Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TIỂU LUẬN tâm lý học NHỮNG vấn đề NHÓM lớn và ý NGHĨA đối với CÔNG tác QUẢN lý xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.32 KB, 21 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ NHÓM LỚN VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ XÃ HỘI
MỞ ĐẦU
Nhóm là một vấn đề cơ bản, quan trọng nhất trong nghiên cứu tâm lý học
xã hội bởi nhóm là khâu trung gian giữa xã hội và cá nhân, các cá nhân tạo thành
nhóm, các nhóm tạo thành xã hội, cá nhân tiến hành hoạt động thực tiễn mang
tính xã hội trong môi trường của nhóm.Những biểu hiện, diễn biến tâm lý xã hội
của con người được thực hiện trong nhóm xã hội.Tuy nhiên, trong lịch sử phát
triển của tâm lý học xã hội có thể thấy rằng trong nửa đầu thế kỉ thứ XX, Tâm lý
học xã hội thực nghiệm phát triển mạnh mẽ và sự tập trung chính lại là nghiên
cứu nhóm nhỏ. Vấn đề nhóm lớn chưa được quan tâm nghiên cứu với nguyên
nhân chủ yếu vì có sự suy yếu của mối quan tâm tới các nghiên cứu lý luận trong
Tâm lý học xã hội, cũng như vì tính phức tạp của việc nghiên cứu các nhóm lớn
bằng phương pháp thực nghiệm.
Trong những giai đoạn sau đó, vấn đề nhóm lớn mới được quan tâm nghiên
cứu bởi về bản chất, nếu Tâm lý học xã hội không có phần về tâm lý học nhóm
lớn thì nói chung không thể trở thành Tâm lý học xã hội theo đúng nghĩa của từ
này. Theo khẳng định của G.Điligenxki, việc xem xét tâm lý của nhóm lớn không
phải là một trong số các vấn đề của Tâm lý học xã hội mà là vấn đề quan trọng
nhất của nó.Trong phạm vi bài tiểu luận này xin được trình bày những vấn cơ bản
về nhóm lớn, từ đó rút ra ý nghĩa trong hoạt động quản lý xã hội.

1


1. Những vấn đề chungvề nhóm lớn
1.1. Quan niệm về nhóm lớn
Từ cách đặc vấn đề như trên, sau một thời gian các nhà tâm lý học xã hội
chỉ quan tâm nghiên cứu nhóm nhỏ thì dường như vấn đề nhóm lớn như là thứ
yếu trong tâm lý học xã hội. Do đó, sau khi bắt tay, quay trở lại nghiên cứu thì
hàng loạt các vấn đề được đặt liên quan đến nhóm lớn.


Trước tiên đó là vấn đề: những nhóm nào cần được xem là nhóm lớn?
Thứ hai, tâm lý của nhóm lớn có cấu trúc như thế nào?Các yếu tố cơ bản
và sự phụ thuộc lẫn nhau, tính chất mối liên hệ lẫn nhau giữa chúng ra sao?
Thứ ba là vấn đề về mối quan hệ lẫn nhau giữa tâm lý của các cá nhân
riêng lẻ tham gia vào nhóm và các yếu tố tâm lý nhóm.
Cuối cùng, thứ tư, những phương pháp nào có thể sử dụng trong việc
nghiên cứu tất cả các hiện tượng đó?
Giải quyết từng vấn đề trên có ý nghĩa hết sức quan trọng để thấy được vị
trí, vai trò của nhóm lớn trong tâm lý học xã hội.Vậy nhóm lớn xã hội là gì?xuất
phát từ những nguyên tắc chung trong cách hiểu về nhóm, tất nhiên không thể
đưa ra một định nghĩa đơn thuần về số lượng cho khái niệm này.Tuy nhiên, hiện
nay quan niệm về nhóm lớn chưa có sự thống nhất.
Quan niệm thứ nhất cho rằng nhóm lớn là một cộng đồng xã hội người
đông đảo, thống nhất theo một dấu hiệu nào đó: giai cấp, dân tộc, giới tính, lứa
tuổi…(Giáo trình TLHXH trong công tác lãnh đạo quản lý, Nxb GD 1993)
Quan niệm thứ hai nhóm lớn là những cộng đồng người hình thành trong
quá trình phát triển lịch sử xã hội, giữ một vị trí nhất định trong hệ thống các
quan hệ xã hội, ổn định, lâu dài.(Tâm lý học xã hội – Mấy vấn đề lý luận, Trần
Hiệp chủ biên: Nxb GD 1993).
Và quan niệm thứ ba được viết trong sách Tâm lý học xã hội, Đại học
Tổng hợp: nhóm lớn là một tập hợp đông người, liên kết với nhau, tạo ra những
2


giá trị, chuẩn mực, đặc điểm tâm lý chung.
Các quan niệm trên chủ yếu dựa vào cách tiếp cận vĩ mô, đã nhấn mạnh
đặc trưng quan trọng nhất của nhóm lớn về các dấu hiệu như: dâu hiệu định
lượng: đông người; dấu hiệu xã hội: ở giai cấp, dân tộc, giới tính,tính lịch sử
khách quan của sự hình thành, phát triển của nhóm; dấu hiệu tâm lý: các giá trị,
chuẩn mực và đặc điểm tâm lý chung của nhóm lớn và sự tác động của chúng

đến tâm lý, hành vi của các thành viên trong nhóm.
Hiện nay phần lớn các nhà tâm lý học cho rằng: nhóm lớn là những cộng
đồng người hình thành trong quá trình phát triển lịch sử xã hội, giữ một vị trí
quan trọng nhất định trong hệ thống các quan hệ xã hội, ổn định trong các thời
kỳ phát triển hoặc hình thành một cách ngẫu nhiên, tự phát và tồn tại trong một
thời gian ngắn.
Từ cách tiếp cận trênnhóm lớn được chia ra thành hai loại: loại thứ nhất là
các nhóm ngẫu nhiên và tự phát. Đó là các tập hợp tồn tại trong khoảng thời gian
tương đối ngắn như đám đông, thính giả, công chúng và loại thứ hai là các nhóm
xã hội - theo đúng nghĩa của từ này, tức là những nhóm hình thành trong tiến
trình xã hội lịch sử, chiếm một vị trí nhất định trong hệ thống các quan hệ xã hội
của mỗi kiểu xã hội cụ thể và do vậy tồn tại lâu dài và bền vững. Loại thứ hai
này bao gồm các nhóm như giai cấp xã hội, tầng lớp xã hội và các nhóm tộc
người (với hình thức chính là các dân tộc), các nhóm nghề nghiệp, nhóm giới
tính, lứa tuổi (theo quan điểm này với tư cách là nhóm có thể xem xét các nhóm
như: nhóm thanh niên, phụ nữ những người trưởng thành và trung niên...). Đây
là loại nhóm ổn định trong các thời kỳ phát triển lâu dài
Trở lại làm rõ vấn đề cơ bản thứ hai về nhóm lớn trong tâm lý học xã hội
đó là tâm lý nhóm lớn có cấu trúc như thế nào? Hầu như tất cả các nhà nghiên
cứu (G.G.Điligenxki, A.I.Goriachieva, Iu.V.Brômlei...) đều phân chia thành hai
phần cấu thành trong nội dung của nó:
3


Một là, nếp tâm lý như là cấu tạo tâm lý ổn định hơn (bao gồm tính cách
xã hội hay tính cách dân tộc, nếp sống, truyền thống, thị hiếu...).
Hai là, phương diện xúc cảm như một cấu tạo tương đối biến động hơn
(nhu cầu, hứng thú, tâm trạng).Mỗi yếu tố cần trở thành đối tượng phân tích Tâm
lý học xã hội một cách đặc biệt.
Nhóm lớn chiếm một vị trí nhất định trong hệ thống các quan hệ xã hội, ổn

định lâu dài. Trong các nhóm xã hội lớn bao giờ cũng có cơ chế đặc biệt điều
hòa hành vi xã hội, đó là phong tục, tập quán, truyền thống (được hình thành từ
hoạt động xã hội của nhóm). Muốn tìm hiểu lối sống của nhóm phải nghiên cứu
các hình thức giao tiếp hình thành trong hoạt động của nhóm: mục đích, giá trị,
chuẩn mực… Đây cũng chính là vấn đề cơ bản thứ ba cần làm rõ trong nhóm
lớn, vấn đề mối quan hệ qua lại giữa các đặc trưng tâm lý của nhóm lớn và ý
thức của mỗi cá nhân tham gia vào nhóm. Trong dạng chung nhất, vấn đề này
được giải quyết như sau: Các đặc trưng tâm lý nhóm là những gì mang tính đặc
thù (cho nhóm) nhưng lại chung cho tất cả các cá nhân và do vậy hoàn toàn
không phải là tổng các nét có ở mỗi cá nhân: Rõ ràng, cái phần tâm lý của các cá
nhân tạo ra nhóm, thuộc về nhóm là cái có thể gọi là “tâm lý nhóm”. Nói cách
khác: tâm lý nhóm là cái có chung ở tất cả các đại diện nhóm ở mức độ này hay
mức độ khác, tức là đặc thù cho họ, được sinh ra bởi các điều kiện tồn tại chung.
Cái đặc thù đó không phải là như nhau đối với tất cả các cá nhân mà chỉ là cái
chung. Các nét chung của các đại diện của một nhóm xã hội nào đó tồn tại một
cách khách quan, bởi lẽ chúng thể hiện trong hoạt động hiện thực của nhóm.
Theo mối quan hệ với “ý thức” riêng lẻ, tâm lý nhóm như là một hiện thực xã
hội nào đó vượt ra khỏi phạm vi ý thức của cá nhân riêng lẻ và tác động đến cá
nhân cùng với các điều kiện khách quan của cuộc sống, theo cách nói của
Valông, dẫn tới “sự nhân đôi môi trường” trong đó con người hoạt động.
Vấn đề nhóm lớn là gì, cấu trúc nhóm lớn đã được chỉ ra, vậy vấn đề tiếp
4


theo được đặt ra là bằng các phương pháp nào có thể nghiên cứu tâm lý nhóm
lớn xã hội? Trong chừng mực các nét điển hình được củng cố trong đạo đức,
truyền thống và nếp sống, Tâm lý học xã hội - trong trường hợp này - cần sử
dụng các phương pháp của các khoa học khác, như Dân tộc học để phân tích các
sản phẩm văn hóa. W.Wundt đề xuất về việc nghiên cứu ngôn ngữ, huyền thoại
và nếp sống để tìm hiểu tâm lý dân tộc. Một trong các hình thức hiện đại trong

việc sử dụng các phương pháp đó là các nghiên cứu so sánh hay liên văn hóa. Ở
đây thuật ngữ “liên văn hóa” được sử dụng mang tính truyền thống khi nói đến
các nguồn gốc văn hóa khác nhau. Trong thực tế thì không nhất thiết chỉ so sánh
các văn hóa khác nhau mà còn so sánh các nhóm xã hội khác nhau.
Trong việc nghiên cứu tâm lý nhóm lớn còn có thể áp dụng cả các phương
pháp truyền thống của xã hội học bao gồm cả các phương pháp phân tích thống
kê khác nhau. Các kết quả nghiên cứu được thực hiện nhờ sự trợ giúp của các
phương pháp đó không phải luôn phát hiện ra được các liên hệ nhân quả; trong
đó trước tiên mô tả một số những liên hệ phụ thuộc chức năng nào đó cho phép
có được các tương quan có ý nghĩa, điều chấp nhận được đổi với nghiên cứu
tương quan, phổ biến trong việc nghiên cứu đặc trưng tâm lý của nhóm lớn.
Ngoài các phương pháp nghiên cứu nêu trên, trong khi nghiên cứu nhóm lớn,
Tâm lý học xã hội sử dụng cả các phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học.
Lý thuyết “Biểu tượng xã hội” được đưa ra trong trường phái Tâm lý học
Pháp (X.Moscovisi) đã có đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Tâm lý học xã
hội nhóm lớn.Lý thuyết này ở một mức độ có ý nghĩa đồng thời đề ra phương
pháp nghiên cứu nhóm lớn. Biểu tượng xã hội trong lý thuyết này được hiểu là
các biểu tượng đời thường của một nhóm nào đó về hiện tượng xã hội này hay
hiện tượng xã hội khác, tức là phương thức lý giải và thấu hiểu hiện thực đời
sống. Nhờ sự trợ giúp của các biểu tượng xã hội, mỗi nhóm xây dựng hình ảnh
thế giới xã hội, các thiết chế của nó, chính quyền, luật pháp, chuẩn mực.Các
5


biểu tượng xã hội - công cụ không phải của cá nhân mà của chính nhận thức xã
hội của nhóm.Bởi lẽ “biểu tượng” được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm,
hoạt động của nhóm, hướng tới cách lý giải đời thường được nhấn mạnh trong
kinh nghiệm này.Về bản chất, thông qua sự phân tích các biểu tượng xã hội của
các nhóm lớn, bộ mặt tâm lý của chúng được nhận thức.(Đônxôp, Emelianôva,
1987).

Các biểu tượng xã hội được nhóm tạo ra thể hiện dưới dạng: một mặt
nhóm định hình một số khía cạnh của hiện thực xã hội, tạo ra ảnh hưởng trong
việc đánh giá các khía cạnh đó, sau đó sử dụng biểu tượng của mình về hiện
tượng xã hội trong việc xác định thái độ đối với chúng. Mặt khác, biểu tượng
xã hội nhóm được đặt ra tạo khả năng hoà nhập nhóm, dường như thực hiện
chức năng “giáo dục” nhận thức cho các thành viên, mang đến cho họ những
cách lý giải đặc thù, quen thuộc (đối với nhóm) về các sự kiện, tức là tạo khả
năng hình thành sự đồng nhất nhóm (Anđrêeva, 2000). Như vậy, phân tích các
biểu tượng xã hội là chìa khóa cho việc hiểu tâm lý nhóm.Lý thuyết này giúp
xác định khái niệm “khuôn mẫu xã hội” của nhóm lớn xã hội chính xác hơn.
Trong đó phản ánh “góc nhìn” và “cách hiểu” thế giới của các thành viên của
một nhóm, phản ánh câu trả lời đặc thù của họ đối với bức tranh thế giới. Các
thành viên của một nền văn hóa nhất định lĩnh hội các phương thức tri giác
giống nhau hình thành các hình ảnh giống nhau thể hiện trong các hình mẫu
ứng xử đặc thù. Tập hợp các biểu tượng xã hội độc đáo của nhóm và tương ứng
với nó là các hình mẫu hành vi nhất định xác định khuôn mẫu của nhóm.
Không phải ngẫu nhiên trong ngôn ngữ đời thường nhắc tới “hình mẫu trí
thức”, “hình mẫu doanh nhân”...
1.2. Đặc điểm cơ bản của nhóm lớn
Để chỉ ra những điểm tâm lý của nhóm lớn trước hết theo lôgic tiếp cận ở
bài tiểu luận nàyxin nêu lên những đặc điểm cơ bản của nhóm lớn. Đây là cơ cở
6


để nhận đạng nhóm lớn, phân biệt với nhóm nhỏ theo cách tiếp cận của tâm lý
học xã hội. Có thể dễ dàng nhận diện nhóm lớn xã hội thông qua những dấu hiệu
cơ bản sau:
Thứ nhất, nhóm lớn hình thành, tồn tại và vận động một cách khách quan,
không phụ thuộc vào ý thức của các cá nhân trong nhóm.
Thứ hai, nhóm lớn luôn có mối liên kết với nhau tạo thành một chỉnh thể

thống nhất.
Thứ ba, nhóm lớn có tính độc lập tương đối, mỗi nhóm lớn có khả năng
xác định, điều chỉnh hành vi của mình mà ko bị ràng buộc bởi các nhóm khác.
Thứ tư, quy mô (kích cỡ) của nhóm lớn: khó xác định con số tuyệt đối
nhưng điều quan trọng là nhấn mạnh số lượng lớn các thành viên mà còn tiềm ẩn
mối liên hệ có tính quy luật.Các thành viên của nhóm thường không có sự tiếp
xúc trực tiếp và thường xuyên với nhau.
Thứ năm, nhóm lớn có tính đồng nhất, nhóm lớn được tạo ra từ các cá
nhân khác nhau với đặc điểm phong phú đa dạng nhưng lại thống nhất với nhau
ở những đặc điểm có tính chất xã hội: giới tính, tuổi tác, vị thế xã hội, nghề
nghiệp, thái độ…
Thứ sáu, trật tự và kiểu tương tác giữa các cá nhân: liên quan đến phân
công lao động, nghĩa vụ trách nhiệm của các thành viên trong nhóm.
2. Đặc điểm tâm lý nhóm lớn
2.1. Đặcđiểm tâm lý dân tộc
Các nhóm tộc người là ví dụ về nhóm lớn xã hội có ý nghĩa trong quá
trình xã hội lịch sử.Khác với tâm lý học giai cấp, các đặc điểm của các nhóm tộc
người, trước hết là dân tộc được nghiên cứu nhiều hơn.Một nhánh đặc biệt của
khoa học giao thoa giữa Tâm lý học xã hội và Dân tộc học - Tâm lý học tộc
người, nghiên cứu riêng biệt những vấn đề nêu trên (Xtêphanhencô, 1999).
Truyền thống nghiên cứu Tâm lý học nhóm tộc người trong Tâm lý học xã
7


hội bắt đầu từ các công trình của W.Wundt trong “Tâm lý học dân tộc”. Sự thâu
thuộc về tộc người của cá nhân là nhân tố đặc biệt có ý nghĩa đối với Tâm lý xã
hội học. Bởi lẽ nó xác định những đặc trưng nhất định của môi trường vi mô.
Trong các điều kiện của môi trường đó, nhân cách được hình thành. Đặc trưng
tộc người ở một mức độ nhất định tập trung trong kinh nghiệm lịch sử của mỗi
tộc người và việc lĩnh hội các kinh nghiệm này là nội dung quan trọng nhất của

quá trình xã hội hóa. Thông qua môi trường xung quanh gần gũi nhất trước tiên
là gia đình, nhà trường, cá nhân theo từng mức độ phát triển tiếp cận với đặc
trưng văn hóa tộc người, tập quán truyền thống, phương thức, ý thức về sự thâu
thuộc vào tộc người phụ thuộc vào các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể của sự tồn
tại của tộc người đó.
Tương ứng với truyền thống được hình thành trong Tâm lý học xã hội
nhóm lớn, trong tâm lý học cộng đồng tộc người phân biệt hai mặt: Mặt thứ
nhất,tính cách dân tộc - phần ổn định hơn cả - nếp tâm lý (bao gồm, tính cách
khí chất và cả truyền thống, tập quán) của một tộc người hoặc cả một dân tộc.
Mặt thứ hai, phương diện xúc cảm (bao gồm tình cảm dân tộc, tộc người).
Về tính cách dân tộc: Đây là khái niệm phổ biến hơn cả để mô tả các đặc
điểm của nếp tâm lý dân tộc. Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn vả nhiều tranh luận
liên quan đến nội dung của tính cách dân tộc nhưng trong các nghiên cứu cụ thể
vẫn có sự đồng thuận tương đối lớn khi mô tả các nét tính cách dân tộc ở nhiều
nhóm dân tộc riêng lẻ (tính dũng cảm, yêu lao động, khả năng kiềm chế...). Liên
quan đến bản chất của tính cách dân tộc thì ở đây xuất hiện nhiều vấn đề gây
tranh cãi.Trước tiên là nét tính cách dân tộc có quan hệ như thế nào với các nét
tính cách của mỗi đại diện của nó. Liệu các nét tính cách có phải hoàn toàn chỉ
có ở một dân tộc mà hoàn toàn không có ở các nhóm khác (tức là liệu có thể nói
rằng một dân tộc nào đó yêu lao động, còn dân tộc khác - cởi mở). Cuối cùng
các nét tính cách dân tộc và tính cách xã hội tác động qua lại như thế nào? Do
8


vậy không chỉ đơn giản nói về tập hợp các nét tính cách mà chủ yếu là về mức
độ biểu hiện của nét này hay nét khác trong tập hợp đó, về đặc trưng trong cách
biểu hiện của nó: Không phải ngẫu nhiên các tài liệu tập trung vào việc xác định
một số đặc trưng nào đó. Ví dụ, đặc trưng của người Anh là hài hước, mặc dù sự
hài hước không chỉ có ở người Anh.Giải thích sự hình thành tính cách tộc người
cũng là công việc được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các nhà nghiên cứu đã

đi theo nhiều cách tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề này. Từ cách tiếp cận
dựa trên các điều kiện tự nhiên, khí hậu đến tiếp cận dựa trên sự giao thoa và
khuyếch tán văn hóa; từ tiếp cận dựa trên các đặc điểm sinh học thể chất, đến
tiếp cận hoạt động sống của tộc người. Tuy vậy, câu hỏi này vẫn cần những
nghiên cứu tiếp theo.
Trong nghiên cứu tính cách dân tộc, ngoài việc tìm hiểu tập quán và
truyền thống, việc phân tích ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng.Bởi lẽ,
việc truyền lại các nét tính cách dân tộc được thực hiện trong quá trình xã hội
hóa, trước tiên là trực tiếp qua ngôn ngữ.Tính ổn định tương đối của các nét tính
cách dân tộc, dù có sự thay đổi của môi trường được giải thích bằng sự xuất hiện
của sức ỳ nào đó, được đảm bảo bằng con đường chuyển giao kinh nghiệm giữa
các thế hệ.
Về phương diện xúc cảm của tộc người bao gồm sự đồng nhất tộc người
và ý thức tự giác tộc người. Các đặc trưng này liên quan đến ý thức của con
người về sự thâu thuộc của bản thân vào một nhóm tộc người nhất định và sự
trải nghiệm xúc cảm về việc đó, tức là tiếp nhận và trải nghiệm sự khác biệt văn
hóa của nhóm mình với nhóm khác. Cùng với quá trình đó là sự xuất hiện của
các khuôn mẫu tộc người.
Tính cộng đồng tâm lý có ở mọi nhóm tộc người được thể hiện trong sự
hình thành tình cảm “chúng ta” nào đó.Đối với nhóm tộc người “tình cảm chúng
ta” xác định ý thức về các đặc điểm của tộc người mình khác biệt với tộc người
9


khác.Hình ảnh của các nhóm khác, trong đó thường bị làm tầm thường hóa, được
hình thành dưới ảnh hưởng của các quan hệ liên nhóm, các quan hệ tạo ra tâm
thế đặc biệt cho các đại diện của nhóm khác.Trong đó kinh nghiệm giao tiếp với
nhóm tộc người khác có vai trò nhất định. Nếu các quan hệ này trong quá khứ
mang tính thù địch thì màu sắc đó được di chuyển sang mỗi đại diện được gặp
lại của nhóm đó và bằng cách đó hình thành tâm thế tiêu cực. Thường xuyên hơn

cả, khuôn mẫu tộc người xuất hiện vì sự hạn chế của giao tiếp liên nhóm: các nét
có ở những đại diện cá biệt của nhóm tộc người (khác) lần lượt được phổ biến ra
toàn bộ nhóm (Stêphanhencô, 1999).
Khuôn mẫu được hình thành bằng cách đó sau này ảnh hưởng tới sự xuất
hiện của thái độ thiện cảm hay không thiện cảm của tộc người. Bản thân sự ý
thức về các đặc điểm của tộc người không chứa đựng định kiến trước chống lại
tộc người khác.Nhưng vấn đề vẫn xảy ra cho tới khi sự tương phản của các khác
biệt được nhận thức vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên rất dễ chuyển từ sự tương phản
sang việc đánh giá nhóm tộc người khác, sang sự thân thiện hay không thiện cảm
và khi đó có thể xảy ra sự hạ thấp hình ảnh của nhóm khác. Trong các khuôn
mẫu tộc người luôn luôn có sự va chạm mạnh mẽ của những kiểu ảnh hưởng từ
ngoài tộc người, trước hết là xã hội, lịch sử, chính trị, cũng như những ảnh
hưởng được quy định bởi nội dung văn hóa... Cơ chế tiếp theo của việc biến
khuôn mẫu tộc người thành định kiến và sau đó là sự củng cố định kiến trong
các học thuyết chinh trị, tư tưởng - vấn đề không phải của Tâm lý học xã hội.
Khuôn mẫu tộc người luôn được hình thành trong một vài bối cảnh xã hội nào
đó và khi đó chúng có được một hình thức bền vững - định kiến, tức là một cấu
tạo có màu sắc xúc cảm tiêu cực mang tính quy chuẩn, chúng dễ dàng được sử
dụng như là vũ khí của sự thù hằn dân tộc. Cũng từ đó xuất hiện về phương diện
tâm lý học hiện tượng trung tâm tộc người (hay trung tâm luận tộc người, hay tự
kì tộc người) - đề cao nhóm tộc người mình, mong muốn tiếp nhận mọi hiện
10


tượng cuộc sống từ lập trường của nó, xác định một cách thống nhất các nét tính
cách của tộc người.
Tính tương đối của các khác biệt tâm lý giữa các nhóm là đặc trưng quan
trọng của TLH nhóm tộc người (Kon, 1970).Những khác biệt này không thể
tuyệt đối hóa và cần được xem như là cái phải sinh từ những điều kiện lịch sử
nhất định, được củng cố trong chiều dài của hàng loạt các thế hệ (“sự chuyển

giao văn hóa”). Dù cho có tính ổn định tương đối, các nét này có thể thay đổi
theo lịch sử. Tâm lý học tộc người đã tích luỹ được một số lượng tương đối lớn
những tư liệu thú vị liên quan đến những đặc điểm nếp tâm lý và hành vi của con
người, bị quy định bởi sự thâu thuộc của họ vào một tộc người. Do vậy nhiệm vụ
đặt ra cho Tâm lý học xã hội và Tâm lý học xã hội tộc người ngày nay tương đối
phức tạp. Tính nóng bỏng chính trị của vấn đề trong thế giới hiện đại buộc phải
giải quyết các vấn đề này với sự chính xác đặc biệt.Nguyên tắc bình đẳng các
dân tộc, đặc trưng cho các chương trình chính trị của các quốc gia dân chủ
không biểu thị sự thừa nhận tính giống nhau giữa các dân tộc.Từ đó chỉ ra các
đặc điểm dân tộc, trong đó có sự khác biệt trong tâm lý dân tộc vẫn còn là một
nhiệm vụ cấp thiết.
2.2. Đặc điểm tâm lý giai cấp
Giữa sự đa dạng của các nhóm lớn các giai cấp xã hội có được sự quan
tâm đặc biệt. Trong nhiều tập sách về Tâm lý học xã hội do H.Linđcey và
E.Aronson chủ biên đã chỉ ra rằng bản thân thuật ngữ giai cấp có nội dung khác
nhau đối với các nhà nghiên cứu châu âu và Mỹ. Đối với các nhà nghiên cứu
phương Tây, khái niệm “giai cấp” hiện thực hơn bởi lẽ sự đồng nhất với giai cấp
rõ ràng hơn, tương đối thường xuyên gắn với việc xác định sự thâu thuộc về
chính trị. Đối với văn hóa, nhìn chung việc thao tác hóa khái niệm “giai cấp
công nhân”, “giai cấp tư bản” là không đặc trưng nhưng họ lại quen hơn với khái
niệm “giai cấp trung lưu”, “giai cấp bần cùng”... Điều đó liên quan tới việc trong
11


các lý thuyết xã hội học cấu trúc xã hội được mô tả nhờ sự trợ giúp của các khái
niệm như “các thiết chế kinh tế - xã hội” chứ không phải “giai cấp xã hội”.Một
cách tự nhiên, điều đó không thể không ảnh hưởng tới những sự khác biệt trong
cách hiểu cấu trúc Tâm lý học xã hội về giai cấp.Nói riêng, trong một mức độ
lớn, thay vì phân tích tâm lý học về giai cấp, người ta đề nghị phân tích tâm lý
học các tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy vậy trong mọi tình huống cần lưu ý rằng

bản chất của sự phân tích xã hội là ở chỗ làm rõ liên hệ giữa các đặc trưng tâm
lý của nhóm và hình mẫu hành vi của các thành viên nhóm.
Từ cách hiểu truyền thống của xã hội học mác xít (trong đó có cả xã hội
học Nga) về giai cấp có thể nhận thấy ba tuyến nghiên cứu tâm lý học giai cấp:
Đó là chỉ ra các đặc điểm đặc thù của các giai cấp cụ thể đã tồn tại trong lịch sử
và đang tồn tại; chỉ ra đặc trưng của các giai cấp khác nhau trong các thời đại
nhất định; phân tích mối quan hệ giữa tâm lý giai cấp và tâm lý các thành viên
riêng lẻ của giai cấp như là những trường hợp riêng của vấn đề mối quan hệ giữa
tâm lý học nhóm và tâm lý học cá nhân. Đối với truyền thống này việc sử dụng
thuật ngữ “tâm lý học giai cấp” có đặc trưng là không loại trừ sự phân tích tâm
lý học các tầng lớp riêng lẻ tham gia vào giai cấp này hay giai cấp khác.
Phương diện động thái xúc cảm của tâm lý học giai cấp được nghiên cứu
đầy đủ hơn cả, bao gồm các nhu cầu giai cấp, các lợi ích giai cấp, tập hợp các
vai trò xã hội.Trong chừng mực vị trí xã hội nhất định, khối lượng và thành phần
của các quyền lợi tinh thần và vật chất mà mỗi thành viên nhóm được phân bố
chừng đó.Nó tạo ra cấu trúc nhất định của các nhu cầu, ý nghĩa tâm lý và trọng
lượng của mỗi nhân tố.Bên cạnh đó vẫn còn một loạt các vấn đề đòi hỏi sự phân
tích Tâm lý học xã hội. Lợi ích được hình thành như là lợi ích của toàn nhóm,
nhưng mỗi thành viên của giai cấp không chỉ tham gia vào nhóm đó mà họ còn
là thành viên của nhiều nhóm xã hội khác: Thứ nhất, ngay trong bản thân mỗi
giai cấp có nhiều tiểu nhóm được phân biệt bằng trình độ nghề nghiệp của nó
12


theo các phương diện công việc… Thứ hai, mỗi thành viên của một giai cấp có
thể đồng thời là thành viên của một nhóm nào đó trong phương diện học vấn (ví
dụ trong trường đại học, trường phổ thông), nơi thành viên đó tác động qua lại
trực tiếp với những thành viên của các giai cấp khác.Xuất hiện sự đan xen các
lợi ích khác nhau, mỗi lợi ích trong số đó được xác định bởi sự thâu thuộc vào
một nhóm có giá trị xã hội.Trong hệ thống các lợi ích của cá nhân có những lợi

ích bền vững hơn và ngược lại trong một số những tình huống nào đó, các lợi ích
ít sâu sắc hơn bắt đầu đóng vai trò nổi bật - có ý nghĩa mang tính nguyên tắc.
Các yếu tố tham gia vào phần biến động của tâm lý học giai cấp như tập
hợp các vai trò xã hội và định hướng xã hội tương ứng của cá nhân... cũng như
tính chưa rõ ràng của các khái niệm này trong khi áp dụng vào việc phân tích
tâm lý học nhóm lớn trên thực tế chưa được nghiên cứu. Điều này cũng đúng với
một hiện tượng được gọi là “tình cảm xã hội”. Khái niệm tình cảm xã hội không
phải được thừa nhận chung trong các tài liệu. Ở một mức độ nhất định, nhiều
vấn đề về tình cảm xã hội còn tranh luận. Do vậy có thể sử dụng nó như một
định nghĩa mô tả trạng thái nào đó trong phương diện xúc cảm của nhóm (Ví dụ:
“căm thù giai cấp”, xúc cảm xuất hiện trong mối liên hệ với mọi sự đồng nhất xã
hội liên quan tới sự bất bình đẳng). Do vậy tính không xác định của thuật ngữ
không làm giảm ý nghĩa của bản thân vấn đề. Nó chỉ chứng tỏ rằng trong Tâm lý
học xã hội chưa có truyền thống nghiên cứu lĩnh vực này với sự trợ giúp của một
bộ máy khái niệm khoa học.Tâm lý học xã hội buộc phải kết hợp hệ thống các
thuật ngữ từ các khoa học khác như văn học nhân văn, triết học và lịch sử.
Khi đề cập tới việc xác định các thành phần ổn định hơn trong tâm lý học
giai cấp thì có thể thấy vấn đề này ít được nghiên cứu hơn ở một mức độ đáng
kể. Liên quan tới giai cấp, nếp tâm lý thường được mô tả như là một diện mạo
tâm lý thể hiện trong một phương thức đặc biệt của hành vi và hoạt động, trên cơ
sở đó có thể tái thiết kế các chuẩn mực điều chỉnh nhóm xã hội. Diện mạo đó thể
13


hiện trong tính cách xã hội, những định nghĩa mang tính thao tác của cả khái niệm
này cũng còn chưa được làm rõ trong các tài liệu riêng của Tâm lý học xã hội.
Thuật ngữ “tính cách xã hội” thực tế được đưa ra trong các công trình của
trào lưu Phân tâm học mới, trong đó có các công trình của E.Fromm.Theo ông,
tính cách xã hội - đó là mắt xích kết nối giữa tâm lý cá nhân và cấu trúc xã hội.
Nhưng các loại tính cách xã hội ở Fromm không gắn với một giai cấp xã hội

nhất định mà tương ứng với các kiểu khác nhau của sự tự tách biệt của con
người trong các thời đại lịch sử khác nhau. Ông nêu ra các kiểu như sau: con
người thời đại tiền tư bản (loại “tích luỹ”), những năm 20 của thế kỉ XX (“loại
thị trường” gắn liền với xã hội “xa lánh hoàn toàn”). Do vậy tính cách xã hội
thường xuyên hơn cả được xác định bằng cách mô tả những cái được thể hiện
trong hình mẫu hành vi ứng xử ổn định đặc thù của các thành viên của các giai
cấp khác nhau trong các tình huống trong hoạt động sống của họ và giúp phân
biệt giai cấp này với giai cấp khác. Trong việc đưa ra các tính cách xã hội, các
mô tả được chứa đựng trong lịch sử văn hóa, lịch sử quốc gia, trong các tài liệu
văn học có thể được sử dụng (có thể nói đến các tác phẩm của Banzắc,
Gorki).Văn học thực chất đã tiến hành công việc của tâm lý học trong việc thực
hiện cái được gọi là chuyên khảo. Dù cho sản phẩm của nghiên cứu loại này
không tồn tại dưới dạng các lý thuyết khoa học, không dưới dạng các khái niệm
khoa học, mà dưới dạng các hình ảnh nghệ thuật, tức là dưới dạng các tài liệu
văn học phản ánh hiện thực vẫn không làm mất đi giá trị của các nghiên cứu đó.
Ngoài tính cách xã hội, khuôn mẫu xã hội được tìm thấy trong các thói quen và
tập quán, cũng như truyền thống giai cấp. Tất cả các cấu tạo này đóng vai trò
người điều chỉnh hành vi và hoạt động của các thành viên trong nhóm xã hội, do
vậy có ý nghĩa lớn đối với việc hiểu tâm lý học nhóm. Chúng đưa ra đặc trưng
quan trọng nhất của dấu hiệu mang tính tổ hợp của giai cấp như là lối sống của
nó. Khía cạnh Tâm lý học xã hội của các nghiên cứu lối sống, nói riêng, là sao
14


cho trong phạm vi vị trí khách quan của giai cấp, xác định và giải thích được
hình mẫu hành vi nổi trội của đa số quần chúng đại diện cho giai cấp đó trong
các tình huống độc đáo trong đời sống hàng ngày. Thói quen và tập quán được
hình thành dưới ảnh hưởng của các điều kiện sống nhất định nhưng sau đó được
củng cố và đóng vai trò cái điều chỉnh hành vi. Phân tích thói quen và tập quán
chính là vấn đề riêng của Tâm lý học xã hội. Các phương pháp nghiên cứu vấn

đề này gần với các phương pháp nghiên cứu tâm lý học truyền thống, trong một
chừng mực nhất định ở đây có thể sử dụng phương pháp quan sát.
Như vậy chúng ta đã chỉ ra những hướng phân tích cơ bản, theo đó Tâm lý
học xã hội còn phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các đặc trưng tâm lý của các
tầng lớp xã hội khác nhau và các phương thức mà nhờ chúng, tâm lý nhóm được
“xây dựng”, đảm bảo cho “sự lãnh hội” hiện thực xã hội của mỗi cá nhân. Ở đây
điều quan trọng là phải hiểu bằng cách nào quần chúng với số lượng tương đối
lớn - với tất cả sự đa dạng về tâm lý của họ - trong những tình huống có ý nghĩa
nào đó của cuộc sống thể hiện sự giống nhau trong các biểu tượng như thị hiếu,
hay thậm chí cả những đánh giá xúc cảm về hiện thực. Các tình huống này là các
tình huống trong điều kiện sống đặc biệt, được quy định trước hết bởi sự thâu
thuộc vào một nhóm lớn xã hội cụ thể, do vậy Tâm lý học xã hội không thể bỏ
qua sự kiện này khi xây dựng các mô hình giải thích hành vi và hoạt động của
con người.
3. Một số vấn đề rút ra trong hoạt động quản lý xã hội
Quản lý xã hội có tác động trực tiếp đến sự hình thành các yếu tố tâm lý
xã hội của các tầng lớp, các nhóm lớn trong xã hội.Mặt khác, các yếu tố tâm lý
xã hội trong nhóm lớn cũng tác động trực tiếp đến hoạt động quản lý xã hội. Do
vậy, cũng như việc hoạch định chính sách, trong hoạt động quản lý xã hội cần
quan tâm đến việc nắm, định hướng các hiện tượng tâm lý xã hội của các nhóm
khác nhau.
15


Những nhà quản lý xã hội cần phải biết và cần giải quyết tốt các yếu tố
tâm lý xã hội như:phong tục, tập quán, truyền thống; nhận thức, thái độ, tâm
trạng, niềm tin và khả năng thích ứng của người dân, của các tổ chức, hiệp
hội….Nếu những người lãnh đạo không hiểu những mặt mạnh và hạn chế về các
khía cạnh tâm lý xã hội của các nhóm lớn thì việc ban hành và hiện thực hóa các
chủ trường chính sách trong cuộc sống sẽ gặp nhiều khó khăn; có thể không

những không tìm kiếm được sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân
trong xã hội mà còn tạo ra những rào cản trong chính công tác quản lý xã hội.
Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý xã hội, cần quan tâm đến những
khía cạnh tâm lý xã hội cơ bản như sau:
Thứ nhất, về nhận thức xã hội: trước hết, người lãnh đạo phải nắm được
những biến đổi của nhận thức xã hội trong giai đoạn hiện nay. Sự biến đổi trước
hết là biến đổi về tư duy hay nói cách khác là sự biến đổi dần về nhận thức trong
tâm lý giai cấp. Tư duy theo lối sản xuất hàng hóa ngày càng hiện rõ (giai cấp
công nhân), dần dần thay thế tư duy sản xuất nhỏ, manh mún, tự cung, tự cấp,
tiểu nông (giai cấp nông nhân). Sự biến đổi này thể hiện rõ ở chỗ các doanh
nghiệp có tầm nhìn xã trông rộng hơn trong chiến lược kinh doanh.Trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp, người nông dân sẽ dần hướng đến mục tiêu sản xuất
các sản phẩm mang tính hàng hóa hơn là sản xuất để tiêu dùng cho chính gia
đình mình.Tư duy bao cấp trong xã hội, nhóm xã hội sẽ dần dần bị thay thế bởi
tư duy kinh tế thì trường.Tuy nhiên, bên cạnh những biến đổi tích cực về tư duy
thì trong nhận thức xã hội của các nhóm vẫn còn bị ảnh hưởng nhất định của tư
duy cũ, tư duy tiểu nông, manh mún trong một số bộ phận xã hội. Do đó, trong
hoạt động quản lý xã hội cần chú ý những hạn chế về nhận thức của các tầng lớp
trong xã hội như hạn chế trong nhận thức pháp luật của nhà nước, nhất là các
chuẩn mực xã hội, hạn chế về nhận thức của giai cấp nông dân về luật lao động,
luật đình công, bãi công; hạn chế của các tổ chức, hiệp hội kinh doanh trong
16


thực hiện các chính sách phát triển kinh tế của nhà nước.
Thứ hai, về tâm trạng xã hội và thái độ xã hội: Với những thành tựu về
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, mức sống của người dân được nâng cao,
các nhu cầu sống phát triển. Tuy nhiên, những tác động này sẽ nới rộng khoảng
cách giàu nghèo trong xã hội, tình trạng ô nhiễm, an toàn thực phẩm, các tầng
lớp dân cư lo lắng về tình trạng các hành vi bạo lực gia tăng trong ứng xử xã hội,

nhất là trong nhóm thanh thiếu niên, tất cả nhứng thuận lợi và thách thức này đặt
ra trong hoạt động quản lý xã hội, những người lãnh đạo cần nắm được tâm
trạng và thái độ của các tầng lớp nhân dân, của các tổ chức kinh tế, hội, hiệp
hội… Cụ thể là nắm được họ phấn khởi, họ băn khoăn, họ lo lắng, họ đồng tình
hay phản đối những những vấn đề gì, ở mức độ nào và tại sao họ lại có tâm
trạng, thái độ như vậy. Tâm trạng và thái độ xã hội là một trong những yếu tố
tâm lý xã hội phản ánh sự hài lòng của các tầng lớp nhân dân về các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước và việc thực thi chúng trong cuộc sống. Khi
các nhóm lớn trong xã hội hài lòng và ủng hộ cao thì việc thực hiện các chủ
trương, chính sách sẽ có được những kết quả khả quan, và ngược lại, khi không
có được sự đồng tình, ủng hộ, sự hài lòng thì điều đó chứng tỏ chủ trương, chính
sách chưa phù hợp hay quá trình tổ chức triển khai thực hiện chưa tốt.
Thứ ba, về niềm tin xã hội: trong thập niên tới, niềm tin tôn giáo sẽ có xu
hướng phát triển hơn, trở thành niềm tin của đông đảo người dân trong xã hội.
Niềm tin này sẽ đa dạng hơn do sự xuất hiện đa dạng của các tôn giáo. Niềm tin
tôn giáo sẽ có xu hướng gia tăng ở nhóm thanh niên so với hiện nay. Do đó, đối
với những người lãnh đạo rất cần nắm được niềm tin của các tầng lớp dân cư
trong xã hội. Khi người dân có được niềm tin họ sẽ hành động với ý thức trách
nhiệm, tinh thần nhiệt tình cao, thậm chí họ không sợ hy sinh, gian khổ để thực
hiện các mục tiêu của tổ chức, của xã hội bởi có niềm tin là có tất cả, mất niềm
tin là mất tất cả.
17


Ở đây, người lãnh đạo không chỉ hiểu và nắm bắt được niềm tin của các
tầng lớp dân cư, các tổ chức trong xã hội, mà cần tạo ra ở các tầng lớp dân cư,
các tổ chức một niềm tin tốt vào những người lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Để tạo được niềm tin này, người lãnh đạo cần chú ý một số khía cạnh sau:
Trước hết, chính những người lãnh đạo phải là tấm gương về hành động và
nhân cách đối với người dân. Đây là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ

nhất đến những người dưới quyền trong một tổ chức và với các tầng lớp dân cư,
các tổ chức trong xã hội nói chung.
Bên cạnh đó, người lãnh đạo phải thực hiện tốt lời nói đi đôi với việc
làm.Nếu chỉ nói mà không hành động thì sẽ không tạo được niệm tin ở người
dân. Mặt khác, người lãnh đạo phải quan tâm đến lợi ích của người dân nói
chung, lợi ích của các tổ chức, doanh nghiệp, hiệp hội nói riêng, biết đáp ứng
những lợi ích căn bản, chính đáng.
Thứ tư, về thích ứng xã hội: Trong những năm tiếp theo thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, điểm thuận lợi có thể thấy rằng khả năng thích
ứng của các tầng lớp, nhóm xã hội với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sẽ
tăng lên, và tốt hơn hiện nay. Đặc biệt là sự thích ứng của nhóm thanh niên,
doanh nhân.Sự thích ứng của nông dân cũng tốt hơn song lại chậm chạp và
không đều giữa các vùng trong cả nước. Để tạo lập được khả năng thích ứng
nhanh, đồng đều giữa các nhóm xã hội, các vùng, người lãnh đạo cần cần chú ý
một số điểm sau:
Cần phát huy khả năng thích ứng xã hội cao của tầng lớp doanh nhân và
thanh thiếu niên nước ta. Biến các nhóm xã hội này thành những lực lượng tiên
phong trong ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào cuộc sống, tiếp thu
các tri thức mới của thế giới để phát triển khoa học nước nhà.
Cần đào tạo, hướng dẫn, tập huấn để giúp người nông dân, nhất là nông
dân vùng sâu, vùng xa thích ứng với phát triển sản xuất theo hướng kinh tế thị
18


trường và hội nhập quốc tế. Đối với nông dân vùng ven đô thị, vùng đất sản xuất
bị thu hẹp cần giúp họ thích ứng tốt hơn trong việc chuyển đổi hình thức sản xuất
từ làm nông sang học nghề và chuyển đổi các nghề mới.
Cần giúp đỡ các nhóm xã hội yếu thế như những người nghèo, người già,
người tàng tật, người khuyết tật, người bị bệnh hiểm nghèo, trẻ em mồ côi, lang
thang cơ nhỡ… thích ứng và hòa nhập vào cuộc sống chung của cộng đồng xã hội.

Người lãnh đạo, làm công tác quản lý xã hội cần luôn luôn lắng nghe ý
kiến của các tầng lớp nhân dân. Vì qua đó, những người quản lý sẽ nắm được
tâm trạng, thái độ, niềm tin của người dân, nắm được những mong muốn nguyện
vọng của người dân. Việc lắng nghe này phải thực sự xuất phát từ “tâm” của
người cán bộchứ không phải mang tính hình thức. Do vậy, phong cách sâu sát,
không quan liêu mệnh lệnh, giản dị, chân tình là rất cần thiết ở người quản lý xã
hội. Đây sẽ là những cơ sở nền tảng để họ nắm bắt đặc điểm tâm lý của các
nhóm xã hội, thông qua đó mà tác động, điều chỉnh, định hướng các hiện tượng
tâm lý xã hội trong nhóm xã hội phát triển tích cực để cùng thực hiện thắng lợi
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.

19


KẾT LUẬN
Khi xác định đối tượng của tâm lý học xã hội là nghiên cứu các hiện tượng
tâm lý của nhóm, điều đó đã nói lên vị trí quan trọng của nhóm đối với phân ngành
tâm lý học này.Mặt khác, chính bản thân khái niệm "tâm lý xã hội" đã phản ánh yếu
tố nhóm trong nội tâm của nó.Bởi lẽ, các hiện tượng tâm lý của các cá nhân đơn lẻ,
tồn tại biệt lập không thể tạo nên các hiện tượng tâm lý xã hội, mà chỉ tạo nên khi
các cá nhân đó tồn tại trong những mối quan hệ tương hỗ, phụ thuộc lẫn nhau.Hay
nói cách khác họ tồn tại trong một nhóm nào đó. Nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề
nhóm xã hội nói chung, nhóm lớn trong phạm vi bài tiểu luận này nói riêng có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong nhìn nhận một cách đúng đắn, khoa học về các vấn đề
tâm lý dân tộc, tâm lý giai cấp dưới cách tiếp cận của tâm lý học xã hội.Việc làm rõ
đặc điểm tâm lý nhóm lớn sẽ giúp cho công tác quản lý xã hội, lãnh đạo các nhóm
lớn được hiệu quả hơn thông qua định hướng, điều khiển các hiện tượng tâm lý xã
hội trong nhóm.Trong xu thế hiện nay, việc quản lý nhóm theo các cơ chế tâm lý sẽ
mang lại hiệu quả hơn cả. Chính vì vậy, tâm lý học nói chung, tâm lý học xã hội nói
riêng ngày càng thể hiện rõtầm quan trọng của mình trong các lĩnh vực của đời sống

xã hội.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Dũng, Tâm lý học xã hội – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Từ điển
Bách khoa, H 2011.
2. Phương Kỳ Sơn, Tâm lý học xã hội -Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
CTQG, H 2000.
3. Trần Hiệp (chủ biên), Tâm lý học xã hội – Mấy vấn đề lý luận, Nxb KHXH, H
1991.
4. Trần Hiệp (chủ biên), Tâm lý học xã hội – Những vấn đề lý luận, Nxb KHXH, H
1997.
5. Vũ Dũng (chủ biên), Tâm lý học xã hội, Nxb KHXH, H2000.
6. Trần Quốc Thành – Nguyễn Đức Sơn, Tâm lý học xã hội, Nxb ĐHSP, H 2011

21



×