Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CHUYÊN đề SAU đại học KINH tế CHÍNH TRỊ QUAN điểm hồ CHÍ MINH về sự bóc lột, bạo lực của CHỦ NGHĨA THỰC dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.08 KB, 18 trang )

2

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ BĨC LỘT, BẠO
LỰC CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DÂN
I- MỞ ĐẦU
1. Mục đích, yêu cầu
- Mục đích: Nhằm giới thiệu cho học viên SĐH quan điểm Hồ Chí Minh
về sự bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa thực dân, qua đó thấy được những đóng
góp to lớn của Người trong việc bảo vệ và phát triển kinh tế chính trị Mác Lênin.
- Yêu cầu:
+ Nắm được những nội dung chủ yếu trong quan điểm của Hồ Chí Minh
về sự bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa thực dân .
+ Tiếp tục nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân (thu
hoạch, tiểu luận, bài báo khoa học, vận dụng vào luận án, luận văn…)
+ Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh sự bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa
thực dân vào nghiên cứu đặc điểm kinh tế, bản chất chủ nghĩa tư bản ngày nay.
2. Nội dung
1. Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc lột, bạo lực của
chủ nghĩa thực dân
2. Nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc lột, bạo lực của chủ
nghĩa thực dân
3. Ý nghĩa quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa
thực dân
3. Phương pháp
- Diễn giải để làm rõ những nội dung kinh tế trong tác phẩm.
- Sử dụng phương tiện trình chiếu.
4. Tài liệu tham khảo
- Các bài viết của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân, in trong Hồ Chí
Minh toàn tập : “Tâm địa thực dân” (1919), “Tội ác của chủ nghĩa thực dân”



3
(1921), “Sự qi đản của cơng cuộc khai hóa” (1921), “Dưới cuộc khai hóa cao
cả” (1922), “Những kẻ đi khai hóa” (1922), “Khai hóa giết người” (1922),
“Phụ nữ An Nam và sự đô hộ của Pháp” (1922), “Văn minh Pháp và phụ nữ ở
các thuộc địa” (1925), “ Chủ nghĩa đế quốc Pháp ở viễn Đông - Varen và Đông
Dương” (1925), “Văn minh Pháp ở Đông Dương” (1927), “Sự thống trị của đế
quốc Pháp ở Đơng Dương” (1927),… trong đó đặc biệt là tác phẩm “Bản án
chế độ thực dân Pháp” (1925).
- Lịch sử kinh tế quốc dân, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1996, chương XI:
Kinh tế Việt Nam trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị (1858-1945).
- Từ điển kinh tế, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1979; mục “thuế thu nhập”,
“thuế gián thu”, “thuế trực thu”.
- Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005;
mục “thuế thu nhập”.
- Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1985; Phần thứ
nhất: Đảng CSVN ra đời.
II- NỘI DUNG
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh để
lại di sản tư tưởng rất quý báu trên nhiều lĩnh vực, trong đó có tư tưởng về kinh
tế. Trong tư tưởng kinh tế của Người, một nội dung rất cốt lõi là tư tưởng về sự
bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa thực dân. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
sự bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa thực dân là sự tiếp tục nghiên cứu, bổ sung
làm rõ và sâu hơn nội dung, giá trị tư tưởng kinh tế của Người, cũng như thấy
được những đóng góp to lớn của Người trong việc bảo vệ và phát triển kinh tế
chính trị Mác – Lênin và vận dụng những quan điểm đó trong nghiên cứu, nhận
thức đặc điểm kinh tế, bản chất chủ nghĩa tư bản ngày nay.
1. Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc lột, bạo lực của
chủ nghĩa thực dân
1.1. Cơ sở lý luận là quan điểm chủ nghĩa Mác -Lênin về chủ nghĩa thực dân



4
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân, C. Mác và Ănghen đã vạch ra
những mặt tiêu cực, chỉ ra những mặt xấu xa của nó. Trong “Tun ngơn của
Đảng cộng sản”, hai ông viết “…Giai cấp tư sản đã bắt nông thôn, phải phục
tùng thành thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man phụ thuộc vào những
dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây”(1). Sự
cưỡng bức các dân tộc thuộc địa chậm phát triển phụ thuộc vào các nước
phương Tây, như C. Mác và Ănghen đã chỉ rõ, đó là mặt trái của chủ nghĩa
thực dân. Qua đó, C. Mác nói rõ q trình bóc lột thuộc địa tàn nhẫn của chủ
nghĩa thực dân để tạo ra sự tích luỹ ban đầu của chủ nghĩa tư bản. C. Mác viết
“Việc tìm thấy những mỏ vàng và bạc ở châu Mĩ, việc biến người bản xứ thành
nô lệ, việc chôn vùi họ vào các hầm mỏ hoặc tuyệt diệt họ đi, những bước đầu
của cơng cuộc chinh phục và cướp bóc ở Đơng ấn, việc biến châu Phi thành
vùng đất cấm thương mại dành riêng cho việc săn bắt người da đen, đấy là
những biện pháp tích luỹ ngun thuỷ có tính chất tình ca, báo hiệu chuỗi bình
minh của thời địa tư bản chủ nghĩa(2). Q trình bóc lột thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân phương Tây để tạo nên nguồn lợi nhuận cho tích lũy ban đầu
của chủ nghĩa tư bản đã “thấm đầy máu và bùn nhơ” như C.Mác đã chỉ ra. Nếu
khơng có q trình bóc lột ấy thì sẽ khơng có sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
ở các giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh yếu tố kinh tế, như đã nói ở trên, mặt xấu xa của chủ nghĩa
thực dân cũng thể hiện ở yếu tố văn hoá - tư tưởng. C. Mác đã nhắc tới sự
thống trị của tư tưởng chủng tộc, tư tưởng “khai hoá văn minh” của các nước
thực dân phương Tây đối với các dân tộc “mọi rợ”. Điều này, theo C. Mác, nó
đã chà đạp lên quyền lợi thiêng liêng của các dân tộc và chính là ngịi nổ làm
bùng lên các cuộc khởi nghĩa, các cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc
thuộc địa mà cuộc khởi nghĩa Xipay ở Ấn Độ (1857 - 1859) là một điển hình.
Đây chính là mặt trái của chủ nghĩa thực dân, là vết thương của các dân tộc
thuộc địa mà phải có thời gian mới xoá bỏ đi được. Sau này, ách áp bức dân tộc

biến tướng thành chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Điển hình nhất là chủ nghĩa


5
Apacthai ở Nam Phi. Chủ nghĩa Apacthai cũng xuất phát từ tư tưởng của chủ
nghĩa thực dân. Mặc dù, nó đã bị xoá bỏ từ những năm 1993 - 1994, nhưng
những dấu vết ở Nam Phi và trên thực tế ở một số nơi vẫn còn tồn tại sâu sắc,
nghiệt ngã.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân, bên cạnh việc chỉ ra những tiêu
cực, những mặt phá hoại của nó là chủ yếu, các nhà nghiên cứu, trên một khía
cạnh nào đó, cịn nhìn thấy có những yếu tố xây dựng. Các nhà xã hội học hay
sử gia phương Tây thường gọi đó là “khai hố văn minh”. Mác là người sớm
nhận thấy tính hai mặt của chủ nghĩa thực dân. Trong khi đề cập đến mặt phá
hoại thì C. Mác cũng đề cập đến việc “thực hiện sứ mệnh xây dựng”, nhưng đó
là kết quả của một quá trình phát triển và nằm ngồi ý muốn của chủ nghĩa
thực dân. Điều này được C. Mác phân tích khi nói về sự thống trị của Anh ở Ấn
Độ. Theo C. Mác sự thống trị này, một mặt là phá hoại xã hội truyền thống
châu Á và mặt khác lại đặt cơ sở vật chất cho xã hội phương Tây ở châu Á.
“Chính điều này đã quyết định xu hướng phát triển củalịch sử châu Á cận
đại”(3). Từ khía cạnh này, người ta thấy đây chính là khuynh hướng để xã hội
châu Á hội nhập vào xã hội hiện tại.
Mười năm sau, năm 1858, C. Mác lại nhắc rằng: “Sự thống trị của Anh
đã phá vỡ công xã lạc hậu ở Ấn Độ, điều đó đã thể hiện được một cuộc cách
mạng hết sức tiến bộ”. Như vậy, khía cạnh thứ hai của chủ nghĩa thực dân đã
được C. Mác chứng minh. Nó đã tạo ra một sự tiến bộ trên lĩnh vực kinh tế. Sự
tác động đó được coi như một công cụ vô ý thức của lịch sử, tạo ra một bước
tiến bộ cho xã hội Ấn Độ. Dẫu sao thì “mặt phá hoại” vẫn là điểm chủ yếu, có
ý thức trong sự thống trị thuộc địa của chủ nghĩa thực dân.
V.I. Lênin là người kế tục xuất sắc sự nghiệp của C. Mác và Ănghen
trong cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại. Trong lĩnh vực nghiên cứu về thuộc

địa và chủ nghĩa thực dân, Lênin tiếp tục khẳng định và phát triển luận điểm
của Mác và Người cũng rất cơng bằng khi nói về chủ nghĩa thực dân: “Điều
quan trọng là chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại và phát triển được nếu không


6
thường xuyên mở rộng phạm vi thống trị của nó, không khai phá những xứ sở
mới mà không lôi cuốn các xứ sở không phải tư bản chủ nghĩa vào cơn lốc
kinh tế thế giới”(4). Như thế, Lênin đã khẳng định, sự xâm chiếm thuộc địa của
chủ nghĩa thực dân, trên một khía cạnh nào đó đã buộc các nước thuộc địa phải
hội nhập vào quá trình phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, hoà nhập vào nền
kinh tế thế giới.
Hồ Chí Minh là một trong những người Việt Nam đầu tiên nghiên cứu
và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, nên những nội dung cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có quan điểm về chủ nghĩa thực dân được
Người vận dụng vào xem xét sự bóc lột, áp bức của chủ nghĩa thực dân.
1.2. Cơ sở thực tiễn là sự bóc lột, áp bức của chủ nghĩa thực dân và
phong trào cách mạng thế giới, trong nước
- Sự bóc lột, áp bức của chủ nghĩa thực dân:
+ Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các nước đế quốc đẩy mạnh bóc
lột thuộc địa nhằm bù đắp tổn thất trong chiến tranh (trong đó có thực dân
Pháp) bằng nhiều thủ đoạn để thu lợi nhuận tối đa, trong đó thẳng tay tước đoạt
và bần cùng hóa nơng dân, chiếm đoạt tài ngun thiên nhiên, nắm các mạch
máu kinh tế ở thuộc địa, nắm độc quyền trong cơng nghiệp khai khống, cơng
nghiệp chế biến rượu, kìm hãm cơng nghiệp nặng, hạn chế cơng nghiệp nhẹ ở
các nước thuộc địa, độc chiếm thị trường, tăng cường cho vay nặng lãi; đồng
hóa kinh tế thuộc địa vào kinh tế của Pháp, biến kinh tế thuộc địa thành khâu
khăng khít trong sợi dây chuyền của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, bộ
máy tuyên truyền của chúng lại cho rằng đó là “sự khai hóa văn minh”, “mẫu
quốc”, “sự bảo hộ”,… Đây là một trong những cơ sở thực tiễn quan trọng để

Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá một cách chính xác, khách quan sự bóc lột,
bạo lực của chủ nghĩa thực dân.
+ Ở Việt Nam, cho đến những năm 20 của thế kỷ XX, thực dân Pháp đã
triển khai hai cuộc khai thác thuộc địa: cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (từ
1858-1918), chủ yếu bóc lột, vơ vét thuộc địa bằng thương mại, xuất khẩu hàng


7
hóa cho vay nặng lãi; cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (từ 1918) chú ý xuất
khẩu tư bản hơn là xuất khẩu hàng hóa và tăng cường đầu tư khai thác thuộc
địa theo phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa (đồn điền, hầm mỏ, nhà
máy,…). Tuy nhiên, nền công nghiệp ở Việt Nam cũng như các thuộc địa của
Pháp cịn rất q quặt, non yếu, nên bóc lột giá thặng dư khơng là hình thức
bóc lột chủ yếu của chủ nghĩa thực dân.
- Phong trào cách mạng thế giới, trong nước:
+ Cách mạng tháng Mười Nga thành công vào năm 1917, mở ra một thời
đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, tác động sâu sắc đến phong trào cách
mạng thế giới và nhận thức về con đường giải phóng thuộc địa của tác giả
(được tác giả đề cập trong tác phẩm). Đồng thời, ngay sau Cách mạng tháng
Mười Nga, phong trào cộng sản nói chung và phong trào đấu tranh của nhân dân
các nước thuộc địa nói riêng phát triển mạnh mẽ. Đại hội II của Quốc tế Cộng sản
được tiến hành (từ 19/7-7/8/1920), Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
V.I.Lê nin được trình bày tại đại hội, được sự nhất trí cao của Đại hội. Nhiều tổ
chức cách mạng quốc tế được thành lập: Quốc tế nơng dân, Tổ chức Cơng đồn ở
thuộc địa; Hội liên hiệp thuộc địa,… Tình hình cách mạng thế giới tác động và ảnh
hưởng sâu sắc tới việc hình thành ở Hồ Chí Minh cách nhìn nhận, xem xét, đánh
giá chủ nghĩa thực dân theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Tình hình Việt Nam:
+ Ở Việt Nam, phong trào đấu tranh của nhân dân ta đang dâng lên mạnh

mẽ. Kế tiếp phong trào Cần Vương là khởi nghĩa nơng dân n Thế do Hồng
Hoa Thám lãnh đạo. Tiếp theo đó là các phong trào Duy Tân do Phan Bội Châu
khởi xướng và phong trào theo con đường tư sản do Phan Chu Trinh, Khởi
nghĩa Yên bái theo con đường tư sản do Lương Văn Can chủ trương, khởi
nghĩa của binh lính ở Thái Nguyên do Nguyễn Thái Học phát động,... Tuy
nhiên, các phong trào và các cuộc khởi nghĩa này đều thất bại và cách mạng
Việt Nam đang đứng trước cuộc khủng hoảng về con đường cứu nước (cách


8
mạng Việt Nam như đêm tối khơng tìm thấy đường ra).
1.3. Vai trị chủ quan của Hồ Chí Minh
+ Hồ Chí Minh khơng theo con đường cách mạng của các bậc tiền bối: Khâm
phục tinh thần đấu tranh yêu nước của Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Lương Văn Can, … song Người không tán thành con đường của một người
nào (không dựa vào Pháp, không dựa vào Nhật, không theo con đường tư sản theo
kiểu cách mạng Tân Hợi năm 1911 ở Trung Quốc).
+ Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước bằng con đường đúng
đắn: Từ năm 1911 ra đi tìm đường cứu nước theo con đường vơ sản hóa, là cơng
nhân làm thuê ở nhiều nước tư bản phương Tây, (Anh, Pháp, Mỹ…), nên thấy được
tính chất dã man, tàn bạo, thối nát của chủ nghĩa thực dân.
+ Hồ Chí Minh trực tiếp tham gia hoạt động trong phong trào quốc tế cộng sản:
Năm 1917, Người trở về Pháp, lập Hội những người Việt Nam yêu nước để tập
hợp Việt Kiều yêu nước ở Pháp; năm 1918, vào Đảng xã hội Pháp; năm 1919, nhân
danh những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Véc - xây (các nước
tư bản thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất họp nhau ở Véc - xây) tám
yêu cầu đòi tự do, dân chủ và bình đẳng dân tộc cho nhân dân Việt Nam (mặc dù
không được chấp nhận, nhưng có tiếng vang lớn); tham gia cuộc tranh luận trong
Đảng xã hội Pháp về vấn đề nên theo Quốc tế II (cơ hội cải lương) hay Quốc tế III
(cách mạng) và cuối cùng rút ra: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng cịn

con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản. Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Tháng 12/1920, Đại hội lần thứ 18 của đảng xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán
thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp (đánh dấu bước
ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản).
Năm 1921, Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, ra báo Người
cùng khổ; năm 1922, Người tham gia Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản
Pháp; năm 1923, Người tham dự Đại hội nông dân quốc tế ở Matcơva và được


9
bầu là ủy viên Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế nông dân; năm 1924,
Người tham dự Đại hội V của Quốc tế Cộng sản và đã nhấn mạnh mối quan hệ
giữa cách mạng vô sản ở các nước đế quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa (quan hệ chặt chẽ với nhau như hai cái cánh của một con
chim).
Q trình hoạt động đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho Người tiếp cận với
thực tế, tài liệu phong phú để hình thành quan điểm về sự bóc lột, bạo lực của
chủ nghĩa thực dân.
2. Nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc lột, bạo lực của chủ
nghĩa thực dân
Nhằm mục đích bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung,
những luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nói riêng về phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nói riêng, đấu tranh chống các quan điểm tư
sản sai trái, tán dương chủ nghĩa thực dân, tố cáo những tội ác tày trời của chủ
nghĩa thực dân, đồng thời vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn
cho nhân dân các nước thuộc địa đi theo con đường của Cách mạng Tháng
Mười Nga, Hồ Chí Minh đã nêu nhiều luận điểm quan trọng vạch trần bản
chất, thủ đoạn bóc lột, áp bức của chủ nghĩa thực dân đối với thuộc địa.

2.1. Hồ Chí Minh đã khẳng định chủ nghĩa thực dân bóc lột thuộc địa
theo lối bóc lột phong kiến kết hợp với lối cướp bóc của đế quốc là chủ yếu
(bóc lột phi kinh tế)
- C.Mác nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đi đến kết
luận: chủ nghĩa tư bản bóc lột lao động làm thuê theo lối tư bản chủ nghĩa (bóc
lột giá trị thăng dư - giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê tạo ra, bị nhà tư bản tước đoạt); tính chất bóc lột là tinh vi (nhìn bề
ngồi như là thuận mua, vừa bán sức lao động, nhà tư bản là người có của, lao
động làm th là kẻ có cơng).
- Do ở các nước thuộc địa, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp
cịn rất hạn chế, nên theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa thực dân bóc lột thuộc địa


10
theo lối bóc lột phong kiến kết hợp với lối cướp bóc của đế quốc là chủ yếu (bóc
lột bằng biện pháp phi kinh tế). Cụ thể là:
Đối với người dân thuộc địa chủ nghĩa thực dân bóc lột bằng nhiều thứ thuế:
- Thuế trực thu: Thuế đánh vào thu nhập phải nộp thuế của người đóng
thuế hoặc đánh vào tài sản thuộc sở hữu của họ. Dưới chế độ thực dân Pháp,
người dân thuộc địa phải chịu những thứ thuế sau:
+ Thuế đinh: Thuế đánh vào nam giới từ 18-60 tuổi. Đây là thuế man rợ
và vô lý nhất.
+ Thuế thân: Thuế đánh theo đầu người (theo nghị định ngày 11 tháng 12
năm 1919 của thống sứ Bắc Kỳ, thì tất cả người bản xứ, từ 18 đến 60 tuổi đều
phải đóng một suất thuế thân đồng loạt là hai đồng rưỡi).
+ Hồ Chí Minh cịn tố cáo chủ nghĩa thực dân dùng nhiều thủ đoạn nhằm
tăng thuế đinh, thuế thân:
>Tăng mức thuế thân: tăng từ một hào tư lên hai đồng rưỡi.
>Tăng số đinh bằng hạ tuổi, chữa con số đinh phải nộp. Những thanh niên
chưa vào sổ đinh, nghĩa là cịn dưới 18 tuổi, trước kia khơng phải nộp gì cả,

nay phải nộp.
>Mỗi người An Nam lúc nào cũng phải mang theo mình thẻ thuế thân, khi hỏi
phải xuất trình; ai quên hoặc đánh mất sẽ bị bỏ tù (phương pháp quản lý hà khắc).
- Thuế gián thu: Là thứ thuế chủ yếu đánh vào người tiêu dùng đông đảo
tức là người dân thuộc địa. Thuế này bao gồm:
+ Thuế tiêu dùng (thuế lưu thơng hàng hóa). Trong tác phẩm này, đã tố
cáo chế độ thực dân dùng nhiều thủ đoạn đánh thuế lưu thơng hàng hóa nhiều
lần: “người ta cấp giấy phép lưu thông cho 150 kilơgam thuốc lá, sau đó lại bố
trí để đánh thuế được nhiều lần cũng món hàng đó mỗi khi nó chuyển sang tay
chủ khác, mỗi khi số 150 kilôgam ấy được phân phối cho ba, bốn khách mua?
Chẳng còn luật lệ nào khác ngoài sự tuỳ tiện của bọn nhà đoan. Bởi vậy, người
An Nam rất sợ bọn nhà đoan, cứ thoáng thấy chúng là họ vứt ngay giữa đường
những thúng muối, thúng cau, hoặc thuốc lá của họ: thà vứt của đi còn hơn là


11
phải đóng thuế hết khoản này đến khoản khác mãi mãi khơng thơi. Ở một số
vùng, nhân dân buộc lịng phải nhổ thuốc, chặt cau, để tránh những phiền nhiễu
vì thuế mới”.
+ Thuế độc quyền (quy định giá cả cao ở một số hàng hóa đặc biệt để thu
được số tiền thuế lớn).
+ Thuế quan (thuế đánh vào các hàng hóa xuất nhập khẩu).
Đối với người nơng dân, chủ nghĩa thực dân bóc lột bằng thuế ruộng đất
theo kiểu phong kiến:
- Thuế ruộng đất (thuế điền): Thuế đánh vào người sở hữu ruộng đất. "Sau
khi cướp hết những ruộng đất màu mỡ, bọn cá mập Pháp đánh vào những
ruộng đất cằn cỗi những thứ thuế vô lý gấp trăm lần thuế đất thời phong kiến".
- Hồ Chí Minh tố cáo chủ nghĩa thực dân dùng nhiều thủ đoạn để tăng
thuế ruộng đất:
> Dùng thước đo nhỏ để tăng số mẫu đất phải đóng thuế; (có nhiều loại

mẫu đất: 3.970 mét vuông, nơi 4.900, nơi 6.200 mét vuông; để tăng thu thuế,
định một thước thống nhất là 40 xăngtimét, do đó mỗi mẫu chỉ bằng 3.600 mét
vuông - mẫu Bắc Bộ). Với cách này, thuế điền thổ có nơi tăng 1/12, có nơi 1/3,
nơi khơng may nhất tăng đến 2/3).
> Thuế má khơng những nặng oằn lưng, mà cịn ln ln thay đổi. Từ
năm 1890 đến năm 1896, thuế trực thu tăng gấp đôi; từ năm 1896 đến năm
1898 lại tăng lên gấp rưỡi. Làng nào bị tăng thuế cũng cắn răng mà chịu; hỏi
còn biết kêu vào đâu? Được thể các ngài công sứ càng làm già. Nhiều người
Pháp coi việc các làng ngoan ngỗn đóng thuế như vậy là một bằng chứng rõ
ràng rằng mức thuế khơng có gì là quá đáng!
Đối với công nhân (chủ yếu là công nhân hầm mỏ, đồn điền), chủ nghĩa
thực dân trả tiền công rẻ mạt, điều kiện làm việc sinh hoạt thấp kém; thực hiện
biện pháp cúp phạt tiền công.
2.2. Chủ nghĩa thực dân kết hợp bóc lột với dùng bạo lực để tước đoạt,
hành hạ, đầu độc và thực hiện chính sách “ngu dân” đối với người dân


12
thuộc địa
- C.Mác nghiên cứu sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, phát hiện ra rằng,
ngoài con đường phân hóa người sản xuất nhỏ, dẫn đến sự ra đời quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, song con đường này diễn ra chậm chạp nên chủ nghĩa tư
bản còn ra đời theo con đường nhanh hơn đó là tích lũy nguyên thủy. Tích lũy
nguyên thủy là giai cấp tư sản thống trị dùng bạo lực để tước đoạt tư liệu sản
xuất từ tay những người nông dân, những người sản xuất nhỏ, tách những
người này ra khỏi tư liệu sản xuất, buộc họ phải đi làm thuê. C.Mác gọi đó là
sự bóc lột theo lối tiền tư bản. Chủ nghĩa tư bản phát triển, thì lối tước đoạt,
bóc lột tiền tư bản khơng cịn phù hợp, được thay thế bằng lối bóc lột tư bản
chủ nghĩa (bóc lột giá trị thặng dư).
- Tuy nhiên, đối với chủ nghĩa thực dân, theo Hồ Chí Minh chúng vẫn duy

trì kiểu bóc lột tiền tư bản, sử dụng bạo lực để tước đoạt, áp bức người dân các
nước thuộc địa. Cụ thể là:
+ Chủ nghĩa thực dân không chỉ bắt người dân thuộc địa phải chịu nhiều thứ
nặng nề, hà khắc mà cịn dùng bạo lực bắt chịu nhiều hình phạt khác:
+ Hình phạt những người khơng đóng đủ thuế. Nhiều phụ nữ nghèo khổ thảm
thương phải mang xiềng đi quét đường chỉ vì một tội khơng nộp nổi thuế.
+ Khơng miễn thuế cho những địa phương bị lũ lụt, như “Tỉnh Bắc Ninh
(bị lũ lụt tàn phá, thế mà cũng phải nộp 500.000 đồng tiền thuế”.
+ Chính quyền thuộc địa phát hành công trái, bắt người dân thuộc địa
phải mua công trái; quịt tiền công của người lao động; bắt dân đóng góp tiền
của để mừng quan chức được thưởng huân chương; thu lệ phí đăng ký trâu, bị:
(việc đăng ký trâu bị khơng mất tiền, nhưng quan lớn cơng sứ cứ cho phép những
kẻ thừa hành thu mỗi con từ 5 hào đến 5 đồng); ăn chặn tiền gửi về gia đình
của lính thuộc địa; bắt người dân đóng thuế chi phí quân sự; bắt người dân đi
tạp dịch, trong điều kiện làm việc, sinh hoạt rất tồi tệ “chui rúc trong những
túp lều tranh thảm hại; trưng tập dân đi phu bằng cách: “xua cả làng đến công
trường, bất chấp công việc đồng áng, bất chấp cả những ngày hội tôn giáo”. Số


13
người được trở về rất ít; bắt giam một số đơng người đói, khơng cho họ ăn gì
hết, nên nhiều người đã chết đói trong lúc bị giam cầm; trả tiền cơng bất bình
đẳng: Cùng làm một việc trong cùng một xưởng, người da trắng được trả lương
cao hơn nhiều so với người khác màu da.
+ Thêm vào nạn ăn cướp của chính quyền, là nạn ăn cướp của bọn chủ đồn
điền; chức sắc tơn giáo câu kết với chính quyền thực dân bóc lột người dân
thuộc địa. Chỉ riêng ở Nam Kỳ, hội thánh truyền đạo cũng đã độc chiếm đến
l/5 ruộng đất trong vùng.
+ Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra, chủ nghĩa thực dân bắt người
dân thuộc địa đi lính đánh thuê, làm bia đỡ đạn (Hồ Chí Minh gọi là thuế

máu). Người đã tố cáo chính quyền thực thân bắt người bản xứ đi lính dưới
chiêu bài được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và
tự do". Nhưng họ đã phải trả bằng một giá khá đắt là xa lìa vợ con, đi phơi thây
trên các bãi chiến trường châu Âu. Nguyễn ái Quốc cho rằng, đây cũng là một
thứ thuế dã man - thuế máu, mà chủ nghĩa thực dân sử dụng để bóc lột, áp bức
thuộc địa.
Người cũng tố cáo chính quyền thực dân dùng nhiều thủ đoạn thâm độc để
bắt lính, như kéo quân đến từng làng bắt bọn hào mục phải nộp ngay lập tức
đầy đủ số người chúng muốn tuyển mộ; tra tấn, hành hạ các thân nhân của họ
để buộc họ phaỉ đi lính; lấy dây chăng ngang hai đầu con đường chính trong
làng lại, những người da đen ở vào giữa đều phải tòng quân.
Đồng thời, Người cũng tố cáo chủ nghĩa thực dân đối xử bất bình đẳng
đối với người lính thuộc địa, như lột hết tất cả của cải của những người lính
bản xứ trước khi xuống tàu; cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn
dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu khơng khí,…
biến người lính thuộc địa thành những "vật liệu biết nói" .
+ Nguyễn Ái Quốc cũng vạch trần nhiều thủ đoạn xấu xa nhằm hành hạ,
đầu độc người dân bản xứ của chủ nghĩa thực dân, trong đó nhấn mạnh thủ
đoạn thâm độc đầu độc bằng thuốc phiện, bằng rượu,…còn nhằm mang lại lợi


14
nhuận cao. Người viết: “Xứ Đông Dương bị chủ nghĩa tư bản Pháp bóc lột, để
làm giàu cho bọn cá mập ! Người ta đưa người Đông Dương vào chỗ chết
trong cuộc chém giết của bọn tư bản để bảo vệ những cái gì mà chính họ khơng
hề biết. Người ta đầu độc họ bằng rượu cồn và thuốc phiện. Người ta kìm họ
trong ngu dốt ”1. Người đã đưa ra dẫn chứng là: “… cứ một nghìn làng thì có
một nghìn năm trăm đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện, nhưng chỉ có vẻn vẹn mười
trường học;… hằng năm người ta cũng đã tọng từ 23 đến 24 triệu lít rượu cho 12
triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ con”2.

+ Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc cũng tố cáo chủ nghĩa thực dân không chỉ
hành hạ, đầu độc mà cịn triệt để thực hiện chính sách “ngu dân” đối với dân
thuộc địa. Người viết: “Các đồng chí đều biết rằng chủ nghĩa tư bản Pháp đã
vào Đơng Dương từ nửa thế kỷ nay; vì lợi ích của nó, nó đã dùng lưỡi lê để
chinh phục đất nước chúng tơi. Từ đó chúng tơi khơng những bị áp bức và bóc
lột một cách nhục nhã, mà cịn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm”3.
Nguyễn Ái Quốc tố cũng cáo chủ nghĩa thực dân thi hành chính sách ngu
dân triệt để, như: kiểm duyệt triệt để báo chí, báo chí bản xứ phải chịu kiểm duyệt
trước khi in; mọi cuộc trưng bày hoặc phổ biến những bài hát, biếm hoạ hoặc
tranh ảnh làm thương tổn đến sự tơn kính đối với các nhà cầm quyền đều bị
trừng trị; cấm báo tiếng Việt không được đăng lên báo bản sắc lệnh quy định
thể lệ bầu cử hội đồng thành phố ở Nam Kỳ; không mở mang trường học ở các
nước thuộc địa, dẫn đến trường học ở các nước thuộc địa thiếu một cách nghiêm
trọng, hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường; ngăn cản không
cho thanh niên An Nam sang du học bên Pháp, vì sợ nhiễm phải chủ nghĩa
cộng sản; kiểm duyệt thư tín vẫn cịn tiến hành nghiêm ngặt, chặn lại và lục
sốt thư tín của tư nhân v.v..
Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã kết luận: "Làm cho dân ngu để dễ trị", đó là
chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất.
+ Chủ nghĩa thực dân đối xử tàn bạo, bất bình đẳng đối với người bản xứ:
1
2
3

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.34
Hồ Chí Minh tồn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.36
Hồ Chí Minh tồn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.22


15

Nguyễn Ái Quốc tố cáo dưới chế độ thực dân khơng có cơng lý cho người
bản xứ. Người viết: “Ở các tỉnh, người bản xứ bị trói chân, phải gánh chịu thói
tùy hứng, chuyên quyền của các quan cai trị người Pháp và thói tham tàn của
bọn tơi tớ ngoan ngoãn cho chúng, bọn quan lại, sản phẩm của chế độ mới ! Ấy
là công lý bị bán đứt cho kẻ nào mua đắt nhất, trả giá hới nhất”; “Một bên là
những người Pháp và người nước ngoài: họ đều đi lại tự do, tự dành cho mình
tất cả các tài nguyên của đất nước, chiếm đoạt toàn bộ xuất nhập khẩu và các
ngành nghề béo bở nhất, bóc lột trâng tráo trong cảnh dốt nát và nghèo khốn
của nhân dân”4. Người đưa ra các dẫn chứng: chính quyền thực dân ở An Nam
bắt các phạm nhân ở nhà lao Nha Trang (Trung Kỳ) phải ăn khan, không được
uống nước; quệt tanhtuya điốt lên mũi phạm nhân để dễ nhận ra họ khi họ vượt
ngục; để phòng bệnh "dịch hạch" đã đốt nhà dân bản xứ, còn nhà của người da
trắng, cơng dân Pháp thì khơng phải đốt; khi người da trắng chốn thuế thì
khơng xử, người bản xứ bị coi là chốn thuế kỳ thực là do chủ lừa đảo thì lại bị
bỏ tù; xử tử hoặc đầy biệt xứ nhiều văn thân sau những vụ biểu tình ở miền
Nam Trung Kỳ v.v..
+ Chủ nghĩa thực dân áp bức dã man phụ nữ thuộc địa:
Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rằng, dưới chế độ thực dân, phụ nữ bị áp bức rất
dã man. Người viết: “Chế độ thực, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực
của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Bạo lực đó, đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữa,
lại càng bỉ ổi hơn nữa’’5.
Người cũng nhấn mạnh rằng, ở An Nam khơng một chỗ nào người phụ nữ
thốt khỏi những hành động bạo ngược; ngoài phố, trong nhà, giữa chợ hay ở
thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn của bọn quan
cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga. Người đưa ra dẫn
chứng: “Ngay giữa chợ Bến Thành ở Sài Gòn - mà người ta bảo là một thành
phố Pháp, bọn gác chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi
cui đánh phụ nữ bản xứ để bắt họ tránh khỏi làm nghẽn lối! ; phụ nữ An Nam
4
5


Hồ Chí Minh tồn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.8
Hồ Chí Minh tồn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.96


16
sống quằn quại trong cảnh lầm than và bị áp bức như thế nào”.
Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra rằng, dưới chế độ thực dân, thói dâm bạo
thực dân là hiện tượng phổ biến và tàn ác không thể tưởng tượng được, và thuế
má nặng nề không phải chỉ đánh vào ruộng đất, vào súc vật và vào nam giới mà
thơi, mà cái ơn mưa móc (!) ấy cịn tưới rộng ra cho cả nữ giới nữa nhiều phụ
nữ bản xứ khốn khổ, phải mang nặng gông xiềng đi quét đường chỉ vì một tội
là khơng nộp nổi thuế. Từ đó Người đưa ra nhận xét xác đáng về chủ nghĩa
thực dân: “Người ta thường nói: "Chế độ thực dân là ăn cướp". Chúng tôi xin
thêm: là hiếp dâm và giết người”6.
Tác giả kết luận: là người An Nam, họ bị áp bức, là người nông dân, họ
bị tước đoạt. Chính họ phải sống cùng khổ, trong khi bọn đao phủ của họ lại
sống phè phỡn; họ bị cướp giật từ mọi phía, bằng mọi cách, bởi nhà nước, bởi
bọn phong kiến tân thời, bởi giáo hội Thiên chúa. Phác qua như thế, cũng đủ
thấy dưới chiêu bài dân chủ, đế quốc Pháp đã cắm vào đất An Nam chế độ
đáng nguyền rủa của thời trung cổ; người nông dân An Nam bị hành hình vừa
bằng lưỡi lê của nền văn minh tư bản chủ nghĩa, vừa bằng cây thánh giá của
giáo hội sa đọa làm ô danh Chúa. Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột đầy
tội ác, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn trang điểm cho cái huy chương mục
nát của nó bằng những châm ngơn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v...
3. Ý nghĩa quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc lột, bạo lực của chủ
nghĩa thực dân
3.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa thực
dân đã giáng địn tiến cơng quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân và góp phần
bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và kinh tế chính trị Mác

-Lênin nói riêng
- Quan điểm Hồ Chí Minh đã góp phần tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực
dân đối với thuộc địa, đồng thời chống các quan điểm, tư tưởng sai trái, tán
dương chủ nghĩa thực dân (cho thực dân Pháp là mẫu quốc, là khai hóa văn
6

Hồ Chí Minh tồn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.106


17
minh, là chế độ bảo hộ,…).
- Quan điểm của Hồ Chí Minh góp phần bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác
- Lênin nói chung, kinh tế chính trị mác - xít nói riêng (lột tả tội ác của chủ
nghĩa thực dân, bản chất bóc lột, bóc lột biện pháp phi kinh tế, bóc lột thời
trung cổ, nơ lệ hiện đại); đồng thời góp phần tích cực vào việc truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và các nước thuộc địa khác.
3.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa thực
dân là cơ sở lý luận quan trọng để Người vạch ra con đường cách mạng
đúng đắn cho các dân tộc thuộc địa
Trên cơ sở bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với thuộc địa,
Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng chính
quốc với cách mạng thuộc địa, khẳng định vai trò to lớn của nơng dân trong
cách mạng giải phóng dân tộc:
- Con đường giải phóng thuộc địa khỏi sự bóc lột, áp bức của chủ nghĩa
thực dân phải theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga. Người nói:“muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng cịn con đường nào khác con đường cách
mạng vơ sản. Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
- Trên cơ sở nghiên cứu bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân, Nguyễn Ái
Quốc chỉ ra rằng, bóc lột thuộc địa là một trong hai nguồn sống của chủ nghĩa tư

bản, cho nên muốn đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, trước hết phải xóa bỏ thuộc địa
của chúng đi. Do đó, Người đưa ra luận điểm: cách mạng thuộc địa không chỉ
trông chờ vào kết quả của cách mạng vơ sản ở chính quốc mà phải tiến hành song
song với cách mạng ở chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động và có thể giành
thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc anh em vô sản ở phương Tây. Nguyễn Ái Quốc viết: “Chủ nghĩa tư
bản là một con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một
cái vịi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người
ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì cái vịi còn


18
lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vơ sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái
vịi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”7.
- Đồng thời, trên cơ sở phân tích tình cảnh người nơng dân ở các nước
thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, phải sống trong hồn cảnh cùng cực như
vậy nên người nơng nói chung và người nơng dân Việt Nam nói riêng chẳng
những có ý thức giai cấp rõ rệt mà cịn có ý thức dân tộc rất mạnh mẽ. Do đó,
trong nhiều bài viết, Nguyễn Ái Quốc khẳng định vị trí, vai trị to lớn của lực
lượng nơng dân trong cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, và
giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nơng dân, đem lại ruộng đất
cho nông dân.
3.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa thực
dân là cơ sở lý luận quan trọng xem xét bản chất, địa vị lịch sử chủ nghĩa tư
bản ngày nay
- Quan điểm của Hồ Chí Minh khơng chỉ soi đường cho cách mạng Việt
Nam và cách mạng các nước thuộc địa phụ thuộc nói chung trong nửa thế kỷ
qua mà ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị đối với cách mạng nước ta và
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Chủ nghĩa tư bản ngày nay có tiềm năng phát triển, điều chỉnh thích nghi

về quan hệ sản xuất, trước mắt cịn có sự phát triển, song không vượt qua giới
hạn, mâu thuẫn, tất yếu bị diệt vong, bị thay thế bởi xã hội cao hơn.
- Trong xu thế tồn cầu hóa kinh tế, Việt Nam mở rộng hội nhập quốc tế
nhằm phát huy nội lực, khai thác ngoại lực là chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên,
cần thức thức đầy đủ cơ hội và thách thức, mặt trái của kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, cũng như âm mưu chủ nghĩa đế quốc lợi dụng đầu tư tư bản vào
các nước chậm phát triển, trong đó có nước ta để thực hiện chiến lược “diễn
biến hịa bình”.
CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về
sự bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa thực dân.
7

Hồ Chí Minh tồn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.120


19
2. Bằng lý luận, thực tiễn chứng minh quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc
lột, bạo lực của chủ nghĩa thực dân.
3. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về sự bóc lột, bạo lực của chủ nghĩa
thực dân xem xét, đánh giá vị trí, vai trị kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi ở
nước ta hiện nay.



×