chiếm tỉ lệ chủ yếu,
90,6% (3095/3417); trong khi đó, số lượng HĐNT là gián tiếp chỉ
chiếm số lượng khiêm tốn, 322/3417 (chiếm 9,4%). HĐNT gián tiếp
dùng câu trần thuật để cầu khiến xuất hiện nhiều hơn cả, tiếp đến là
nhóm HĐNT gián tiếp dùng câu nghi vấn để cầu khiến và dùng câu

trần thuật để phê phán. HĐNT gián tiếp được sử dụng trong KTTV
với tỉ lệ cao hơn trong KTTA, 18,5% so với 9,4%.
4.4. Những nhân tố chi phối cách kết thoại tiếng Anh và tiếng Việt
4.4.1. Chủ đề cuộc thoại với kết thoại
Chủ đề cuộc thoại ảnh hưởng đến cuộc thoại thể hiện ở:
18


4.4.1.1. Các yếu tố chức năng được chọn trong kết thoại
Trong 4 yếu tố xuất hiện trong KT: tiền kết thoại, giới thiệu chủ đề
mới, tóm tắt lại/ chốt vấn đề, và kết thoại sau cùng, thì hai yếu tố chức
năng tiền kết thoại và kết thoại sau cùng gần như có mặt ở tất cả các
cuộc thoại (340/387 và 326/387 trong tiếng Anh; và 202/348 và 219/348
trong tiếng Việt). Do đó, trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, chuỗi Tiền kết
thoại + kết thoại sau cùng xuất hiện nhiều nhất, (128/387 và 201/348
cuộc thoại); sau đó có thể kể đến chuỗi Tiền kết thoại + giới thiệu chủ đề
mới và tiền kết thoại + tóm tắt lại/ chốt vấn đề.
Như vậy, ở KT, các yếu tố chức năng và các chuỗi kết hợp các yếu tố
chức năng được sử dụng khá giống nhau trong tiếng Anh và tiếng Việt.
4.4.1.2. Các kiểu biểu thức ngôn ngữ được chọn trong kết thoại
Trong KT tiếng Anh và tiếng Việt, chủ yếu xuất hiện những lượt
nói gồm 1 câu và 2 câu, thường xuất hiện ở những kết thoại sau cùng,
thường là những hành động chào tạm biệt. Những biểu thức ngôn
ngữ gồm 3 - 5 câu thường xuất hiện ở những lượt nói có chức năng
tiền kết thoại, chốt vấn đề hoặc giới thiệu chủ đề mới.
4.4.1.3. Các hành động ngôn từ được chọn trong kết thoại
Nếu như trong tiếng Anh, KT thường nghiêng về các HĐNT cầu
khiến, thông báo, trình bày thì trong tiếng Việt, KT lại xuất hiện các
HĐNT trình bày, cảm thán, giải thích, đánh giá. Với những chủ đề
mang tính nghiêm túc, quan trọng, các HĐNT có xu hướng được sử

dụng lặp lại, số lượng nhiều hơn, để đảm bảo sự thống nhất cao, tránh
sự nhầm lẫn thông tin.
4.4.2. Vai giao tiếp với kết thoại
Trong KTTA và KTTV, có những tình huống vai giao tiếp
chênh lệch như:
- Khi Sp ở vai giao tiếp thấp hơn H, Sp thường dùng các yếu tố KT
cũng như những HĐNT tương ứng tỏ ý chấp nhận, họ thường chọn
KT bẳng hành động im lặng, được ngầm hiểu đồng ý hoặc không
tán thành, hoặc sử dụng những HĐNT như: mời, cầu xin, v.v. Hiện
tượng này thể hiện trong tiếng Việt rõ ràng hơn tiếng Anh.
- Sp ở vai giao tiếp cao hơn H, chẳng hạn: giao tiếp giữa giám
đốc và nhân viên. Sp thường chủ động kết thúc cuộc thoại. Trong
những cuộc thoại như vậy, Sp thường sử dụng những HĐNT như:
yêu cầu, ra lệnh, đe dọa, nhắc nhở, dặn dò, v.v.
19


4.4.3. Thoại trường với kết thoại
Thoại trường có ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn cách
thức KT của người tham gia giao tiếp. Các cuộc thoại tiếng Anh và
tiếng Việt được chúng tôi thu thập thường diễn ra trong những thoại
trường chính như chiến tranh, sản xuất lao động, sinh hoạt thường
ngày, v.v. Trong những tình huống khẩn trương, nguy hiểm đến tính
mạng như khung cảnh chiến tranh, chiến đấu, xung đột, v.v. thì các
lượt nói trong KT cũng bị giảm bớt. Trong khung cảnh trịnh trọng,
hay không bị thúc ép về thời gian, người tham gia giao tiếp có xu
hướng sử dụng cách nói cầu kì xã giao hơn, các biểu thức ngôn ngữ
như câu phức, câu ghép nhiều hơn. Đồng thời họ có xu hướng sử
dụng nhiều lượt nói trong KT hơn.
4.4.4. Đặc trưng văn hóa dân tộc với kết thoại

Có thể nói rằng, trong KT tiếng Anh và tiếng Việt thể hiện khá
rõ những nét tương đồng và khác biệt. Trong KTTA, người nói
thường có những câu để chuẩn bị cho KT, đó là tiền kết thoại, sau đó
đến câu chào chia tay, chủ yếu với hình thức chúc. Khó có thể gặp
KT nào mà ngay lập tức kết thúc bằng Good bye, Bye bye, v.v., vì sẽ
là không lịch sự nếu dừng câu chuyện đột ngột mà không chuẩn bị
tâm lý cho đối tượng giao tiếp. Các câu chào tạm biệt như Good bye
cũng như những câu chúc Have a nice day, Good day, Nice weekend,
v.v. được sử dụng rất nhiều. Điều này hoàn toàn khác với tiếng Việt,
khi kết thúc cuộc thoại thì ngoài hình thức chào còn hay sử dụng
nhóm hành động kết ước. Kết thoại sau cùng thường là những từ: Dạ,
Vâng, Được, Tôi sẽ…
4.5. Tiểu kết
Từ những miêu tả và phân tích ở trên, có thể kết luận như sau:
- Trên cơ sở nhận diện KT của Serafin (1998) và dựa vào thực
tế tư liệu, luận án đã xác định được 4 yếu tố chức năng trong KTTA
và KTTV: tiền kết thoại, giới thiệu chủ đề mới, tóm tắt lại/ chốt vấn
đề, và kết thoại sau cùng. Các yếu tố chức năng này có thể đồng tồn
tại với nhau trong KTTA và KTTV. Các chuỗi chức năng thường
xuất hiện trong KTTA: Tiền kết thoại + kết thoại sau cùng, Tiền kết
thoại + tóm tắt lại/chốt vấn đề + kết thoại sau cùng, Tóm tắt lại/ chốt
vấn đề + kết thoại sau cùng, v.v. Các chuỗi chức năng thường xuất
hiện trong KTTV: Tiền kết thoại + tóm tắt lại/chốt vấn đề + kết thoại
20


sau cùng, Tiền kết thoại + kết thoại sau cùng, Tiền kết thoại + tóm
tắt lại/chốt vấn đề, Tóm tắt lại/ chốt vấn đề + kết thoại sau cùng, v.v.
- KTTA có từ 2 đến 10 lượt nói, trong đó loại KT có 8 lượt nói
chiếm số lượng nhiều nhất, 101/387 cuộc thoại. KTTV có từ 2 đến 8

lượt nói, trong đó KT có số lượng 2 lượt nói chiếm số lượng nhiều
hơn cả, 182/348 cuộc thoại. Biểu thức ngôn ngữ là câu đơn được sử
dụng chủ yếu trong cả KTTA và KTTV (26,8% và 23,2%), biểu thức
ngôn ngữ là câu phức được sử dụng rất ít ở KTTA và KTTV (5,4%
và 2%). Các nhóm HĐNT thường xuất hiện trong KTTA và KTTV
là: điều khiển, biểu kiến, biểu cảm và ước kết, nhóm điều khiển được
KTTV sử dụng nhiều hơn MTTA (60,2% so với 49,1%).
- KTTA sử dụng HĐNT trực tiếp nhiều hơn KTTV (90,6% so
với 81,5%), điều này cũng có nghĩa là KTTV sử dụng nhiều HĐNT
gián tiếp hơn KTTA (18,5% so với 9,4%). Cả tiếng Anh và tiếng Việt
đều thường dùng câu trần thuật để cầu khiến, câu nghi vấn để cầu khiến,
câu trần thuật để phê phán, v.v. trong KT.
Dựa trên ngữ liệu đã thu thập được, chúng tôi cũng đã miêu tả
các HĐNT trong KT tiếng Anh và tiếng Việt, và thấy rằng vai giao
tiếp có ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng các HĐNT. Ở cả tiếng Anh
và tiếng Việt đều có sự tương đồng về việc sử dụng HĐNT, nếu vai
giao tiếp của Sp cao hơn H thì các HĐNT thường được sử dụng là
các HĐNT thuộc nhóm điều khiển (bao gồm các HĐNT như: yêu
cầu, ra lệnh, nhắc nhở…); nếu vai giao tiếp của Sp thấp hơn H thì
các HĐNT thường được sử dụng là các HĐNT thuộc nhóm biểu
kiến (bao gồm các HĐNT: khẳng định, chấp nhận, trình bày/ bày
tỏ, giải thích, v.v.).
Quan hệ liên nhân có được thể hiện rõ rệt trong KTTV, điều
này nghĩa là khi mà khoảng cách xã hội càng lớn và chênh lệch
tuổi tác càng nhiều thì mức độ lịch sự càng tăng. Điều này được
thể hiện qua việc sử dụng các từ xưng hô (thầy-trò, cha/mẹ-con,
ông/bà-cháu, v.v.), các hô ngữ (thưa, báo, bẩm,…).
Một khác biệt nữa chúng tôi thấy trong KT của hai ngôn ngữ là
hành động chào tạm biệt. Trong KTTA, các từ biểu thị sự lạc quan,
vui vẻ, khen ngợi, v.v. thường xuất hiện ở lượt nói kết thoại sau cùng

thay cho lời chào tạm biệt: “Great” (Tuyệt vời), “You are a very
charming young lady” (Cô thật là một cô gái tuyệt vời), “Lovely”
21


(Tuyệt lắm). Các hành động hỏi ở KT của tiếng Anh và tiếng Việt có
rất nhiều HĐNT là gián tiếp.
KẾT LUẬN
So sánh đối chiếu mở thoại và kết thoại giữa hai ngôn ngữ
(tiếng Anh và tiếng Việt) vốn có nguồn gốc văn hóa Đông Tây khác
nhau sẽ mang lại những chứng cứ và góp phần đưa ra những đặc
trưng ngôn ngữ của từng dân tộc.
Luận án đã phân tích các yếu tố chức năng trong mở thoại và kết
thoại của tiếng Anh và tiếng Việt. Tùy vào mục đích giao tiếp mà
cuộc hội thoại có cách thức tổ chức mở thoại và kết thoại khác nhau.
Kết quả nghiên cứu mở thoại và kết thoại từ những tác phẩm văn học,
tiểu thuyết và kịch bản phim truyền hình của tiếng Anh và tiếng Việt
cho thấy kết quả như sau:
1. Có sự tương đồng giữa hai nền văn hóa, đó là cả 5 yếu tố chức
năng ở mở thoại và 4 yếu tố chức năng ở kết thoại đều xuất hiện
trong tiếng Anh và tiếng Việt. Yếu tố tiền kết thoại và kết thoại sau
cùng thường xuất hiện cùng nhau trong kết thoại tiếng Anh và tiếng
Việt. Tuy nhiên, có một sự khác biệt là sự xuất hiện của các chuỗi kết
hợp các yếu tố chức năng, trật tự của những chuỗi đó không giống
nhau ở tiếng Anh và tiếng Việt, chuỗi hỏi thăm + đề cập mục đích
cuộc thoại dường như là công thức chính trong mở thoại tiếng Anh;
trong khi đó chuỗi chào + hỏi thăm lại là công thức chính trong mở
thoại tiếng Việt. Nhìn chung, tư liệu của chúng tôi cho thấy, cả tiếng
Anh và tiếng Việt đều thể hiện khá tập trung khuôn mẫu/ công thức
mở thoại. Phần lớn các mở thoại tiếng Anh và tiếng Việt đều công

thức hóa, mang tính chất đưa đẩy. Ngoài chức năng dẫn nhập, mở
thoại còn “manh nha” tiến hành cuộc thương lượng hội thoại về đề
tài diễn ngôn, thăm dò đối phương để bắt đầu nội dung của cuộc
thoại. Điểm chung trong mở thoại của cả hai ngôn ngữ tiếng Anh và
tiếng Việt là đều có “hòa khí”, người nói luôn cố gắng tránh xúc
phạm đến thể diện của người nghe.
2. Có sự tương đồng về chất liệu và hình thức ngôn ngữ thể hiện
trong mở thoại và kết thoại. Những lượt nói phổ biến được sử dụng
trong cả tiếng Anh và tiếng Việt đều là những lượt nói gồm 1 câu, sau
đó là loại 2 câu, 3 câu, 4 câu, và 5 câu. Từ-câu (câu đặc biệt) và câu
22


×