DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Kinh tế thị trường
Nhà xuất bản
Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
CNXH
CNH, HĐH
KTTT
Nxb
XHCN
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1. .MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ
03
CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG LỐI SỐNG CÓ VĂN
1
HÓA CHO THANH NIÊN Ở TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về vai trò của gia đình trong xây dựng
10
lối sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam hiện nay
1.2. Thực trạng vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có
10
văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam hiện nay
Chương 2. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
29
1
GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG LỐI SỐNG CÓ VĂN
5
HÓA CHO THANH NIÊN Ở TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng lối
52
sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam hiện nay
2.2. Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng
52
lối sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
5
6
59
89
91
101
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục
nếp sống và hình thành nhân cách, lối sống có văn hóa. Tuy không phải là thiết chế duy nhất có vai trò, trách nhiệm giáo
dục đối với con cái, nhưng gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và có tầm quan trọng quyết định việc hình thành
nhân cách của trẻ. Xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng, song giáo dục gia đình vẫn luôn ảnh hưởng lâu dài
và toàn diện đối với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng
các thành viên của mình lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của
xã hội. Vì vậy, việc xây dựng lối sống có văn hóa, hình thành nhân cách con người trong gia đình có tính chất đặt nền
móng và có vai trò quan trọng cần được tiến hành đầu tiên và thường xuyên trong các gia đình.
Trải qua các thời kì lịch sử, với nền giáo dục trong các gia đình ở tỉnh Hà Nam, bao thế hệ đã trưởng thành,
biết trọng lễ, nghĩa, biết yêu thương, chung thủy, trách nhiệm, biết hi sinh vì nghĩa lớn... Những phẩm chất nêu trên
là những giá trị văn hóa, đạo đức mà bất cứ thời đại xã hội nào cũng cần đến. Hiện nay, các gia đình vẫn phát huy
rất tốt vai trò của mình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho con cái, đặc biệt con cái ở lứa tuổi thanh niên.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của sự bùng nổ thông
tin, của quá trình toàn cầu hóa, của cơ chế thị trường, những mặt trái của nó cũng đã tác động không nhỏ đến cả giáo
dục của gia đình và lối sống của thanh niên ở tỉnh Hà Nam. Trong các gia đình, nhu cầu vật chất tăng lên, lại ít chú
trọng đời sống tình cảm, tinh thần, tình trạng xung đột gia đình, không quan tâm đến xây dựng đạo đức, lối sống có văn
3
hóa cho con cái, các phương pháp giáo dục và xây dựng chưa phù hợp, chưa hiệu quả, dẫn đến nhiều hệ lụy, làm cho
gia đình không được bền vững, con cái không nhận được sự giáo dục đầy đủ của gia đình. Điều này dẫn đến tình trạng
đáng báo động hiện nay là một bộ phận không nhỏ các thanh niên ở tỉnh Hà Nam sa sút trầm trọng về đạo đức, lối sống,
sống không có mục đích, lí tưởng, các tệ nạn xã hội và các tội phạm ở độ tuổi thanh niên ngày càng nhiều, những biểu hiện
của lối sống thiếu văn hóa trong thanh niên ngày càng tăng. Từ đó ảnh hưởng đến chất lượng xây dựng con người mới XHCN
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và công cuộc phát triển tỉnh Hà Nam nói riêng. Vì vậy, phát
huy vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam hiện nay thực sự trở nên cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn. Đó cũng chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài “Vai trò của gia đình trong xây dựng
lối sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các công trình nghiên cứu về gia đình và văn hóa gia đình
Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học, dân tộc học, xã
hội học v.v… Đã có nhiều công trình nghiên cứu về gia đình, gia đình Việt Nam ở nhiều góc độ, cấp độ khác nhau được
công bố.
Tiêu biểu là các công trình: “Dạy con nên người” của Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hà Nội, xuất bản năm 1991;
GS. Lê Thi, “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới “, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; Trần Thị Kim
Xuyến, “Gia đình, những vấn đề của gia đình hiện đại”, Nxb. Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh, 2002; đề tài khoa học cấp nhà
nước KX 07 - 09 của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về Gia đình và Phụ nữ, “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình”,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994… cũng tập trung nghiên cứu về vấn đề này. Tập thể tác giả đã cung cấp cho các bậc
4
cha mẹ những hiểu biết cần thiết về gia đình, về trách nhiệm làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục con cái nên người, trên
những mặt cơ bản của nội dung giáo dục: Đức, trí, thể, mỹ và lao động, mà các thế hệ làm cha mẹ luôn luôn hướng tới.
Trong các công trình nghiên cứu, còn có Luận án Tiến sĩ “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở
nước ta hiện nay” của Tiến sĩ Nghiêm Sỹ Liêm, Hà Nội, 2001; đặc biệt gần đây, có đề tài cấp Nhà nước KX-07-09:
“Vai trò gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam”, của Trung tâm Nghiên cứu về gia
đình và phụ nữ, Giáo sư Lê Thi làm chủ biên, do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1997. Các tác giả khẳng định,
bàn về sự phát triển ổn định của xã hội, không thể tách rời sự phát triển của con người và vai trò của gia đình trong việc
bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng nhân cách con người và gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo
dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra còn kể đến các công trình của GS. Vũ Ngọc Khánh, “Văn hóa gia đình Việt Nam”, Nxb. Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, 1998; PGS.TS Lê Như Hoa, “Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em”; tập thể tác
giả do Trần Hữu Tòng và Trương Thìn chủ biên, “Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới”; tác giả Võ Thị
Hồng Loan, “Văn hóa gia đình với sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam”. Trong các công trình này,
các tác giả đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa gia đình cũng như ảnh hưởng của văn hóa gia đình
đối với sự phát triển của cá nhân nói riêng và xã hội nói chung.
* Các công trình nghiên cứu về lối sống, lối sống xã hội chủ nghĩa và xây dựng lối sống
Nghiên cứu về lối sống, đã có nhiều công trình trong nước và ngoài nước nghiên cứu: Nước ngoài có tác giả tác
giả G. E. Gledơman bàn về Lối sống xã hội chủ nghĩa, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1982; N.I.Belôva bàn về vấn đề khái
niệm lối sống, Viện Xã hội học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội xuất bản, Hà Nội, 1977;V.I. Đôbrưnina: Lối sống Xô viết,
5
hôm nay và ngày mai, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, 1984. Những công trình trên đã phân tích rõ khái niệm, bản chất,
những vấn đề có tính quy luật về sự hình thành, phát triển lối sống, lối sống xã hội chủ nghĩa và những biện pháp để xây
dựng lối sống xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu lối sống trong mối quan hệ với các giá trị xã hội có công trình của PGS, TS Đào Trí Úc (chủ biên), “Xây
dựng ý thức và lối sống theo pháp luật”; GS, TSKH Huỳnh Khái Vinh (chủ biên), TS Nguyễn Viết Chức, “Xây dựng tư
tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”; Thanh Lê, “Giáo dục lối sống - nếp sống mới”; “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội”;
PGS Chu Khắc Thuật và PTS Nguyễn Văn Thủ, “Văn hóa, lối sống với môi trường” …Các công trình trên đã đưa ra định
nghĩa về lối sống; làm rõ quan hệ giữa lối sống với văn hóa, đạo đức, chuẩn giá trị và môi trường; chỉ ra đặc điểm tư duy và
lối sống truyền thống của người Việt Nam; từ đó đề xuất những giải pháp xây dựng các vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống ở
nước ta hiện nay.
* Các công trình nghiên cứu về xây dựng lối sống có văn hóa
Trong thời kỳ đổi mới, xây dựng lối sống trở thành nhiệm vụ cấp bách, từ đó việc nghiên cứu lối sống được đặt ra
khá phong phú và đa dạng được nhiều nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu. Khái niệm “lối sống có văn hóa” được sử dụng
chính thức trong Văn kiện Đại hội IX và xây dựng lối sống có văn hóa được đề cập đến như một nhiệm vụ của mọi
hoạt động văn hóa hiện nay.
Nghiên cứu về xây dựng lối sống có văn hóa, tiêu biểu có Luận án Tiến sĩ của tác giả Đặng Quang Thành,
“Xây dựng lối sống có văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định
6
hướng Xã hội chủ nghĩa”, Hà Nội, 2005; Vũ Đình Đắc, “Xây dựng lối sống có văn hóa của học viên ở các trường
đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”; Nguyễn Văn Tuyến, “Lối sống có văn hóa của học viên Chỉ
huy - Tham mưu Lục quân ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay”; công trình của Thanh Lê, “Văn hóa và lối sống”; Lê
Như Hoa, “Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại”; Võ Văn Thắng, “Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay (từ góc độ
văn hoá truyền thống dân tộc)”, … Các công trình đã nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận, thực tiễn về lối sống và văn
hóa; từ đó đưa ra khái niệm về lối sống có văn hóa; chỉ rõ các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc trong xây dựng lối sống ở
Việt Nam; đề xuất yêu cầu, phương hướng, giải pháp kế thừa, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc trong xây
dựng lối sống ở Việt Nam, lối sống có văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định
hướng XHCN và lối sống có văn hóa của học viên các trường đào tạo sĩ quan Quân đội.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về lý luận cũng như thực tiễn, hầu hết các tác giả đều thừa nhận, việc
làm đó mới chỉ là kết quả bước đầu, mới chỉ là phát hiện những vấn đề, còn trên những khía cạnh cụ thể cũng cần
có sự đầu tư hơn nữa để nghiên cứu một cách tổng thể, khoa học. Luận văn “ Vai trò của gia đình trong xây dựng
lối sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam hiện nay ” hy vọng sẽ là sự đóng góp nhỏ của tác giả vào sự
nỗ lực chung của toàn xã hội nói chung, vào tỉnh Hà Nam nói riêng nhằm đào tạo những thế hệ thanh niên trẻ có
lối sống văn hóa, lành mạnh, phát triển cả về tài và đức.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho
thanh niên, luận văn đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng lối
7
sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam trong những năm tới.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ quan niệm về lối sống có văn hóa và vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh
niên ở tỉnh Hà Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam
hiện nay.
- Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh
niên ở tỉnh Hà Nam trong những năm tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên tỉnh Hà Nam hiện nay (thanh niên trong
độ tuổi từ 16 tuổi đến 24 tuổi).
* Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ chính trị - xã hội, luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa
cho thanh niên tại địa bàn tỉnh Hà Nam hiện nay (thanh niên trong độ tuổi từ 16 tuổi đến 24 tuổi); thời gian khảo sát, điều
tra từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta về lối sống có văn hóa, gia đình và gia đình văn hóa.
8
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thực tế xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên trong gia đình tại tỉnh Hà
Nam những năm qua; đồng thời, căn cứ vào những số liệu điều tra xã hội học của tác giả và kế thừa kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học, các số liệu thống kê đã công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận
văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn như: phân tích và tổng hợp, lôgíc
và lịch sử, điều tra xã hội học, so sánh, chứng minh, kết hợp các phương pháp của một số ngành khoa học như tâm lý
học, giáo dục học, văn hóa học...
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần làm sáng tỏ thêm những luận điểm, các vấn đề lý luận và thực tiễn
về gia đình và xây dựng lối sống có văn hóa trong gia đình hiện nay.
Luận văn cung cấp thêm một nội dung để các bậc cha mẹ tham khảo, nhằm nâng cao hiệu quả vai trò của gia đình
trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên; để các cấp chính quyền tỉnh Hà Nam tham khảo, đưa ra chủ trương,
chính sách phù hợp trong quá trình lãnh đạo, quản lý nhằm xây dựng gia đình văn hóa và xây dựng lối sống có văn hóa cho
thanh niên tỉnh.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG LỐI SỐNG
CÓ VĂN HÓA CHO THANH NIÊN Ở TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh
Hà Nam hiện nay
1.1.1. Quan niệm về lối sống có văn hóa và xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên
* Quan niệm và biểu hiện lối sống có văn hóa
Quan niệm về lối sống có văn hóa
Lối sống là phạm trù được nghiên cứu từ khá lâu, là đối tượng nghiên cứu của các môn khoa học: tâm lý học,
văn hóa học, giáo dục học... và được xem là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Khi nghiên cứu về con
người và hoạt động sống của con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiếp cận lối sống từ phương pháp luận duy vật khoa
học, gắn lối sống với phương thức sản xuất vật chất, thấy được đây là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của con
người. Đồng thời, các ông cũng chỉ ra tính quyết định của các quan hệ xã hội của con người đến lối sống. Trong tác
phẩm Hệ tư tưởng Đức, để làm rõ mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, điều kiện sống của con người, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã bổ sung vào khái niệm “phương thức sản xuất” khái niệm “phương thức sinh sống”:
“Phương thức mà con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình, phụ thuộc trước hết vào
tính chất của chính những tư liệu sinh hoạt mà con người thấy có sẵn và phải tái sản xuất ra. Không nên nghiên cứu
phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh của nó là tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà
10
hơn thế nữa, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt
động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ. Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ như thế
ấy. Do đó, họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất. Do đó, những cá nhân như thế nào, điều đó phụ thuộc
vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất vật chất của họ” [50, tr.30].
Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen gọi hoạt động nhằm bảo vệ, duy trì và tái sản xuất đời sống là hoạt động sống,
hoạt động ấy nằm trong phương thức con người sản xuất những tư liệu sinh hoạt cần thiết của mình, tức là phương thức
sản xuất và do phương thức sản xuất suy đến cùng quyết định. Phương thức sản xuất phù hợp với toàn bộ đời sống, với
lối sống của các cá nhân con người. Ở đây, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, lối sống là một hiện tượng xã
hội lịch sử, phản ánh trình độ, tính chất hoạt động sản xuất vật chất của xã hội. Lối sống vừa được quyết định bởi
trình độ phát triển lực lượng sản xuất, vừa được quyết định bởi tính chất của quan hệ sản xuất.
Ở nước ta, cũng có nhiều quan điểm tiếp cận lối sống dưới những góc độ khác nhau, trong đó nói đến mối quan
hệ giữa mặt chủ quan và khách quan, giữa hoạt động sống và điều kiện sống của con người, giữa hoạt động sản xuất
và những hoạt động phi sản xuất.
Xem lối sống như những quan hệ xã hội, PGS.TS Lê Như Hoa cho rằng: “Lối sống là tổng thể các quan hệ xã
hội của con người với những hình thức và đặc trưng tiêu biểu cho mỗi dân tộc, quốc gia, vùng địa lý, nhóm xã hội
trong những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội và văn hóa cụ thể”[44, tr. 10]. Các tác giả của đề tài khoa học cấp Nhà
nước KX06 – 13 cho rằng lối sống có quan hệ với môi trường sống và chịu sự quy định của nó: Lối sống là cách ứng xử của
những con người cụ thể, những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống. Môi trường là cái khách quan quy định, là
11
điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người, của các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư.
Khái niệm này cho thấy lối sống được tiếp cận như một hoạt động sống của con người.
Mặc dù, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về lối sống nhưng các tác giả đều có sự thống nhất về quan niệm: Lối
sống là tổng hòa các hoạt động sống cơ bản của con người (cộng đồng, nhóm xã hội, cá nhân) được vận hành theo
một hệ thống các chuẩn mực, giá trị xã hội trong mối quan hệ với những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội
nhất định.
Khi nghiên cứu về lối sống và so sánh lối sống với các phạm trù “lẽ sống”, “nếp sống”, “mức sống”, “phong cách
sống”, có thể thấy lối sống như một phạm trù trung tâm mà sự biểu hiện của nó trên các mặt cụ thể đã làm thành các
phạm trù khác. Lẽ sống là mặt ý thức của lối sống, nhưng mặt ổn định của lối sống làm thành nếp sống, còn mặt trình độ
của lối sống làm nên mức sống, chất lượng sống, mặt riêng biệt của lối sống lại làm thành phong cách sống. Như vậy, có
thể coi các phạm trù trên là những hàm nghĩa cơ bản của phạm trù lối sống. Từ góc nhìn này cho thấy, xây dựng lối sống
có văn hóa là tác động để các mặt khác nhau của lối sống đạt đến những giá trị tốt đẹp, tạo nên hạnh phúc và khả năng
phát triển của cá nhân và xã hội.
Lối sống có văn hóa
Để xác định khái niệm “lối sống có văn hóa” cần làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa và lối sống. Lối sống không
thể tách rời văn hóa. Lối sống là biểu hiện sinh động của một nền văn hóa. Lối sống phản ánh trình độ văn hóa của một
cá nhân, cộng đồng trong điều kiện xác định. Song không phải mọi lối sống đều có văn hóa, mà chỉ có lối sống phù hợp
12
với những chuẩn mực giá trị đạo đức của cộng đồng, của dân tộc có tác động đề cao thúc đẩy sự phát triển của con
người và xã hội thì mới là lối sống có văn hóa.
Lối sống là một trong những lĩnh vực then chốt của văn hóa, góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Trong
quan niệm từ xưa của người Việt Nam, một lối sống đẹp, lối sống có văn hóa phụ thuộc phần lớn vào ý thức, hành vi ứng
xử có văn hóa, vào sự gương mẫu về nhân cách của mỗi cá nhân: “Đói cho sạch, rách cho thơm”,... Một cá nhân có hành vi
ứng xử có văn hóa là người mà trong các mối quan hệ xã hội có nhận thức, thái độ, hành vi ứng xử theo những giá trị,
chuẩn mực văn hóa, phù hợp với yêu cầu, lợi ích xã hội.
Khái niệm “lối sống có văn hóa” ra đời là để nhấn mạnh đến yêu cầu về phẩm chất văn hóa của việc xây dựng lối
sống của cộng đồng, đặc biệt là của thế hệ trẻ. Có thể nói, lối sống như một phần của văn hóa nhưng trên thực tế lại tồn
tại cả lối sống có văn hóa, lối sống thiếu văn hóa, kém văn hóa hay vô văn hóa. “Văn hóa” ở đây được hiểu là giá trị, là
sự hài hòa trong ứng xử để đạt đến các chuẩn mực đạo đức của xã hội, của cộng đồng. Ngày nay, khi nói đến lối sống
mới hay lối sống đẹp, lối sống có văn hóa đó chính là lối sống mang bản chất của chế độ XHCN.
Hiện nay văn hóa cũng chính là giá trị mà lối sống phải đạt được khi Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đảng ta cũng đã chỉ rõ: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân
cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng
con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết,
cần cù, sáng tạo” [31, tr. 48 - 49]. Trong thực tế, văn hóa còn được coi là thước đo của các chuẩn mực, thể hiện trong
thực tế hiện nay như việc xây dựng khu phố văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa, ứng xử có văn hóa, văn hóa công
sở,... được diễn ra phổ biến trong cộng đồng xã hội.
13
Từ đó, có thể quan niệm: Lối sống có văn hóa là tổng hòa các hoạt động sống và hình thức sinh hoạt, ứng xử
của con người (cộng đồng, nhóm xã hội, cá nhân) được vận hành theo một hệ thống các chuẩn mực, các giá trị văn
hóa dân tộc và yêu cầu phát triển của xã hội, thời đại trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Có thể hiểu, lối sống có văn hóa mà chúng ta xây dựng là lối sống Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được
hình thành trong điều kiện CNH, HĐH đất nước như một yêu cầu về nhân cách của con người phát triển toàn diện trong chiến
lược phát huy nguồn lực con người trong xây dựng đất nước hiện nay.
Biểu hiện lối sống có văn hóa
Lối sống là cách thức con người tổ chức hoạt động sống của mình, nó chịu sự quy định của các điều kiện lịch sử
- cụ thể cả về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Lối sống của mỗi nhóm xã hội, mỗi con người cụ thể không
tách rời khỏi ảnh hưởng của tính chất quan hệ sản xuất, của bản chất chế độ chính trị xã hội đương thời. Chính vì vậy,
xem xét biểu hiện của lối sống có văn hóa không thể tách rời đặc điểm riêng của từng quốc gia, dân tộc, đặc biệt là sự
chi phối, ảnh hưởng mang tính quyết định của truyền thống văn hóa quốc gia, dân tộc đó đối với lối sống.
Ở nước ta, những biểu hiện của lối sống có văn hóa chính là những giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam biểu
hiện trong các quan hệ ứng xử hàng ngày, vốn được hình thành từ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, có sự
vận động và biến đổi để đáp ứng những yêu cầu cụ thể của thời đại. Tính chất tiên tiến của lối sống phải chứa đựng cả
những giá trị tốt đẹp của dân tộc và của cả nhân loại, thể hiện sự tiến bộ của lối sống dân tộc trong quá trình hội nhập.
Vì vậy, thực chất của việc xây dựng lối sống có văn hóa, lối sống Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời
14
đại hiện nay của cách mạng Việt Nam theo định hướng XHCN đó là xây dựng con người có văn hóa, có những đức
tính, phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998) cũng đã xác định những đức
tính cần có của con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, đó là:
“Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên
đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu...
Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước,
quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao, vì lợi ích của bản thân, gia
đình, tập thể và xã hội.
Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực” [28, tr. 58-59].
Qua văn kiện trên có thể thấy sự kế thừa, bổ sung và phát triển trong quan niệm về những phẩm chất của con
người mới Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Từ đó có thể khái quát thành những biểu hiện cơ bản của lối sống
có văn hóa ở nước ta bao gồm:
Một là, có tinh thần yêu nước và ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Đây là biểu hiện cơ bản hàng đầu, quyết định tính văn hóa của lối sống. Không có lòng yêu nước thì dù có mọi
biểu hiện khác cũng không thể coi là lối sống có văn hóa.
15
Yêu nước trước hết là tình cảm yêu thương, gắn bó với đất nước, luôn hướng mọi suy nghĩ và hành động của
mình vào việc phục vụ cho lợi ích của Tổ quốc. Đối với người Việt Nam, yêu nước đã vượt quá khuôn khổ của tình
cảm để trở thành tư tưởng, trở thành một thứ chủ nghĩa. Nó có nguồn gốc sâu xa từ trong lịch sử hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Trong nhận thức và tình cảm của người Việt, Tổ quốc là trên hết. Yêu nước trở thành
tiêu chuẩn xác định tốt xấu, đúng sai. Nghĩa là nó trở thành một dạng triết lý xã hội và nhân sinh của nhân dân Việt
Nam, chi phối cách đánh giá con người, sự việc, những vấn đề lịch sử... Từ đây, yêu nước còn quy định cách ứng xử
của con người trong các quan hệ xã hội.
Ngày nay, yêu nước chính là động cơ tinh thần to lớn đối với công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh theo định
hướng XHCN. Điều đó cũng có nghĩa là yêu nước phải gắn liền với bảo vệ Tổ quốc XHCN. Yêu nước làm nên tinh
thần tự cường dân tộc, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc XHCN, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, ý chí phấn đấu đưa
đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật... Tình cảm yêu nước là nền tảng của ý thức công dân, của tình yêu lao động, của ý
thức tập thể. Đỉnh cao của ý thức yêu nước hiện nay là đoàn kết phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH.
Hai là, có tình yêu lao động và lao động sáng tạo.
Lao động là hoạt động nền tảng để con người bồi dưỡng tính người và bản chất người. Yêu lao động – vì thế trở
thành một điều kiện để đảm bảo cho sự phát triển hướng tới các giá trị nhân bản của mỗi người. Nó cũng là nền tảng cho
văn hóa, nhân cách. Tình yêu lao động quyết định cách thức tư duy và hành xử của mỗi người trước công việc và trước
người khác, do đó nó là biểu hiện đặc trưng của lối sống có văn hóa. Người có tình yêu lao động luôn hăng say làm việc,
16
coi lao động là niềm vui cuộc sống, không ngại khó, ngại khổ, không đùn đẩy trách nhiệm, đồng thời luôn tích cực tìm tòi
sáng tạo trong công việc.
Ngày nay, trong điều kiện đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri
thức, thì tình yêu lao động còn đòi hỏi mỗi cá nhân phải không ngừng sáng tạo, nỗ lực vươn lên để có thể đóng góp
nhiều nhất cho xã hội. Tình yêu lao động trở thành biểu hiện cụ thể của tình yêu Tổ quốc, của ý chí vươn lên đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.
Ba là, có đạo đức trong sáng, có nghĩa tình, có lòng yêu thương con người.
Yêu thương con người là nền tảng, đồng thời là biểu hiện cụ thể của lối sống có văn hóa. Nó quy định tính đạo đức
trong mọi suy nghĩ và hành vi của mỗi cá nhân. Không có lòng yêu thương con người thì hành vi và suy nghĩ sẽ không
hướng đến con người, vì con người, do đó không thể có lối sống văn hóa.
Lòng yêu thương con người biểu hiện ở việc luôn tôn trọng người khác, có sự đồng cảm, bao dung, độ lượng, chia sẻ
với nỗi đau của đồng loại, đồng thời sẵn sàng đấu tranh với cái xấu, cái ác. Yêu thương con người là nền tảng của đạo đức,
của tính thiện. Sự phát triển của lòng yêu thương con người tất yếu sẽ dẫn đến hình thành các đức tính khác như trung thực,
khiêm tốn, vị tha…
Bốn là, có tinh thần tập thể và ý thức kỷ luật.
Lối sống có văn hóa ở Việt Nam cần được thể hiện trong ý thức tinh thần tập thể, ý thức tổ chức tôn trọng kỷ cương, kỷ luật. Lối sống có văn hóa hoàn toàn xa lạ và đối lập với lối sống cá nhân ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân. Lối
17
sống hòa đồng trong tập thể, gắn bó lợi ích của cá nhân và lợi ích của tập thể, trong đó đề cao vai trò lợi ích tập thể theo
phương châm “mình vì mọi người”.
Lối sống có văn hóa không thể chấp nhận kiểu sống buông thả, thiếu ý thức kỷ luật. Với những người có lối sống
có văn hóa thì ở họ bao giờ cũng tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước của cộng đồng. Lối sống có văn hóa vì vậy
phải có văn hóa pháp luật cao, nghĩa là người công dân phải nâng cao tri thức, hiểu biết về pháp luật và sống, lao động
theo pháp luật. Mặt khác, từ những tri thức, hiểu biết về luật pháp lại phải biến thành thói quen thực hiện pháp luật hay
nếp sống theo pháp luật.
Năm là, không ngừng học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt.
Năng lực, trình độ của mỗi con người không phải tự nhiên mà có. Đó là kết quả của một quá trình học tập, rèn
luyện lâu dài và gian khổ. Khi nguồn lực con người đang cần được huy động tối đa để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
thì tinh thần miệt mài học tập để nâng cao hiểu biết, trau dồi năng lực chuyên môn cũng là nhiệm vụ của công dân, nhất
là thế hệ trẻ. Thái độ đối với sự phát triển năng lực của bản thân cũng là biểu hiện cụ thể của lối sống có văn hóa.
Sáu là, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Lối sống là biểu hiện cụ thể nhận thức, thái độ, hành vi của con người trong mối quan hệ với tự nhiên, với cộng
đồng xã hội và với chính bản thân mình. Do đó, biểu hiện của lối sống có văn hóa không thể thiếu ý thức bảo vệ và cải
thiện môi trường sinh thái. Người có văn hóa là người biết yêu thiên nhiên, tôn trọng sự hài hòa của tự nhiên, có ý thức
giữ gìn, bảo vệ môi trường sống luôn trong lành, đấu tranh chống mọi hành vi xâm hại đến môi trường sinh thái.
18
Trong điều kiện hiện nay, không thể có một đất nước phát triển nếu như tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt
mà không thể phục hồi, nếu như sức khỏe và tuổi thọ con người ngày càng bị đe dọa bởi nạn ô nhiễm và mất cân bằng
sinh thái. Rõ ràng, lối sống có văn hóa biểu hiện trong mối quan hệ hòa hợp với tự nhiên cũng là một động lực quan
trọng đối với sự phát triển.
Những đặc điểm trên đây hợp thành một chỉnh thể thống nhất làm nên lối sống có văn hóa của con ng ười và
cộng đồng. Về bản chất, chúng không hề tách rời mà tồn tại trong nhau, yếu tố này quy định yếu tố kia và ngược lại,
trong đó, tinh thần yêu nước là đặc điểm bao trùm nhất. Tất cả những đặc điểm này làm nên nhân cách, tạo ra sự hài
hòa trong các quan hệ ứng xử của cá nhân và cộng đồng. Nói cách khác, chúng tạo nên một lối sống có văn hóa.
* Xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên hiện nay
Quan niệm xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên
Điều lệ Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2010) đã quy định: thanh niên Việt Nam là nhóm
nhân khẩu xã hội đặc thù độ tuổi từ 16 đến 30, đang trong quá trình phát triển những năng lực thể chất và tinh thần mà
những hoạt động của họ gắn liền với mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội.
Tính đặc thù của thanh niên được biểu hiện ở cả phương diện sinh học và phương diện xã hội. Về mặt sinh học,
thanh niên là những người có thể chất tốt, cơ thể còn đang trong quá trình phát triển, hoàn thiện, sức khoẻ dồi dào, dễ
thích ứng với mọi đòi hỏi cao về thể lực. Về mặt tâm lý, thanh niên thường ham chuộng cái mới, lạ nên thích tìm tòi,
khám phá. Về nhận thức, thanh niên là có khả năng nhận thức nhanh nhạy, dễ tiếp thu với cái mới. Họ là những người
đang trong quá trình tích lũy, hoàn thiện tri thức. Về mặt xã hội, thanh niên là những người đang trưởng thành, đã thích
19
ứng hoặc bắt đầu ổn định các quan hệ xã hội, chưa có nhiều trải nghiệm cuộc sống. Những đặc điểm đó quy định tính
“động” trong lối sống của thanh niên. Nó còn đang trong quá trình định hình, phát triển, chưa đạt được trạng thái ổn
định. Tính tích cực hay tiêu cực, tốt hay xấu, có văn hóa hay thiếu văn hóa trong lối sống của thanh niên phụ thuộc rất
lớn vào tác động của gia đình, nhà trường, xã hội và ý thức, năng lực chủ quan của mỗi người. Đặc biệt ở giai đoạn
thanh niên trong độ tuổi từ 16 tuổi đến 24 tuổi, sự định hình lối sống theo xu hướng nào có ảnh hưởng quyết định đến
lối sống của mỗi người trong suốt cuộc đời sau này. Do đó, bất cứ quốc gia nào, xã hội nào cũng cần phải quan tâm xây
dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên.
Xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên là quá trình các chủ thể và bản thân thanh niên tích cực, chủ động
trong việc xác định mục tiêu, nội dung và các hình thức, biện pháp tác động để hình thành, phát triển những giá trị tốt
đẹp trong lối sống của thanh niên; đồng thời chuẩn bị cho họ những điều kiện và khả năng cần thiết để có thể tự định
vị, phát triển trong môi trường văn hóa và không gian văn hóa của cộng đồng, đáp ứng những yêu cầu về xây dựng con
người mới XHCN hiện nay.
Do đó, có thể quan niệm: Xây dựng lối sống có văn hoá cho thanh niên là tổng thể hoạt động của các chủ thể
trong việc xác định mục tiêu, nội dung và phương thức tác động để tạo dựng những giá trị đặc trưng của lối sống có
văn hóa cho thanh niên, góp phần phát triển phẩm chất, nhân cách người thanh niên theo mục tiêu, yêu cầu giáo dục
và đào tạo của gia đình, nhà trường và xã hội.
Tầm quan trọng của việc xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên hiện nay.
20
Cũng như văn hóa và đạo đức, lối sống đóng vai trò điều tiết sự phát triển thông qua điều tiết hành vi, ứng xử của
con người. Do vậy, lối sống có đạo đức và có văn hóa của từng cá nhân hình thành nên một môi trường văn hóa tốt đẹp,
nuôi dưỡng con người và những khả năng sáng tạo của con người. Xây dựng lối sống có văn hóa của cộng đồng và của
từng cá nhân là một trong những nhiệm vụ để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Lối sống có văn hóa là mục tiêu cần đạt đến để hoàn thiện nhân cách của người thanh niên mới bởi vì họ là lực lượng
đông đảo đầy sức trẻ, năng động và nhạy cảm với cái mới. Hiện nay, các thế lực thù địch đang không ngừng dùng mọi thủ
đoạn để tác động vào thanh niên nhằm tấn công và tha hóa họ, lôi kéo họ vào các tổ chức phản động và muốn làm băng
hoại nguồn lực to lớn của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Vì vậy, xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh
niên là giúp họ tự định vị mình trong không gian văn hóa của cộng đồng, đặt họ vào một môi trường văn hóa lành mạnh, từ
đó định hướng đúng sự phát triển, giúp hoàn thiện nhân cách của thanh niên.
Bên cạnh vai trò giúp hoàn thiện nhân cách cho người thanh niên, xây dựng lối sống có văn hóa cũng góp phần vào
công cuộc giải quyết các vấn đề xã hội, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển đất nước: việc làm, phúc lợi xã hội, xóa đói giảm
nghèo, tệ nạn xã hội…
Thanh niên từ xưa đến nay luôn là lực lượng đông đảo và đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng, bảo
vệ và phát triển đất nước. Huy động được nguồn lực này là chiếc chìa khóa vàng để mở rộng cánh cửa phát triển. Để huy
động được nguồn lực này thì việc xây dựng lối sống có đạo đức, có văn hóa cho thanh niên với các giá trị về năng lực cống
hiến, đạo đức, nếp sống văn minh, lẽ sống cao đẹp... là vô cùng cần thiết.
21
1.1.2. Quan niệm, biểu hiện vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà
Nam hiện nay
* Quan niệm về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam hiện nay
Quan niệm về gia đình
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu trên cơ sở hôn
nhân và huyết thống, là cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng mỗi con người.
C.Mác và Ph.Ăngghen quan niệm gia đình là một xã hội thu nhỏ - gia đình tham gia ngay từ đầu vào các quá trình
xã hội, tạo ra sự vận động biến đổi của xã hội, đến lượt nó, xã hội luôn tác động đến gia đình, ghi lại dấu ấn trong kết cấu,
trong thuần phong mỹ tục của gia đình. Với quan niệm duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét, nghiên cứu sự
phát triển của gia đình trong sự phát triển của sản xuất vật chất. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức (1845), C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đưa ra nhận xét về sự biến đổi của gia đình: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con
người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia
đình” [48, tr. 41].
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước (1884), Ph.Ăngghen đã coi việc sản
xuất ra các tư liệu sinh hoạt và trước tiên là các công cụ lao động là cốt lõi xã hội của sự tiến hóa lịch sử, của các hình
thức tổ chức của con người.
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006) đã định nghĩa về gia đình theo quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lênin: “ Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa - xã hội đặc thù,
được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục...
22
giữa các thành viên” [10, tr.236].
Đặc điểm của gia đình ở tỉnh Hà Nam hiện nay:
Hà Nam là một tỉnh nằm ở Tây Nam châu thổ sông Hồng, trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là cửa ngõ của
thủ đô Hà Nội với diện tích đất tự nhiên 84.952ha; Phía Bắc tiếp giáp với Hà Nội, phía Đông giáp với tỉnh Hưng
Yên và Thái Bình, phía Nam giáp tỉnh Ninh Bình, Đông Nam giáp tỉnh Nam Định và phía Tây giáp tỉnh Hòa Bình. Hà
Nam có thành phố Phủ Lý là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá của tỉnh, cách Hà Nội 58 km, tương lai không xa sẽ
trở thành phố vệ tinh của Hà Nội. Hà Nam có mạng lưới giao thông rất thuận lợi, là tỉnh nằm trên trục đường sắt Bắc
Nam và quốc lộ 1A - huyết mạch giao thông quan trọng của cả nước, tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu hợp tác kinh tế
với các tỉnh, thành phố và các trung tâm kinh tế lớn của cả nước cũng như từ đó tới các cảng biển, sân bay ra nước
ngoài.
Về đặc điểm của gia đình tỉnh Hà Nam hiện nay, ngoài những đặc điểm chung của gia đình Việt Nam, gia đình ở tỉnh
Hà Nam hiện nay có những đặc điểm riêng của mình. Trong những đặc điểm riêng đó có đặc điểm là thuận lợi nhưng cũng
có những đặc điểm là khó khăn đối với việc xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên tỉnh Hà Nam hiện nay.
Những đặc điểm thuận lợi cho việc xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên mà các gia đình ở tỉnh Hà Nam có
được, như: hầu hết các giá trị truyền thống của dân tộc và quê hương đều được các gia đình gìn giữ và phát huy; đời sống
vật chất, tinh thần của gia đình ở tỉnh Hà Nam hiện nay đã được cải thiện rõ rệt và từng bước nâng cao cùng với sự phát
triển mọi mặt của tỉnh, sự hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng tăng, tạo cho các gia đình có điều kiện để tiếp cận các
phương pháp giáo dục con cho phù hợp với gia đình để đạt được hiệu quả cao; hầu hết dân trí của nhân dân đã được nâng
cao và đã phần nào khắc phục được những hạn chế của những tư tưởng phong kiến nên tình trạng gia trưởng, áp đặt của
23
cha mẹ với con cái trong các gia đình tỉnh Hà Nam hiện nay đã không còn tồn tại nhiều, tạo điều kiện cho con cái nhận
được sự giáo dục chủ động từ gia đình.
Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm thuận lợi cho xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên tỉnh Hà Nam, nhìn
chung các gia đình trong tỉnh cũng tồn tại những mặt hạn chế nhất định, làm cản trở và suy yếu hiệu quả xây dựng, điển
hình là: về cơ bản, tỉnh Hà Nam vẫn là một tỉnh tồn tại kiểu gia đình truyền thống chiếm đa số, gia đình hạt nhân đang
dần tăng lên nhưng chưa cao, vì vậy, những mặt hạn chế của kiểu gia đình truyền thống phần nào làm giảm đi hiệu quả
của việc xây dựng lối sống có văn hóa cho con cái, còn gia đình hạt nhân lại chưa thực sự phát huy tối đa tác dụng giáo dục
con, dẫn đến ỷ lại vào giáo dục của nhà trường và xã hội. Trong các gia đình ở tỉnh Hà Nam hiện nay, các bậc cha mẹ hầu hết
mải mê lao vào làm ăn, kiếm thêm việc làm ở các khu công nghiệp, một bộ phận cha mẹ để lại con ở quê hương cho ông bà
nuôi để đi làm ăn xa xứ… nên ít có thời gian quan tâm, chăm sóc con cái, dẫn đến sự suy giảm mức độ liên kết các thành viên
gia đình, tình trạng rạn nứt quan hệ gia đình, sự thiếu quan tâm và thiếu gương mẫu trong giáo dục con cái, sự gia tăng mạnh
tỷ lệ ly hôn và tình trạng bạo lực gia đình... Từ những thực tế đó đã tác động không nhỏ đến việc xây dựng lối sống có văn
hóa cho thanh niên.
Quan niệm vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam hiện nay
Lịch sử xã hội loài người đã và đang chứng minh rằng, gia đình có vai trò to lớn, đảm đương những chức năng
đặc biệt mà xã hội đã giao cho. Các chức năng của gia đình tồn tại trong mối liên hệ thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau để
tạo nên con người hoàn thiện và góp phần thúc đẩy xã hội phát triển: Chức năng tái sản xuất ra con người; chức năng kinh
tế; chức năng tổ chức đời sống và chức năng giáo dục. Trong các chức năng này, chức năng giáo dục con cái là chức năng cơ
bản, có ý nghĩa quan trọng trong nuôi dạy con trẻ phát triển toàn diện về năng lực và phẩm chất, để hoàn thiện nhân cách con
24
người.
Có thể hiểu, giáo dục gia đình “là sự tác động có hệ thống, có mục đích của những người lớn trong gia đình và
toàn bộ nếp sống của gia đình tới đứa trẻ” [53, tr. 233].
Giáo dục của gia đình có nội dung toàn diện, phong phú: giáo dục đạo đức, văn hóa, lối sống, giáo dục lao động,
giáo dục giới tính, giáo dục tính tự lập, giáo dục thẩm mỹ... Trong đó, giáo dục và xây dựng lối sống có văn hóa cho
thanh niên là một nội dung quan trọng giúp hoàn thiện nhân cách người thanh niên, góp phần xây dựng lối sống mới,
lối sống có văn hóa cho thanh niên để hình thành nên những con người mới XHCN.
Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên, là cái nôi hình thành và
nuôi dưỡng ở thanh niên các đức tính cần có của người thanh niên mới, có: tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; tình yêu
lao động, lao động sáng tạo; sống có đạo đức trong sáng, có tình yêu thương con người; có tinh thần tập thể, ý thức kỷ luật;
không ngừng học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Đây là những nội
dung cơ bản thể hiện vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên hiện nay. Ở tỉnh Hà Nam, để
hoàn thành tốt vai trò này của gia đình, cần có sự kết hợp đúng đắn giữa giáo dục của chính các thành viên trong gia đình với
giáo dục trong nhà trường và giáo dục ngoài xã hội. Bên cạnh giáo dục, gia đình cần có các biện pháp cụ thể để xây dựng lối
sống có văn hóa cho thanh niên, trong đó chủ thể xây dựng là các thành viên trong gia đình và khách thể xây dựng chính là
thanh niên.
Từ lý luận về xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh niên và nghiên cứu chức năng của gia đình, có thể quan niệm:
Vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống có văn hoá cho thanh niên ở tỉnh Hà Nam là sự cụ thể hóa chức năng của
gia đình trong việc xác định và thực hiện mục tiêu, nội dung và phương thức tác động để tạo dựng những giá trị đặc
25