MỤC LỤC
Trang
3
MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
THỰC HIỆN ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC Ở
TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện đoàn kết các dân tộc ở
10
tỉnh Bình Phước hiện nay
1.2. Thực trạng thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình
10
Phước hiện nay
Chương 2. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO
25
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC
Ở TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu về thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình
51
Phước hiện nay
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả thực hiện đoàn
51
kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
57
84
86
93
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam là một truyền thống quý báu và là quy luật tồn tại trong suốt quá
trình dựng nước và giư nước. Thực tiễn đã chứng minh lúc nào khối đoàn kết
dân tộc vưng chắc thì lúc đó đất nước cường thịnh, ngược lại, lúc nào khối
đoàn kết dân tộc bị chia rẽ thì đất nước suy yếu. Chính vì vậy, đoàn kết giưa
các dân tộc là nguyên tắc quan trọng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn và là
nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Trung thành và vận dụng
sáng tạo sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, giải
quyết vấn đề dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đoàn kết dân tộc là
vấn đề chiến lược, tài sản tinh thần vô tận của dân tộc, chăm lo xây dựng, tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa để hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”, các dân tộc tôn trọng, bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau
cùng phát triển. Thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, là cơ sở “bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày
một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất
nước” [25, tr.159].
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới do Ðảng ta khởi xướng
và lãnh đạo, đất nước đã đạt được nhưng thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Mối quan hệ gắn bó giưa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã
hội với các tầng lớp nhân dân ngày càng được tăng cường. Ðường lối chủ
trương của Ðảng, Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được
hoàn thiện và thể chế hóa bằng các chính sách, pháp luật. Các tầng lớp
nhân dân chung sức, chung lòng cùng Ðảng, Nhà nước vượt qua khó khăn,
thử thách, giư vưng sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, quá trình đổi mới cũng không thể tránh khỏi thiếu sót với nhưng tác
động của mặt trái cơ chế thị trường, sự chênh lệch về trình độ và mức sống
giưa các dân tộc, nhưng vấn đề xã hội nhức nhối, tình trạng suy thoái về tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và
nhân dân, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc luôn tìm mọi cách
kích động động tư tưởng thù hằn, gây chia rẽ các dân tộc…đã tạo nên
nhưng áp lực lớn trong việc thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc ở
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
2
Bình Phước là một tỉnh miền núi, biên giới, là địa bàn chiến lược có
vai trò quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và là
cầu nối giưa khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, giưa hai nước Việt
Nam và Campuchia. Tỉnh có 41 dân tộc anh em sống đan xen đến từ mọi
vùng, miền của Tổ quốc. Do đó, thực hiện đoàn kết các dân tộc trên địa bàn
nếu không được quan tâm giải quyết tốt sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ở địa phương nói
riêng và cả nước nói chung.
Trong nhưng năm qua, tỉnh Bình Phước đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức tốt các hoạt động xây dựng đoàn kết dân tộc. Các dân tộc trong tỉnh
chung sống hòa thuận, giúp đỡ nhau xây dựng tỉnh ngày càng phát triển. Tuy
nhiên, một số hoạt động xây dựng đoàn kết dân tộc vẫn còn hạn chế bất cập
về tổ chức, nghèo về nội dung, khả năng tuyên truyền vận động đồng bào các
dân tộc và năng lực giải quyết nhưng vấn đề mâu thuẫn còn thấp, còn bất cập
nảy sinh trong quan hệ giưa các dân tộc, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số…
điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức mạnh của khối đoàn kết các dân tộc
tỉnh Bình Phước, cần nhanh chóng phát hiện và khắc phục kịp thời. Là tỉnh
biên giới, sự phân bố dân cư chủ yếu ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
xa, biên giới, chịu tác động trực tiếp từ nhưng biến động chính trị ở nước bạn
và các tỉnh lân cận vùng Tây Nguyên. Tỉnh cũng là nơi tập trung dân di cư tự
do, trong đó rất đông là đồng bào dân tộc thiểu số. Mối quan hệ đoàn kết gắn bó
giưa các dân tộc ở đây vẫn còn nhưng tồn tại, hạn chế nhất định, đang tiềm ẩn
nhưng vấn đề phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến xây dựng khối đoàn kết dân tộc.
Các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng nhưng khó khăn, bức xúc của đồng bào
các dân tộc nhằm kích động tư tưởng kỳ thị dân tộc, gây chia rẽ, tạo mâu thuẫn,
phá hoại khối đoàn kết các dân tộc trên địa bàn...Nhưng vấn đề đó đã và đang đặt
ra yêu cầu mới phải làm sao mở rộng, tổ chức chặt chẽ và hiệu quả các hoạt
động xây dựng đoàn kết các dân tộc góp phần ổn định mọi mặt xã hội, đưa địa
phương phát triển ngày một vưng chắc.
3
Từ nhưng vấn đề trên, tác giả chọn đề tài “Thực hiện đoàn kết các dân
tộc ở tỉnh Bình Phước hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên
ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây là vấn đề có tính lý luận và ý nghĩa thực
tiễn cấp thiết hiện nay.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, là quan điểm, chính sách nhất quán
và xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam mà Đảng, Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ. Đây là vấn đề được rất nhiều nhà khoa
học quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nhóm nghiên cứu về vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc
Nông Đức Mạnh (2003), "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Cộng sản, (4+5); GS, TS
Nguyễn Phú Trọng (2002), "Sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc", Tạp chí Cộng sản (3); Phạm Thế Duyệt (2003), "Thực hiện đại đoàn
kết dân tộc và nhưng vấn đề đặt ra cho hệ thống chính trị hiện nay", Tạp chí
Công sản,(16); Vũ Oanh (1995), Đại đoàn kết dân tộc, phát huy nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội…
Các bài viết trên đây đều tập trung làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng
Công sản Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nhằm tập hợp
phát huy sức mạnh của cả công đồng dân tộc vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nêu bật tầm quan trọng, vai trò to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc, đồng thời
nêu ra nhưng chủ trương, giải pháp về xây dựng Đảng và đổi mới hệ thống chính
trị để tiếp tục lãnh đạo phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.
Đề tài: Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, Phùng Hưu Phú, (chủ biên),
Nxb CTQG, H, 1995, các tác giả đã nêu lên quá trình hình thành chiến lược đại
đoàn kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa; phân tích một số nội dung cơ bản trong chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí
Minh. Bằng nhưng lập luận khoa học, kết hợp với kiểm chứng của lịch sử các tác
giả đã khẳng định: Trong suốt hơn nửa thế kỷ qua tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
4
thành ngọn cờ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã thấm vào trong suy nghĩ,
hành động của tất cả người Việt Nam yêu nước và hoá thành sức mạnh, thành động
lực phát triển của cả dân tộc.
Trong sách: Đoàn kết dân tộc ở Việt Nam, Trung tướng, PGS.TS. Nguyễn
Đình Minh (Chủ biên), Nxb CTQG, H, 2016, các tác giả đã luận giải cơ sở lý
luận, thực tiễn của đường lối, chính sách đoàn kết dân tộc, nhưng thành tựu và
kinh nghiệm xây dựng, thực hiện đoàn kết toàn dân tộc của Đảng cộng sản Việt
Nam; khái quát quan điểm, phương hướng, giải pháp xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc hiện nay, vạch rõ nhưng âm mưu thủ đoạn phá hoạt khối đại đoàn kết
toàn dân tộc ở Việt nam và định hướng giải pháp làm thất bại âm mưu, thủ đoạn
phá hoạt khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch.
Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, Phan Xuân
Sơn, Lưu Văn Quảng (chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, H, 2006. Các tác giả đã
đưa ra quan niệm về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc; trình bày chính sách
dân tộc, đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng; nêu lên
nhưng vấn đề nổi cộm trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc như: vấn đề
đất đai, định canh, định cư, nghèo đói, y tế và giáo dục, hệ thống chính trị ở vùng
dân tộc thiểu số, chống phá của các thế lực thù địch ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số… Đồng thời, đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách
dân tộc, đại đoàn kết dân tộc hiện nay.
Trong công trình “Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam” (2004),
GS. TS Phan Hưu Dật đã đưa ra cách tiếp cận hợp lý về khái niệm dân tộc,
nguồn gốc, quá trình hình thành một số dân tộc ở Việt Nam, đặc điểm kinh tế xã hội của một số vùng dân tộc thiểu số, quan hệ dân tộc ở nước ta… Đây là
nhưng vấn đề nghiên cứu góp phần làm cơ sở cho Đảng, Nhà nước ta tham khảo
để hoạch định chính sách dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương Bảy (Khoá IX) tháng 3 năm 2003, lần đầu
tiên Đảng ta ra Nghị quyết chuyên đề “Về công tác dân tộc”, nhằm khẳng định vị
trí vai trò chiến lược cơ bản, lâu dài về vấn đề dân tộc, đại đoàn kết dân tộc, thành
5
tựu, hạn chế công tác dân tộc trong thời gian qua, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ
nguyên nhân của thực trạng đó; đồng thời, xác định nhưng quan điểm, nguyên tắc,
mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện công tác dân tộc.
Các công trình khoa học trên đã đề cập đến nhưng khía cạnh, với nhưng
đối tượng, ở phạm vi khác nhau, là nhưng tài liệu quan trọng để tác giả tham
khảo, kế thừa trong nghiên cứu luận văn này.
Nhóm nghiên cứu về vấn đề đoàn kết dân tộc ở tỉnh Bình Phước
Ở tỉnh Sông Bé trước đây, tỉnh Bình Phước hiện nay cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu với nhưng khía cạnh và góc độ khác nhau về vấn đề
dân tộc, đoàn kết dân tộc như "Vấn đề dân tộc ở Sông Bé" do GS Mạc Đường
(chủ biên), Nxb Tổng hợp Sông Bé, 1985; Đề tài khoa học "Những biến đổi
kinh tế - xã hội của các dân tộc ít người và vùng miền núi tỉnh Sông Bé (từ
1975 đến nay)" do Huỳnh Văn Điển, Phan An (chủ biên) và một số tác giả
khác, Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Phước, 1998; "Nghệ thuật cồng chiêng của
dân tộc Xtiêng tỉnh Sông Bé" do Vũ Hồng Thịnh, Bùi Lẫm (chủ biên), Sở Văn
hóa Thông tin tỉnh Sông Bé, 1995, Luận án tiến sĩ Đổi mới việc thực hiện
chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Bình Phước hiện nay của
tác giả Phạm Công Tâm (2001)... Nhưng công trình khoa học này đã đi sâu
nghiên cứu vấn đề dân tộc, đoàn kết dân tộc ở địa phương dưới góc độ dân tộc
học, lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, dưới góc độ chính trị - xã
hội, việc nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh
Bình Phước và nhưng yêu cầu, biện pháp, phương hướng cụ thể để tổ chức
các hoạt động nhằm xây dựng khối đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước
sao cho có hiệu quả vẫn chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu cụ thể. Luận
văn “Thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước hiện nay” không
trùng lắp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
6
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về thực hiện đoàn kết các dân tộc
ở tỉnh Bình Phước; trên cơ sở đó đề xuất một số yêu cầu, giải pháp tăng
cường thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước.
- Đánh giá thực trạng thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước
hiện nay.
- Đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản tăng cường thực hiện đoàn
kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về lý luận: Thực hiện đoàn kết các dân tộc ở địa phương (cấp tỉnh), tập
trung vào hoạt động của hệ thống chính trị và nhân dân các dân tộc.
“Các dân tộc” - thuật ngư được sử dụng trong Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII [25, tr.164]. Các dân tộc được nghiên cứu trong luận
văn là “dân tộc - tộc người”; nhưng cộng đồng người hình thành và phát triển
trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có chung nguồn gốc nhân chủng, ngôn
ngư, đặc điểm sinh hoạt văn hoá và ý thức tự giác dân tộc.
- Về nội dung: Các hoạt động thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước.
- Về thời gian: từ năm 2010 đến 2016; thời điểm khảo sát: quý 1 năm 2017.
5. Cơ sở lí luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lí luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề đoàn kết dân tộc, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn hoạt động thực hiện đoàn kết dân tộc ở Bình Phước từ năm 2010
đến nay, thông qua các số liệu tổng kết, đánh giá trong các văn kiện nghị quyết,
chỉ thị của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh; số liệu đánh giá của Ban Dân tộc tỉnh;
Ban Dân vận Tỉnh ủy và các sở, ban ngành cấp tỉnh; kết quả nghiên cứu của các
chuyên gia và kết quả điều tra, khảo sát của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
7
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, kết hợp nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực tiễn, với các phương
pháp: lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh - thống kê, điều tra xã hội học
và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ một số nội dung về thực hiện đoàn kết các dân tộc.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan và
chính quyền địa phương của tỉnh Bình Phước xác định nội dung, hình thức, biện
pháp trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện đoàn kết các dân tộc hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN
ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC Ở TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh
Bình Phước hiện nay
1.1.1. Quan niệm về đoàn kết dân tộc và thực hiện đoàn kết các dân tộc
* Quan niệm về đoàn kết dân tộc
Trong các quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống, vấn đề đoàn kết các
dân tộc lầ vấn đề chiến lược, một quy luật chính trị - xã hội, nhằm tạo dựng sức
mạnh dân tộc cho dựng nước và giữ nước. Đất nước Việt Nam trải qua hàng
ngàn năm gắn với nền nông nghiệp trồng lúa nước. Yêu cầu trị thủy đặt ra rất
lớn, liên tục đối với các thế hệ, các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ, đòi hỏi
phải chung sức đắp đê chống lũ lụt, khai sông ngòi, phục vụ sản xuất và đời sống.
Bên cạnh đó, để chống lại kẻ thù hung hăng to lớn luôn tìm cách xâm lược, các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam không còn con đường nào khác là phải đoàn
kết với nhau, cùng hợp sức đánh bại kẻ thù,bảo vệ nền độc lập tự do của cộng
đồng dân tộc. Có thể khẳng định rằng: đoàn kết để sinh tồn và phát triển là một
đòi hỏi khách quan, cũng là bản sắc văn hóa của các dân tộc và là hoạt động gắn
8
liền với quá trình dựng nước và giư nước trong suốt chiều dài lịch sử của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn xác định đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến
lược trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, vấn đề đoàn kết các dân tộc luôn gắn liền với thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính
quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải trở thành dân tộc” [34, tr.
623]. Việc giải quyết vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc phải trên cả hai phương
diện: dân tộc với tính cách là một cộng đồng tộc người và dân tộc với tính cách là
một cộng đồng quốc gia dân tộc. Đoàn kết dân tộc bao gồm đoàn kết nội bộ tộc
người, đoàn kết giưa các tộc người trong cộng đồng quốc gia dân tộc và đoàn kết
nhân dân các dân tộc trên toàn thế giới vì sự phát triển và tiến bộ xã hội. Vấn đề
cơ bản là phải thống nhất và giải quyết hài hòa về mặt lợi ích giưa các dân tộc,
giai cấp, tầng lớp trong xã hội trên lập trường của giai cấp công nhân, để đi đến
thực hiện mục tiêu chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đoàn kết dân tộc phải được tiến hành trên sự hiểu biết, tôn trọng và tin cậy
lẫn nhau giưa các dân tộc, các giai cấp, tầng lớp xã hội thông qua sự trao đổi, lắng
nghe, góp ý, phê bình lẫn nhau. C. Mác và Ph.Ăng ghen cho rằng việc trao đổi ý
kiến và đạt tới sự hiểu biết lẫn nhau về các nguyên tắc sẽ có thể phục vụ cho việc
đoàn kết và tình hưu ái giưa các dân tộc “Việc đoàn kết nhưng người dân chủ thuộc các
dân tộc khác nhau không loại trừ sự phê bình lẫn nhau. Không thể có đoàn kết nếu
không có sự phê bình như vậy. Không có phê bình thì không có sự hiểu biết lẫn nhau,
và do đó cũng không có sự đoàn kết” [35, tr.543]. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ lực
lượng đoàn kết dân tộc là mọi thành viên xã hội, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai
cấp, tầng lớp xã hội, nam, nư. Đoàn kết trên nền tảng liên minh công - nông vưng chắc
và do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản. Đảng
Cộng sản là hạt nhân, là ngọn cờ quy tụ sự đoàn kết và định hướng hành động cách mạng
9
đúng đắn của khối đoàn kết đó. Đoàn kết dân tộc cũng gắn liền với việc giải quyết các
vấn đề dân tộc khác, phù hợp với xu thế khách quan của quá trình dân tộc và hoàn
cảnh lịch sử của mỗi quốc gia, và khi tình trạng chế độ người bóc lột người chưa bị xóa
bỏ thì tình trạng dân tộc này áp bức dân tộc khác cũng chưa thể mất đi.
Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đề cao việc chủ động kiên quyết đấu tranh,
ngăn chặn và làm thất bại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc sai trái, dưới mọi
màu sắc trong xây dựng đoàn kết dân tộc như: chủ nghĩa dân tộc tư sản, tiểu tư sản
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, phân biệt chủng tộc, chủ
nghĩa sô vanh, thói tự ti và mặc cảm dân tộc. V.I.Lê nin cho rằng: các hình thức
của chủ nghĩa dân tộc sai trái là sản phẩm tất nhiên của chế độ bóc lột giai cấp và
áp bức dân tộc sinh ra từ chế độ tư hưu cùng với nhưng biến đội mọi mặt xã hội
gắn liền với chế độ đó. Giai cấp bóc lột thống trị xã hội là kẻ khởi xướng, cổ vũ và
thực thi chủ nghĩa dân tộc sai trái. Chính vì vậy, để thực hiện đoàn kết dân tộc phải
kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng nhằm ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ
nghĩa dân tộc sai trái trong đời sống xã hội và trong các lực lượng cách mạng trên
tất cả các phương diện pháp lý, đạo lý, tư tưởng và hành vi. Đây là một điều kiện
quan trọng và có ý nghĩa to lớn để củng cố, tăng cường đoàn kết dân tộc, bảo đảm
cho sự thống nhất dân tộc, đồng thời nó cũng mang tính nhân văn, nhân đạo sâu
sắc, đề cao và bảo vệ quyền con người.
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
xác định đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng,
nhân tố quyết định để giải phóng dân tộc và đưa sự nghiệp cách mạng đến
thành công và là kết quả của việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và
giai cấp. Nó không nhưng hết sức cần thiết trong cách mạng giải phóng dân
tộc mà còn có vai trò quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí
Minh luôn coi sự nghiệp cách mạng là của dân chúng chứ không phải của
riêng ai, cách mạng chỉ thành công khi có quần chúng tham gia đông đảo và
có sự tổ chức chặt chẽ, thống nhất.
10
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc là đường lối chính sách
nhất quán chứ không phải là một thủ đoạn chính trị. Hồ Chí Minh yêu cầu trong
bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải đoàn kết rộng rãi các lực lượng trong xã hội vì
lợi ích chung của dân tộc. Người cho rằng các dân tộc đều có chung vận mệnh,
chung lợi ích cơ bản là chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước,
có chung chính phủ thống nhất đại diện cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt
Nam. Đoàn kết dân tộc hướng đến mục tiêu chung phù hợp với các dân tộc ở Việt
Nam, tạo sức mạnh tổng hợp nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng con người, cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Vì vậy, đoàn kết tất cả các lực lượng yêu nước,
lấy công nông làm nòng cốt, đồng thời: “ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự
tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ” [37, tr. 244].
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc là vấn đề cốt lõi của các chính sách
dân tộc. Đoàn kết, tương trợ để đấu tranh giành độc lập, tự do và hạnh phúc
chung. Người cho rằng “quyền dân tộc tự quyết” của nhân dân ta là cùng “đoàn
kết trong một cộng đồng vưng chắc”, kiên quyết chống lại âm mưu của kẻ thù,
đấu tranh giư vưng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Hồ Chí Minh xem các
dân tộc như anh em ruột thịt trong một gia đình nên phải đoàn kết, yêu thương
giúp đỡ lẫn nhau. Người viết “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia
Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng
nhau, no đói giúp nhau” [36, tr.217].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh bình đẳng dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện tư tưởng đoàn kết dân tộc. Đây cũng là yêu cầu quan
trọng nhất trong quá trình xây dựng khối đoàn kết của các dân tộc. Người
viết: “... chính sách dân tộc của chúng ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng
giúp nhau giưa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội” [38, tr.
587]. Để thực hiện sự bình đẳng dân tộc, Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò
của đồng bào các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới và chính
11
sách dân tộc của Đảng phải hướng vào việc phát huy tính tích cực của đồng
bào các dân tộc vào sự nghiệp cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết bằng việc làm, đoàn kết
thực sự chứ không phải đoàn kết ngoài cửa miệng bằng lời nói xuông, đoàn
kết chặt chẽ lâu dài nhưng đoàn kết phải gắn với đấu tranh để đi tới đoàn kết
hơn, tiến bộ hơn. Đoàn kết và đấu tranh có lý đồng thời phải có tình, đấu
tranh để đi đến thống nhất ý chí và hành động.
Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về đoàn kết các dân
tộc. Vận dụng sáng tạo nhưng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực
hiện tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi
mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng luôn xác định vấn đề
dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài, có tính
xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Từ khi ra đời đến nay, nhất là khi giành được chính quyền về tay nhân
dân, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn thực hiện trước sau như một chính sách
bình đẳng dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, đại đoàn kết toàn dân tộc
được xây dựng trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất
nước, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Quan điểm
của Đảng về đoàn kết dân tộc thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
IX (Nghị quyết chuyên đề về công tác dân tộc) đã xác định một số quan điểm
sau: Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài, đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Hai
là, các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam bình đẳng đoàn kết
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, phấn đấu thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân
12
tộc. Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn dân tộc và miền núi. Bốn là, ưu tiên đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi, khai thác có hiệu quả
tiềm năng thế mạnh từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vưng môi trường sinh
thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc,
đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự tương trợ,
giúp đỡ của các địa phương trong cả nước. Năm là, công tác dân tộc và
thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của toàn bộ hệ thống chính trị, nhưng trước hết là sự nghiệp của
chính đồng bào các dân tộc định cư ở đó [26, tr. 24].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung và phát triển năm 2011) của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định
mục tiêu tổng quát xã hội - xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là mục tiêu cũng là
cơ sở của đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn đất nước tiến hành sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đoàn kết dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam
chủ trương đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi
mở tinh cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Đại đoàn kết
toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là động lực và
nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc….lấy mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng nhưng điểm
khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc” [25, tr. 158]. Đại hội
chỉ rõ: “tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình
đẳng, tôn trọng, giải quyết hài hòa quan hệ giưa các dân tộc, giúp nhau cùng
phát triển; tạo sự chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; chống kỳ thị dân tộc và
13
nghiêm trị nhưng âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc” [25, tr. 164 -165].
Nhà nước ta là Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, có vai trò to lớn trong xây dựng và phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết dân tộc. Trên cơ sở đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước
thể chế hóa thành pháp luật, chính sách và tổ chức thực hiện thông qua hệ thống
chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Với chức năng quản lý mọi mặt
đời sống xã hội thông qua bộ máy hành chính, các công cụ quyền lực, cơ sở vật
chất, các phương tiện thông tin đại chúng, Nhà nước huy động các nguồn lực để
thực hiện các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, các nhiệm vụ
chính trị, quốc phòng, an ninh, giải quyết các vấn đề xã hội phức tạp, tạo điều
kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, cơ sở hạ tầng, giư vưng ổn định chính trị,
môi trường hòa bình góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Đồng thời
Nhà nước có sức mạnh và công cụ để răn đe, ngăn chặn mọi hành vi trái pháp
luật, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Như vậy, có thể khẳng định, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới việc
xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc, coi đó
là động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xác định xây dựng khối
đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả
hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng quan điểm chỉ đạo đúng
đắn nêu trên của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và đang chỉ đạo các hoạt
động thực tiễn tham gia xây dựng khối đoàn kết các dân tộc ở nước ta hiện nay.
Đoàn kết các dân tộc là mục tiêu, động lực của cách mạng xã hội chủ
nghĩa; nội dung quan trọng trong chủ trương, đường lối chiến lược của cách
mạng, trong hệ thống chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng, Nhà nước
ta; một trong nhưng hoạt động quan trọng của hệ thống chính trị các cấp và
các tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
14
Để có được khối đoàn kết các dân tộc vưng chắc, tạo sức mạnh dân tộc
cho dựng nước và giư nước đòi hỏi phải có chủ trương, đường lối, chính sách
đúng, đồng thời phải tổ chức thực hiện tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi… khi đã có chính sách đúng, thì
sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công
việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính
sách đúng mấy cũng vô ích” [37, tr. 158].
Chủ trương, đường lối, chính sách đoàn kết các dân tộc đúng nhưng tổ chức
thực hiện không được coi trọng, kém hiệu quả thì đoàn kết các dân tộc chỉ dừng lại
ở trên giấy, là nhưng câu khẩu hiệu chung chung, rơi vào trạng thái “không tưởng”.
Tổ chức thực hiện đoàn kết các dân tộc giư vị trí, vai trò rất quan trọng. Nó chuyển
hóa từ chủ trương, chính sách thành hiện thực trong đời sống xã hội.
* Quan niệm về thực hiện đoàn kết các dân tộc
Theo Từ điển tiếng Việt, đoàn kết là sự đồng lòng, kết hợp thành khối, thành
nhóm chặt chẽ [57, tr.457]. Từ điển chính trị vắn tắt quan niệm: đoàn kết là
hợp nhiều người thành một khối vưng chắc, cùng một lòng, một dạ nhất trí
với nhau; là sự ủng hộ các phong trào, các tổ chức hoặc cá nhân trên cơ sở
quan điểm và lợi ích gần nhau hoặc thống nhất[58, tr.128]. Đoàn kết các dân
tộc là các dân tộc kết hợp thành khối, chung sức, đồng lòng vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện là “đem một lý thuyết, một lời nói hay hứa hẹn ra làm” [57, tr.1289].
Thực hiện đoàn kết các dân tộc chính là quá trình chuyển hóa chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước về đoàn kết các dân tộc thành hiện thực trong đời sống
thực tiễn, nhằm tạo dựng sự chung sức, đồng lòng của các dân tộc vì sự nghiệp
dựng nước và giư nước của dân tộc Việt Nam. Thực hiện đoàn kết các dân tộc là
tổng thể các hoạt động của các tổ chức, các lực lượng, dưới sự lãnh đạo của cấp
ủy Đảng, quản lý và điều hành của chính quyền các cấp, nhằm hiện thực hóa chủ
trương, chính sách đoàn kết các dân tộc của Đảng, Nhà nước trong đời sống đồng
15
bào các dân tộc; góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thành
công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ thể, lực lượng thực hiện đoàn kết các dân tộc: Đảng, Nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội mà trực tiếp là hệ thống chính trị và đồng bào các dân
tộc, trong đó Mặt trận tổ quốc giư vai trò quan trọng. Đoàn kết dân tộc là sự
nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của mỗi người dân, của các dân tộc. Vì vậy,
tất cả các dân tộc vừa là chủ thể vừa là khách thể được tập hợp vào trong các
hoạt động xây dựng đoàn kết các dân tộc, phải khắc phục các tư tưởng dân tộc
lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti, mặc cảm dân tộc, để vươn lên nắm bắt khoa học kỹ
thuật, tận dụng các cơ hội vào phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, giư gìn và
phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc.
Đoàn kết các dân tộc với lực lượng rộng rãi sẽ là cơ sở để khơi dậy và phát
huy cao độ mọi nguồn lực của cả dân tộc của từng địa phương và các nguồn lực
khác cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm đoàn kết rộng rãi
các lực lượng xã hội thể hiện sự quang minh chính đại, chân thành của Đảng về
đại đoàn kết toàn dân tộc, chứ không phải là một thủ đoạn chính trị mị dân. Đảng
ta luôn khẳng định: tất cả nhưng ai có lòng yêu nước, thương nòi, thật lòng, thật
tâm với dân tộc, với sự phát triển của đất nước Việt Nam, dù bất cứ ở đâu, thành
phần xã hội như thế nào, quá khứ lịch sử ra sao, đều được đón nhận trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mục tiêu thực hiện đoàn kết các dân tộc: Củng cố, tăng cường hợp tác, gắn
bó, chặt chẽ giưa đồng bào các dân tộc, thực hiện các dân tộc bình đẳng, tôn trọng,
đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển. Lấy mục tiêu “xây dựng nước Việt Nam hòa
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” và “giải quyết hài hòa các lợi ích giưa các thành viên xã
hội” làm cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây cũng chính là quan điểm
đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực chất đó là sự kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, nó phản ánh bản chất mục
đích của chủ nghĩa xã hội là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, vì cuộc sống ấm
16
no, tự do, hạnh phúc của nhân dân và phù hợp với nhu cầu lợi ích, mong muốn
của các tầng lớp nhân dân.
Hình thức thực hiện đoàn kết các dân tộc: Thực hiện đoàn kết dân tộc
được tiến hành thông qua nhiều hình thức khác nhau như: Tuyên truyền, vận
động; triển khai thực hiện các chính sách đoàn kết các dân tộc; sơ tổng kết, rút
kinh nghiệm, nhân điển hình. Có thể nói, hình thức, biện pháp thực hiện đoàn
kết các dân tộc hiện nay diễn ra hết sức đa dạng, phong phú thông qua hoạt
động lãnh đạo của hệ thống chính trị các cấp, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực
đời sống, xã hội; giúp nhau nâng cao dân trí, xóa đói, giảm nghèo; cùng nhau
đoàn kết đấu tranh với âm mưu của các thế lực thù địch; qua các hoạt động
chính trị xã hội, vì mục tiêu chung xây dựng và bảo vệ vưng chắc Tổ quốc,
xây dựng quê hương đất nước.
Phạm vi thực hiện đoàn kết các dân tộc: Đoàn kết dân tộc là đường lối
chiến lược cách mạng Việt Nam, để đưa vấn đề chiến lược đó vào cuộc sống
và chính sự phát triển của xã hội cần tổ chức các hoạt động rộng khắp trong
phạm vi toàn xã hội. Chính vì vậy, phạm vi thực hiện đoàn kết các dân tộc rất
rộng lớn. Đó là toàn bộ các hoạt động của hệ thống chính trị và nhân dân các
dân tộc, theo đó mọi chính sách phát triển của các ngành, các cấp, các địa
phương mọi hoạt động của các tổ chức, các nhân trong cộng đồng Việt Nam
đều thực hiện mục tiêu chung nhất là xây dựng đoàn kết dân tộc.
Thực hiện đoàn kết các dân tộc không chỉ được thể hiện trong trong nội
bộ mỗi tộc người, mà còn là giưa các dân tộc thiểu số với nhau, giưa các dân
tộc bản địa với dân tộc mới di cư đến, đoàn kết giưa các dân tộc thiểu số với
các dân tộc đa số, trong đó đoàn kết trong đội ngũ cán bộ, đảng viên các dân
tộc là nòng cốt, hạt nhân.
Các yếu tố chi phối thực hiện đoàn kết các dân tộc: Về mặt chủ quan, nó phụ
thuộc vào chính sách đoàn kết các dân tộc của Đảng, Nhà nước, của địa phương,
phụ thuộc vào nhận thức trách nhiệm, vai trò của hệ thống chính trị các cấp về
đoàn kết các dân tộc, phụ thuộc vào ý thức đoàn kết các dân tộc của các tầng lớp
17
nhân dân. Về mặt khách quan, đó là điều kiện kinh tế - xã hội; cơ cấu xã hội, đặc
điểm các dân tộc; truyền thống đoàn kết các dân tộc ở các địa phương;...
Nội dung thực hiện đoàn kết các dân tộc
Một là, quán triệt chính sách đoàn kết các dân tộc của Đảng và Nhà nước,
xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện đoàn kết các dân tộc phù hợp từng
vùng, từng địa phương. Đoàn kết các dân tộc là chủ trương lớn, là nội dung cơ
bản, cốt lõi của chính sách dân tộc và đường lối dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta. Vì vậy thực hiện nhiệm vụ này phải luôn được quán triệt sâu sắc
nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, của đồng bào
các dân tộc. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến kết quả thực hiện đoàn
kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta là đúng, nhưng nếu quán triệt, thực hiện không đúng, không thiết thực
sẽ tạo nên sự hoài nghi, giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào
chính quyền địa phương, tạo kẽ hở để các thế lực thù địch chống phá, chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân.
Trên cơ sở quán triệt hệ thống chính sách chung phải vận dụng để xây
dựng chương trình, kế hoạch thực hiện đoàn kết các dân tộc phù hợp từng
vùng, từng địa phương. Nghĩa là, chính sách phải phù hợp với đặc điểm kinh
tế, xã hội, văn hoá, dân tộc và con người cụ thể; đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng
chính đáng và phù hợp với tâm lý của đồng bào các dân tộc; phát huy được
tiềm năng, thế mạnh của vùng và giải quyết nhưng vấn đề bức xúc đặt ra trong
quan hệ giưa các dân tộc. Muốn vậy, các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước khi vận dụng vào thực hiện tại địa phương
phải phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển trong từng giai đoạn, bám sát
tình hình địa bàn, đáp ứng nhu cầu lợi ích chính đáng của đồng bào các dân tộc,
thúc đẩy xã hội phát triển. Điều quan trọng nhất là việc vận dụng chính sách,
pháp luật đó phải được toàn đảng bộ, toàn dân hưởng ứng, nhận thức đúng đắn,
quán triệt sâu sắc, triển khai tổ chức thực hiện sâu rộng, đồng bộ.
18
Hai là, tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước. Tổ
chức thực hiện chính sách dân tộc là nội dung trọng tâm của việc thực hiện
đoàn kết các dân tộc, trực tiếp quyết định kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm
vụ công tác dân tộc. Để việc tổ chức thực hiện chính sách dân tộc được thuận
lợi, phải có chính sách dân tộc đúng. Song, nếu có chính sách dân tộc đúng
nhưng tổ chức thực hiện không tốt thì chính sách dân tộc chỉ nằm trên giấy tờ,
chỉ là sự mong muốn, hoặc chỉ là các khẩu hiệu.
Theo đó, tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước phải
khảo sát về đời sống mọi mặt của đồng bào các dân tộc, nhất là đồng bào các dân
tộc thiểu số, đánh giá mức độ chênh lệch trên các mặt của đời sống xã hội
giưa các dân tộc là cơ sở để hoạc định các chính sách một cách khả thi nhất.
Ba là, tổ chức các hoạt động xây dựng đoàn kết dân tộc. Đây là vấn
đề cốt lõi trong thực hiện đoàn kết các dân tộc hiện nay. Trên cơ sở chính
sách đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước, cấp ủy đảng, chính quyền,
đoàn thể các cấp và nhân dân các dân tộc phải hiện thực hóa thông qua
các hoạt động cụ thể. Nói cách khác, tư tưởng đoàn kết các dân tộc phải
được thể hiện trong mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an
ninh, đối ngoại.
Hoạt động xây dựng đoàn kết dân tộc được tập trung thông qua các
cuộc vận động lớn, các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện dân chủ
trong đời sống xã hội, thực hiện các chính sách các chính sách đối với các
giai tầng xã hội...Các hoạt động này sẽ là chất xúc tác đưa các dân tộc xích
lại gần nhau hơn, hiểu nhau hơn và giúp đỡ nhau trong quá trình cộng cư.
Hoạt động xây dựng đoàn kết dân tộc bao gồm các hoạt động lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý, các kế hoạch thực hiện chủ trương, chính sách đoàn kết các
dân tộc. Tập trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định chính trị văn
hóa xã hội, quốc phòng an ninh trên địa bàn, việc thực hiện chính sách dân
tộc, tôn giáo, công tác tổ chức, tập hợp nhân dân...
19
Bốn là, phát hiện, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quan hệ
giữa các dân tộc. Song song với việc quán triệt nâng cao nhận thức, tổ
chức các hoạt động, việc giải quyết các vướng mắc, mâu thuẫn xung đột
trong quan hệ các dân tộc là nội dung quan trọng. Có nắm chắc được tình
hình các dân tộc, kịp thời phát hiện và xử lý các mâu thuẫn, xung đột trong
nội bộ tộc người, giưa các dân tộc với nhau mới có cơ sở để tổ chức tiến
hành thực hiện các chính sách dân tộc hiệu quả; đồng thời, việc giải quyết
các mâu thuẫn xung đột dân tộc kịp thời thì các hoạt động xây dựng đoàn
kết các dân tộc mới có thể được triển khai và tiến hành hiệu quả.
Quá trình thực hiện đoàn kết các dân tộc cũng chính là quá trình kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi gây chia rẽ dân tộc, phá hoạt khối đoàn
kết dân tộc, ngăn ngừa tư tưởng dân tộc lớn, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, cực
đoan, cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Đẩy mạnh thực hiện đoàn kết các dân tộc
là một trong nhưng cơ sở quan trọng để vô hiệu hóa thủ đoạn lợi dụng, lôi kéo
một bộ phận đồng bào gây mất ổn định chính trị của kẻ thù. Nếu còn bị kẻ thù
lợi dụng, nghĩa là việc thực hiện đoàn kết các dân tộc nói chung và thực hiện
chính sách dân tộc chưa tốt và ngược lại.
Như vậy, thực chất của việc thực hiện đoàn kết các dân tộc chính là quá
trình quán triệt chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước phù hợp với các
điều kiện thực tế ở địa phương, cùng với đó là việc tổ chức các hoạt động trên trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội (trọng tâm là việc thực hiện chính sách dân tộc và các
hoạt động xây dựng đoàn kết dân tộc), giải quyết các xung đột, mâu thuẫn dân tộc kết
hợp với đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch gây
chia rẽ đồng bào các dân tộc nhằm góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Thực
hiện đoàn kết các dân tộc có nội dung và phạm vi rộng lớn, phong phú đa dạng, đòi
hỏi các các chủ thể phải luôn luôn chủ động tích cực, vận dụng sáng tạo vào điều
kiện thực tế của từng địa phương, vào đặc điểm của từng dân tộc mới có tính khả thi
và đạt hiệu quả thi và đạt hiệu quả thiết thực.
20
1.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội, dân tộc và đoàn kết các dân
tộc các dân tộc ở tỉnh Bình Phước hiện nay
* Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội, các dân tộc tỉnh Bình
Phước hiện nay
Bình Phước là một tỉnh miền núi nằm ở phía Tây Bắc khu vực Đông
Nam Bộ. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.876,76 km 2, phía Bắc giáp
tỉnh Đăk Nông, phía Nam giáp tỉnh Bình Dương, phía Đông giáp tỉnh
Đồng Nai và Lâm Đồng, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và ba tỉnh Krache,
Mundunkiri, Công Pông Chàm của Vương quốc Campuchia với đường
biên giới dài 240km.
Trong nhưng năm qua, Đảng bộ tỉnh Bình Phước đã lãnh đạo các cấp,
các ngành, địa phương trong tỉnh phấn đấu vượt qua thách thức, phát huy tinh
thần đoàn kết thống nhất, tự lực tự cường, nắm bắt thời cơ, khai thác tốt các
tiềm năng thế mạnh sẵn có để phát triển và đạt được nhưng kết quả quan
trọng. Kinh tế tăng trưởng với tốc độ khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực; các ngành sản xuất đều phát triển, thu ngân sách trên địa bàn
năm sau cao hơn năm trước, GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt 39,8
triệu đồng, bình quân mỗi năm tăng 15,34%, đời sống của nhân dân các dân
tộc trong tỉnh từng bước được cải thiện. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội, quốc
phòng - an ninh được củng cố; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới; khối
đại đoàn kết các dân tộc anh em trong tỉnh được tăng cường. Niềm tin của
nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng bộ được khẳng định rõ nét[25, tr. 30].
Bình Phước là địa bàn có nhiều thành phần dân tộc sinh sống. Trước năm
1975, trên địa bàn tỉnh Bình Phước có các dân tộc S’tiêng, Khmer, M’nông,
Châu Mạ sinh sống. Sau năm 1975 một số đồng bào các dân tộc trong cả nước
đến định cư tại tỉnh Bình Phước. Trong vòng 10 năm, từ năm 2001 đến năm
2010 đã có 300.000 người các dân tộc đến Bình Phước cư trú. Tính đến hết
năm 2015, toàn tỉnh có cư dân của 41 dân tộc sinh sống. Các dân tộc thiểu số
có 40.842 hộ, 190.761 khẩu (chiếm hơn 20,07% dân số của tỉnh). Trong đó:
21
Xtiêng 88.420 người, Nùng 25.104 người, Tày 30.177 người, Khơme 16.857
người, M’nông 9.305 người, Hoa 10.537 người, Mường 2.687 người, Chăm
615 người, các dân tộc khác 7.059 người [15, tr. 25].
Các dân tộc ở tỉnh Bình Phước hiện nay đa dạng, phong phú, có dân tộc
cư trú lâu đời nhưng cũng có dân tộc mới đến đinh cư từ sau năm 1975. Số
lượng dân cư của các dân tộc chênh lệch lớn, có dân tộc số lượng hàng chục
nghìn người như S’tiêng, Tày, Nùng,… nhưng cũng có dân tộc số lượng chỉ
dưới chục người, thậm chí có dân tộc thiểu số chỉ có 2 hoặc 3 người như dân
tộc Co, Hà Nhì, Chu Ru, Kháng, Phù Lá, La Ha, Pà Thẻn. Trình độ phát triển
kinh tế - xã hội giưa các dân tộc không đồng đều. Dân tộc Kinh có trình độ
phát triển khá cao nhưng các dân tộc thiểu số, nhất là nhưng dân tộc thiểu số
sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, biên giới cuộc sống còn nhiều khó khăn, với
tỷ lệ hộ nghèo đói khá cao. Sự đa dạng dạng và phức tạp về thành phần các
dân tộc ở Bình Phước hiện nay đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết cho
việc thực hiện đoàn kết các dân tộc ở địa phương.
* Đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước hiện nay
Là địa phương có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, nhưng trong nhưng
năm gần đây, khối đoàn kết các dân tộc ở Bình Phước tương đối vưng chắc,
nhân dân các dân tộc ở địa phương luôn đùm bọc giúp đỡ nhau trong phát
triển kinh tế, xã hội. Báo cáo 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương đảng (khóa IX) “Về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, Tỉnh ủy Bình Phước đã khẳng định: “khối đại đoàn kết toàn dân không
ngừng được mở rộng, quy tụ ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân, các
dân tộc trong tỉnh. Sự thống nhất về chính trị và tư tưởng trong nhân dân các
dân tộc tăng lên, trở thành một nhân tố cơ bản đảm bảo ổn định chính trị, xã
hội, tạo điều kiện cho kinh tế tỉnh nhà phát triển, đời sống của các tầng lớp
nhân dân tiếp tục được cải thiện” [56, tr.7].
22
Tuy nhiên, là tỉnh miền núi, biên giới với tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc
biệt khó khăn, xã biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Nhưng
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, vướng mắc giưa dân với dân, giưa dân
với cán bộ cơ sở, chính quyền địa phương vẫn còn xảy ra, nhất là hiện
tượng tranh chấp đất đai, giải tỏa đền bù, thu hồi đất chưa được xử lý kịp
thời, dứt điểm nên còn xảy ra các vụ khiếu kiện đông người, vượt cấp. Trên
địa bàn tỉnh Bình Phước hiện nay, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách phá
hoại các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ở vùng dân tộc thiểu
số như xúi giục một bộ phận đồng bào nhẹ dạ cả tin kéo nhau đi đòi đất và đặt
ra nhiều yêu sách không đúng với chính quyền, bán đất vườn rồi vượt biên
sang Campuchia. Sự chống phá của các thế lực thù địch làm gia tăng tính
phức tạp về tình hình các dân tộc ở tỉnh Bình Phước. Tất cả nhưng vấn đề
trên tạo ra nhưng khó khăn lớn, đặt ra nhưng vấn đề cấp bách cũng như lâu
dài trong tăng cường khối đoàn kết các dân tộc của tỉnh. Vì vậy, cần có
nhưng đánh giá tình hình một cách cụ thể, trọng tâm, tìm ra vấn đề mấu
chốt để thực hiện đoàn kết các dân tộc ở Bình Phước hiện nay. Từ đó xác
định các biện pháp cụ thể, tiến hành các hoạt động thiết thực đạt hiệu quả
tốt nhất, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
1.2. Thực trạng thực hiện đoàn kết dân tộc ở tỉnh Bình Phước hiện nay
Trong nhưng năm vừa qua, trên địa bàn tỉnh Bình Phước, dưới sự lãnh
đạo của cấp ủy đảng, sự điều hành và quản lý của chính quyền các cấp và sự
chung sức, chung lòng của đồng bào các dân tộc, việc thực hiện đoàn kết các
dân tộc thu được nhiều thành tựu rất quan trọng, đoàn kết các dân tộc được
củng cố, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, giư
vưng an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy vậy, quá trình xây dựng
đoàn kết các dân tộc cũng đã xuất hiện một vài vấn đề cần tháo gỡ nhằm gia
tăng hiệu quả thực hiện đoàn kết các dân tộc trong thời kỳ mới.
1.2.1. Thành tựu thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước
hiện nay và nguyên nhân
* Thành tựu trong thực hiện đoàn kết các dân tộc ở tỉnh Bình Phước
23
Một là, việc quán triệt chính sách đoàn kết các dân tộc của Đảng, Nhà
nước ở tỉnh Bình Phước được tiến hành nghiêm túc và chặt chẽ, từ đó đã đề
ra nhiều chủ trương, chính sách thiết thực nhằm củng cố, tăng cường khối
đoàn kết các dân tộc trên địa bàn
Nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của việc thực hiện đoàn kết các dân tộc,
hệ thống chính trị các cấp ở tỉnh Bình Phước đã chủ động nghiên cứu, quán triệt
nghiêm túc chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước. Công tác quán triệt
các chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương tập trung vào Nghị quyết số 23-NQ/TW
của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “Về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Thông tư số 17/TT-MTTW-BTT ngày 10/10/2011 của Ban Thường trực
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về Hướng dẫn tiếp tục nâng
cao chất lượng Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
ở khu dân cư” trong giai đoạn mới; Quyết định số 2356/QĐ-TTg ngày
04/12/2013 của Thủ tướng Chính Phủ về Chương trình hành động thực
hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020…các Nghị quyết, Chỉ thị
đều được tổ chức hội nghị triển khai thực hiện theo phân cấp, từ Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các sở, ban, ngành,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tỉnh đến cấp huyện, thị xã và tới từng
chi bộ, thôn xóm và đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân . Các
cấp chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị đã triển khai xây
dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết với nhưng
nội dung cụ thể. Hàng năm có kết hợp sơ kết đánh giá kết quả và đề ra
biện pháp tiếp tục thực hiện. Vì vậy, chủ trương, chính sách về đoàn kết
các dân tộc trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, hệ thống văn bản
pháp quy của Nhà nước, đã được chuyển tải đầy đủ trong chương trình, kế
hoạch hành động của các cơ quan ban ngành, đoàn thể trong tỉnh.
24
Trên cơ sở các văn bản của Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây
dựng Chương trình hành động số 22-CTr/TU, ngày 19/5/2003 thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VII, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “Về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”; tổ chức hội nghị triển khai Hội nghị
tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết và định hướng phương hướng,
nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục thực hiện; Quyết định số: 2763/QĐ-UBND,
Phê duyệt Dự án “Rà soát, bổ sung quy hoạch, bố trí ổn định dân cư trên
địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2015-2016 và định hướng đến năm
2020”; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh xây dựng Đề án 04/ĐA-MTTWBTT, ngày 28/12/2015 về "Tổ chức thực hiện Cuộc vận động toàn dân
đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh"…
Các chương trình, kế hoạch hành động của địa phương về thực hiện các
chủ trương, chính sách đoàn kết các dân tộc đã được quán triệt, triển khai
rộng rãi tới các ngành, các cấp và tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân nên đã
mang lại kết quả to lớn, tạo ra bước chuyển biến quan trọng về nhận thức và
hành động trong thực hiện đoàn kết giưa các dân tộc; sự bình đẳng giưa các dân
tộc được thể hiện và phát huy trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hình thức tuyên truyền giáo dục cũng có nhưng đổi mới. Hệ thống
chính trị các cấp đã phối hợp đa dạng giưa các cấp, các ngành liên quan tiến
hành tuyên truyền giáo dục với nhiều hình thức khác nhau. Tổ chức quán triệt,
học tập theo quy định tới đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức qua
các hội nghị thường kỳ cũng như toàn thể nhân dân trong các hội nghị nhân dân
các cấp, tổ chức tuyên truyền giáo dục qua các phương tiện thông tin đại chúng
trên đài phát thanh, truyền hình của Tỉnh, đài truyền thanh của các huyện, xã.
Ngoài ra, việc tuyên truyền giáo dục còn được thực hiện thông qua các hình thức
tập huấn cán bộ, tham quan điển hình tiên tiến, thi tìm hiểu, phát tờ rơi...
Qua kết quả khảo sát cho thấy, đại đa số ý kiến cán bộ, đảng viên, và
nhân dân được hỏi đều đồng thuận cho rằng đoàn kết các dân tộc có vai trò
25