Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ VAI TRÒ của hệ THỐNG CHÍNH TRỊ cơ sở THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH xã hội ở HUYỆN ỨNG hòa, THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.73 KB, 95 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
An sinh xã hội có một vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống của
mỗi con người và các tổ chức chính trị - xã hội. Ở nước ta, ASXH được hiểu
là một hệ thống các cơ chế, chính sách, các biện pháp công cộng nhằm giúp
cho các cá nhận, tổ chức và mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi
ro, hiểm nguy do các nguyên nhân kinh tế, xã hội và môi trường tự nhiên
mang đến cho con người, gây ra những hậu quả tiêu cực làm mất an toàn đối
với cuộc sống của họ và sự phát triển bền vững của xã hội. Thực hiện bảo
đảm ngày càng tốt hơn ASXH luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng
và Nhà nước ta, là trách nhiệm cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, thể hiện
bản chất tốt đẹp chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng với sự ổn định chính trị
- xã hội và phát triển bền vững đối với đời sống xã hội.
Hệ thống chính trị bao gồm toàn bộ các tổ chức chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội được lập ra để thực hiện quyền lực chung của xã hội - quyền lực
chính trị. Hệ thống chính trị cả nước nói chung và HTCT cơ sở của huyện Ứng Hòa
nói riêng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong tập hợp, tuyên truyền, động viên nhân
dân tham tham gia thực hiện chính sách ASXH của Đảng và Nhà nước; huy động
mọi lực lượng, mọi nguồn lực cùng với cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức
chính trị - xã hội, đảm bảo ASXH cho nhân dân, góp phần làm ổn định xã hội, phát
huy tình đoàn kết cộng đồng, phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Ứng Hòa là một huyện thuần nông của tỉnh Hà Tây cũ được sáp nhập vào
Thành phố Hà Nội năm 2008 càng cần phải coi trọng thực hiện ASXH. Trong những
năm qua, cùng với sự cố gắng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, đời sống kinh
tế - xã hội của toàn huyện Ứng Hòa đã có những bước phát triển mạnh mẽ tạo điều
kiện vật chất thuận lợi cho việc thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn, góp phần
vào sự ổn định và phát triển của huyện trong thời kỳ mới. Các chương trình xóa đói
giảm nghèo của HTCT cơ sở đã thu hút được những kết quả rất tốt đẹp, được dư luận


thừa nhận và đánh giá cao, nhất là công tác xóa đói giảm nghèo cho nông dân, phát


triển giáo dục, chăm lo sức khỏe cộng đồng, thực hiện bảo hiểm y tế cho người dân,
khám chữa bệnh cho người nghèo, chăm sóc các bà mẹ và trẻ em, cũng như những
nỗ lực giải quyết việc làm, cải thiện đời sống và điều kiện sống cho nhân dân, cứu trợ
xã hội và thực hiện phúc lợi xã hội, quan tâm tới các đối tượng yếu thế.
Bên cạnh những ưu điểm, hoạt động của HTCT cơ sở của huyện Ứng
Hòa trong thực hiện ASXH vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém, nhất là
nhận thức về các chính sách ASXH, về vai trò của HTCT cơ sở trong thực hiện
ASXH của đội ngũ cán bộ còn hạn chế; các chương trình hành động của HTCT cơ
sơ trong thực hiện ASXH còn ít, có mặt hiệu quả chưa cao, nội dung, biện pháp
thực hiện còn đơn điệu, chưa thực sự đa dạng và có sức lôi cuốn; công tác tập hợp,
vận động quần chúng thực hiện ASXH có mặt còn hạn chế; công tác kiểm tra, giám
sát của Ban thanh tra nhân dân, Ủy ban kiểm tra cũng như đội ngũ cán bộ chưa thật
hiệu quả, còn mang tính hình thức… Từ những hạn chế, yếu kém trên đã tác động
trực tiếp, làm suy giảm vai trò của Hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện ASXH ở
huyện Ứng Hòa thời gian qua. Đây chính là yêu cầu mới đặt ra đối với các cấp ủy
đảng, chính quyền huyện Ứng Hòa cần quan tâm và tạo điều kiện cho Hệ thống
chính trị cơ sở phát huy cao độ trong tập hợp, động viên các thành viên, toàn thể
nhân dân tham gia thực hiện chính sách ASXH, góp phần vào sự ổn định xã hội,
phát triển kinh tế - xã hội của huyện Ứng Hòa Thành phố Hà Nội trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Vai trò của hệ thống chính
trị cơ sở thực hiện ASXH ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay” làm
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Liên quan đến tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, vai trò của
hệ thống chính trị, vai trò của HTCT cơ sở luôn được Đảng, Nhà nước, các
nhà khoa học, nhà quản lý hoạch định chính sách ở nước ta quan tâm nghiên
cứu ở các góc độ khác nhau:
2



* Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ
sở
Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng
và giải pháp, Học viện CTQG, Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Chu Văn Thành (2004), Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một
số giải pháp đổi mớ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị cơ sở nông thôn nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Duy Quý (2008), Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi
mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Lê Minh Thông (2008), Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb
Chính tri Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Đổng (2010), Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong
hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Với nhiều cách tiếp cận, các công trình nghiên cứu đã đi sâu vào phân
tích làm rõ những vấn đề lý luận của HTCT, HTCTCS, trong đó luận giải và
làm rõ một số vấn đề cơ bản đó là:
Thứ nhất, các nhà khoa học đã đưa ra những định nghĩa theo
nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp hệ thống chính trị. Những dấu hiệu cơ bản
của khái niệm hệ thống chính trị. Khái niệm HTCT thể hiện sự nhận
thức về HTCT ngày càng sâu sắc, mang tính toàn diện hơn, góp phần
vào chỉ đạo hiệu quả việc đổi mới, hoàn thiện HTCT ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, các nhà khoa học đã tập trung đi sâu vào phân tích đặc điểm,
cấu trúc, các nhân tố tác động và vị trí, vai trò của HTCT trên thế giới nói
chung; những nét đặc thù của HTCT và HTCT cơ sở nước ta nói riêng. Trên
cơ sở đó, giúp chúng ta tiếp thu những giá trị hợp lý về mô hình tổ chức và


3


hoạt động của HTCT các nước trên thế giới làm cơ sở, tiền đề cho tổ chức và
hoạt động của HTCT cơ sở của nước ta hiệu quả hơn.
Thứ ba, các nhà khoa học đã phân tích, khảo sát thực trạng HTCT Việt
Nam hiện nay, đánh giá những tích cực, hạn chế, bất cập, những bức xúc nổi lên
và nguyên nhân của nó làm cơ sở khoa học và những luận cứ. Các công trình
khoa học cũng đã đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu
nhằm củng cố, đổi mới và hoàn thiện HTCT Việt Nam hiện nay đáp ứng những
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Thứ tư, các tác giả xác định những phương hướng và giải pháp đổi mới,
nâng cao chất lượng HTCT ở các địa bàn; pháp huy vai trò của HTCT trong thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh hiện nay.
* Các công trình khoa học nghiên cứu về An sinh xã hội:
Sách chuyên khảo về lý luận chung và hệ thống chính sách ASXH
của nhóm tác giả: Phạm Văn Sáng, Ngô Quang Minh, Bùi Văn Huyền
và Nguyễn Anh Dũng (2009), Lý thuyết và mô hình ASXH, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
Mai Ngọc Cường (2009), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính
sách ASXH ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Dũng (2012), Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và
thực hiện hệ thống chính sách ASXH trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Nxb CTQG, Hà Nội.
Nguyễn Trọng Đàm, “Vấn đề cấu trúc, mô hình và cách vận dụng các
trụ cột của hệ thống an sinh xã hội ở VIệt Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản,
(Số 860 tháng 6/2014, tr.56)
Các nhà khoa học đã đưa ra khái quát cao về mô hình ASXH của
một số nước được vận dụng vào Việt Nam một cách phù hợp. Phần lớn các
tác giả đều nhận định: Hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam phát triển

chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu sự tính liên kết và hỗ trợ nhau giữa các chính
sách, trong một số trường hợp còn chồng chéo. Tính bao phủ của các chính
4


sách ASXH mặc dù tăng nhanh nhưng chưa cao, chỉ tập trung chủ yếu ở các
thành phố lớn, các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội. Hệ thống chính sách
BHXH, trợ giúp việc làm, xóa đói giảm nghèo… chậm được kết nối vào hệ
thống tổng thể về ASXH dẫn tới sự rời rạc, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Nguồn lực phục vụ cho ASXH chủ yếu tập trung ở khu vực Nhà nước, việc
huy động đa dạng hóa các nguồn lực từ ngoài còn hạn chế, thiếu chế tài buộc
các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ tài chính trong đảm bảo ASXH.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về thực hiện ASXH
Đặng Cảnh Khanh (1994), Vấn đề trợ giúp xã hội trong chính sách bảo
đảm xã hội ở Việt Nam, đề tài KX. 04- 05.
Mai Ngọc Cường (2001), Vấn đề đổi mới bảo hiểm xã hội, Chương VIII.
Sách Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Bùi Văn Hồng (2002), Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia BHXH
đối với người lao động tự tạo việc làm và thu nhập, đề tài cấp Bộ năm 2002.
Mai Ngọc Cường (2006), Chính sách xã hội nông thôn: kinh nghiệm
CHLB Đức và thực tiễn Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà nội.
Công Tuấn (2008), “Hệ thống ASXH của EU và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội.
Mai Ngọc Anh (2010), ASXH đối với nông dân trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
TS Lưu Ngọc Khải (2011), Nội dung, phương thức vận dụng quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về ASXH trong giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa
học ở Học viện Chính trị hiện nay, Đề tài cấp học viện.
Trần Hoàng Hải và Lê Thị Thuý Hương (2011), Pháp luật ASXH - Kinh
nghiệm của một số nước đối với Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.

Nguyễn Tấn Dũng (2010), “Bảo đảm ngày càng tốt hơn ASXH và phúc
lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2011 -2020”, Tạp chí Cộng sản, Số 815.
5


Các công trình đã khẳng định được ASXH là vấn đề xã hội phức tạp, mang
tính toàn cầu liên quan đến sự ổn định, phát triển bền vững của tất cả các quốc gia,
đòi hỏi phải phát huy tất cả các nguồn lực trong và ngoài nước, sự hợp tác giữa các
quốc gia dân tộc để giải quyết có hiệu quả.
Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Nhà nước chính
sách ASXH ngày càng được mở rộng và hoàn thiện với nhiều tầng, nấc, tiến
tới bao phủ toàn xã hội và mọi người dân.
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của đất
nước, sự tác động của biến đổi khí hậu và cả một hệ quả nặng nề do chiến
tranh để lại. Đối tượng chính sách ASXH ở nước ta hiện nay còn nhiều, trong
đó đáng chú ý là người nông dân, thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có
công với cách mạng... Do vậy, thực hiện ASXH phải động viên sức mạnh của
cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành và toàn nhân dân tham gia. Đồng
thời, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chiến lược ASXH ở Việt Nam đến năm
2020; phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội và tiến bộ xã hội.
Kết quả nghiên cứu các công trình khoa học trên được tác giả kế thừa có
chọn lọc trong quá trình triển khai thực hiện đề tài. Tuy nhiên, do giới hạn về
đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đến nay chưa có công trình khoa học nào đi
sâu nghiên cứu một cách hệ thống về “Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
thực hiện ASXH ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay”. Vì vậy, đề
tài mà tác giả lựa chọn không trùng lặp với các luận văn, luận án và công trình
khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:

Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn HTCT cơ sở, đề xuất yêu cầu
và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của HTCT cơ sở thực hiện ASXH
ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ:
6


- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của HTCT cơ sở thực hiện ASXH ở
huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đánh giá thực trạng vai trò của HTCT cơ sở thực hiện ASXH ở huyện
Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của
hệ thống chính trị cơ sở thực hiện ASXH ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà
Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở thực hiện
ASXH ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu tiếp cận ASXH theo chính sách của Nhà nước ta
trên 3 trụ cột chính: BHXH, các loại dịch vụ và trợ giúp xã hội; khảo sát thực
trạng hoạt động của các tổ chức trong HTCT cơ sở huyện Ứng Hòa như: Chính
quyền (HĐND, UBND), tổ chức cơ sở đảng, và các tổ chức chính trị - xã hội
(MTTQ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội
nông dân, Hội cựu chiến binh, Công đoàn) trong thực hiện ASXH, thời gian từ
năm 2012 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về ASXH và vai
trò của HTCT cơ sở trong giải quyết những vấn đề xã hội.

* Cơ sở thực tiễn:
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Hệ thống chính trị cơ sở thực hiện
ASXH ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến nay, đề tài
kế thừa tài liệu, các báo cáo tổng kết, các nghị quyết của Huyện ủy Ứng
Hòa có liên quan đến tổ chức và hoạt động HTCT cơ sở, kết quả khảo sát
7


của các công trình khoa học đã được công bố có liên quan và kết quả
nghiên cứu, điều tra, khảo sát của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp khoa học
liên ngành như: phân tích, tổng hợp, lịch sử - lôgíc, thống kê tài liệu, điều tra
xã hội học và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải
pháp cơ bản cho cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội huyện
Ứng Hòa nhằm phát huy vai trò của HTCT cơ sở thực hiện ASXH ở huyện
Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa học ở các học viện,
nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

8



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI
Ở HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

1.1. Một số vấn đề lý luận về vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
thực hiện an sinh xã hội ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay
1.1.1. Quan niệm về an sinh xã hội và an sinh xã hội ở Việt Nam
hiện nay
* Quan niệm về an sinh xã hội
Thuật ngữ ASXH (Social Security) xuất hiện vào khoảng cuối những năm
40, đầu những năm 50 thế kỷ XX. Tuy nhiên, khái niệm ASXH chỉ được chính
thức ra đời đầu tiên trong một đạo luật của Mỹ năm 1935-Luật về An sinh xã
hội. Song đạo Luật này cũng mới chỉ đề cập đến những người gặp rủi ro như:
già yếu cô đơn, chết, tàn tật, thất nghiệp. Năm 1938, khái niệm ASXH được
xuất hiện trong một đạo luật của New Zealand, về đối tượng ASXH giống như
Luật ASXH của Mỹ nhưng có thêm một khoản trợ cấp mới (trợ cấp gia đình).
Trong Công ước số 102, ngày 28 tháng 6 năm 1952 của Tổ chức Lao động quốc
tế (ILO): “Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội” đã sử dụng thuật
ngữ ASXH.
Hiện nay, còn nhiều cách diễn giải về ASXH. Định nghĩa được sử
dụng phổ biến nhất là định nghĩa của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO):
“ASXH là một hình thức bảo trợ xã hội mà xã hội dành cho các thành viên
của mình thông qua nhiều biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu
với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội hoặc làm mất đi hoặc
suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do
lao động, mất sức lao động hay tử vong; những dịch vụ về chăm sóc y tế và
những quy định về hỗ trợ đối với những gia đình có con nhỏ gặp phải khó
khăn trong cuộc sống”[48, tr.4]
9



Như vậy, có nhiều cách hiểu và sử dụng thuật ngữ về ASXH khác nhau
nhưng về cơ bản ASXH được hiểu theo hai nghĩa sau.
Theo nghĩa rộng, ASXH là sự đảm bảo thực hiện các quyền của con
người được sống trong hoà bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát
biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước
pháp luật; được học tập, được có việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để
thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi gặp rủi ro, tai nạn, tuổi già...
Theo nghĩa hẹp, ASXH được hiểu là sự bảo đảm thu nhập và một số điều
kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ khi bị giảm
hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm;
cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người
nghèo đói và những người bị thiên tai, địch họa.
Tiếp cận quan niệm ASXH theo nghĩa rộng, được thế giới nhìn nhận trên
một bình diện mới: “An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các
thành viên trong cộng đồng không may lâm vào hoàn cảnh yếu thế trong xã
hội thông qua các biện pháp phân phối tiền bạc và dịch vụ xã hội”.
C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về
ASXH nhưng những tư tưởng của Mác và Ăngghen về xã hội, xã hội chủ
nghĩa đã thể hiện đậm nét quyền con người, tính lịch sử, tính gia cấp, tính dân
tộc, tính nhân văn, nhân đạo, công khai, dân chủ và công bằng xã hội, các ông
đã khẳng định: “Xóa bỏ chế độ tư hữu ở đây chính là xóa bỏ sự áp bức bóc lột
bất công của chế độ người bóc lột người; xây dựng một xã hội ấm no, tự do,
hạnh phúc, một xã hội mà “nguyên tắc cơ bản là mọi cá nhân đều được phát
triển đầy đủ và tự do” [49, tr.835]
Có thể nói rằng nguồn gốc, bản chất của ASXH là vấn đề con người, bảo
đảm quyền con người cho mọi người. An sinh xã hội lấy con người làm trung
tâm, vì sự ấm no, tự do, hạnh phúc của con người; lấy mục tiêu ổn định và phát
triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu chủ yếu.

10


Kế thừa những thành tựu và các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học đi trước, tác giả có thể quan niệm: An sinh xã hội là sự bảo vệ, trợ giúp
của Nhà nước và cộng đồng bằng các biện pháp khác nhau nhằm hỗ trợ cho
các đối tượng khi họ bị suy giảm khả năng lao động, giảm sút thu nhập hoặc
gặp rủi ro, bất hạnh, rơi vào tình trạng nghèo đói, hoặc ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, mất sức lao động, già yếu, động
viên và khuyến khích con người tự lực vươn lên giải quyết vấn đề của chính họ
và hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Khái niệm trên cho thấy, về mặt bản chất, ASXH là vấn đề mang tính
cộng đồng, tính xã hội, tính lịch sử và tính nhân văn sâu sắc. Bởi vì, nó
tạo ra sự “an toàn” cho cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội, góp
phần bảo đảm đời sống và thu nhập cho mọi người trong xã hội với
phương thức hoạt động chủ yếu là thông qua các biện pháp công. Về mô
hình của ASXH bao gồm chín chế độ chủ yếu sau: chăm sóc y tế, trợ cấp
ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ
cấp tử tuất. Đây chính là mô hình ASXH đã được hầu hết các quốc gia
trên thế giới trong đó có Việt Nam thừa nhận. Song, việc thực hiện đầy đủ
các chế độ an sinh trên còn tùy thuộc vào nhu cầu điều kiện về kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, theo xu hướng chung trên thế giới, ASXH sẽ
được mở rộng dần về số lượng với những cách thức cách tiếp cận khác
nhau của từng nước.
Trong thực tế, ASXH là một lĩnh vực rộng lớn, đa dạng, phức tạp khó có
thể đưa ra một định nghĩa để đáp ứng được tất cả các nội dung trong điều kiện
kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, truyền thống dân tộc, tôn giáo ở mỗi nước
và từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Vì vậy, quan niệm của tác giả chỉ là bước
nghiên cứu ban đầu theo mô hình ASXH ở một số nước phát triển và của Tổ
chức Lao động quốc tế.

11


* Hệ thống ASXH ở Việt Nam
Đối với nước ta thuật ngữ “an sinh xã hội” xuất hiện vào những năm 70 của
thế kỷ XX. Cùng với sự phát triển của đất nước, bảo đảm ngày càng tốt hơn an
sinh xã hội là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản
chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính
trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Tuy nhiên trong nhiều thập kỷ
qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, cùng với việc không ngừng cải tiến chế
độ tiền lương, tiền công và nâng cao thu nhập cho người lao động, Đảng và Nhà
nước rất quan tâm chăm lo đến ASXH và phúc lợi xã hội cho nhân dân.
Ngay từ Đại hội lần thứ III, Đảng ta đã xác định: Cải thiện đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ăn no
mặc ấm, tăng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự
nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
Những năm sau đó, mặc dù trong điều kiện còn hết sức khó khăn, thiếu thốn,
nhưng Đảng và Nhà nước vẫn luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác
bảo đảm ASXH và phúc lợi xã hội. Nhận thức, quan điểm và cơ chế chính
sách phát triển hệ thống ASXH và phúc lợi xã hội được hoàn thiện dần qua
các kỳ đại hội của Đảng.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đưa ra chủ trương đổi
mới toàn diện đất nước, khơi dậy mọi nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh trong
nước để phát triển, tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển hệ thống ASXH. Đảng
xác định, ASXH là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì thế, Đảng ta đã phân tích sâu sắc mối quan hệ biện
chứng giữa ASXH và phát triển kinh tế trong mặt thống nhất của phát triển xã
hội. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, một mặt đem lại sự tăng trưởng
nhanh về kinh tế, nhưng mặt trái của nó cũng đặt ra nhiều rủi ro cho con người
trong cuộc sống. Như vậy, đảm bảo ASXH là điều kiện để đảm bảo định hướng
XHCN cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Xây dựng nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN là đảm bảo những điều kiện thực hiện ASXH. Chính
12


vì đó, trong mỗi chính sách phát triển kinh tế phải đảm bảo ASXH; các chính
sách xã hội phải đặt ngang tầm với các chính sách kinh tế, gắn với các chương
trình kinh tế - xã hội vì mục tiêu phát triển con người, phát huy tối đa nguồn
lực con người. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ: “Mục tiêu của
chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy
nhân tố con người, vì con người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân”[21, tr.219].
Đại hội IX của Đảng chủ trương này trở thành một định hướng chiến lược
để phát triển bền vững đất nước: “Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn
hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường…”[23, tr.89]
Đến Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định “Xây dựng hệ thống ASXH đa
dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo
hiểm y tế toàn dân”, “Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống ASXH để đáp
ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã
hội, nhất là nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”[24, tr.102].
Đại hội lần thứ XI, quan điểm của Đảng về ASXH đã được bổ sung, phát
triển sâu sắc và hoàn thiện hơn. Đảng xác định giải quyết tốt vấn đề ASXH
một cách toàn diện, có hệ thống, trong từng bước, từng chính sách phát triển,
ở cả phương diện vĩ mô, trên cả nước đến các vấn đề cụ thể, gắn với từng
ngành, từng địa phương. Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta xác định
“hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ công cộng thích
ứng với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [26, tr.125]; “hoàn
thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế
với các mục tiêu chính sách xã hội” [26, tr.124] nhằm “đảm bảo ASXH trong

từng bước và từng chính sách phát triển” [26, tr.227].
Đại hội lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục xác định: “bảo đảm an sinh xã hội,
nâng cao phúc lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng
13


cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, chất lượng dân số, chất lượng
cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu
nhập; xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh, an toàn”.[27, tr78]
Điều 34, Hiến pháp năm 2013 chỉ rõ: “Công dân có quyền được bảo đảm
an sinh xã hội”. Đây là một quyền mới mà các bản Hiến pháp trước đây
không quy định. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN thì quyền được bảo đảm ASXH của công dân là một tất yếu. Bởi,
ASXH là một hệ thống duy trì thu nhập do Nhà nước quản lý nhằm tránh cho
mọi người khỏi rơi vào tình trạng nghèo hoặc cứ nghèo mãi.
Hiện nay, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về an sinh xã
hội, trong đó có Chiến lược phát triển an sinh xã hội giai đoạn 2011 - 2020.
Song, hệ thống ASXH mang tính chất rộng lớn, tác giả chỉ tập trung đi sâu
vào ba vấn đề chủ yếu cơ bản sau:
Một là, Bảo hiểm xã hội: Đây chính là trụ cột cơ bản, cần thiết cho sự
bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ
BHXH" (Điều 3 Luật BHXH)). Bảo hiểm xã hội là xương sống của hệ thống
ASXH. Chỉ khi có một hệ thống BHXH hoạt động có hiệu quả thì mới có thể có
một nền ASXH vững mạnh. BHXH dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia,
gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường
hợp. Thông qua các trợ cấp BHXH, người lao động có được một khoản thu nhập
bù đắp hoặc thay thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong những
trường hợp họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.

Hai là, các loại cung cấp dịch vụ như: y tế, hỗ trợ tài chính trong thời
gian thất nghiệp, bệnh tật, hoặc nghỉ hưu, chăm sóc sức khỏe cho người lao
động và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm cho họ tái tạo được sức lao
động, duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội, đồng thời phát triển mọi mặt
cuộc sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người.
14


Ba là, các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật…) cho những người
có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người cần sự giúp đỡ đặc
biệt cho các gánh nặng gia đình… ASXH cũng khuyến khích, thậm chí bao quát
cả những loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn, ở, dịch vụ đi lại…
Để bảo đảm việc thực hiện quyền này, khoản 2 Điều 29 Hiến pháp năm
2013 ghi rõ: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc
lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội”.
Có thể nhận định, An sinh xã hội là một vấn đề xã hội quan trọng trong
chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện
được tính ưu việt, tính nhân văn và tính nhân đạo sâu sắc. Thực hiện ASXH là
một biện pháp quan trọng để bảo vệ và tạo điều kiện để con người phát triển
một cách toàn diện. Trước những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị
trường dẫn đến tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng, tệ tham ô,
quan liêu, tham nhũng chưa được khắc phục…thì việc thực hiện ASXH càng
có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Cho nên, thực hiện tốt ASXH không
chỉ góp phần ổn định xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội mà còn tạo
động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước theo định hướng XHCN.
* Cấu trúc hệ thống ASXH
Về cấu trúc của hệ thống ASXH: có nhiều quan điểm và cách thức tiếp
cận khác nhau. Theo tổ chức quốc tế, thì một hệ thống ASXH phải có tối thiểu
3 hợp phần cơ bản tương ứng với 3 chức năng chính của ASXH, gồm:

Thứ nhất, những chính sách, chương trình phòng ngừa rủi ro. Đây là
tầng trên cùng của hệ thống ASXH. Với chức năng chính là hướng tới can
thiệp, bao phủ toàn bộ dân cư; giúp cho mọi tầng lớp dân cư có được việc
làm, thu nhập, có được năng lực vật chất cần thiết để đối phó tốt nhất với rủi
ro. Trụ cột cơ bản của tầng này là những chính sách, chương trình về thị
trường lao động tích cực như đào tạo nghề; hỗ trợ người tìm việc, tự tạo việc
làm hoặc đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động.
15


Thứ hai, những chính sách, chương trình giảm thiểu rủi ro. Đây là tầng
thứ hai, gồm các chiến lược giảm thiểu thiệt hại do rủi ro của hệ thống an sinh xã
hội, có vai trò đặc biệt quan trọng. Nội dung quan trọng nhất trong tầng này là
các hình thức bảo hiểm, dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng như: bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, … Nhóm chính sách này rất nhạy cảm, nếu
phù hợp sẽ thúc đẩy sự tham gia tích cực của người dân, tiết kiệm nguồn lực cho
nhà nước, tăng độ bao phủ hệ thống. Ngược lại, nếu chính sách không phù hợp,
người dân sẽ không tham gia hoặc chính sách sẽ bị lạm dụng.
Thứ ba, những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro, bao gồm các chính
sách, chương trình về cứu trợ và trợ giúp xã hội. Đây là tầng cuối cùng của hệ thống
ASXH với chức năng bảo đảm an toàn cho các thành viên xã hội khi họ gặp phải
rủi ro mà bản thân không tự khắc phục được như: thất nghiệp, người thiếu việc làm,
người có thu nhập thấp, người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người nghèo…
* Vai trò của ASXH đối với sự ổn định và phát triển xã hội nước ta.
Thứ nhất, ASXH góp phần đảm bảo ổn định đời sống kinh tế - xã hội.
Thực hiện ASXH là quá trình tiến hành trên nhiều lĩnh vực, bằng nhiều
biện pháp, trong đó có các chính sách, biện pháp như: giảm nghèo, đào tạo
nghề, giải quyết việc làm, bảo hiểm xã hội, ưu đãi người có công với nước, trợ
giúp xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội công cộng, tạo điều kiện cho người
nghèo, cận nghèo, và các đối tượng chính sách xã hội được tiếp cận thuận lợi

các dịch vụ xã hội cơ bản về văn hoá, y tế, giáo dục. Mặt khác, trọng tâm của
ASXH là tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều chương trình, dự án, chính sách và
huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo vượt
qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo bền vững. Đồng thời, chú trọng phát triển
hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế với nội dung và hình thức ngày càng
phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham
gia, nhất là người nghèo, cận nghèo, đối tượng chính sách xã hội. Hơn nữa, quá
trình thực hiện ASXH Nhà nước có nhiều chính sách định hướng phát triển
16


kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hoà với tiến bộ và công bằng xã
hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển hệ thống ASXH đa
dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả, tạo cơ hội bình đẳng về hưởng thụ các
dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội…Qua đó góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của người dân; thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của gia
đình, địa phương và xã hội, đảm bảo ổn định đời sống kinh tế của xã hội.
Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 2020) Đảng ta
xác định: Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với tiến bộ và công bằng xã hội,
nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển hệ thống
ASXH đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Chiến lược tổng thể về an
sinh xã hội đã đưa ra 6 mục tiêu lớn:
Mục tiêu 1: Tăng cường tính bình đẳng trong thị trường lao động thông
qua hỗ trợ tốt hơn người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương tham gia
đào tạo, có việc làm, nâng cao điều kiện làm việc và cải thiện cuộc sống, mở
rộng tỷ lệ tham gia bảo hiểm tự nguyện.
Mục tiêu 2: Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội tiên tiến, mở rộng
phạm vi, đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội tự nguyện, quỹ bảo hiểm xã
hội được bảo đảm an toàn và phát triển, mức hưởng được cải thiện.
Mục tiêu 3: Tăng cường hiệu quả chăm sóc y tế công. Thực hiện mục

tiêu bảo hiểm y tế toàn dân từ năm 2014, cải thiện hoạt động chăm sóc y tế để
mọi người dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng dân tộc, miền núi dễ dàng tiếp cận
với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Mục tiêu 4: Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt, ứng phó kịp
thời với các biến cố, rủi ro. Mở rộng các nhóm đối tượng thụ hưởng đến toàn
bộ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương.
Mục tiêu 5: Thực hiện giảm nghèo bền vững, ngăn chặn gia tăng bất
bình đẳng. Kiểm soát bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư, vùng về thu nhập
và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, hưởng lợi từ các chương trình đầu tư
17


phát triển, giảm nghèo trong từng vùng, từng khu vực. Bảo vệ có hiệu quả các
trẻ em và phụ nữ nghèo, dễ bị tổn thương, bị lạm dụng.
Mục tiêu 6: Nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ xã hội tại
các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Tăng cường tiếp cận của
người di dân đến dịch vụ xã hội tại các đô thị.
Thứ hai, ASXH thúc đẩy tính tích cực xã hội trong mỗi con người, xây
dựng tinh thần đoàn kết, nhân ái và tính đồng thuận xã hội.
Tham gia ASXH là đảm bảo cho cuộc sống người lao động nói riêng và
cộng đồng nói chung được chăm sóc, bảo vệ khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn;
giúp cho những người bất hạnh có thêm những điều kiện cần thiết để khắc
phục những “rủi ro”, có cơ hội để phát triển và hoà nhập với mọi người. An
sinh xã hội với các chức năng chính của mình, thúc đẩy tính tích cực xã hội
trong mỗi con người, xây dựng tinh thần đoàn kết, nhân ái, tạo cho mỗi con
người xích lại gần nhau hơn, hướng hành động của con người tới những điều
cao đẹp trong cuộc sống, gắn kết hoà đồng mọi người không phân biệt dân
tộc, tôn giáo, giới tính... vào một xã hội mang tính nhân ái, công bằng cho
mọi thành viên. ASXH thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp, đoàn kết, giúp đỡ
lẫn nhau, tương thân tương ái giữa những con người trong xã hội.

Thứ ba, ASXH một phương thức cơ bản để tập hợp, huy động các
nguồn lực vào giải quyết các vấn đề xã hội.
Thực hiện ASXH dựa trên nguyên tắc san sẻ, công bằng xã hội với
nhiều hình thức, phương thức và biện pháp khác nhau. Về mặt xã hội, ASXH
là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các tầng lớp dân cư, đặc
biệt là những người nghèo khó, những nhóm dân cư yếu thế trong xã hội.
Thực hiện tốt vấn đề này không chỉ là một cá nhân, một nhóm người mà đòi
hỏi phải có sự tập hợp, huy động mọi nguồn lực trong xã hội cùng thực hiện.
Mặt khác, ASXH là công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong
cộng đồng bằng các chính sách bảo trợ xã hội, trợ giúp việc làm, tiếp cận các
18


dịch vụ công cộng …nâng cao được đời sống vật chất, tinh thần cho xã hội,
qua đó hạn chế được sự nghèo nàn lạc hậu, các tệ nạn xã hội, khắc phục được
phân hóa giàu nghèo, đây là những vấn đề mà xã hội đang tập trung giải
quyết. Vì vậy, xây dựng được hệ thống ASXH tốt sẽ giải quyết tốt các vấn đề
xã hội, góp phần tạo sự ổn định và phát triển xã hội, làm cho xã hội tốt đẹp
hơn, văn minh hơn. Mặt khác, thực hiện tốt ASXH là một phương thức cơ bản
để huy động và tập trung các nguồn lực vào giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Ngày nay, trong sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội hiện đại, ASXH
ngày càng được củng cố và hoàn thiện để trở thành một chính sách quan
trọng, thiết yếu của Nhà nước đối với mỗi người dân. Nó có chức năng tổng
hợp và tập trung các nguồn lực vào việc ổn định và phát triển xã hội, đem lại
hạnh phúc, ấn no cho người dân.
Quán triệt tốt vấn đề đó, thời gian qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn
song HTCT cơ sở huyện Ứng Hòa đã dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác
ASXH, thể hiện qua nhiều hoạt động thiết thực, việc làm cụ thể như: chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là các đối tượng chính sách,
người có công với cách mạng, người nghèo, người tàn tật, người neo đơn…

Qua đó đã góp phần đảm bảo ổn định xã hội, từng bước nâng cao đời sống
của nhân dân, tạo đà cho phát triển bền vững. Nhờ đó, hoạt động đào tạo nghề
tiếp tục được tăng cường cả về quy mô và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ các chương trình, dự án trọng điểm
của huyện nhà. Năm 2016, số lao động được tạo việc làm trên địa bàn toàn
huyện là 3.774/3.500 lao động, đạt 107,8% so với kết hoạch; trong đó xuất
khẩu lao động là 162 người. [39, tr.8]
Thứ tư, ASXH đóng một vai trò quan trọng đối với sự ổn định chính trị
- xã hội của đất nước, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Tình hình kinh tế - xã hội của đất nước ổn định, vững mạnh là điều kiện
cho sự ổn định chính trị bền vững. Mặt khác, trong cuộc sống của người lao
19


động thường xuyên bị đe dọa với những thiếu thốn do ốm đau, do thất nghiệp,
do già yếu, do tai nạn... cũng tác động sâu sắc đến tình hình chính trị - xã hội.
Thực tế những “điểm nóng” ở nhiều nước trên thế giới đã cho thấy, một trong
những nguyên nhân dẫn đến biểu tình, thậm chí xung đột xã hội là do chính
phủ không đáp ứng đủ về trợ cấp cho công nhân khi ốm đau, khi bị thất
nghiệp hoặc giảm sút thu nhập. Vì thế, ASXH đóng một vai trò rất quan trọng
trong thúc đẩy tiến bộ xã hội và giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất
nước. Mục tiêu chiến lược phát triển của đất nước ta là nhằm đảm bảo và đem
lại lợi ích cho mọi người. Bằng những biện pháp của mình, ASXH tạo ra mạng
“lưới chắn” với nhiều tầng, nhiều lớp để bảo vệ cho mọi thành viên trong cộng
đồng khi bị giảm, mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất do nhiều
nguyên nhân khác nhau - gọi chung là những “rủi ro trong xã hội”.
Thực hiện an sinh xã hội không những có ý nghĩa đối với sự ổn định và
phát triển của nước ta mà còn có ý nghĩa mang tính quốc tế. Ngoài quyền con
người, thực hiện tốt các chính sách ASXH còn là sự biểu hiện trình độ văn
minh tiến bộ của mỗi quốc gia và thế giới, ASXH còn là vấn đề mang tính

toàn cầu, nhất là các vấn đề nghèo đói, các loại dịch vụ, cứu trợ xã hội,
BHXH… do đó cần phải có sự hợp tác, chung sức, chung lòng của tất cả các
quốc gia vì một thế giới hoà bình, ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội.
1.1.2. Quan niệm và biểu hiện vai trò của hệ thống
chính trị cơ sở trong thực hiện an sinh xã hội ở huyện
Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay
* Đặc điểm kinh tế - xã hội huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay
Về điều kiện địa lý
Ứng Hòa là huyện phía Nam của Hà Nội, phía Bắc giáp huyện
Chương Mỹ và Thanh Oai, phía Nam giáp huyện Duy Tiên và Kim Bảng
(Hà Nam), phía Tây giáp huyện Mỹ Đức, phía Đông giáp huyện Phú
Xuyên. Diện tích tự nhiên của huyện là 183.72 km 2. Dân số khoảng
20


179.900 người. Huyện Ứng Hòa có 29 đơn vị hành chính: 01 thị trấn và
28 xã, là huyện đồng bằng nằm trong vùng thuộc nền văn minh lúa nước
sông Hồng. Năm 2008, Ứng Hòa chính thức sáp nhập và trở thành một
trong 29 quận, huyện của Thành phố Hà Nội. Hệ thống giao thông của
huyện Ứng Hòa có hai trục đường chính là quốc lộ 21B và tỉnh lộ 75, các
đường liên tỉnh, liên huyện, liên xã, thôn đan chéo nhau tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội.
Về điều kiện kinh tế
Là huyện thuần nông, điểm xuất phát thấp, Ứng Hòa đã tập trung
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp kết
hợp với khôi phục ngành nghề truyền thống và phát triển nghề mới. Trong
công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ và nhân dân Ứng Hòa
tích cực đổi mới về nhận thức, tư duy để phát triển kinh tế - xã hội nên đời
sống nhân dân trong huyện ngày càng được cải thiện rõ rệt.
Hiện nay, định hướng phát triển của huyện Ứng Hòa là chuyển hướng

nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển nông, lâm nghiệp ổn định; công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh với tốc độ nhanh. Tuy nhiên,
công nghiệp của huyện chưa có nhiều dự án lớn, song tiểu thủ công nghiệp
đang được đầu tư và phát triển mạnh trong đó tập trung vào các nghề truyền
thống như nghề may, nghề làm Bún, nghề làm đàn, nghề khảm trai, mây tre
đan … Nhờ chọn đúng mục tiêu, xác định bước đi và cách làm phù hợp, chỉ
đạo cụ thể, đồng bộ, kinh tế của huyện đã có nhiều khởi sắc. Diện mạo nông
thôn ngày càng đổi mới.
Về văn hóa - xã hội
Cùng với việc phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội của huyện Ứng Hòa
cũng đã có sự phát triển mạnh mẽ. Công tác giáo dục đào tạo ngày càng được
nâng cao, trang thiết bị được đầu tư và nâng cấp, cảnh quan, môi trường của

21


các trường học được đảm bảo. Hiện nay, tính đến năm 2016 trên địa bàn toàn
huyện đã có 50/90 trường đạt chuẩn Quốc gia.
Bên cạnh công tác giáo dục đào tạo, công tác văn hóa - thông tin và
thể thao, y tế… cũng được quan tâm đầu tư phát triển. Công tác đảm bảo
thông tin liên lạc, thể dục thể thao phục vụ nhân dân, đáp ứng nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội của huyện cũng ngày càng phát triển. Đặc biệt là
công tác ASXH cũng đã được các cấp, các ngành trong huyện quan tâm và
thực hiện ngày càng có hiệu quả, nhất là tổ chức dạy nghề cho nhân dân,
xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ xây, sửa nhà cho hộ nghèo, nhà tình nghĩa cho
người có công, chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số, gia đình và
trẻ em…Những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội của Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân huyện Ứng Hòa những năm qua đã tạo ra những
điều kiện vật chất thuận lợi cho việc thực hiện ASXH trên địa bàn, góp
phần vào sự ổn định và phát triển của huyện.

Về tổ chức hành chính:
Hiện nay toàn huyện Ứng Hòa có 29 đơn vị hành chính cấp cơ sở gồm
28 xã và 01 thị trấn (Thị trấn Vân Đình), với 147 thôn và 03 tổ dân phố.
Huyện Ứng Hòa có 29 Đảng bộ cơ sở. Có 29 HĐND, tương ứng có 29 UBND
cấp xã; mỗi thôn và tổ dân phố đều có tổ đại biểu HĐND; mỗi xã, thị trấn
trong huyện đều được thành lập MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội; ở
mỗi thôn và tổ dân phố đều có ban công tác Mặt trận, Chi đoàn Thanh niên,
Chi hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh. Đồng thời, hàng năm
UBND xã tổ chức cho đại diện nhân dân bầu trực tiếp trưởng thôn và tổ
trưởng tổ dân phố, để quản lý, điều hành…. Hệ thống chính trị cơ sở cấp xã
và thị trấn có 232 cán bộ chuyên trách và 203 cán bộ không chuyên trách.
Đây là những người trực tiếp thực hiện và đưa chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân, tuyên
truyền, vận động và tổ chức nhân dân thực hiện ASXH. Các tổ chức trong
22


HTCT cơ sở được bố trí theo hệ thống dọc từ trên xuống dưới, mỗi tổ chức
đều có chức năng, nhiệm vụ riêng; đội ngũ cán bộ hiện nay tạm đủ, có trình
độ chuyên môn, lý luận chính trị và năng lực để thực hiện các nhiệm vụ được
giao, góp phần nâng cao các mặt công tác, khơi dậy nguồn lực của nhân dân,
nâng cao trình độ dân sinh, dân trí, dân chủ ở cơ sở, đời sống nhân dân được
nâng lên đáng kể, đảm bảo an ninh, chính trị, quốc phòng trên địa bàn các xã.
* Quan niệm về vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện an
sinh xã hội ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay
- Hệ thống chính trị
Nghiên cứu về HTCT của một nước, C.Mác và Ph.Ăngghen trong các
tác phẩm của mình khi đề cập đến các thiết chế chính trị và cách thức tổ chức
của một xã hội, các ông chưa dùng thuật ngữ “ hệ thống chính trị” mà thường
dùng các thuật ngữ “hệ thống hành chính cai trị”, “cơ cấu chính quyền”, “hình

thức chính trị”, “thiết chế xã hội chủ nghĩa và chính quyền”. V.I.Lênin cũng
chưa sử dụng khái niện “hệ thống chính trị” mà dùng khái niệm “hệ thống
chuyên chính vô sản”, các ông nhấn mạnh: trong xã hội có giai cấp bất cứ giai
cấp cầm quyền nào cũng tổ chức ra bộ máy nhà nước để duy trì sự thống trị
của mình đối với xã hội. Khi đó, giai cấp công nhân tiến hành cách mạng vô
sản giành thắng lợi tất yếu, sẽ tổ chức ra hệ thống quyền lực của mình đối với
xã hội đó là hệ thống chuyên chính vô sản. Đối với nước ta, khái niệm
HTCT lần đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI (năm 1990). Trong đó khẳng định: Hệ
thống chính trị là một chỉnh thể bao gồm toàn bộ những tổ chức chính trị xã hội (Đảng Cộng sản Việt Nam, Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các đoàn thể nhân dân), hoạt động hợp pháp cùng với cơ chế chính
trị đảm bảo quyền lực thực tế của nhân dân lao động. Đồng thời chỉ rõ: Hệ
thống chính trị XHCN là toàn bộ những thiết chế, cơ chế của chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân lao động, do
Đảng cộng sản lãnh đạo thực hiện chức năng cơ bản là xây dựng và từng
23


bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền lực thuộc
về nhân dân trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Hiện nay thuật ngữ HTCT đã được sử dụng phổ biến: Hệ thống chính
trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các
thiết chế có quan hệ với nhau về mặt mục đích, chức năng trong việc thực
hiện, tham gia thực hiện quyền lực chính trị hoặc đưa ra các quyết định chính
trị. Hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội là một chỉnh thể bao gồm nhiều
tổ chức chính trị, trong đó có nhà nước XHCN (nhà nước chuyên chính vô
sản), đảng cộng sản (có thể một số đảng chính trị khác ủng hộ đảng cộng sản),
cùng các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp và mối quan hệ qua lại giữa các
yếu tố đó nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân.
- Hệ thống chính trị cơ sở huyện Ứng Hòa

Hệ thống chính trị cơ sở, còn được gọi là hệ thống chính trị xã, phường,
thị trấn là cấp thấp nhất, nơi trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức
thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh.
Về cấu trúc, HTCTCS là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các thiết chế
chính trị như: Hệ thống tổ chức cơ sở đảng, chính quyền cơ sở, MTTQ và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Mỗi tổ chức trong HTCTCS có một vị trí, vai trò,
chức năng khác nhau. Song, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau vận hành theo
cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, quản lý, nhân dân làm chủ.
Tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ, chi bộ cơ sở), là nền tảng, hạt nhân chính
trị ở cơ sở, lực lượng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội ở địa phương.
Chính quyền cơ sở, bao gồm: HĐND và UBND xã, phường, thị trấn. Hội
đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
24


Hội đồng nhân dân có ba chức năng cơ bản là quyết định những
vấn đề quan trọng; thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở và thực hiện nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cấp mình. Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ, quyền
hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống
nhất của Trung ương.
Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật và
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp.
Ủy ban nhân dân có chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước toàn diện trên địa
bàn, tổ chức thực hiện những nghị quyết và quyết định của HĐND cùng cấp.

Các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở, bao gồm: Mặt trận Tổ quốc,
ĐTNCS Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh,…có
vai trò rất quan trọng trong tập hợp, củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân, tạo sự nhất trí về chính trị - tinh thần trong nhân dân; tuyên
truyền vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ thực sự của mình trong
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp
luật của Nhà nước trên địa bàn; bảo vệ, đại diện cho quyền lợi và ý chí của
quần chúng, đại diện cho họ trong việc tham gia xây dựng và giám sát
đảng, chính quyền, tập hợp những kiến nghị của nhân dân để phản ánh với
đảng và cơ quan nhà nước cấp trên; chăm lo, bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ
chính đáng của nhân dân.
Từ sự phân tích về cấu trúc của HTCTCS có thể quan niệm: hệ thống
chính trị cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị ở nước ta, bao gồm: tổ
chức cơ sở đảng (đảng bộ, chi bộ cơ sở), chính quyền cơ sở (HĐND, UBND)
và các tổ chức chính trị - xã hội cơ sở như: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến
binh,... được tổ chức chặt chẽ và gắn bó mật thiết với nhau, hoạt động theo
25


×