Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Cách mạng khoa học tác động đến quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.33 KB, 24 trang )

Mở đầu
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử phát triển của mình, nhân loại đã chứng kiến các
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đặc biệt, từ giữa thập
kỷ 50 của thế kỷ XX đến nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghệ đã tạo ra những biến đổi to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế xã hội. Đối với Việt Nam, một đất nước đang trên đà phát triển, nền
kinh tế và chính trị không thể đứng biệt lập tách rời khỏi ảnh hưởng của
khoa học công nghệ. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang
từng bước tiến hành đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị để hội nhập thế
giới một cách sâu rộng hơn thì cuộc cách mạng khoa học công nghệ sẽ
có những ảnh hưởng sâu sắc hơn bao giờ hết. Thực tế đã cho thấy, cho dù
các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ là sản phẩm của toàn nhân
loại nhưng quốc gia nào biết tranh thủ, biết tận dụng các thành tựu đó và
có chính sách quản lý hoạt động khoa học công nghệ tốt thì quốc gia đó
sẽ phát triển nhanh chóng hơn. Ngược lại, quốc gia nào chậm trễ trong
việc nắm bắt và quản lý khoa học và công nghệ thì quốc gia đó sẽ chậm
phát triển, trở nên lạc hậu và phải chịu thua thiệt. Như vậy chính sách
phát triển khoa học công nghệ có thể trở thành đòn bẩy nhưng chúng có
thể trơ thành rào cản cho sự phát triển kinh tế rồi từ đó tác động trở lại
chính trị . Sự đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cũng sẽ không nằm
ngoài quy trình ấy. Chính vì vậy, trong bài tiểu luận môn Chính trị học
của mình, tôi muốn đề cập đến vấn đề: “ Cách mạng khoa học tác động
đến quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta”. Nếu
chúng ta nắm được những tác động của cuộc cách mạng khoa học và

1


công nghệ đến mối quan hệ giữa đỏi mới kinh tế và đổi mới chính trị thì
sẽ có được những chính sách phát triển khoa học công nghệ một cách


hợp lý, giảm thiểu những tác động tiêu cực, để khoa học và công nghệ
trở thành tư liệu sản xuất thúc đẩy kinh tế phát triển và giữ cho chính trị
nước nhà ổn định.
2.Mục tiêu nghiên cứu
Đây là một vấn đề đã được nghiên cứu tìm hiểu nhiều. nên mục
đích của tôi khi đề cập đế vấn đề này không nằm ngoài việc trình bày
những nhận thức mang tính chất cá nhân của mình về đề tài nghiên cứu,
sau khi đã được nghe thuyết trình một số nội dung cơ bản trong khuôn
khổ môn Chính trị học nâng cao. Trong đó, điều then chốt nhất là nắm
được những tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đến
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta để từ đó
nêu ra những kiến nghị về những chính sách phát triển khoa học công
nghệ một cách hợp lý, giảm thiểu những tác động tiêu cực, để khoa học
và công nghệ trở thành động lực thúc đẩy kinh tế phát triển và giữ cho
chính trị nước nhà ổn định.
3.Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục TLTK, tiểu luận này có
kết cấu gồm 2 chương và 6 tiết

2


Chương 1
Quan niệm về khoa học công nghệ
và đổi mới kinh tế - đổi mới chính trị
1.1. Khái niệm về khoa học công nghệ
Nhân loại đã tiến vào thiên niên kỷ thứ ba. Nhìn chung, kinh tế
thế giới tuy có những thăng trầm nhưng đều tăng đáng kể. Số lượng của
cải mà loài người sản xuất ra nhiều chưa từng có trên cơ sở lực lượng sản
xuất to lớn. Có được những kết quả đó chính là nhờ sự phát triển nhanh

và mạnh như vũ bão của khoa học và công nghệ. Chính vì vai trò to lớn
của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia,
cho nên trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng coi khoa học và công nghệ
cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu trong công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế, “vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con
người phát triển toàn diện” phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta về cơ
bản là nước công nghiệp phát triển. Để có thể thực hiện thắng lợi mục
tiêu đó, đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn đấu của tất cả các cấp, các ngành,
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Tuy nhiên, một vấn đề có tính
chất quan trọng về mặt phương pháp luận là phải hiểu khoa học là gì ?
Công nghệ là gì ? Thế nào là cách mạng khoa học kỹ thuật ? Thế nào là
cách mạng khoa học công nghệ? Sự giống và khác nhau của hai cuộc
cách mạng này…
1.1.1.

Khái niệm khoa học

Hiện nay, người ta đề cập đến khái niệm khoa học ở ba khía cạnh
sau:
3


+ Khoa học là hệ thống những hiểu biết hoặc tri thức của con
người về tự nhiên - xã hội - tư duy, nó tồn tại dưới dạng các lý thuyết,
định lý, quy luật, nguyên tắc, phạm trù, tiền đề.
+ Khoa học là một hình thái ý thức - xã hội thể hiện tồn tại xã hội
trong nội dung, mục đích và các chuẩn mực giá trị, các nguyên lý thế giới
quan trong triết học và bức tranh chung về thế giới.
+ Khoa học là một dạng hoạt động lao động của con người, nó ra
đời trong quá trình chinh phục giới tự nhiên và khoa học giúp nâng cao

hiệu quả hoạt động của con người. Đó là một hình thức hoạt động đặc
thù, là hoạt động nhận thức. Nó ra đời chỉ ở một giai đoạn phát triển nhất
định của lịch sử.
Từ ba khía cạnh trên, chúng ta có thể định nghĩa, khoa học là hệ
thống các kiến thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy dựa
trên những phương pháp được xác định để thu nhận kiến thức.
1.1.2. Khái niệm công nghệ
Công nghệ là hệ thống các phương tiện dùng để thực hiện quá
trình sản xuất, chế tạo sản phẩm và cung cấp dịch vụ cho xã hội và con
người. Hay nói cách khác, công nghệ là sự ứng dụng của khoa học để giải
quyết các vấn đề thực tiễn trong hoạt động của con người.
Công nghệ, theo nghĩa truyền thống được hiểu là tập hợp các
phương pháp, quy trình, kỹ năng, kỹ thuật, công cụ, phương tiện dùng để
biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Công nghệ bao gồm nhiều khâu
như : điều tra, nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất thử… đến các vấn đề
thông tin, tư vấn, đào tạo… tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm cuối
cùng. Công nghệ cũng chính là bản thân những thao tác khai thác, chế
tạo, vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, kiểm tra… đó đều là mỗi phần của
quá trình sản xuất chung nhằm vào một sản phẩm cuối cùng nhất định.
4


Công nghệ gồm bốn thành phần là kỹ thuật

con người H

(Humanware) thông tin ) và tổ chức quản lý O . Bốn thành này có tác
động qua lại với nhau và cùng thực hiện bất kỳ quá trình sản xuất và dịch
vụ nào.
1.1.3. Khái niệm cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng

khoa học công nghệ
Kỹ thuật thông thường được hiểu là toàn bộ các thiết bị, phương
tiện, máy móc và công cụ vật chất nằm trong tư liệu sản xuất để quản lý,
khai thác, bảo quản và chế tạo các sản phẩm dùng cho sản xuất và thỏa
mãn các nhu cầu của đời sống xã hội.
Hệ thống kỹ thuật của mỗi thời kỳ lịch sử quyết định lực lượng
sản xuất của thời kỳ đó và tính chất nền văn minh của xã hội đó. Trong
thời kỳ Cổ đại và Trung đại đó là nền văn minh nông nghiệp. Ở phương
Tây, từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX đó là văn minh công
nghiệp. Với hệ thống công nghệ đương đại, xã hội loài người tại các nước
khoa học và công nghệ phát triển đang chuyển sang một hình thái mới
được gọi một cách quy ước là xã hội hậu công nghiệp. Thực chất đó là xã
hội thông tin với vai trò chủ đạo của thông tin và trí tuệ. Để có được nền
văn minh đó trước tiên phải kể đến vai trò đáng kể của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật thế kỷ XX.
Cách mạng hiểu theo nghĩa thông thường nghĩa là thay cũ, đổi
mới với sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn cái cũ, ưu việt hơn cái cũ về
chất. Cách mạng khoa học kỹ thuật là một sự thay đổi kỹ thuật cũ bằng
một kỹ thuật mới, tiến bộ hơn kỹ thuật cũ từ đó làm cho năng suất lao
động tăng lên gấp nhiều lần so với kỹ thuật sản xuất trước đây.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật với nội dung cơ bản là thuyết
lượng tử và thuyết tương đối đã mở ra cho khoa học những chân trời mới,
5


bao la đi vào tầng sâu thẳm của cấu trúc vật chất, lao vào cái vô cùng tận
của vũ trụ, đi sâu tìm hiểu sự sống ở mức phân tử và cơ chế tư duy. Có
thể nói cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ra đời gắn liền với sự ra đời
của các phát minh trong các lĩnh vực khác nhau của khoa học kỹ thuật
như trong điều khiển học (điều khiển từ xa bằng công nghệ vô tuyến,

hồng ngoại…), di truyền học (phát minh ra cấu trúc xoắn kép AND mang
mã di truyền của sự sống năm 1953 của Watson và Crick), thiên văn học
(với thuyết BigBang về cấu trúc tiến hóa của vũ trụ, con người đặt chân
lên mặt trăng…), công nghệ sinh học…v.. v..
Từ những thành tựu khoa học kỹ thuật đầu thế kỷ XX tạo cơ sở
cho sự xuất hiện một hệ thống công nghệ mới, tạo ra một cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, đã đưa lại cho con người một sức mạnh phi
thường, có thể tạo ra những loại vật liệu có tính năng mong muốn, những
giống loài thực vật, động vật theo yêu cầu của con người, kể cả những
loài không có trong tự nhiên, có khả năng khám phá những nguồn năng
lượng khổng lỗ ẩn náu trong hạt nhân nguyên tử, không ngừng tạo ra
những kỷ lục mới trong việc chinh phục không gian và thời gian. Và hệ
thống công nghệ đó còn rất trẻ và rất sung sức, tiềm năng còn rất lớn, hứa
hẹn những thành tựu kỳ diệu hơn nữa trong thế kỷ XXI.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ là một giai đoạn phát
triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nó bắt đầu hình thành và
phát triển từ những năm 80, 90 của thế kỷ XX. Các thành tựu khoa học và
công nghệ kỳ diệu nhất của thế kỷ XX mà con người đạt được là: con
người bay vào vũ trụ, sử dụng năng lượng nguyên tử, công nghệ gen,
máy tính và mạng internet. Có thể nói rằng cách mạng khoa học công
nghệ và cách mạng khoa học kỹ thuật là hai khái niệm có gắn bó chặt chẽ
với nhau. Nhờ có sự phát triển của khoa học kỹ thuật tạo điều kiện cho sự
6


ra đời của công nghệ mới và từ đó lại thúc đẩy các ngành khoa học kỹ
thuật phát triển hơn nữa bởi khoa học công nghệ là sự ứng dụng của khoa
học kỹ thuật để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, trong hoạt động của
con người. Bản thân công nghệ đã chứa đựng trong nó thành phần kỹ
thuật; một trong bốn thành phần tạo nên công nghệ. Vì vậy khoa học kỹ

thuật phát triển sẽ làm cho khoa học con người phát triển theo.
1.2. Khái niệm về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực trọng yếu nhất của đời sống xã
hội. Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia,
các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà
nước..
Kinh tế là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một chế
độ xã hội, là tổng thể nên kinh tế quốc dân. Thực chất của kinh tế là lợi
ích kinh tế, hiệu quả kinh tế, sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cũng là những nội dung
quan trọng và nổi bật nhất trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam trong hơn
20 năm qua.
1.2.1. Khái niệm đổi mới kinh tế
Đổi mới kinh tế được hiểu là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp ,căn bản dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân và tâp thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý cuả nhà nước, dưới sự lãnh đạo của ĐCS
Việt Nam theo định hướng XHCN.

7


Thực chất của đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay là chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế chủ yếu là khép kín
sang nền kinh tế mở đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Ở Việt Nam, quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang KTTT định hướng XHCN có nhiều nét đặc thù, trong đó nổi

bật là đổi mới kinh tế để nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.2. Khái niệm đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị được hiểu là đổi mới tư duy chính trị về
CNXH, đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị
để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh, thực hiện tốt nền dân
chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế xã hội
dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam.
Thực chất của đổi mới chính trị. Ở Việt nam, đổi mới chính trị
không có nghĩa là thay đổi chế độ XHCN. Thực chất của đổi mới chính
trị là đổi mới tư duy chính trị về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam. Đổi mới cơ chế , chính sách mà hạt nhân cơ bản là giải quyết
hợp lý, hài hoà quan hệ lợi ích , đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận
hành của HTCT để xây dựng chế độ XHCN ngày càng lớn mạnh, thực
hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của

8


nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và phát
triển nền kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1.3. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Trước hết chúng ta phải thừa nhận rằng kính tế và chính trị là 2
bộ phận không thể tách rời, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau
1.3.1. Vai trò của kinh tế đối với chính trị
Hoạt động kinh tế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người.
Ở thuở sơ khai đó, thực chất kinh tế chính là hoạt động sản xuất, nói rõ
hơn là việc tìm kiếm thức ăn để nuôi sống bản thân con người. Cùng với
sự phát triển của công cụ lao động và việc sản xuất của con người từ bản

năng thành các hoạt động sản xuất có mục đích nhằm tạo ra nhiều của cải
hơn thì kinh tế ở đây mới dần đạt đến đúng nghĩa của nó. Do sản xuất ra
nhiều của cải dư thừa đã làm phát sinh quan hệ giai cấp. Mà quan hệ giai
cấp là biểu hiện đầu tiên của chính trị. Vậy có thể khẳng định, kinh tế có
trước chính trị.
Quy luật kinh tế khách quan đòi hỏi sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nghĩa là nếu lực
lượng sản xuất phát triển thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng biến
đổi để phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi trình
độ của lực lượng sản xuất phát triển đến một mức nào đó sẽ mâu thuẫn
với quan hệ sản xuất hiện có. Điều này đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản
xuất cũ, hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất,
thúc đẩy phương thức sản xuất mới ra đời. Điều này chỉ ra khi kinh tế
phát triển đến một mức nào đó thì sẽ gây ra mâu thuẫn với chính trị và
chính trị sẽ phải thay đổi để phù hợp với kinh tế. Như vậy kinh tế là
nguồn gốc dẫn đến những biến đổi chính trị.Ví dụ, chúng ta thấy rằng
9


sau năm 1986, chúng ta đổi mới nền kinh tế và cho ra đời nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần. Do yêu cầu khách quan của nền kinh tế này mà
nhà nước đã chấp nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân, hình thức sở hữu
mà trước kia không có. Hoặc khi gia nhập WTO, các công ty nhà nước
không được sự bảo hộ của nhà nước như trước kia nữa sẽ là một thách
thức lớn mà chính phủ ta phải chấp nhận. Chúng ta sẽ phải có những
chính sách để giải quyết các vấn đề này sinh từ thực tế này.
Tiềm năng kinh tế của một quốc gia làm tiền đề cho uy tín trong
nước và quan hệ quốc tế của chính quốc gia đó. Thật vậy, nếu không có
tiềm năng kinh tế thì chắc chắn tầm của quốc gia đó trong quan hệ quốc
tế sẽ khó có thể được nâng lên đáng kể.

Con người tham gia vào các hoạt động xã hội, dù là trực tiếp hay
gián tiếp thì cũng nhằm lợi ích kinh tế. Các lý do gây đảo lộn chính trị
cũng chính là từ kinh tế. Do đó mà ta thấy được động lực sâu xa nhất của
chính trị là do lợi ích kinh tế tạo ra. Có thể dẫn chứng ra đây cuộc chiến
Irac do Mỹ phát động với lý do chống khủng bố và lật đổ chính quyền
của tổng thống Saddam Hussein. Sau khi chính quyền Irac sụp đổ thì
chính phủ Mỹ chiếm ngay các mỏ dầu và khai thác thu lợi nhuận. Hay
gần Việt nam hơn là Thái Lan, đất nước này đang trong những ngày bất
ổn về chính trị. Mà những bất ổn ấy nảy sinh khi cựu Thủ tướng Thaksin
Sinwanatra bị lật đỏ vì các cáo buộc liên quan đến tham nhũng.
1.3.2. Vai trò của chính trị đối với kinh tế
Chính trị về thực chất là quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các
nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc trong quan hệ với quyền lực nhà nước.
Trong đó, trước hết và cơ bản nhất là quan hệ lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh
tế của từng chủ thể ấy chỉ được giải quyết bằng con đường sử dụng
quyền lực chính trị nói chung, quyền lực nhà nước nói riêng để tác động
10


vào các quá trình kinh tế xã hội làm cho nền kinh tế phát triển theo yêu
cầu của mình. Cho nên, việc giải quyết vấn đề quyền lực chính trị sẽ trực
tiếp tác động đến động lực của sự phát triển kinh tế. Vì vậy từ góc độ của
kinh tế, vấn đề chính trị thực chất cũng là vấn đề kinh tế.
Chính trị là tiền đề cho kinh tế vận động và phát triển, chính trị
có thể tiên đoán được kinh tế, vạch hướng phát triển kinh tế mà ta gọi là
tầm nhìn chiến lược để đưa ra các giải pháp hiện tại và tương lai để phát
triển kinh tế xã hội.. Điều này được thể hiện thông qua các quyết định
Đảng chính trị, của nhà nước
Mục tiêu và nhiệm vụ chính trị trong một số trường hợp chi phối
đời sống kinh tế. Do đó với tính độc lập tương đối, chính trị tác động trở

lại đối với kinh tế theo những chiều hướng khác nhau: thúc đẩy hoặc
kiềm hãm. Ta giải thích điều này dễ dàng thông qua quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi ấy,
quan hệ sản xuất sẽ tạo điều kiện, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất ( lạc hậu, lỗi thời hoặc vượt mức quá xa) sẽ kiềm hãm, cản trở
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ta cũng có thể giải thích rõ hơn dựa
trên sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng. Kiến
trúc thượng tầng bảo vệ, duy trì, củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh
ra nó; hoặc đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ cũng như kiến trúc thượng
tầng cũ. Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động
đến cơ sở hạ tầng dưới nhiều hình thức khác nhau. Bản thân các yếu tố,
các bộ phận của kiến trúc thượng tầng cũng tác động qua lại lẫn nhau. Sự
tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng theo hai hướng kìm hãm hoặc
11


phát triển cơ sở hạ tầng. Khi kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều
với các quy luật kinh tế khách quan, nó sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát
triển. Ngược lại, sẽ kiềm hãm sự phát triển. So sánh với tình hình chính
trị thế giới, thì bất cứ ở đâu chính trị ổn định sẽ kèm theo tăng trưởng
kinh tế, những nước bất ổn chính trị thì kinh tế khủng hoảng hay phát
triển chậm.
Tóm lại, quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan hệ cơ bản,
tồn tại khách quan trong đời sống xã hội của mọi chế độ xã hội có phân
chia giai cấp và được tổ chức thành nhà nước. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
được thể hiện cô đọng nhất trong quan hệ giữa kinh tế và chính trị, trong

đó kinh tế quy định nội dung, kết cấu của chính trị, ngược lại chính trị
định hướng cho quá trình phát triển kinh tế và điều chỉnh các quan hệ
kinh tế. Kinh tế phát triển là cơ sở bảo đảm chắc chắn cho ổn định chính
trị và sự ổn định chính trị là điều kiện để thúc đẩy kinh tế.
1.3.3. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
Việt Nam
Thực chất mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
là đổi mới quan hệ giữa thể chế KTTT định hướng XHCN và thể chế
chính trị. Định hướng XHCN là vấn đề chính trị ,là đảm bảo chính trị cho
sự vận hành và phát triển KTTT. Do vậy , đổi mới kinh tế phải đi liền với
đổi mới chính trị, nói cách khác, đổi mới kinh tế phải song hành, đồng
thời với đổi mới chính trị. Đổi mới thể chế kinh tế tạo môi trường và
động lực phát triển kinh tế, củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị.
Đến lượt nó, đổi mới chính trị , nhất là phương thức lãnh đạo của Đảng,
12


đổi mới thể chế nhà nước và luật pháp lại tạo ra cơ sở chính trị - pháp lý
cho sự phát triển kinh tế.
Nói cách khác, đổi mới kinh tế sẽ tạo nền tảng cơ sở vật chất cho
việc đảm bảo định hướng XHCN, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi
tiềm năng của các thành phần kinh tế, từ đó giải phóng và phát triển lực
lượng sản xuất theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của
khoa học và công nghệ. Hơn nữa , trong quá trình xây dựng CNXH sẽ
này sinh nhiều vấn đề xã hội chính trị mà chỉ có thể giải quyết trên cơ sở
đổi mới kinh tế.
Ngược lại, trong quá trình đổi mới kinh tế, sự đổi mới chính trị sẽ
giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản
lý của nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong qúa trình
đổi mới kinh tế, hạn chế những tiêu cực của KTTT, làm cho nền kinh tế

phát triển thực sự vì lợi ích của nhân dân. Phong trào cổ phần hoá doanh
nghiệp là một trong những biểu hiện rõ nhất tác động của đỏi mới chính
trị đối với đổi mới kinh tế.
Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là đòi hỏi tất yếu của Việt
Nam để phát triển. Đất nước ta phải gánh chịu những hậu quả nặng nề
của các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc rất tàn khốc và
kéo dài, kinh tế còn lạc hậu đời sống của nhân dân nhìn chung còn thấp,
Đảng ta đã xác định, phải tập trung phát triển kinh tế, xem phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trọng tâm. Tuy nhiên vấn đề phức tạp đặt ra cần giải quyết
ở đây là, phát triển kinh tế như thế nào? Đảng ta khẳng định, không thể
phát triển kinh tế bằng mọi giá mà phải chú ý đến các khía cạnh môi
trường sinh thái, khía cạnh xã hội. Vì vậy bảo vệ môi trường sinh thái,
13


xoá đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội … phải được
nhất quán trong từng chính sách phát triển, từng bước đi và trong suốt
quá trình phát huy dân chủ, giữ vững và tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
được xem vừa là động lực vừa là mục tiêu phát triển. Vì vậy cần phát
triển kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị Để đạt được
mục tiêu đó, ổn định chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng trở thành tiền
đề, điều kiện tiên quyết. Bởi nhờ nó, nguồn lực đất nước được tập trung
cao nhất cho phát triển và sự phát triển đạt được mục đích nhân văn chân
chính vì con người, cho con người, phân hoá, phân tầng xã hội, xung đột
giữa các nhóm lợi ích được kiểm soát …
Thực tiễn qua hơn 20 năm đổi mới đất nước đã cho thấy sự đúng
đắn của chủ trương trên đây của Đảng. Nhờ môi trường chính trị tiến bộ
và ổn định, nhờ môi trường xã hội cho phát triển thuận lợi mà nội lực đất

nước được khơi dậy và phát huy, ngoại lực được tiếp nhận hiệu quả, đầu
tư nước ngoài ngày càng tăng bởi theo đánh giá của nhiều tổ chức, Việt
Nam là điểm đến lý tưởng cho khách du lịch quốc tế, là địa điểm đầu tư
an toàn. Có thể khẳng định, sự ổn định chính trị, xã hội chính là tài sản
vô giá của Việt Nam .
Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững ổn
định chính trị, tạo lập môi trường xã hội thuận lợi để đẩy nhanh nhịp độ
phát triển của đất nước theo hướng bền vững. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X đã xác định mục tiêu và phương hướng tổng quát trong giai đoạn
2006-2010 là “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
huy động tất cả mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
14


nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng
cường quốc phòng và an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại”( )
Qua hơn 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, mặc dù tình hình
thế giới có nhiều biến đổi không thuận lợi, nhất là tác động tiêu cực của
cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ cuối năm 2008, song cách
mạng Việt Nam vẫn tiếp tục dành được nhiều thành tựu. Chúng ta tin
tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, cách mạng Việt Nam sẽ
dành được nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa, đưa đất nước phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững.
Để xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, thực sự là nhà
nước của dân, do dân và vì dân, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh thì bài toán về sự phù hợp giữa kinh tế và chính trị lại
được đặt ra đối với đất nước ta, mà sự giải quyết nó đang là cấp thiết,
dồng thời là một điêù kiện cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững
trong thế kỷ XXI.

15


Chương 2
Tác động của khoa học công nghệ đối với đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở Việt Nam
2.1. Vai trò của khoa học công nghệ đối với kinh tế -chính trị
Con người đã chứng kiến ít nhất hai cuộc cách mạng về khoa học
kỹ thuật . Lần thứ nhất là tại nước Anh hồi cuối thế kỷ XVIII với nội
dung chủ yếu là cơ khí hoá, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần 2 diễn ra vào
những năm 50 của thế kỷ XX. Và ngày nay chúng ta đang chuyển dần
sang cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Trong đó có
năm lĩnh vực then chốt nhất là công nghệ thông tin, công nghệ tự động
hoá, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ năng
lượng mới. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang mang lại
những biến đổi sâu sắc chưa từng có trong lịch sử loài người trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế , xã hôi. Khoa học công nghệ không
chỉ tác động vào sản xuất, vào kinh tế mà còn tác động vào chính trị, xã
hội, văn hoá, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, liên kết, hợp tác, hoà bình
hữu nghị đồng thời cũng tăng cường tính cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Trong điều kiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện
nay, hoạt động khoa học công nghệ chịu tác động của nhiều chính sách
kinh tế - xã hội nói chung. Và để xây dựng đất nước theo con đường
XHCN với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh thì không thể không nói đến vai trò quan trọng của khoa học
công nghệ .Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện
16


đại hoá, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
phát triển, mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Nước ta đang định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa , thì quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá tất yếu phải
được tiến hành bằng cách mạng khoa học công nghệ
2.2. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trước sự
phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
Cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra bước phát triển nhảy
vọt về chất của lực lượng sản xuất ở nước ta. Từ công cụ sản xuất đến tư
liệu lao động đều có những bước phát triển mới. Con người làm cách
mạng khoa học công nghệ nhưng chính cách mạng khoa học công nghệ
cũng đòi hỏi người lao động phải có, am hiểu rộng rãi nhiều lĩnh vực.
Lao động giải đơn, rập khuôn máy móc ngày càng thu hẹp lại, nhường
chỗ cho lao động có tri thức cao, tự chủ, sáng tạo, có khả năng đề xuất
sáng kiến, phát minh. Điều này là một thách thức không nhỏ đối với Việt
Nam bởi trước hết đại bộ phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy
đủ. Chúng ta còn thiếu nhiều lao động và cán bộ có tay nghề và trình độ
kỹ thuật, nghiệp vụ cao. Mặt bằng dân trí thấp là một rào cản lớn trong
công tác đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu của khoa học công nghệ ở
nước ta.
Trong nền kinh tế thị trường, những phát minh, sáng chế khoa
học công nghệ là những loại hàng hoá giá trị cao. Việc mua bản quyền
ứng dụng đôi khi vượt ra ngoài khả năng tài chính của chúng vì vậy chủ
động nghiên cứu sáng tạo là một trong những bước đi quan trong song
thực tế đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học của Việt Nam lại đang bị

thiếu rất nhiều không những thế lại đang ngày càng bị già hoá . Nếu
17


không được điều chỉnh kịp thời sẽ dẫn đến sự thiếu hụt đội ngũ làm công
tác khoa học kế cận.
Thực trạng nêu trên buộc chúng ta phải có chiến lược đào tạo
phát triển nguồn nhân lực có trình độ, đáp ứng đòi hỏi của thực tế.
Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ là chung của
toàn nhân loại song không phải quốc gia , dân tộc nào cũng có thể vận
dụng. Bởi lẽ việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật phải tuỳ thuộc
vào hoàn cảnh của mỗi nước. Việt Nam ta là một nước đang phát triển,
hạn chế cả về vốn và điều kiện cơ sở vật chất , do vậy chúng ta cần phải
cân nhắc trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật sao cho phù hợp với điểu
kiện chủ quan và khách quan của nước nhà. Song nếu chúng ta không kịp
thời xây dựng lại cơ sở vật chất kỹ thuật thì sẽ khó tạo nên sự phát triển
lớn cho nền kinh tế xã hội. Một vấn đề liên quan nữa là sự ứng dụng các
thành tựu khoa học công nghệ ở nước ta cũng chưa có sự cân đối giữa
các vùng miền nhất là giữa thành thị với khu vực nông thôn và vùng sâu
vùng xa. Ở những thành phố lớn, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học
được thuận lợi hơn những khu vực khác, từ đó sẽ dẫn đến hậu quả là gia
tăng khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn. Như đã nêu ở
trên, việc mua lại các phát mính sáng chế đôi khi rất tốn kém, nếu chúng
ta tự nghiên cứu được sẽ rất hiệu quả và tiết kiệm song trong thực tế việc
đầu tư cho nghiên cứu khoa học ở nước ta còn hạn chế nếu không nói là ở
mức thấp.

18



2.3. Quan điểm, giải pháp phát triển khoa học và công nghệ
cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam
Văn kiện Đại hội IX của Đảng ta đã nhấn mạnh: “ Khoa học và
công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin tiếp tục phát triển nhảy vọt, thúc
đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức và làm biến đổi sâu sắc các lĩnh
vực của đời sống xã hội ”.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp Hành Trung ương khoá VIII cũng
đã khẳng định: “ Cùng với giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện
cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội.”
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, mặc dầu thành tựu khoa học
và công nghệ là sản phẩm của toàn nhân loại nhưng nước nào biết tranh
thủ, lợi dụng và có chính sách đúng, quản lý tốt hoạt động khoa học công
nghệ thì nước đó càng chóng phát triển, nước nào chậm trễ trong việc
nắm bắt và quản lý khoa học và công nghệ thì nước đó chậm phát triển,
vẫn lạc hậu và bị thua thiệt. Do đó, trong điều kiện của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ mới hiện nay đòi hỏi tăng cường quản lý hoạt
động khoa học và công nghệ hơn bao giờ hết, để vừa phát huy tối đa, có
hiệu quả tiềm lực khoa học, công nghệ và kinh tế của đất nước, vừa tranh
thủ thành tựu khoa học công nghệ của thế giới để nâng cao trình độ khoa
học và công nghệ quốc gia. Làm được điều đó sẽ góp phần giải quyết
những vấn đề thực tiễn, nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của đất
nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN.

19


Để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
đòi hỏi phải phát triển khoa học và công nghệ có hiệu quả, trên cơ sở

nâng cao trình độ và chất lượng quản lý hoạt động khoa học công nghệ
với các yêu cầu sau:
Một là gắn hoạt động khoa học công nghệ với thực tiễn phát triển
kinh tế - xã hội, phục vụ cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
theo quan điểm : “Khoa học và công nghệ hướng vào việc nâng cao năng
suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng
hoá trên thị trường,xây dựng năng lực công nghệ quốc gia, ứng dụng một
cách sáng tạo những công nghệ nhập khẩu, từng bước tạo ra công nghệ
mới.
Hai là tạo điều kiện và động lực cho các ngành, địa phương,
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu và ứng
dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất đời sống. Trong đó
quan trọng nhất là tạo động lực và kích thích tinh thần lao động sáng tạo
của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.
Ba là đảm bảo sự phát triển khoa học và công nghệ và kinh tế xã hội bền vững, có hiệu quả, đặc biệt coi trọng bảo vệ môi trường sinh
thái.
Bốn là có cơ chế và chính sách phù hợp để phát huy tối đa nội
lực đi đôi với tranh thủ tiềm lực khoa học và công nghệ của thế giới trên
tinh thần hợp tác cùng có lợi , đặc biệt tranh thủ lực lượng khoa học và
công nghệ của người Việt nam ở nước ngoài hướng về phục vụ Tổ quốc.

20


Trải qua hơn nửa thế kỷ dưới chế độ mới, Đảng và nhà nước ta
đã rất quan tâm đến phát triển cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và
công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, đã có nhiều chính sách để phát
triển tiềm lực khoa học và công nghệ của Đất nước. Do đó, lực lượng
khoa học và công nghệ đã đóng góp to lớn vào công cuộc phát triển kinh
tế, văn hoá, an ninh quốc phòng.

Hoạt động khoa học và công nghệ đã góp phần đáng kể vào thắng
lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ hơn một thập kỷ qua,
trong đó quản lý hoạt động khoa học và công nghệ cũng có nhiều đổi mới
phù hợp với điều kiện của kinh tế thị trường.
Khoa học và công nghệ đã có bước phát triển mới phục vụ thiết
thực hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn đầu của quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước thì khoa học công nghệ của nước ta vẫn còn yếu kém và hạn
chế. Vì vậy, phải tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý để đưa
khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng và động lực của quá
trình phát triển đất nước. Do đó, việc tiếp tục đổi mới quản lý hoạt động
khoa học công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ có
hiệu quả, nhanh chóng nâng cao trình độ khoa học và công nghệ quốc gia
là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách.
Khoa học công nghệ là lĩnh vực hết sức rộng lớn, trong khi có đội
ngũ cán bộ khoa học công nghệ nước ta còn nhỏ bé, chất lượng thấp, khả
năng của đất nước ta về vốn liếng, phương tiện nghiên cứu… rất hạn hẹp.
Do đó, chúng ta không thể cùng một lúc đầu tư để phát triển tất cả các
21


lĩnh vực khoa học công nghệ, mà phải lựa chọn những lĩnh vực nhất định
để đầu tư. Nếu việc lựa chọn đúng sẽ tạo điều kiện cho khoa học công
nghệ phát triển và ngược lại, nếu việc lựa chọn không đúng thì không
những ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của khoa học công nghệ mà còn
ảnh hưởng không tốt đến công nghiệp hoá hiện đại hoá. Phương hướng
chung cho sự phát triển khoa học công nghệ nước ta là: Phát huy lợi thế
của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được trình độ công nghệ tiên
tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng

dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến nhiều hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri
thức. Ở đây chỉ có chính phủ mới có khả năng quyết định con đường đi
cho khoa học cũng như đầu tư hay kêu gọi đầu tư vốn từ nước ngoài. Bộ
máy chính trị nếu có tầm nhìn xa trông rộng thì sẽ tạo cho khoa học kinh
tế một bước tiến thần kỳ. Như vậy sẽ góp phần đầy nhanh tiến trình công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

KẾT LUẬN
22


Sự nghiệp đổi mới được tiến hành từ đổi mới tư duy đến hoạt
động thực tiễn, từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của
đời sống. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội, nhưng không làm
đồng loạt, dàn đều mà luôn có trọng tâm, trọng điểm theo một lộ trình
thích hợp, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ:
phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển
văn hóa là nền tảng. Trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới kinh tế đi trước một bước, từng
bước đổi mới hệ thống chính trị nhằm giữ vững ổn định chính trị, tập
trung mọi nguồn lực phấn đấu đưa Việt Nam vượt qua khủng hoảng để
phát triển. Để thực hiện mục tiêu đề ra chúng ta phải tiến hành công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công cuộc ấy chỉ có thể đến
đích bằng sự đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ. Khoa học công
nghệ mà được đầu tư thích đáng mà phát triển sẽ đẩy nhanh và tạo đà
cho kinh tế phát triển . Kinh tế phát triển sẽ giúp cho chính trị ổn định.
Từ đó sẽ đưa đất nước chúng ta phát triển lên ở một tầm cao hơn. Chúng
ta phát triển khoa học công nghệ, điều này là vô cùng cần thiết những
phải có sự suy xét và chọn lọc, phát triển khoa học, công nghệ nào, vào

thời điểm nào. Bởi chính sách phát triển khoa học công nghệ có thể trở
thành đòn bẩy nhưng chúng có thể trở thành rào cản cho sự phát triển
kinh tế , gây bất ổn chính trị. Những cuộc biểu tình bãi công mà công
đoàn ngành hàng không ở nhiều nước châu Âu liên tục tổ chức trong
thời gian vừa qua đã chứng minh điều này. Các hãng hàng không châu
Âu đã lên kế hoach phát triển hệ thống kiểm soát không lưu tự động. Hệ
thống này được chứng minh là năng suất hiệu quả và chính xác hơn. Thế
nhưng, các nhân viên lại lo lắng về nguy cơ mất việc nên đã bãi công
khiến nhiều chuyến bay bị huỷ bỏ. Hoạt động này rõ ràng gây thiệt hại
23


không nhỏ về kinh tế và tiềm ẩn nhiều bất ổn đối với chính trị, xã hội.
Như vậy, nếu chúng ta có được những đường lối, chính sách phát triển
khoa học công nghệ một cách hợp lý thì sẽ giảm thiểu những tác động
tiêu cực, để khoa học và công nghệ phát huy được tối đa sức mạnh thúc
đẩy kinh tế phát triển và giữ cho chính trị nước nhà ổn định.

24



×