Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích sự lãnh đạo của đảng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.29 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
1 - Đảng cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Từ khi ra đời năm 1930 cho đến nay, Đảng ta, trên thực tế, đã trở thành lực
lượng độc tôn lãnh đạo cách mạng nước ta. Mọi thắng lợi của cách mạng nước ta
hơn 74 năm qua đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhân dân ta suy tôn
Đảng là người lãnh đạo của mình. Đảng ta! Đảng của chúng ta! Bởi nhân dân thấy
rõ chỉ có Đảng mới có khả năng lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc; Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân và mục
đích, lý tưởng phấn đấu của Đảng cũng là mục đích, nguyện vọng của nhân dân.
Tuy nhiên, phải từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trở đi, Đảng ta mới
trở thành Đảng cầm quyền tức Đảng nắm quyền, chấp chính. Và chỉ có sau khi
cuộc kháng chiến thắng lợi chống đế quốc Mỹ xâm lược, đất nước thống nhất,
Đảng mới trở thành Đảng cầm quyền trên quy mô cả nước, đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta là một đảng cầm
quyền".
"Đảng cầm quyền" đánh dấu sự chuyển biến giai đoạn cách mạng ở nước ta
và cũng đặt ra hàng loạt vấn đề mới, yêu cầu mới đối với Đảng xét về quy mô, tầm
vóc, chiều sâu, tính phức tạp của vấn đề. "Đảng cầm quyền" đánh dấu sự thay đổi
về chất trong vị trí, vai trò của Đảng, nhất là trong phương thức lãnh đạo của Đảng
và trọng trách của Đảng trước vận mệnh của dân tộc, của nhân dân, trước toàn xã
hội. "Đảng cầm quyền" tức là chính quyền thuộc về nhân dân và chính quyền chịu
sự lãnh đạo của Đảng - Nhân dân lao động do Đảng làm đại biểu đã có một công
cụ quyền lực mạnh mẽ là Nhà nước để trấn áp kẻ thù và tổ chức xây dựng xã hội
mới. Thông qua sự cầm quyền, Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn
xã hội và trên quy mô toàn xã hội, chịu trách nhiệm trước toàn xã hội. Điều đó có
nghĩa là mọi thành công hay thất bại, ưu điểm hay khuyết điểm trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều gắn với trách nhiệm của Đảng.
"Đảng cầm quyền" cũng có nghĩa nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng
phải thay đổi căn bản so với khi chưa giành được chính quyền. Đảng phải thực sự



coi trọng và tôn trọng chính quyền nhà nước. Đảng không được bao biện, làm thay
chính quyền. Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
Mọi đảng viên và tổ chức đảng phải tuân thủ pháp luật - pháp luật là thể hiện ý chí
của Đảng, song, sau khi ra đời, pháp luật ràng buộc trở lại hoạt động của đảng viên
và tổ chức đảng, không cho phép chấp hành một cách tùy tiện.
Khi trở thành Đảng cầm quyền, vấn đề dân chủ và công khai nổi lên và có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động của Đảng, đòi hỏi Đảng phải không ngừng mở
rộng và phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng và trong toàn xã hội, tăng cường tính
công khai, minh bạch trong sự lãnh đạo của mình.
Để lãnh đạo được xã hội và Nhà nước, Đảng phải có đủ năng lực, trí tuệ và
phẩm chất, bản lĩnh để hoạch định đường lối đúng cho toàn xã hội, có khả năng thể
chế hóa đường lối và tổ chức thực hiện đường lối đó. Khi cầm quyền, Đảng phải
thường xuyên và tích cực chống nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng, thoái hóa
biến chất, rơi vào đặc quyền đặc lợi, cắt đứt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với
nhân dân - nguồn sức mạnh của Đảng.
Khái niệm "Đảng cầm quyền" không loại trừ khái niệm "Đảng lãnh đạo
chính quyền" mà trái lại, còn bao hàm nó. Không lãnh đạo chính quyền thì Đảng
không cầm quyền được. Nhờ có cầm quyền, nên ý nguyện, đường lối, chủ trương
của Đảng mới được thể chế hóa thành pháp luật và qua đó, chúng mang tính pháp
lý đối với mọi công dân trong xã hội. Mặt khác, như Điều 4 Hiến pháp (sửa đổi
năm 1992) của nước ta khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là "lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội". Như vậy, bản thân sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội cũng mang tính pháp lý, trở thành nguyên tắc Hiến định. Và do đó,
nếu ai phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng cũng có nghĩa là đã vi phạm Hiến pháp và
pháp luật.
Là một tổ chức chính trị nằm trong hệ thống chính trị, hơn nữa lại là "hạt
nhân" lãnh đạo của hệ thống chính trị, nên Đảng cũng có quyền lực chính trị,
nhưng Đảng không có quyền lực Nhà nước. Đảng không phải là cơ quan quyền lực
nhà nước. Do đó, nhất thiết không được lẫn lộn giữa Đảng và Nhà nước, giữa
quyền lực của Đảng và quyền lực Nhà nước. Sự khác nhau giữa quyền lực của



Đảng và quyền lực Nhà nước trước hết và chủ yếu bắt nguồn từ sự khác nhau về
bản chất và chức năng của Đảng và Nhà nước. Đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội,
Nhà nước là bộ máy thống trị, quản lý xã hội. Do đó, quyền lực của Đảng chủ yếu
dựa trên quyền uy do uy tín mang lại, còn quyền lực của Nhà nước chủ yếu dựa
trên pháp luật, bộ máy cưỡng chế chuyên biệt, bộ máy hành chính công quyền.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, làm sao cho Đảng không rơi vào tình
trạng lạm quyền, lấn át Nhà nước, bao biện làm thay các công việc Nhà nước, trái
lại phát huy được vai trò quản lý, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước. Mặt khác, làm
sao không hạ thấp, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây là
những vấn đề còn khó khăn và phức tạp mà kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội trên
thế giới vừa qua chưa đủ để giải quyết, cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về lý
luận và thực tiễn về đổi mới hệ thống chính trị, về xây dựng Đảng và xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa; trong đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một phương hướng rất cơ bản.
2 - Nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
Trong lịch sử nhân loại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã có từ rất lâu, ra
đời sớm trong các học thuyết triết học, pháp luật của các nhà tư tưởng cổ đại Hy
Lạp, La Mã như Pla-tôn, A-ri-xtốt. Nhưng phải đến thời kỳ cách mạng tư sản thế
kỷ XVII - XIX ở Tây Âu, vấn đề Nhà nước pháp quyền mới được đi sâu nghiên
cứu trong các học thuyết triết học, pháp luật, nhà nước của các nhà tư tưởng tư sản
như G. Lốc-cơ, S.L. Mông-te-xki-ơ, J.J. Rút-xô, E. Can-tơ, G.V. Ph. Hê-ghen...
nhằm phục vụ cho việc hình thành, xây dựng nhà nước pháp quyền tư sản. Từ đó
đến nay, lý luận về nhà nước pháp quyền đã được quan tâm nghiên cứu, ngày càng
phát triển cùng với sự phát triển tiến bộ xã hội, nó là thành quả của văn minh nhân
loại.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa mới được chính thức đặt ra trong thời kỳ cải tổ, cải cách, đổi mới. Trước

đó, sở dĩ không đặt ra vì một mặt do đem đồng nhất nhà nước pháp quyền nói
chung với nhà nước tư sản, cho rằng nhà nước pháp quyền chính là nhà nước pháp


quyền tư sản; mặt khác, do đem đối lập sự lãnh đạo của Đảng với nhà nước pháp
quyền (trong đó có một nguyên tắc, một đặc trưng của nhà nước pháp quyền là vai
trò tối thượng của pháp luật).
Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập rất sớm tư tưởng về "phải có
thần linh pháp quyền" trong bài "Việt Nam yêu cầu ca" (1). Tuy nhiên, trong các
Văn kiện của Đảng từ khi giành được chính quyền đến Đại hội VII (1991), vấn đề
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa được chính thức đặt ra. Sở
dĩ như vậy, bởi vì thời kỳ đó chúng ta chưa quan tâm và chưa đi sâu nghiên cứu
vấn đề nhà nước pháp quyền, mặt khác do chịu ảnh hưởng quan điểm sai lầm về
Nhà nước pháp quyền của các nước xã hội chủ nghĩa anh em thời bấy giờ. Phải
đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng ta, lần đầu tiên khái niệm
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân mới chính thức đặt
ra và đưa vào Văn kiện. Tuy nhiên, sau đó, trong Nghị quyết Trung ương 8, khóa
VII về xây dựng Nhà nước, cũng như trong Văn kiện Đại hội VIII, vấn đề xây
dựng Nhà nước pháp quyền, được đề cập không nhiều (2). Phải đến Đại hội IX của
Đảng, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân mới được khẳng định dứt khoát trong Văn kiện và trở thành một quan điểm chỉ
đạo xây dựng Nhà nước ta (3) và sau đó được đưa vào Hiến pháp 1992 (sửa đổi).
Sở dĩ có tình hình trên đây, bởi vì trong nhận thức của cán bộ, đảng viên còn
chưa rõ, chưa thống nhất về bản chất, đặc trưng, nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, về quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đã đem đối lập vai trò lãnh đạo của
Đảng với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cho rằng, nếu chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vô hình trung sẽ hạ thấp vai trò lãnh
đạo của Đảng, đặt Đảng dưới pháp luật (!).
Theo chúng tôi, nhận thức đó không đúng. Một đặc trưng, một nguyên tắc

của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước và công dân đều phải thừa
nhận tính tối cao của pháp luật (chủ yếu là Hiến pháp và các đạo luật). Đảng và cán
bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Song,
pháp luật ở nước ta, như chúng ta biết, là thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là


thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng cầm quyền, là phản ánh ý nguyện của
nhân dân. Vì vậy, đề cao pháp luật cũng tức là đề cao đường lối, quan điểm, chủ
trương của Đảng. Ở đây không có sự đối lập giữa pháp luật với sự lãnh đạo của
Đảng (trong thực tế trên một số trường hợp cụ thể, có thể nảy sinh vấn đề cần phải
giải quyết khi pháp luật không thay đổi kịp theo quan điểm của Đảng). Mặt khác,
chính bản thân Đảng cũng yêu cầu Đảng và cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong
khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, sau khi Hiến pháp và pháp luật ra đời, đảng
viên phải nghiêm chỉnh chấp hành, phải tôn trọng Hiến pháp và pháp luật, chấp
hành pháp luật cũng tức là chấp hành đường lối của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng.
Do đó, khi nói rằng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì ở đó đã
bao hàm sự thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước pháp
quyền, bởi vì nếu không có sự lãnh đạo, không dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản thì Nhà nước không phải là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, không
phải là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực sự. Vì đây cũng chính là một đặc
trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Do đó, chúng tôi kiến nghị cần khẳng định dứt khoát quan điểm về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong các Văn kiện
của Đảng và Nhà nước và bổ sung quan điểm đó vào Cương lĩnh chính trị 1991.
3 - Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa
Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở 3 điểm sau:
- Nội dung lãnh đạo;
- Phương thức lãnh đạo;
- Lề lối làm việc, tác phong công tác.

Ba điểm trên đây có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, phương thức
lãnh đạo có vai trò rất quan trọng. Nhờ có phương thức lãnh đạo thích hợp mới
thực hiện được sự lãnh đạo của Đảng, chuyển tải nội dung lãnh đạo đến đối tượng
lãnh đạo nhằm thực hiện mục đích đề ra. Phương thức lãnh đạo là một hệ thống
các hình thức, biện pháp, phương pháp mà Đảng sử dụng để tác động đến đối
tượng lãnh đạo nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra. Phương thức


lãnh đạo phụ thuộc trước hết vào đối tượng lãnh đạo (quy luật vận động, đặc điểm,
xu thế... của đối tượng), vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử trong nước và thế giới,
vào sự phát triển của khoa học và công nghệ trong đó có khoa học và công nghệ
lãnh đạo, vào nhiệm vụ chính trị thực tiễn của Đảng trong từng giai đoạn... và cả
vào chủ thể lãnh đạo là Đảng (trình độ, năng lực, bản lĩnh, nghệ thuật lãnh đạo...
của tổ chức Đảng và cấp ủy). Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng không phải là
bất biến mà cũng thay đổi theo thời gian, theo từng giai đoạn cách mạng. Khi Đảng
đã nắm chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng không thể không khác với
khi Đảng chưa giành được chính quyền.
Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề
phương thức lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong các Nghị
quyết của các Đại hội Đảng toàn quốc từ Đại hội VI đến Đại hội IX đều khẳng
định yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Văn kiện Đại hội IX của
Đảng viết: "Tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường
lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc
tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà
nước. Ban Chấp hành Trung ương, tập thể cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn thảo
luận dân chủ, biểu quyết và ra nghị quyết theo đa số những vấn đề quan trọng về
đường lối, chủ trương, chính sách, về tổ chức, cán bộ. Tăng cường chế độ lãnh đạo
tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân"(4).
Trong những năm đổi mới, trên cơ sở đổi mới tư duy và cùng với đổi mới về

kinh tế, về hệ thống chính trị, văn hóa - xã hội, phương thức lãnh đạo của Đảng
cũng được đổi mới, có những bước tiến, khác xa so với thời kỳ chiến tranh và thời
kỳ tập trung bao cấp. Bước tiến về đổi mới phương thức lãnh đạo thể hiện ở chỗ:
- Đảng và các cấp ủy ngày càng coi trọng và quan tâm đến đổi mới phương
thức lãnh đạo - một yêu cầu cơ bản và cấp bách của đổi mới, chỉnh đốn Đảng cho
phù hợp với tình hình đã thay đổi.
- Đảng ngày càng xác định rõ hơn nội dung của phương thức lãnh đạo và các
"kênh", các con đường đổi mới phương thức lãnh đạo. Cương lĩnh chính trị được


thông qua tại Đại hội VII của Đảng (năm 1991), đã chỉ rõ: "Đảng lãnh đạo xã hội
bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công
tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra bằng hành
động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng
lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các
đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị". "Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ
thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được đổi mới
theo hướng không ngừng mở rộng dân chủ và công khai; các phương tiện thông tin
đại chúng ngày càng phát huy vai trò tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân
và vai trò người phản biện đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
- Đảng và các tổ chức đảng ngày càng coi trọng và tôn trọng vai trò các cơ
quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, Tòa án
nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Vai trò của các
tổ chức Nhà nước ngày càng được phát huy, được đổi mới về tổ chức và phương
thức hoạt động, tính chủ động, hiệu lực và hiệu quả ngày càng được nâng cao.
Ngày càng phân định rõ hơn chức năng của các tổ chức đảng và các cơ quan nhà

nước, nhất là ở Trung ương, giảm bớt sự chồng chéo, lấn sân của nhau.
- Đảng đã bố trí cán bộ, đảng viên của mình giữ những cương vị chủ chốt
trong bộ máy chính quyền các cấp, nhờ đó, giữ vững được sự lãnh đạo toàn diện và
tuyệt đối của Đảng đối với hệ thống chính trị.
- Ngày càng xác định rõ hơn nội dung, phạm vi lãnh đạo, mối quan hệ lãnh
đạo của cấp ủy với cơ quan nhà nước, nhất là ở Trung ương. Đã xây dựng được
quy chế làm việc của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp,
cũng như xây dựng chương trình công tác của cấp ủy toàn khóa, hằng năm.
Thông qua đó, xử lý đúng đắn hơn, rành mạch hơn (nhưng không phải cứng
nhắc, máy móc) mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền, giữa cơ quan đảng và cơ


quan chính quyền, giúp cho cấp ủy tập trung trí tuệ và sức lực lãnh đạo những vấn
đề lớn và quan trọng.
- Quá trình xây dựng và ban hành Nghị quyết của Đảng đã được cải tiến
(chú ý hơn đến công tác tham mưu, tư vấn, sử dụng chuyên gia, làm thí điểm), việc
phổ biến nghị quyết cũng giảm bớt tính hình thức, tăng tính thiết thực, ngắn gọn,
gắn với chương trình hành động.
Tuy có những bước tiến quan trọng trên đây, song, những đổi mới về
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của tình hình, yêu cầu cần đổi mới Đảng và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Trên vấn đề này, vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc
làm hạn chế cả vai trò lãnh đạo của Đảng lẫn hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai
trò làm chủ của nhân dân. Vẫn còn tình trạng Đảng bao biện, làm thay, lấn sân
công việc của chính quyền, cơ quan Đảng chạy theo những việc sự vụ, "buông cái
to nắm cái nhỏ", can thiệp quá sâu vào công việc của chính quyền. Vẫn còn tình
trạng cơ quan chính quyền thụ động, ỷ lại vào cấp ủy, né tránh không dám chịu
trách nhiệm, hoặc đẩy các công việc đáng lẽ thuộc thẩm quyền mình giải quyết
sang cho cấp ủy để giữ "chốt an toàn"; vẫn còn tình trạng cấp trên ôm đồm nhiều
việc của cấp dưới mà không dám mạnh dạn phân cấp, nên cấp trên không còn thời

gian và sức lực để đầu tư suy nghĩ những vấn đề lớn, quan trọng hơn hoặc có tầm
chiến lược. Đồng thời, cũng vẫn còn tình trạng cấp ủy buông lỏng lãnh đạo chính
quyền, không phát huy được vai trò lãnh đạo, thậm chí bị cơ quan chính quyền lấn
sân v.v. và v.v..
Thực tế đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 (khóa
IX): "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm tránh cả hai khuynh
hướng: hoặc buông lỏng sự lãnh đạo, hoặc bao biện, làm thay, nhất là phương thức
Đảng lãnh đạo Nhà nước"(5).
Để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cần
giải quyết một số vấn đề sau đây:


- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phương
thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân. Cần nghiên cứu sâu hơn, có hệ thống và toàn diện hơn vấn
đề đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xác định rõ mô hình của hệ thống chính
trịở nước ta làm cơ sở cho đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Tiếp tục thực hiện việc kiện toàn tổ chức theo Nghị quyết Trung ương 7,
khóa VIII, tiếp tục xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức đảng và
tổ chức nhà nước, tránh chồng chéo, lấn sân. Nâng cao vai trò công tác tham mưu
của ban đảng các cấp. Cần tiếp tục làm rõ vai trò ban cán sự đảng của bộ, mối quan
hệ giữa ban cán sự đảng của bộ và của tổng công ty với Ban Cán sự đảng Chính
phủ và Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
- Bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Quốc hội, Chính phủ, sự lãnh
đạo của cấp ủy và tổ chức đảng đối với cơ quan chính quyền cùng cấp. Cần cụ thể
hóa và bổ sung một số quy định về quan hệ và lề lối làm việc của Bộ Chính trị,

Ban Bí thư với Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ trong lãnh đạo
công tác an ninh, quốc phòng, đối ngoại và tổ chức cán bộ,...
- Cần cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ sao cho vừa giữ vững nguyên tắc này vừa bảo đảm quyền
hạn và trách nhiệm pháp lý của người đứng đầu các tổ chức chính quyền. Cần có
quy chế về trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu tổ chức về công tác cán
bộ.
- Tăng cường công tác kiểm tra, nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm tra,
nhất là kiểm tra thường xuyên để phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời kịp
thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, vi phạm
nguyên tắc...
- Tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ, trước hết là dân chủ nội bộ Đảng
cho đến dân chủ ngoài xã hội, đẩy mạnh thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, xây


dựng và thực hiện các cơ chế, quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trong bầu cử và
hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Có cơ chế nhân dân tham
gia giám sát Đảng và chính quyền.
- Tích cực đổi mới phong cách lãnh đạo của các cấp ủy, hoàn thiện quy trình
xây dựng, ra nghị quyết và triển khai thực hiện nghị quyết; tăng cường chế độ làm
việc có tính khoa học, có quy chế, chương trình, kế hoạch; cán bộ lãnh đạo cần sâu
sát quần chúng, cơ sở, coi trọng tổng kết thực tiễn, coi trọng tính thiết thực, hiệu
quả, tránh bệnh hình thức, bệnh thành tích trong công tác.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nhà nước pháp quyền là con đường phát triển tất yếu của đất nước
ta, phù hợp với xu thế chung của thời đại, không chỉ là nguyện vọng của nhân dân,
mà đã và đang trở thành nhu cầu hiện thực và khả năng hiện thực. Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Những vấn đề cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đã được
thể hiện trong Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng. Tiếp tục bổ sung, phát triển quan
điểm phù hợp với tình hình mới, Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Nhà nước ta là
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp” – “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng, từng
bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền”.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tự phê bình
nghiêm túc, nhận thức sự phát triển tất yếu của đất nước, tại các kỳ đại hội, Đảng


ta đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm và đề ra đường lối, biện pháp đổi mới
mạnh mẽ, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực hoạt động; đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
trong giai đoạn cách mạng mới. Nhiệm vụ đổi mới và tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền trước những biến đổi sâu
sắc, toàn diện của quốc gia và quốc tế, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm
thực hiện. Theo đó, vừa khẳng định một thực tế lịch sử, khách quan tất yếu của sự
lãnh đạo của Đảng, vừa xác định những yêu cầu đặt ra trong bối cảnh mới. Đảng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội, sức mạnh, uy tín của Đảng được thể hiện ở vai trò,
năng lực quản lý của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật bảo vệ, bảo đảm và thúc
đẩy các quyền con người, quyền công dân.
Trên bình diện phổ quát nhất, nhà nước pháp quyền là phương thức tổ chức
quyền lực nhà nước và phương thức quản lý xã hội; là kiểu tổ chức xã hội ở trình
độ cao và tính pháp quyền trong mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Nhà nước pháp
quyền phải gắn với một nền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong sạch, vững

mạnh, có trí tuệ và đạo đức, thể hiện và bảo vệ được con người – giá trị cao quý
nhất.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội phải đặt trong
điều kiện của nhà nước pháp quyền với những yêu cầu, nguyên tắc và mục tiêu cơ
bản nêu trên. Nhìn nhận nhà nước pháp quyền ở mục đích, yêu cầu đặt ra như vậy
thì sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cùng với trí tuệ, sức mạnh đoàn kết của cả dân
tộc sẽ là điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước
ta. Nhà nước pháp quyền thực hiện quản lý xã hội theo tinh thần dân chủ trong
khuôn khổ pháp luật và đạo đức, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người. Để
thực hiện được những mục tiêu, yêu cầu đó, có nhiều cách thức, con đường khác
nhau trên cơ sở nền tảng những quy luật, nguyên tắc, luật lệ chung mà mỗi quốc
gia phải tuân theo trong đời sống quốc tế.
Xây dựng nhà nước pháp quyền không thể tách rời với đổi mới hệ thống
chính trị. Đổi mới hệ thống chính trị là cần thiết trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Trước hết phải đổi mới tổ chức và hoạt
động của Đảng, nâng cao vai trò, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, đổi mới


phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Tổ chức chính trị – xã
hội là nơi triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Vì
vậy, các tổ chức chính trị – xã hội phải có những bước đổi mới về cơ cấu tổ chức,
hình thức hoạt động để góp phần vào việc xây dựng thành công Nhà nước pháp
quyền.
Trong điều kiện hiện nay, nói đến tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước phải gắn liền với đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng trong điều kiện mới. Kiên quyết đấu tranh chống lại các hiện
tượng “hành chính đơn thuần, phi chính trị”; xa rời sự lãnh đạo của Đảng trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và ngược lại, sự bao biện, làm thay các
công việc của Nhà nước từ phía các tổ chức đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước trên những nội dung cơ bản như lãnh đạo nhà nước thể chế

hóa đường lối của Đảng thành các quy định pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật;
xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức và năng lực công tác; kiểm tra,
thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Nói đến sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và Nhà nước là nói đến một hệ
thống các nguyên tắc, phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó đường lối, chính
sách của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, bởi trên cơ sở đó, Nhà nước thể chế hóa
thành các quy định pháp luật, áp dụng vào cuộc sống. Một xã hội được tổ chức ở
trình độ cao - xã hội pháp quyền, không thể thiếu được pháp luật và đạo đức. Do
vậy, xây dựng cơ chế phản biện xã hội đối với các nghị quyết của các tổ chức đảng
và các chính sách, pháp luật của Nhà nước sẽ là điều kiện thiết yếu bảo đảm cho sự
lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền, bảo đảm cho đất nước phát triển. Đó
là tinh thần dân chủ, phù hợp với lý tưởng, trách nhiệm và năng lực thực tiễn của
Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo xã hội và Nhà nước. Vấn đề đặt ra là phải xem
xét, triển khai thực hiện cơ chế phản biện xã hội này sao cho hợp lý, có hiệu quả.
Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao trí
tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói rằng: “Đảng là trí tuệ, Đảng là đạo đức, là văn minh”. Lòng tin
của nhân dân đối với Đảng chính là thước đo uy tín và sức mạnh của Đảng. Thước


đo tính đúng đắn, uy tín của sự lãnh đạo của Đảng, cuối cùng phải được thể hiện ở
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Năng lực, hiệu quả hoạt động, uy tín
xã hội của Nhà nước không chỉ do các tổ chức Đảng đánh giá, mà phải là sự kiểm
soát, đánh giá một cách công khai, dân chủ của người dân, cộng đồng và xã hội. Sự
nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
ở Việt Nam đòi hỏi sự đóng góp trí tuệ, công sức của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã
hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Việc quy định trong Hiến pháp về vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước và xã hội là một vấn đề tất yếu khách quan. Dự thảo sửa đổi Hiến

pháp năm 1992 đã khẳng định đầy đủ hơn về sự lãnh đạo của Đảng với tinh thần
pháp quyền, dân chủ. Theo đó, nội dung Điều 4, Dự thảo Hiến pháp đã xác định rõ,
Đảng phải chịu trách nhiệm phục vụ nhân dân, gắn bó với nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Đây là một bước tiến đáng
kể trong lịch sử lập hiến của nước ta. Đảng ta không có lợi ích riêng. Lợi ích của
Đảng là lợi ích của nhân dân, của đất nước, là lợi ích của quốc gia, dân tộc.



×