Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bộ đội địa PHƯƠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH dân tộc ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.57 KB, 99 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản lâu dài, đồng
thời là vấn đề cấp bách hiện nay của công cuộc đổi mới. Chính sách dân tộc là
một bộ phận trong hệ thống chính sách chung của Đảng và Nhà nước ta, tác
động trực tiếp đến cộng đồng các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Trong các giai đoạn cách mạng Đảng và nhà nước ta luôn đặc biệt
quan tâm đến CSDT, luôn có CSDT đúng đắn, sáng tạo. Thực hiện tốt CSDT
góp phần to lớn tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
sức mạnh tổng hợp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi nằm ở trung tâm Bắc Bộ Việt Nam, gồm
36 thành phần dân tộc anh em cùng sinh sống. Các dân tộc có trình độ phát triển
không đồng đều, tình trạng lạc hậu và khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa
các dân tộc còn khá lớn. Do vậy, thực hiện hiệu quả CSDT nhằm bảo đảm các dân
tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa các
dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số là trách
nhiệm không chỉ của HTCT địa phương mà còn là nhiệm vụ của các đơn vị Quân
đội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Bộ đội địa phương tỉnh Phú Thọ là một bộ phận của Quân đội nhân dân
Việt Nam. Cán bộ, chiến sỹ của BĐĐP tỉnh Phú Thọ cơ bản là con em đồng bào
các dân tộc trong tỉnh, gắn bó máu thịt với nhân dân. Trong những năm qua,
BĐĐP tỉnh Phú Thọ đã thực hiện khá tốt CSDT của Đảng và Nhà nước trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần ổn định đời sống của đồng bào các dân tộc,
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững. Tuy nhiên,
so với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới, vai trò của BĐĐP tham gia thực hiện
CSDT có mặt chưa thể hiện rõ, có lúc, có nơi sự phối hợp với các lực lượng khác
còn lúng túng, cơ chế chưa rõ ràng, tính hiệu quả trên thực tế chưa cao; chưa phát
huy hết chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong tổ chức thực hiện.
3




Trong khi đó, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn tỉnh hiện nay là phải thực hiện tốt CSDT của Đảng và Nhà nước,
nhằm từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng
bào các dân tộc, khắc phục khoảng cách chênh lệch về trình độ kinh tế - xã
hội; thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, góp phần củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân, ổn định chính trị - xã hội. Mặt khác trong khi cả nước nói chung và
tỉnh Phú Thọ nói riêng các thế lực thù địch đang tìm mọi cách lợi dụng vấn đề
dân tộc, để chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân ta, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn
xảo quyệt, nhằm gây mất ổn định cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và
quốc phòng, an ninh. Vì vậy, việc nghiên cứu toàn diện cả lý luận và thực tiễn
về thực hiện CSDT của BĐĐP tỉnh Phú Thọ, trên cở sở đó đề xuất yêu cầu và
một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn CSDT của BĐĐP tỉnh Phú
Thọ hiện nay là vấn đề mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Với lý
do trên, tác giả chọn đề tài “Bộ đội địa phương thực hiện chính sách dân
tộc ở tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề dân tộc và thực hiện CSDT luôn là mục tiêu quan trọng có tính
chất chiến lược cách mạng do vậy luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm cụ thể
hóa bằng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và hệ thống pháp luật của nhà nước.
Ngoài ra trong thời gian gần đây có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học, đề
tài, bài viết liên quan tới vấn đề dân tộc và việc thực hiện CSDT của Đảng và
Nhà nước ta.
* Nhóm nghiên cứu về chính sách dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc,
có các công trình tiêu biểu.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội - Khoa
Dân tộc (1995), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước. Trên góc độ dân tộc học cuốn sách đã làm rõ những điều cơ bản nhất

4


của vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong những
năm đổi mới đất nước.

Trần Quang Nhiếp (1997), Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Tác giả đã nêu những đặc điểm
chủ yếu, thực trạng của quan hệ dân tộc, những yếu tố tác động, các hình
thức biểu hiện quan hệ dân tộc ở nước ta.
Nguyễn Quốc Phẩm - Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Các tác giả đưa ra sự lý giải về một số khái niệm liên quan đến vấn đề dân
tộc và trình bày thực tiễn vấn đề dân tộc và CSDT Việt Nam hiện nay.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2000), Vấn đề dân tộc và chính
sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính Trị Quốc gia, Hà Nội.
Tài liệu đề cập đến vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc trên thế giới, tình hình và
đặc điểm chủ yếu, mối quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam, CSDT của Đảng
và Nhà nước Việt Nam, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng và cán bộ Đảng viên
trong việc thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước.
Ủy ban dân tộc và miền núi (2001), Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc
ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đề cập tới các quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta
về vấn đề dân tộc và thực hiện CSDT. Bên cạnh đó các tác giả cũng nêu ra các
đặc điểm nổi bật của dân tộc Việt Nam và công tác dân tộc cần thực hiện trong
sự nghiệp cách mạng nước ta.
Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi (2002), Vấn đề dân tộc
và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã trình bày cơ sở lý
luận và thực tiễn về CSDT của Đảng ta, và những định hướng cơ bản trong

việc quy hoạch dân cư, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế hàng hóa phù hợp
với đặc điểm từng vùng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc
5


biệt là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời kiến
nghị những giải pháp sớm ổn định và cải thiện đời sống đồng bào dân tộc.
Ủy ban dân tộc và miền núi (2005), Một số vấn đề về dân tộc và phát triển,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách đề cập đến những vấn đề lý
luận, xác định chức năng của nhà nước về công tác dân tộc, chính sách phát triển
của Đảng và Nhà nước về kinh tế, ngành nghề thủ công, nguồn nhân lực, giải
quyết vấn đề di dân ở đồng bào dân tộc thiểu số, vai trò của già làng, trưởng bản,
người có uy tín trong cộng đồng dân tộc, vai trò nghiên cứu khoa học với công tác
dân tộc, sự phát triển bền vững, bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc dân tộc.
Lê Đại Nghĩa - Dương Văn Lượng (2010), Dân tộc và chính sách dân tộc
ở Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách đề cập đến những vấn đề
cơ bản của dân tộc, CSDT, cũng như quan điểm CSDT của Đảng Cộng sản Việt
Nam qua các thời kỳ cách mạng.
Vũ Thư (2014), Vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng, Nhà nước ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay, Luận văn thạc sĩ CNXH
khoa học, Học viện Chính trị, Hà Nội. Luận văn đã trình bày cơ sở lý luận và thực
tiễn CSDT của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, vai trò, thực trạng của HTCT cơ sở
ở tỉnh Lâm Đồng trong thực hiện CSDT; đề ra những yêu cầu, giải pháp phát huy
vai trò của HTCT cơ sở ở tỉnh Lâm Đồng trong thực hiện CSDT của Đảng, Nhà
nước ta hiện nay.
* Nhóm nghiên cứu về vai trò và hoạt động của lực lượng vũ trang, bộ đội
địa phương trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta.
Bàn về vai trò và hoạt động của lực lượng vũ trang, bộ đội địa phương
trong thực hiện CSDT của Đảng, Nhà nước ta, một số công trình tiêu biểu như:

Lê Thế Mạnh (2000), Lực lượng vũ trang Quân khu 2 với thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học

viện Chính trị, Hà Nội; Dương Đình Tài (2005), Phát huy vai trò đơn vị cơ sở
Quân khu 2 trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị, Hà Nội. Các tác giả đã luận
6


giải những vấn đề cơ bản về lực lượng vũ trang và hoạt động tham gia thực hiện
CSDT của lực lượng vũ trang. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân,
từ đó xác định phương hướng, yêu cầu và những giải pháp cơ bản nâng cao chất
lượng tham gia thực hiện CSDT của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
Mẫn Văn Mai (2003), Vai trò của quân đội trong thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước, Đề tài khoa học cấp Tổng cục Chính Trị, Hà Nội. Tác
giả đã trình bày những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn trong thực hiện
CSDT, vai trò thực trạng của Quân đội trong tham gia thực hiện CSDT; đề ra
những yêu cầu, giải pháp phát huy vai trò của Quân đội trong thực hiện CSDT của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
Nguyễn Tiến Dũng (2005), Bộ đội địa phương tỉnh Lâm Đồng tham gia
xây dựng cơ sở xã phường vững mạnh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ
khoa học chính trị, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội. Đặng Thanh Nam
(2010), Bộ đội địa phương tỉnh Cà Mau tham gia xây dựng hệ thống chính
trị cơ sở hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị, Hà Nội;
Nguyễn Đại Văn Phú (2013), Bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn tham gia
xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ CNXH
khoa học, Học viện Chính trị, Hà Nội; Huỳnh Trường Sơn (2015), Bộ đội
địa phương Đà Nẵng tham gia xây dựng cơ sở chính trị xã - xã hội trên địa
bàn hiện nay, Luận văn thạc sĩ CNXH khoa học, Học viện Chính trị, Hà
Nội. Các tác giả đã luận giải những vấn đề cơ bản về BĐĐP và hoạt động

tham gia, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, xây dựng
HTCT của BĐĐP. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, những nguyên
nhân, rút ra một số kinh nghiệm tham gia xóa đói, giảm nghèo; xây dựng
cơ sở chính trị - xã hội của BĐĐP. Từ đó xác định phương hướng, yêu cầu
và những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng tham gia xóa đói, giảm
nghèo, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, HTCT vững mạnh của BĐĐP
trong giai đoạn hiện nay. Thông qua đó, BĐĐP thể hiện khả năng của mình
trong tham gia thực hiện CSDT của Đảng, Nhà nước ta.
7


Như vậy, cho đến nay có rất nhiều công trình khoa học đi sâu nghiên
cứu, lý giải về thực hiện CSDT ở các góc độ khác nhau; về vai trò của Quân
đội trong thực hiện CSDT. Tuy nhiên chưa có công trình nào đề cập một
cách có có hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn cũng như đề xuất hệ thống các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện CSDT của BĐĐP tỉnh Phú Thọ
hiện nay. Vì vậy đề tài “Bộ đội địa phương thực hiện chính sách dân tộc ở
tỉnh Phú Thọ hiện nay” mà tác giả chọn làm luận văn tốt nghiệp là công
trình độc lập, không trùng lắp với các công trình khoa học, luận văn, luận án
đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về BĐĐP tỉnh Phú
Thọ trong thực hiện CSDT hiện nay. Từ đó xác định yêu cầu và đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của BĐĐP tỉnh Phú Thọ thực hiện
CSDT của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận về BĐĐP tỉnh Phú Thọ trong thực hiện
CSDT của Đảng, Nhà nước ta. Đánh giá thực trạng BĐĐP tỉnh Phú Thọ thực
hiện CSDT của Đảng, Nhà nước ta hiện nay. Đề xuất yêu cầu và một số giải

pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện CSDT của BĐĐP tỉnh Phú
Thọ hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Bộ đội địa phương thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động thực hiện CSDT của các đơn vị thuộc BCHQS tỉnh Phú Thọ
gồm: BCHQS Tỉnh, các cơ quan quân sự huyện, thành phố, thị xã, Trường quân
sự và các tiểu đoàn, đại đội trực thuộc BCHQS Phú Thọ, các số liệu tổng kết,
đánh giá từ năm 2010 đến nay.
8


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân
tộc, CSDT và nhiệm vụ của Quân đội nhân đội Việt Nam trong tình hình mới.
* Cơ sở thực tiễn
Từ thực tiễn thực hiện CSDT của các cơ quan, đơn vị BĐĐP tỉnh Phú Thọ
từ năm 2010 đến nay thông qua các báo cáo sơ kết, tổng kết và kết quả điều tra
khảo sát của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin được xác định là phương pháp xuyên suốt
của luận văn. Đồng thời luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu của khoa học xã hội và nhân văn như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc,
hệ thống cấu trúc, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm luận cứ khoa
học để BĐĐP tỉnh Phú Thọ nói riêng, BĐĐP các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc
nói chung phát huy tốt vai trò của mình trong thực hiện CSDT của Đảng, Nhà
nước hiện nay. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy, học tập ở hệ thống nhà trường quân đội và đội ngũ cán bộ cơ sở trong
tham gia thực hiện CSDT của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BỘ ĐỘI ĐỊA PHƯƠNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

1.1. Một số vấn đề lý luận về bộ đội địa phương thực hiện chính
sách dân tộc ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
1.1.1. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
* Quan niệm dân tộc
Hiện nay dân tộc là vấn đề phức tạp không chỉ về mặt lý luận mà còn
cả về mặt thực tiễn. Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc luôn là mối quan
tâm hàng đầu của các quốc gia dân tộc. Cho đến nay, trên thế giới, dân tộc
được quan niệm theo hai nghĩa chính: Thứ nhất, dân tộc theo nghĩa quốc gia
dân tộc, được hiểu là một cộng đồng chính trị - xã hội, được chỉ đạo bởi một
nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định. Ví dụ dân tộc Việt Nam, dân
tộc Trung Hoa... với các dấu hiệu đặc trưng như có một lãnh thổ, có đời sống
kinh tế chung, có ngôn ngữ giao tiếp chung, có tâm lý chung, có một thể chế
chính trị với một Nhà nước thống nhất. Thứ hai, dân tộc dùng để chỉ một cộng

đồng tộc người; theo nghĩa này, dân tộc là một cộng đồng người hình thành và
phát triển trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có chung nguồn gốc nhân
chủng, ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hóa và ý thức tự giác dân tộc. Trong
mỗi dân tộc có thể bao gồm nhiều nhóm địa phương có tên gọi khác nhau,
nhưng có đặc trưng về ngôn ngữ, văn hóa gần gũi nhau ... Chẳng hạn ở Việt
Nam, dân tộc Mông có các nhóm Mông hoa, Mông xanh, Mông đen, dân tộc
Chứt có các nhóm địa phương như Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng. Dân tộc
trong nghĩa cộng đồng tộc người thường được nhận biết qua các đặc trưng
sau: Các thành viên trong cùng một dân tộc đều có một ngôn ngữ chung để
giao tiếp nội bộ dân tộc và ngăn cách, phân biệt với dân tộc khác. Đây là đặc
trưng cơ bản đầu tiên để nhận biết, phân định dân tộc. Đặc trưng tiếp theo là
các thành viên trong cùng một dân tộc đều có chung đặc điểm sinh hoạt văn
hóa, tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc, phân biệt với văn hóa các dân tộc
10


khác. Trong xem xét, so sánh văn hóa dân tộc - tộc người, người ta thường
phân chia một cách tương đối các thành tố như văn hóa sản xuất, văn hóa bảo
đảm đời sống, văn hóa nhận thức và văn hóa xã hội. Các thành viên trong
cùng một dân tộc đều có chung một ý thức tự giác dân tộc, tức là ý thức tự
giác cho mình, tự thừa nhận mình là thuộc một cộng đồng dân tộc, đều tự hào
mình là dân tộc này mà không thuộc dân tộc kia, tự hào về ngôn ngữ, văn hóa
dân tộc mình, luôn có ý thức bảo lưu, giữ gìn ngôn ngữ, văn hóa, lợi ích của
dân tộc mình mà biểu hiện cao nhất là việc tự nhận tên dân tộc của bản thân
mình. Nghiên cứu về dân tộc theo nghĩa tộc người đây chính là cơ sở để tiếp
cận việc hoạch định và thực hiện CSDT của Đảng, Nhà nước ta hiện nay và
cũng là hướng nghiên cứu luận văn của tác giả.
Nghiên cứu dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc luôn được các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin coi trọng. Trong "Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản", Mác và Ăngghen khẳng định rằng: "Hãy xóa bỏ tình trạng người

bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa
bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa
thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo" [37, tr. 624]. Khi
viết về vấn đề dân tộc, Mác, Ăngghen, Lênin đã gắn vấn đề dân tộc với giai
cấp, gắn với cuộc đấu tranh cho bình đẳng xã hội. Trong cương lĩnh dân tộc Lênin
đã khẳng định: "Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự
quyết; liên hợp công nhân các dân tộc lại" [30, tr. 375]. Lênin luôn nhấn mạnh
vấn đề dân tộc là thực hiện quyền bình đẳng hoàn toàn trên mọi lĩnh vực. Như
vậy việc thực hiện bình đẳng xã hội là mục tiêu bao trùm có ý nghĩa quyết
định việc bình đẳng dân tộc, ngược lại việc thực hiện bình đẳng dân tộc sẽ
góp phần bình đẳng xã hội.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc Nguyễn Ái
Quốc (Hồ Chí Minh) đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin từ việc "bắt gặp"
Luận cương về dân tộc và thuộc địa của Lênin. Xuất phát từ điều kiện cụ thể
của Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống từ lâu
11


đời, Người luôn đề cao vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp
cách mạng chung của cả dân tộc Việt Nam. Người cho rằng, muốn giải phóng
dân tộc Việt Nam phải đoàn kết các dân tộc anh em, phải giải quyết tốt các
vấn đề dân tộc. Về mặt nội dung của đoàn kết dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta: "Nước ta là
một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc, các dân tộc sống trên đất nước Việt
Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ” [38, tr. 110]. Đó là vấn đề cốt lõi
nhất, cơ bản nhất trong tư tưởng về vấn đề dân tộc của Người. Để khắc phục
những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi. Người thường nhắc nhở "Người
dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo, cán bộ địa phương, nhân dân địa phương lại
dễ coi mình là dân tộc bé nhỏ, tự ti” [39, tr. 136].
Như vậy, bình đẳng, đoàn kết thực hiện quyền tự quyết là những nội

dung chính giúp các đảng mác xít chân chính; trong đó có Việt Nam vận dụng
vào hoàn cảnh nước mình, cụ thể hóa thành CSDT.
* Quan niệm, nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiểu một cách đúng đắn và
toàn diện: Đó là toàn bộ những chủ trương, giải pháp tác động vào tất cả các
lĩnh vực đời sống của các dân tộc, các vùng dân tộc và đối với từng dân tộc
riêng biệt, nhằm thay đổi tình trạng lạc hậu, biệt lập, phân biệt, bất bình
đẳng giữa các dân tộc, thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và tương
trợ giúp đỡ nhau giữa các dân tộc để cùng phát triển, đưa các dân tộc đi lên
con đường ấm no, tự do, hạnh phúc.
Chính sách dân tộc là một bộ phận của chính sách quốc gia nhằm phát
triển, khai thác tiềm năng, thế mạnh, truyền thống của các dân tộc và vùng đồng
bào dân tộc trong quan hệ hữu cơ với các vùng khác, hướng tới phát triển đất nước
trong tổng thể. CSDT mặc dù hướng vào giải quyết vấn đề dân tộc nhưng cũng có
nội dung toàn diện, đề cập đến mọi lĩnh vực của đời sống nhân dân từ kinh tế, đến
chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, truyền
12


thống của mỗi địa phương và mỗi dân tộc. CSDT của Đảng và Nhà nước ta dựa
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc; xuất phát từ tình hình đặc điểm quan hệ dân
tộc ở Việt Nam; từ yêu cầu chung của cách mạng Việt Nam và nhiệm vụ chủ yếu
trong mỗi thời kỳ. Đây là cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng để CSDT của Đảng
và Nhà nước ta mang tính khoa học và đại chúng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
Đảng ta khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường
văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích và truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập

quán, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp
hòi, kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với
đặc điểm của các vùng và các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số” [12, tr.19].
Qua các kỳ đại hội vấn đề dân tộc và CSDT luôn được Đảng ta bổ
sung phát triển, đặc biệt đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của
nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc
bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc,
giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam bộ, Tây Duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các
dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ
trương, CSDT của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc;
nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
dân tộc” [20, tr.164-165].
13


Trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng ta vẫn luôn khẳng định vị trí
chiến lược của vấn đề dân tộc và CSDT nhằm tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, tạo sự chuyển biến rõ nét trong đời sống vật chất, tinh thần cho
đồng bào các dân tộc nhất là dân tộc thiểu số; với quan điểm cơ bản, xuyên
suốt là “Các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ
giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển” [20, tr.164-165]. Những quan
điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề dân tộc:
Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản,
lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Hai là, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,

tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu,
thủ đoạn chia rẽ dân tộc.
Ba là, phát triển toàn diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh,
quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế
với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt CSDT; quan tâm phát triển, bồi
dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, giữ
gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và
miền núi; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với
bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự
cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của
Trung ương và sự tương trợ, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Năm là, công tác dân tộc và thực hiện CSDT là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ HTCT.
14


Nội dung CSDT chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện:
Trên lĩnh vực kinh tế: Đảm bảo việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, kết
cấu hạ tầng thiết yếu vùng dân tộc thiểu số; đồng thời, khai thác có hiệu quả
tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, bảo vệ môi trường sinh thái, phát huy
tinh thần tự lực, tự cường của các dân tộc. Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút
các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư phát
triển ở vùng dân tộc thiểu số; ưu tiên đặc biệt đối với dân tộc thiểu số rất ít
người và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn;
chú trọng đào tạo nghề, sử dụng lao động là người tại chỗ, đảm bảo thu nhập
ổn định, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi công cộng khác.

Khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vùng dân tộc thiểu
số và đầu tư trở lại phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. Ứng
dụng các tiến bộ kỹ thuật, đưa khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất
nhằm nâng cao đời sống của đồng bào vùng dân tộc thiểu số. Khôi phục và
phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống của đồng bào các dân tộc
thiểu số, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường. Thực hiện các chương trình,
đề án thực hiện CSDT, giải quyết việc làm, giải quyết cơ bản vấn đề vốn, đất
ở, đất sản xuất, công cụ sản xuất cho nông dân thiếu đất, nhà ở, nước sinh
hoạt, hỗ trợ phát triển kinh tế, giao đất, giao rừng cho hộ gia đình ở vùng dân
tộc thiểu số, chuyển dịch cơ cấu lao động, ngành nghề theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững. Có chính sách hỗ trợ kịp thời
những dân tộc thiểu số có khó khăn đặc biệt để ổn định và phát triển.
Trên lĩnh vực chính trị: Thực hiện tốt CSDT bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng,
giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, phát huy quyền làm chủ của các dân tộc trên
tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số cũng như đa số
đều có đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ công dân, quyền lợi và trách nhiệm xây
dựng thể chế chính trị mới, phát huy vai trò của HTCT; dân chủ hóa đời sống
chính trị ở các vùng dân tộc thiểu số. Tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân
các dân tộc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
15


nước; giáo dục ý thức cảnh giác chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù
nhằm mua chuộc, lôi kéo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời
chống mọi biểu hiện kỳ thị, chia rẽ dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc, nghiêm cấm
mọi sự lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích
động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan
tâm, chăm lo đến đời sống văn hóa tinh thần, giáo dục đào tạo và công tác cán bộ

cho miền núi nhằm “nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc”. Đảng và Nhà
nước quan tâm phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số theo chương trình chung
quốc gia; xây dựng chính sách giáo dục ở tất cả các cấp học phù hợp với đặc thù
dân tộc. Phát triển trường mầm non, trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc
nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm
học tập cộng đồng, trường dạy nghề, trường dự bị đại học; nghiên cứu hình thức
đào tạo đa ngành bậc đại học cho con em các dân tộc thiểu số để đẩy nhanh việc
đào tạo nguồn nhân lực phục vụ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế. Đồng thời, quy định các điều kiện và biện pháp cụ thể, phù hợp
để hỗ trợ cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số; giải quyết chỗ ở, học
bổng và cho vay vốn trong thời gian học tập phù hợp với ngành nghề đào tạo và
địa bàn cư trú của sinh viên dân tộc thiểu số. Học sinh, sinh viên người dân tộc
thiểu số rất ít người, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó
khăn được miễn học phí ở tất cả các cấp học, ngành học. Đưa tiếng nói, chữ viết
và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc vào chương trình giảng dạy trong
các trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú,
trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, trường dạy nghề,
trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học phù hợp với địa bàn vùng dân tộc.
Chính quyền địa phương, nơi có con em dân tộc thiểu số thi đỗ vào Đại học, Cao
đẳng và sinh viên được cử đi học hệ cử tuyển, có trách nhiệm tiếp nhận và phân
công công tác phù hợp với ngành nghề đào tạo sau khi tốt nghiệp.
16


Đảng và Nhà nước quan tâm hỗ trợ việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo vệ, bảo
tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu
số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ viết
của các dân tộc có chữ viết. Xây dựng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia
để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; hỗ trợ việc đầu tư, giữ gìn,

bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng. Hơn thế nữa,
Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đầu tư phát triển thông tin - truyền thông vùng
dân tộc thiểu số, cung cấp một số phương tiện thiết yếu nhằm đảm bảo quyền tiếp
cận và hưởng thụ thông tin cho đồng bào. Xây dựng, củng cố hệ thống thông tin
tình hình dân tộc và tổ chức thực hiện CSDT. Đồng thời, tăng cường và nâng cao
chất lượng sử dụng ngôn ngữ dân tộc trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Xây dựng, củng cố quốc phòng, an
ninh ở các địa bàn xung yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo
gắn với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị và giữ vững
trật tự an toàn xã hội ở vùng dân tộc thiểu số. Cơ quan Nhà nước, đồng bào
các dân tộc ở vùng biên giới và hải đảo có trách nhiệm cùng các cơ quan,
tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và chính quyền địa phương
bảo vệ đường biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội và
tăng cường quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước láng giềng ở vùng
biên giới và hải đảo theo quy định của pháp luật.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo vững chắc
quốc phòng và an ninh, đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù
địch; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Những quan điểm CSDT của Đảng, Nhà nước ta đã đáp ứng được tâm tư
nguyện vọng sâu xa của đồng bào các dân tộc thiểu số. Chương trình phối hợp
thực hiện với HTCT các cấp, các tổ chức, các lực lượng phải cụ thể hóa cho
phù hợp với tình hình chính trị - xã hội của địa phương. Có như vậy, quan
điểm CSDT của Đảng, Nhà nước mới đi vào cuộc sống đồng bào các dân tộc.
17


1.1.2. Đặc điểm, quan niệm về bộ đội địa phương thực hiện chính
sách dân tộc ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
* Một số nét về tỉnh Phú Thọ

Phú Thọ là quê hương Đất Tổ, nằm ở phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội, Phú
Thọ có sông Lô là giới hạn tự nhiên với tỉnh Tuyên Quang và Vĩnh Phúc,
sông Đà là giới hạn tự nhiên với thành phố Hà Nội, phía Bắc giáp tỉnh Tuyên
Quang và Yên Bái, phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía Tây giáp tỉnh Sơn La.
Tỉnh Phú Thọ hiện nay có diện tích tự nhiên là 3.532,94km 2. Địa hình khá
phức tạp giữa vùng rừng núi với gò đồi và đồng bằng nhỏ hẹp. Toàn tỉnh có 13
huyện, thành, thị, 277 xã, phường, thị trấn... dân số 1.488.049 người.
Về tình hình dân tộc ở tỉnh Phú Thọ: Trên địa bàn tỉnh có 36 thành phần
dân tộc anh em cùng sinh sống, đông nhất là dân tộc Kinh với số dân là
1.044.979 người, chiếm 85,89% dân số của tỉnh. Dân số là người dân tộc thiểu
số là: 238.980 người, chiếm gần 16% số dân toàn tỉnh. Trong các dân tộc thiểu
số, quy mô dân số có sự chênh lệch lớn, có dân tộc thiểu số có số dân trên mười
nghìn người (Mường, Dao), nhưng cũng có dân tộc thiểu số có số dân số rất ít
thậm chí chỉ một vài người (Lô Lô, Hrê, Giẻ triêng...). có 04 dân tộc (Mường,
Dao, Sán chay, Hmông) sống tương đối tập trung, còn lưu giữ và phát huy được
bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Còn 32 dân tộc thiểu số còn lại có mặt
trên địa bàn với nhiều lý do khác nhau, sống xen kẽ với các dân tộc khác trên tất
cả 13 huyện, thành thị trong Tỉnh. Phần lớn họ là những người nghèo, chủ yếu
sống bằng nghề phát nương làm rẫy. Sự xen cư giữa các tộc người làm cho quan
hệ dân tộc ở đây rất phong phú, đa dạng nhưng cũng khá phức tạp, tác động trực
tiếp đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện CSDT cụ thể cho từng địa phương.
Nội dung thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
Trên cơ sở quan điểm, CSDT của Đảng và Nhà nước ta, từ yêu cầu thực
tiễn và đặc điểm đồng bào dân tộc của địa phương. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ xác
định một số nội dung cụ thể hóa thực hiện CSDT tộc trên địa bàn như sau:
18


Thứ nhất, các dân tộc trên địa bàn Tỉnh bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, cùng nhau thực hiện thắng lợi chương trình

phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã xác định.
Thứ hai, phát triển kinh tế nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng
bào các dân tộc, phù hợp với đặc điểm điều kiện từng vùng, đảm bảo cho
đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương, định canh, định cư,
xóa đói, giảm nghèo, thực hiện có hiệu quả nguồn vốn, chính sách ưu đãi của
Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc và địa phương góp phần xây dựng quê
hương Phú Thọ ngày càng giàu mạnh.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách ưu tiên đối
với đồng bào dân tộc thiểu số, phát triển y tế, giáo dục và đào tạo, coi trọng
việc đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức là người dân tộc thiểu số.
Thứ tư, đẩy mạnh củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng HTCT ở cơ sở
trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo làm thất bại sự phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề dân tộc, tôn giáo, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Thứ năm, phát huy vai trò các tổ chức, các lực lượng cùng tham gia thực
hiện tốt CSDT của Đảng và Nhà nước trên địa bàn Tỉnh. Kế thừa và phát huy
những giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Tây Bắc và của từng dân tộc;
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
* Đặc điểm bộ đội địa phương tỉnh Phú Thọ
Bộ đội địa phương tỉnh Phú Thọ được thành lập ngày 30/8/1945, phiên
hiệu đầu tiên là chi đội giải phóng quân Trần Quốc Toản (chi đội tương đương
với trung đoàn hiện nay). Đây là đơn vị BĐĐP đầu tiên của tỉnh Phú Thọ,
đồng thời cũng là một trong những đơn vị chủ lực được thành lập sớm trong
cả nước. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mỹ, BĐĐP tỉnh
Phú Thọ dần được hình thành và phát triển theo yêu cầu nhiệm vụ. Cùng với
quân và dân Vĩnh Phú, quân và dân Phú Thọ đã có những đóng góp to lớn góp
phần vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến. Chính vì vậy trải qua hơn 70
19



năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành BĐĐP tỉnh Phú Thọ được Đảng và Nhà
nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Huân chương Sao vàng,
Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng ba, hai huân chương
hạng nhất, hạng ba, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng ba và nhiều cờ thưởng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của giai đoạn cách mạng mới ngày 6 tháng 11
năm 1996, Quốc hội khóa IX (kỳ họp thứ X) đã ra Nghị quyết “Về việc chia và
điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh” trong đó có tỉnh Vĩnh Phú. Tỉnh Vĩnh
Phú sau gần 29 năm sát nhập, được tách ra thành hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
Theo đó chấp hành Nghị quyết, quyết định của trên ngày 01/01/1997, BCHQS tỉnh
Phú Thọ chính thức bước vào nhiệm vụ trong giai đoạn tiếp theo.
Hiện nay, tổ chức biên chế của BĐĐP tỉnh Phú Thọ gồm: Bộ Chỉ huy
Quân sự Tỉnh có bốn phòng (Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật) gồm
26 ban và 6 đơn vị trực thuộc (Trường Quân sự tỉnh, Trung đoàn 753, Đại đội
trinh sát bộ binh, Đại đội xe thiết giáp BTR - 152, Bệnh xá và Kho vũ khí). Ở
cấp huyện có 13 huyện, thành, thị đội [02, tr.164-165].
* Quan niệm về bộ đội địa phương thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay
Bộ đội địa phương tỉnh Phú Thọ là một tổ chức trong Quân đội nhân
dân Việt Nam, đóng quân trên địa bàn, nên có vai trò nhất định đối với sự
phát triển mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có việc thực hiện CSDT
của Đảng, Nhà nước ta trên địa bản Tỉnh. Từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm
BĐĐP và tình hình địa bàn Tỉnh, có thể quan niệm: Bộ đội địa phương tỉnh
Phú Thọ thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, là tổng thể các
hoạt động có mục đích, có tổ chức theo chức năng nhiệm vụ của bộ đội địa
phương dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Bộ tư lệnh Quân khu 2, Tỉnh
ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ. Tham gia thực hiện thắng lợi chính sách
dân tộc trên địa bàn Tỉnh nhằm phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, củng cố quốc phòng, an ninh; góp phần xây dựng tỉnh
Phú Thọ ngày càng giàu đẹp, văn minh, tiến bộ.
20



Quan niệm trên khẳng định rõ vị trí, vai trò, bản chất, truyền thống của
Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, BĐĐP tỉnh Phú Thọ nói riêng; đồng
thời phản ánh đây là một nhiệm vụ chính trị của BĐĐP, thể hiện chức năng của
đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, trong từng điều kiện lịch sử.
Mục đích hoạt động tham gia thực hiện CSDT của BĐĐP tỉnh Phú
Thọ: là góp phần phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho đồng bào các dân tộc trên địa bàn Tỉnh; củng cố quốc phòng, an
ninh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Bộ đội địa phương tỉnh Phú Thọ
tham gia thực hiện CSDT trước hết là nhằm mục đích góp phần vào sự phát triển
kinh tế - xã hội, kết quả hoạt động tham gia thực hiện CSDT sẽ góp phần thực
hiện mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện và từng bước nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bao các dân tộc trên địa bàn nhất là vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đồng thời, từ kết quả hoạt động tham gia
thực hiện CSDT còn góp phần vào việc củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng
thế trận lòng dân vững mạnh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của
các thế lực thù địch, xây dựng mối quan hệ đoàn kết quân dân, khẳng định bản
chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng đồng bào các dân tộc.
Qua đó, đảm bảo cho BĐĐP tỉnh Phú Thọ luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ được giao, góp phần xây dựng tỉnh Phú Thọ giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Chủ thể tham gia thực hiện CSDT ở tỉnh Phú Thọ: là toàn bộ các cơ
quan, đơn vị thuộc BCHQS tỉnh Phú Thọ, trong đó các cấp ủy, tổ chức Đảng
giữ vai trò lãnh đạo; chính ủy, chính trị viên và chỉ huy các cấp chịu trách
nhiệm tổ chức, quản lý, điều hành; các cơ quan mà nòng cốt là cơ quan chính
trị tham mưu cho cấp ủy, tổ chức Đảng, chính ủy, chính trị viên và chỉ huy các
cấp phải chặt chẽ để tránh hiểu lầm trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Toàn bộ mọi hoạt động tham gia thực hiện CSDT của BĐĐP tỉnh Phú Thọ
thực hiện theo cơ chế: cấp ủy lãnh đạo, chính quyền thống nhất điều hành, cơ
quan quân sự phối hợp với các cơ quan đoàn thể có liên quan làm tham mưu và tổ

chức thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ. Theo đó chủ thể lãnh đạo công tác này
21


là cấp ủy địa phương mà trực tiếp là đảng ủy quân sự các cấp. Chủ thể tổ chức
thực hiện là các cơ quan quân sự vừa tham mưu, vừa phối hợp, hiệp đồng, chỉ đạo,
hướng dẫn các lực lượng thực hiện CSDT theo chức năng, nhiệm vụ. Vì vậy chăm
lo xây dựng Đảng bộ quân sự địa phương trong sạch vững mạnh; xây dựng các cơ
quan, đơn vị BĐĐP vững mạnh toàn diện; nâng cao nhận thức trách nhiệm và
năng lực của bộ đội đối với nhiệm vụ thực hiện CSDT là nhân tố quyết định chất
lượng, hiệu quả công tác thực hiện CSDT trên địa bàn của BĐĐP tỉnh Phú Thọ.
Đối tượng để BĐĐP tỉnh Phú Thọ tác động trong thực hiện CSDT: là đồng
bào các dân tộc trên địa bàn, các tổ chức trong HTCT như tổ chức Đảng, chính
quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương (Mặt trận Tổ quốc, Đoàn
thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Cựu chiến binh...). Mỗi đối tượng, mỗi tổ chức có vai
trò vị trí, chức năng, nhiệm vụ, khác nhau trong quá trình thực hiện CSDT ở địa
phương. Vì vậy đòi hỏi các đơn vị BĐĐP tỉnh Phú Thọ cần nắm vững vị trí chức
năng, nhiệm vụ của từng đối tượng, tổ chức và đặc điểm riêng của từng đồng bào
dân tộc, để xác định nội dung, biện pháp, hình thức thực hiện CSDT cho phù hợp.
Nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành của BĐĐP trong thực hiện
CSDT ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
Trên cơ sở đặc điểm BĐĐP tỉnh Phú Thọ có thể khái quát nội dung,
hình thức, biện pháp tiến hành của BĐĐP trong thực hiện CSDT ở tỉnh Phú
Thọ hiện nay như sau:
Một là, bộ đội địa phương tỉnh Phú Thọ tuyên truyền, giáo dục, nâng
cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc về chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta
Tuyên truyền, giáo dục góp phần nâng cao nhận thức cho đồng bào các
dân tộc trên địa bàn Tỉnh cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
các đơn vị BĐĐP. Trước hết, tuyên truyền, vận động, giác ngộ nhân dân hiểu

rõ ý nghĩa tầm quan trọng và thực hiện tốt CSDT của Đảng và Nhà nước.
Thực hiện dân chủ, bình đẳng, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc
là một mục tiêu quan trọng của CSDT. Vì vậy, tiến hành tuyên truyền, giáo
22


dục đường lối chủ trương, CSDT của Đảng, pháp luật của Nhà nước có thể
bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng tập trung vào một số hình thức như:
qua báo, đài, vô tuyến truyền hình … Nhưng với khả năng và điều kiện thuận
lợi của mình, các đơn vị BĐĐP đã phát huy tốt vị trí, vai trò của các tổ đội
công tác trực tiếp xuống các thôn, bản vùng đồng bào dân tộc tiến hành công
tác tuyên truyền vận động nhân dân. Ngoài ra, bằng những hình thức giao lưu,
kết nghĩa với các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể xã hội
như: đoàn thanh niên, hội phụ nữ… qua đó, kết hợp tuyên truyền, vận động
nhân dân chấp hành và thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Đồng thời, tích cực giúp đỡ đồng bào các dân tộc phát triển kinh tế, văn
hóa, giáo dục như: xây dựng cơ sở hạ tầng, làm đường giao thông, thủy lợi, xây
dựng bệnh xá, khám chữa bệnh cho nhân dân, xây dựng trường học. Đây cũng
là một trong những phương pháp tuyên truyền, giáo dục CSDT của Đảng và
Nhà nước có hiệu quả nhất của các đơn vị BĐĐP ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Hai là, bộ đội địa phương tỉnh Phú Thọ tham gia phát triển kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng, an ninh ở vùng đồng bào dân tộc trên địa bàn đóng
quân
Trên lĩnh vực kinh tế, vai trò đó được thể hiện trong việc tham gia lao động
sản xuất giúp đỡ đồng bào phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Giúp địa phương xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù
hợp với đặc điểm của từng địa phương. Vận động đồng bào định canh, định
cư, ổn định cuộc sống, biết ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đổng
thời hướng dẫn đổng bào thay đổi thói quen tập quán sản xuất, đưa các giống
lúa mới, cây trổng, vật nuôi có năng xuất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao

vào sản xuất, chăn nuôi. Bằng những việc làm cụ thể, cán bộ, chiến sĩ BĐĐP
Tỉnh đã trở thành lực lượng “khuyến nông” trực tiếp tuyên truyền phổ biến
những kiến thức cho đồng bào các dân tộc.
Trên lĩnh vực chính trị, được biểu hiện thông qua một số mặt và một số
lĩnh vực hoạt động như: xây dựng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
23


động của các tổ chức chính trị, xã hội trong HTCT cơ sở ở địa phương, đặc
biệt là tổ chức đảng, chính quyền cơ sở, kiện toàn nội dung, phương thức
hoạt động cùa các tổ chức đó. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với địa phương
bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ của HTCT cơ sở vững mạnh đủ sức thực
hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. BĐĐP Tỉnh tích cực tham gia
đấu tranh trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, chống chiến lược “Diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ chế độ XHCN, trực tiếp góp phần
củng cố vững chắc trận địa tư tưởng ở địa phương, tạo thuận lợi cho củng
cố, kiện toàn tổ chức, tăng tính hiệu quả cho hoạt động của HTCT cơ sở.
BĐĐP tỉnh Phú Thọ còn tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện
đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giúp củng cố
vững chắc mối quan hệ giữa tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể chính
trị ở địa phương với đồng bào các dân tộc trên địa bàn.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, BĐĐP Tỉnh phối hợp với chặt chẽ với
chính quyền địa phương xóa mù chữ, phổ cập giáo dục cho con em đồng bào
các dân tộc thiểu số, vận động nhân dân từ bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu,
bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, xây dựng
đời sống văn hóa mới trong sáng, lành mạnh. Ngoài ra, BĐĐP tỉnh Phú Thọ
còn trực tiếp vận động đồng bào biết cách giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh cộng
đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống, từng bước nâng cao trình độ dân trí, xóa
đi mặc cảm tự ty dân tộc. Đó là những việc làm thiết thực thực hiện lời dạy của
Bác Hồ: phải làm cho đồng bào các dân tộc ở miền núi tiến kịp với đồng bào ở

miền xuôi, phải làm cho đồng bào các dân tộc ít người được hưởng ngày càng
đầy đủ hơn những quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, BĐĐP Tỉnh tham mưu giúp địa phương
quản lý lực lượng dự bị động viên; tổ chức, huấn luyện Dân quân tự vệ; xây
dựng kế hoạch phòng thủ cho từng địa phương, xây dựng kế hoạch phối hợp tác
chiến giữa các lực lượng trên từng địa bàn; xây dựng vùng đồng bào các dân tộc
trên địa bàn trở thành những cơ sở vững mạnh toàn diện; xây dựng địa bàn nơi
24


đóng quân trở thành những cơ sở phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; ổn định về
chính trị, vững chắc về quốc phòng; xây dựng ‘trận địa lòng dân”, thế trận chiến
tranh nhân dân đủ sức để ngăn chặn và đập tan mọi âm mưu, hành động chia rẽ
của kẻ thù, bảo vệ vững chắc vùng biên cương của Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng ta chi rõ: “Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết dân tộc của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,..” [16, tr.40].
Ba là, trực tiếp tổ chức các lực lượng, đơn vị bộ đội địa phương tỉnh
Phú Thọ tham gia thực hiện chính sách dân tộc; đồng thời thực hiện tốt chính
sách dân tộc ngay trong nội bộ các đơn vị
Đây là nội dung, hình thức, biện pháp rất quan trọng, quyết định trực
tiếp đến kết quả tham gia thực hiện CSDT của BĐĐP tỉnh Phú Thọ thể hiện
trên các nội dung, hoạt động cụ thể như:
Thông qua các đợt hành quân dã ngoại, huấn luyện kết hợp làm công tác
dân vận các đơn vị xây dựng kế hoạch giúp nhân dân địa phương triển khai
các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với những việc làm cụ thể
như: giúp đỡ nhân dân định canh, định cư, thực hiện CSDT, ổn định cuộc
sống cho đồng bào nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng còn khó khăn.
Hướng dẫn nhân dân chủ động chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; phổ biến những kiến thức khoa học

trong giữ gìn vệ sinh, chăm sóc sức khỏe...góp phần nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần, giúp đồng bào xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Tổ chức hoạt động kết nghĩa giữa đơn vị với địa phương. Đây là hình
thức các đơn vị BĐĐP tỉnh Phú Thọ kết nghĩa với các xã, thôn, bản nơi có
đồng bào dân tộc sinh sống và trực tiếp tham gia CSDT. Tổ chức kết nghĩa
thường được vận dụng trong các trường hợp các đơn vị BĐĐP tỉnh Phú Thọ
kết nghĩa với địa phương trên cơ sở sự chỉ đạo thống nhất của BCHQS Tỉnh.
Tổ chức thành lập các tổ, đội công tác tăng cường cho từng thôn, xã,
hoạt động dưới sự chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy đơn vị; phối hợp chặt chẽ với
25


cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng chương trình hoạt động phù hợp
với từng địa phương… góp phần thực hiện các chương trình, mục tiêu về
CSDT ở từng địa bàn. Thông qua hoạt động hành quân dã ngoại, BĐĐP tỉnh
Phú Thọ có thể mở các lớp học bồi dưỡng nâng cao trình độ dân trí cho đồng
bào các dân tộc, khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, hủ tục lạc hậu, mê
tín dị đoan, tư tưởng tự ti, mặc cảm....
Tăng cường cán bộ về cơ sở, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền
địa phương, Đảng ủy, BCHQS lựa chọn một số cán bộ sĩ quan đã từng chiến
đấu, công tác gắn bó với các địa phương bổ nhiệm giữ chức cán bộ chủ chốt
như Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch xã, Xã đội trưởng… Đội ngũ cán bộ này
là một lực lượng nòng cốt, góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho việc thực
hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã và sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Ngoài ra còn vận dụng các hình thức, biện pháp như: thực hiện mô hình
“quân - dân y” kết hợp, đào tạo cán bộ nhất là cán bộ xã đội cho các xã vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; hình thức đào tạo nghề và giới thiệu
việc làm; thông qua tuyển quân vào các đơn vị BĐĐP để bồi dưỡng, giáo dục
rèn luyện thanh niên làm nghĩa vụ quân sự trở thành những cốt cán ở cơ sở

sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương; thông qua việc xây
dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ; bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng, an ninh cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Các cơ quan, đơn vị BĐĐP tỉnh Phú Thọ tổ chức quán triệt, phổ biến
quan điểm, nhiệm vụ công tác dân tộc của Đảng, Nhà nước; chủ trương, nghị
quyết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về quân
đội thực hiện công tác dân tộc trong tình hình mới. Tổ chức tập huấn, bồi
dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ về công tác dân tộc, CSDT của Đảng, Nhà nước.
Tiếp tục thực hiện tốt CSDT của Đảng, Nhà nước và công tác dân tộc trong
quân đội. Hàng năm, nâng cao chất lượng công tác tuyển sinh, tuyển quân,cử
tuyển, đào tạo nghề, tạo nguồn cán bộ cho cơ sở địa phương vùng đồng bào
26


dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt các quy định về tuyển sinh, tuyển quân, cử
tuyển, đào tạo đảm bảo đúng đối tượng tiêu chuẩn. Thực hiện chính sách ưu
tiên tuyển quân ở các dân tộc có dân số dưới 10.000 người. Thực hiện tốt
công tác quản lý, giáo dục bồi dưỡng phát triển đảng viên, đoàn viên đối với
cán bộ chiến sĩ là người dân tộc thiểu số; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc trong quân đội và góp phần tạo nguồn cán bộ cho các địa
phương vùng đồng bào dân tộc. Phấn đấu thực hiện đội ngũ cán bộ người các
dân tộc thiểu số được đào tạo qua trường, nhất là bậc cao đẳng, đại học. Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ chỉ huy trưởng, chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự xã,
phường, thị trấn. Đào tạo nghề cho quân nhân hết nghĩa vụ quân sự là người
dân tộc thiểu số.
Bốn là, bộ đội địa phương tỉnh Phú Thọ tham gia xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở, tăng cường đoàn kết đấu tranh chống âm mưu phá hoại của các
thế lực thù địch, bảo vệ sự bình yên cho nhân dân
Bộ đội địa phương có vai trò rất quan trọng trong việc tham gia xây dựng
HTCT cơ sở trên địa bàn Tỉnh. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn,

nhất là đối với các địa phương ở vùng sâu, vùng xa. Trước tình hình đó các đơn
vị BĐĐP ở tỉnh Phú Thọ phải thường xuyên phối hợp cùng với cấp ủy, chính
quyền địa phương tìm ra nguyên nhân, giải quyết kịp thời những bức xúc
trong nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn đóng quân. Cùng với việc tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận
thức cho đồng bào các dân tộc trên địa bàn đóng quân các đơn vị BĐĐP ở
tỉnh Phú Thọ còn tích cực, chủ động trong việc giúp đỡ chính quyền địa phương xây dựng HTCT cơ sở. Đặc biệt các đơn vị BĐĐP ở vùng sâu, vùng
xa, đã tích cực giúp đỡ đồng bào các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội;
vì vậy đã tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa nhân dân với bộ đội, giữa đơn vị
với chính quyền địa phương. Đây cũng là một trong những điều kiện thuận
lợi cho việc tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước, nhất là CSDT trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay. Cùng với việc tuyên
27


×