Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thể chế chính trị đương đại trên thế gới và gợi mở cho việt nam tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.48 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Trên thế giới hiện nay, có rất nhiều thể chế chính trị thế giới khác nhau. Mỗi
quốc gia có sự lựa chọn con đường đi cho riêng mình để sao cho phù hợp với những
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của quốc gia mình. Khoan hãy nói tới sự tiến bộ hay lạc
hậu của những thể chế ấy, và sự thực là trên thế giới hiện nay tồn tại rất nhiều thể chế
chính trị khác nhau. Người ta đã từng nói cái gì hợp lý nó sẽ tồn tại và nó tồn tại bởi
vì nó hợp lý. Thể chế này có thể bị coi là không tiến bộ bằng thể chế khác, nhưng sự
hiện diện của nó trong lịch sử của nhân loại, ở những giai đoạn khác nhau của lịch sử
chứng tỏ rằng nó có những điểm hợp lý, tích cực riêng nó, nên người ta mới lựa chọn.
Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, không
kinh qua chủ nghĩa tư bản. Chúng ta có thể tự hào rằng việc chọn lựa con đường đi
lên Chủ nghĩa xã hội của nước ta là đúng đắn và hợp với quy luật phát triển của xã
hội. Và thực tiễn Việt Nam cũng đã, và đang chứng minh điều đó. Song chúng ta
cũng không thể không công nhận những thành tựu và những mặt tích cựu của những
thể chế chính trị thế giới đương đại khác.
Không Tử đã từng nói: “Biển nhiều nước vì nó thấp hơn sông, suối”. Nhìn
nhận và tiếp thu những yếu tố tích cực của các thể chế chính trị thế giới khác là việc
làm cần thiết, góp vào hành trang của chúng ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội.

1


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ
1.1. Thể chế
Thể chế là một thuật ngữ xuất hiện từ rất sớm, nhưng nó chỉ được sử dụng rộng
rãi trong nghiên cứu và quy hoạch định chính sách kinh tế từ những năm 20 – 30 của
thế kỷ XX, lúc đầu ở các nước phương Tây. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường tại các nước XHCN trước đây, ở Trung Quốc và cả ở
nước ta, vấn đề thể chế ngày càng được quan tâm hơn.


Cho tới nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về thể chế, song chúng ta có thể
hiểu một cách đơn giản thể chế chính là hệ thống các quy tắc, quy định pháp luật,
luật lệ (phong tục, tập quán, thỏa ước cộng đồng); các tổ chức xã hội, các cơ quan
quản lý nhà nước và cơ chế vận hành, điều chỉnh các hoạt động của đời sống xã hội.
1.2. Chính trị và hệ thống chính trị
Chúng ta có thể hiểu chính trị là những công việc của nhà nước, những hoạt
động liên quan đến quyền lực nhà nước, đấu tranh giành, giữ, bảo vệ và thực thi
quyền lực nhà nước.
Hệ thống chính trị là một hệ thống các tổ chức chính trị hợp pháp bao gồm:
nhà nước, các đảng chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội, cùng các quan hệ ràng
buộc, gắn kết các tổ chức đó thành một chỉnh thể để tác động vào các quá trình của
đời sống xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi
ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
1.2. Thể chế chính trị
Thể chế chính trị là một bộ phận của thể chế xã hội nói chung, là hệ thống các
quy tắc, quy định pháp luật, luật lệ với tư cách là những chuẩn mực điều chỉnh hành
vi của các chủ thể chính trị, các tổ chức chính trị, các cơ quan quản lý nhà nước và cơ
chế vận hành, điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể chính trị trong lĩnh vực chính
trị.
Thể chế chính trị có vai trò vô cùng to lớn trong đời sống xã hội là đòi hỏi
khách quan, phản ánh sự hoàn thiện của thượng tầng kiến trúc cho phù hợp với hạ
2


tầng kinh tế. Trong đời sống xã hội đương đại, thể chế chính trị có vị trí, vai trò vô
cùng to lớn:
Một là, thể chế hóa những tử tưởng, quan điểm của giai cấp cầm quyền thành
những chuẩn mực xã hội và các tiêu chí chính trị thành “luật chơi chính trị” có tính
cưỡng chế buộc mọi người và mọi tổ chức xã hội phải tuân theo; đồng thời cũng thể
chế hóa chính trị thành các tổ chức và con người chính trị “người chơi” với những

chức năng, chế độ cụ thể.
Hai là, là cơ sở có tính pháp lý để theo đó những thiết chế chính trị được dựng
lên và vận hành trong khuôn khổ vì sự bảo vệ quyền lợi của giai cấp cầm quyền.
Ba là, quy định và điều chỉnh các quan hệ, hành vi của các chủ thể chính trị
nhằm tạo lập sự ổn định và cân bằng của các quá trình chính trị, tạo “sân chơi” công
bằng và song phẳng.
1.3. Các thể chế chính trị trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có hai loại thể chế chính chính tiêu biểu là: thể chế Quân
chủ và thể chế Cộng hòa (trước đây có thêm thể chế quân sự của Mianma, tuy nhiên,
năm 2010 Mianma đã chuyển từ thể chế quân sự để sang thể chế dân sự, đó là Cộng
hòa tổng thống).
Thể chế Quân chủ có 3 loại là: Quân chủ chuyên chế, Quân chủ Nhị nguyên và
Quân chủ Lập hiến (hay Quân chủ đại nghị). Quân chủ chuyên chế: tức quyền lực
nhà nước tối cao chỉ tập trung trong tay của một người, đó chính là Vua. Quân chủ
Nhị nguyên: tức là quyền lực nhà nước tối cao được chia làm hai: Vua và Nghị viện,
nhưng Vua vẫn lấn át quyền của Nghị viện và có thể giải tán Nghị viện (điển hình là
Bruney). Quân chủ Lập hiến (Đại nghị) có nghĩa quyền lực nhà nước tối cao được
chia làm hai: Vua và Nghị viện, Vua trị vì nhưng không cai trị, quyền lực nhà nước
tập trung trong tay của Nghị viện (điển hình là ở Anh, Nhật, Úc,… ). Quân chủ ở đây
là thể hiện quyền lực tập trung một phần hay toàn bộ vào trong tay một người theo
nguyên tắc kế thừa, và sự kế thừa ở đây không nhất thiết phải là “cha truyền con
nối” (chẳng hạn như ở Malaisia, người ta tổ chức bầu luân phiên giữa 9 tiểu vương
quốc, không theo kiểu theo kiểu cha truyền con nối). Ở Campuchia, Vua cũng không
có quyền lựa chọn người kế vị mà người kế vị là do Hội đồng Hoàng gia gồm 9 thành
3


viên sẽ bổ nhiệm, lựa chọn người ít nhất 30 tuổi, là thành viên hoàng tộc và hậu duệ
của Quốc vương Ang Duong, Norodom hoặc Sisowath.
Thể chế Cộng hòa có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Thể chế này có 4

loại: Cộng hòa Tổng thống, Cộng hòa Đại nghị, Cộng hòa Lưỡng tính, Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa.
Cộng hòa Tổng thống: (điển hình là ở Mĩ, Liên bang Nga,…) đặc trưng là
quyền lực tập trung trong tay Tổng thống do dân bầu ra, Tổng thống có quyền thành
lập Chính phủ và Nội các (các thành viên Chính phủ), các thành viên Chính phủ chịu
tránh nhiệm trước tổng thống. Tuy nhiên, ở Liên bang Nga, Tổng thống có quyền giải
tán DUMA Quốc gia Nga (DUMA do nhân dân bầu).
Cộng hòa Đại nghị: (hay Cộng hòa nghị viên) là một hình thức Cộng hòa mà nguyên
thủ quốc gia được bầu ra và quốc gia đó có một nghị viện mạnh và các thành viên
chính của bộ máy hành pháp được chọn ra từ nghị viện đó. Ngược lại với nền Cộng
hòa tổng thống và cộng hòa lưỡng tính, Tổng thống thường không có quyền hành
pháp rộng lớn bởi vì nhiều quyền trong đó được trao cho người đứng đầu chính
phủ(thường được gọi là Thủ tướng). Điển hình như: Cộng hòa Liên bang Đức. Ở
Cộng hòa liên bang Đức, Hạ viện là cơ quan duy nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra,
Hạ viện có quyền lập pháp, thông qua ngân sách, thành lập Chính phủ và một số cơ
quan nhà nước, giám sát hoạt động của Chính phủ. Hạ viện có quyền bầu ra và có
quyền bãi miễn Chính phủ liên bang. Trong khi đó, Tổng thống liên bang do Hội nghị
liên bang bầu, nhiệm kỳ 5 năm, là nguyên thủ quốc gia, đứng đầu cơ quan hành pháp,
nhưng chỉ mang tính nghi thức.
Cộng hòa Lưỡng tính: (tiêu biểu như Pháp) theo nguyên tắc tam quyền phân lập
không triệt để, đó là mô hình thể chế Cộng hòa lưỡng tính (hỗn hợp) – nửa Tổng
thống, nửa Quốc hội. Quyền lập pháp không phải xuất phát từ Quốc hội mà chủ yếu
là từ Chính phủ; nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu cơ quan hành pháp, phải ở trên
mọi chính đảng để lãnh đạo và quyết định chính sách quốc gia, ban hành luật và sắc
lệnh, làm trọng tài chính trị, giữ gìn độc lập và các hiệp ước đã được ký kết,…

4


CHƯƠNG 2.

NHỮNG YẾU TỐ TÍCH CỰC
CỦA MỘT SỐ THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI ĐƯƠNG ĐẠI
VÀ NHỮNG GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
2.1. Về hiến pháp
Hiến pháp của Mỹ được coi là một trong những bản hiến pháp đầu tiên và
thành công nhất thế giới. Cơ sở để hình thành bản hiến pháp này là: truyền thống cai
trị của người Anh; kinh nghiệm thực tiễn trong tự trị của 13 bang; Tuyên ngôn độc
lập; học thuyết tam quyền phân lập của Lôccơ và Môngtetxkiơ. Hiến pháp được xây
dựng theo 6 nguyên tắc cơ bản sau: Các bang đều bình đẳng, phân quyền giữa các
bang và liên bang; nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân lập; Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật; Chính phủ và tất cả mọi người đều bình đẳng
theo pháp luật; Nhân dân có quyền bãi miễn Chính phủ bằng cách thay đổi Hiến
pháp; giao quyền có thời hạn; Hiến pháp, các sắc lệnh của Quốc hội, các hiệp định ký
kết với nước ngoài đều là những pháp luật tối cao của đất nước.
Đây là một trong những bản hiến pháp ra đời sớm nhất trong lịch sử của nhân
loại và có thể nói đó là một trong những bản hiến pháp ít sửa đổi nhất. Trong khi ấy,
thực tiễn xã hội luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, bản Hiến pháp của Mĩ ra
đời cách đây đã hàng trăm năm mà hầu như không phải sửa đổi, không những cho
chúng ta thấy được tư duy vượt trước thời đại mà còn đem lại bài học lớn cho chúng
ta trong việc làm ra luật pháp. Phải có những tư duy vượt trước như vậy, phải trên cơ
sở căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh và thực tế đời sống để làm ra luật, khi đó pháp
luật mới có thể đi vào cuộc sống và tồn tại được lâu bền.
Một bản Hiến pháp hoàn hảo, tốt nhất cũng phải thay đổi sau một khoảng thời gian.
Hiến pháp của Hoa Kỳ đã tồn tại hơn 200 năm. Trong nhiều khía cạnh, người dân Mỹ
không hài lòng với bản Hiến pháp như hệ thống bầu cử Tổng thống. Hiến pháp Mỹ
cũng thiếu thể chế quyền lực thứ 4 để kiểm soát 3 nhánh quyền lực còn lại. Nhưng tại
sao Hiến pháp của chúng Mỹ vẫn tồn tại? Điều gì làm cho bản Hiến pháp tồn tại lâu
dài? Muốn làm một bản Hiến pháp tồn tại lâu dài phải làm gì?
5



Khi nhìn vào Hiến pháp của Hoa Kỳ thấy sự linh hoạt, mức độ chi tiết không cao.
Hiến pháp Hoa Kỳ cũng khó sửa đổi và có nhiều điều khoản mang tính mơ hồ rất khó
giải thích. Thế nhưng, Hiến pháp Hoa Kỳ vẫn tồn tại lâu. Điều bí mật lý giải điều này
nằm ở khả năng lập hiến. Tòa án Tối cáo là cơ quan giúp vượt qua những khó khăn,
cản trở của Hiến pháp, thông qua sự giải thích để phù hợp với sự thay đổi của đời
sống. Chính tòa án làm cho Hiến pháp mang tính đại diện hơn, thu hút sự tham gia
của người dân hơn. Những giải thích của tòa án đã bảo vệ quyền lợi của người dân,
quyền bầu cử của người dân.
Đó là một bài học cho Việt Nam để ngay trong quá trình soạn thảo Hiến pháp, và làm
luật chúng ta cần phải lấy ý kiến của nhân dân để biết những vấn đề, nguyện vọng mà
người dân quan tâm. Sau khi hoàn thiện bản dự thảo Hiến pháp, dự luật cần tiếp tục
tăng cường sự tham gia của nhân dân, nói cách khác phải trưng cầu ý kiến của nhân
dân trước khi phê duyệt Hiến pháp và làm luật, tránh việc đưa ra luật nhưng không
thể áp dụng vì nó trái với đời sống thực tiễn, bằng việc đưa ra những quy định “trên
trời”. Bởi những người làm ra luật đó không xuất phát từ thực tiễn để làm ra luật mà
chỉ là sự áp đặt ý chí chủ quan của mình làm ra luật mà thôi. Bởi vậy, đã có rất nhiều
văn bản đưa ra nhưng không thể áp dụng. Chẳng hạn như quy định chỉ được bán thịt
trong vòng 8 giờ sau khi giết mổ là một minh chứng sinh động cho điều ấy. Theo
thông tư của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ 3/9/2012, các sản phẩm thịt
và phụ phẩm bảo quản ở nhiệt độ thường chỉ được bày bán trong vòng 8 giờ kể từ khi
giết mổ. Ngay sau khi ban hành thông tư, dư luận đã đặt nhiều câu hỏi về tính khả thi.
Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn đã quyết định dừng thực hiện thông tư này.

6


2.2. Về thể chế nhà nước
2.2.1. Lĩnh vực lập pháp
Ở một số quốc gia trên thế giới, quá trình làm luật hết sức chặt chẽ. Điển hình như là

ở Mỹ, quá trình thông qua một dự luật phải trải qua một chu trình: dự luật – Hạ viện ủy ban thích hợp – tiểu ban thích hợp - ủy ban Quy tắc (ấn định lịch trình tranh cãi) –
gửi lại ủy ban chuyên trách thảo luận – ra Hội nghị toàn thể Hạ viện thảo luận và biểu
quyết. Quy trình ở Thượng viện cũng tương tự, nhưng không có ủy ban quy tắc. Dự
luật thông qua ở cả hai viện sẽ gửi lên Tổng thống phê chuẩn. Nếu dự luật chưa thống
nhất, hai viện sẽ thành lập ủy ban hỗn hợp để chỉnh lý, bổ sung, Tổng thống có 10
ngày để xem xét. Có 4 khả năng: Tổng thống ký ngay; Tổng thống phủ quyết, dự luật
quay lại Quốc hội, nếu hai viện biểu quyết lại và đạt 2/3 số phiếu trở lên, dự luật vẫn
có hiệu lực; hết 10 ngày nhưng Tổng thống không ký, kỳ họp Quốc hội đã kết thúc,
dự luật phải trải qua các bước từ đầu; Tổng thống phủ quyết một vài điểm trong dự
luật, gửi lại để Quốc hội thảo luận. Ở mỗi giai đoạn đó, dự luật đều có thể bị bác bỏ,
vì vậy, trên thực tế số dự luật đưa ra rất nhiều, nhưng chỉ có rất ít trở thành luật
(khoảng 6%).
Điều đó cho thấy sự chặt chẽ trong quá trình làm luật ở các nước, và nhằm đảm bảo
chất lượng những dự luật sẽ được đưa ra. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, có những
đạo luật do thời gian cấp bách, chưa chuẩn bị kỹ nhưng ban soạn thảo vẫn đề nghị
Quốc hội cứ thông qua rồi giao cho Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn sau.
Hệ quả là luật ban hành mà vẫn phải chờ hướng dẫn thi hành đi kèm (đó là chưa nói
đến việc giao luật của Quốc hội cho cơ quan hành pháp đi giải thích). Tình trạng luật
chờ nghị định, nghị định chờ thông tư, thông tư có khi vẫn phải có công văn hướng
dẫn mới đủ rõ để thi hành là một hiện tượng không hiếm gặp. Đó là điều bất hợp lý
trong quá trình và cách làm luật của chúng ta. Chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng
để tiến hành đổi mới lĩnh vực lập pháp có như vậy mới có thể đáp ứng được những
yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn.
2.2.2. Lĩnh vực hành pháp
Ở Anh, đảng đối lập có quyền thành lập “Chính phủ bóng”. Pháp luật Anh cho
phép đảng đối lập thành lập “Nội các trong bóng tối” nhà nước trả lương cho Thủ
7


tướng của Nội các này. Có thể nói đây chính là việc tạo ra cơ chế để kiểm soát quyền

lực cũng như tạo điều kiện cho sự phản biện xã hội phát triển. Chúng ta không dập
khuôn, máy móc mà thành lập một “Chính phủ bóng” giống như họ, bởi điều kiện
kinh tế - xã hội ở Việt Nam khác xa so với họ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần rút ra bài
học rằng, chúng ta cần phải biết tạo ra cơ chế cho việc phản biện xã hội phát triển.
Bởi phản biện là một thể hiện của các phản hành động xuất hiện một cách tự nhiên
trong một xã hội mà ở đó mỗi con người đều tự do bày tỏ các nguyện vọng của mình.
Phản biện góp phần điều chỉnh các khuynh hướng kinh tế, văn hoá, chính trị, làm cho
các khuynh hướng đó trở nên khoa học hơn, đúng đắn hơn và gần với đời sống con
người hơn. Lắng nghe tiếng nói của nhân dân sẽ là điều kiện và tiền đề để chúng ta có
được cái nhìn khái quát và toàn diện hơn về nhu cầu và mong muốn của nhân dân.
Chúng ta cũng sẽ đánh giá được những ưu điểm và quan trọng hơn là nhìn thấy được
những khuyết điểm, những thiếu sót của mình để chúng ta có thể điều chỉnh lại những
chủ trương, chính sách kịp thời.
Nguyên thủ quốc gia là thiết chế không thể thiếu trong bộ máy nhà nước của
các quốc gia đương đại và thường thuộc nhánh quyền lực hành pháp. Ở phần lớn các
quốc gia đương đại, bộ máy nhà nước thường có một nhân vật trung tâm của quyền
lực nhà nước, có ảnh hưởng tới Nhà nước lớn đến mức, hễ nói đến Nhà nước đó thì
người ta nhắc ngay đến nhân vật này. Chẳng hạn, nói đến nước Mỹ, nước Pháp, nước
Nga... là người ta nhắc ngay đến Tổng thống, nói đến các nước Anh, Nhật, Đức,
Italia... là người ta nhắc ngay đến Thủ tướng. Người này là linh hồn, là trung tâm
quyết sách của Chính phủ, có quyền lựa chọn nhân sự và phải chịu trách nhiệm về
mọi hoạt động của Chính phủ. Ở phần lớn các quốc gia này, nguyên thủ quốc gia có
một vị trí vô cùng quan trọng trong quyền lực hành pháp, và thậm chí là cả lập pháp.
Ví dụ điển hình nhất về vị trí của Nguyên thủ quốc gia là Tổng thống Mỹ. Tổng
thống vừa là nguyên thủ quốc gia, đứng đầu bộ máy hành pháp, vừa là tổng tư lệnh
các lực lượng vũ trang.
Tổng thống giám sát chặt chẽ quá trình sáng tạo luật, có quyền triệu tập Quốc
hội bất thường, hàng năm gửi thông điệp đến Quốc hội, đề xuất những văn bản pháp

8



luật. Quốc hội không thể buộc Tổng thống trả lời bất cứ vấn đề nào, ngoại trừ đang có
lời buộc tội.
Tổng thống có quyền thành lập Chính phủ, bổ nhiệm (với sự đồng ý của
Thượng viện), các bộ trưởng, thẩm phán liên bang, hội đồng cố vấn, đại sứ,… tất cả
khoảng 3000 chức vụ (nếu kể cả quân đội, cảnh sát, các cơ quan tình báo thì con số
được bổ nhiệm lên tới 75.000 chức vụ).
Tổng thống có quyền chuẩn bị dự thảo ngân sách, các dự luật tài chính; ban
hành các văn bản lệnh thừa hành, quy tắc, quy chế, kế hoạch cải tổ. Hiện nay, có trên
15.000 lệnh thừa hành đang có hiệu lực.
Tổng thống Mỹ còn là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, Tổng thống có
quyền tuyên bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hay trong từng địa phương, có
quyền dùng sức mạnh quân sự lập lại trật tự.
Trong đối ngoại, Tổng thống có quyền thay mặt quốc gia ký kết các hiệp định
với các nước, hoạch định chính sách đối ngoại. Về tư pháp, Tổng thống có quyền bổ
nhiệm các Thẩm phán tòa án liên bang và ra các lệnh ân xá.
Trên thực tế, Tổng thống có nhiều quyền lực hơn so với quy định của Hiến
pháp. Tổng thống thường dùng các biện pháp gây ảnh hưởng của mình trong Quốc
hội, quan tâm đến quyền lợi của các lãnh tụ nhóm trong Quốc hội, các đảng viên của
mình và vận động sự ủng hộ của dân chúng, nhất là biết sử dụng các phương tiện
thông tin đại chúng.
Thực tế hiện nay ở nước ta, quyền hạn của Chủ tịch nước với tư cách là nguyên
thủ quốc gia còn khá khiêm tốn. Để đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thời đại cần
phải trao cho Chủ tịch nước nhiều quyền hạn hơn nữa cả về góc độ lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Ở Mỹ, cũng như một số quốc gia khác nữa, các cơ quan hành pháp hoạt động
độc lập, không bị Quốc hội giải tán, chỉ chịu trách nhiệm trước Nguyên thủ quốc gia
(Tổng thống, Thủ tướng, … Các thành viên Chính phủ không được kiêm nhiệm chức
vụ trong Quốc hội. Tính độc lập đó làm tăng tính khách quan, tự chủ trong công việc

và hành động. Bên cạnh đó, tránh được tính trạng kiêm nhiệm “vừa đá bóng, vừa
thổi còi”, ôm đồm, làm nhiều việc cùng một lúc dẫn đến hiệu quả trong công việc bị
9


giảm sút, chất lượng không cao, như thực trạng ở đất nước ta hiện nay. Trước thực
trạng ấy, chúng ta cần phải phân công, phối hợp công việc, trách nhiệm sao cho phù
hợp với từng chức danh và yêu cầu cụ thể của thực tiễn một cách rõ ràng, ưu tiên hiệu
quả trong công việc lên hàng đầu trên cơ sở kế thừa những thành tựu của nhân loại
dưới góc độ quản lý.

2.2.3. Lĩnh vực tư pháp
Ở Mỹ, trong xét xử, cấp dưới không chịu trực tiếp sự chỉ đạo của cấp trên, cấp
trên có quyền xét phúc thẩm của cấp dưới. Tòa án tối cao gồm 9 thẩm phán do Tổng
thống bổ nhiệm, Quốc hội thông qua, có nhiệm kỳ suốt đời. Họ phải từ bỏ đảng phái
để hoạt động độc lập. Tòa án tối cao có quyền phủ quyết mọi đạo luật, hành vi nếu
trái Hiến pháp.
Có thể nói, việc thừa nhận phân công và phân nhiệm trong tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước là một bước tiến về nhận thức lý luận. Cả lý luận và thực tiễn đều
đặt ra yêu cầu tất yếu rằng, giữa các cơ quan nhà nước cần có sự phân công chuyên
môn hoá lao động quyền lực, đảm bảo sự độc lập trong tổ chức của các cơ quan và sự
phối hợp giữa chúng, nhưng đồng thời giữa các cơ quan cần có sự kiểm soát, kiềm
chế, giám sát lẫn nhau. Nắm vững nguyên tắc này có ý nghĩa chỉ đạo hoạt động thực
tiễn về tổ chức và phân công quyền lực nhà nước trong bộ máy nhà nước.
Đảng và nhà nước ta đã chủ trương phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện ba quyền. Điều đó có nghĩa là trong quá trình cải cách
và xây dựng bộ máy nhà nước phải coi trọng việc xác định rõ chức năng, quyền hạn
và nhiệm vụ của các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền này để hạn chế sự lạm
quyền, lộng quyền, chồng chéo và cản trở công việc của nhau. Tuy nhiên không phải
vì phân công, phân nhiệm rạch ròi mà các cơ quan nhà nước quay lưng lại với nhau,

không phối hợp với nhau, chống đối nhau. Chính nhờ vào quan điểm này mà bộ máy
nhà nước ta qua cải cách và đổi mới ngày càng được củng cố và hoàn thiện hơn về tổ
chức và hoạt động quyền lực, tránh được tình trạng như: lẫn lộn chức năng và quyền
hạn giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp; dựa dẫm và ỷ lại nhau trong việc thực hiện
10


quyền lực nhà nước; nể nang, xuê xoa trong giám sát, kiểm sát, thanh tra việc thực
hiện chức năng và quyền hạn của mỗi bên.
Tuy nhiên có thể thấy rằng, việc phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước còn
nhiều bất cập. Chính sự phân công không rõ ràng về thẩm quyền đã dẫn đến sự chồng
chéo giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong việc thực thi quyền lực.
Làm cho cơ cấu quyền lực không phát huy được hết hiệu quả. Bên cạnh đó, chúng ta
cũng chưa kế thừa và thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu ngay trong
bộ máy nhà nước.
Do vậy, việc vận dụng học thuyết tam quyền phân lập trong tổ chức và thực thi quyền
lực nhà nước ta cần tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
- Tiến hành sự phân công, phân nhiệm rạch ròi về mặt chức năng, thẩm quyền giữa
các nhánh quyền lực và thể chế hoá cụ thể, rõ ràng trong Hiến pháp nhằm tạo ra sự ổn
định trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Cần cầu thị học tập cơ chế kiểm soát quyền lực mà học thuyết tam quyền phân lập
đã đưa ra và vận dụng sáng tạo trong điều kiện một đảng lãnh đạo, nhằm thiết lập các
ràng buộc bên trong đối với quyền lực.
- Nhân sự phải được chuyên môn hoá cao độ mà trước hết là hạn chế tối đa sự kiêm
nhiệm ở các bộ phận quyền lực khác nhau.
Có thể khẳng định rằng, cho đến nay việc nghiên cứu học thuyết, những mô hình thể
chế trên thế giới, tiếp thu những hạt nhân hợp lý vẫn có ý nghĩa quan trọng đối với
quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước ta theo hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Khai thác nhân tố hợp lý
đòi hỏi phải làm rõ tính độc lập, chuyên nghiệp trong hoạt động của các cơ quan nhà

nước, có cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo quyền lực nhà
nước là thống nhất, đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước cơ quan
quyền lực của nhân dân. Đó chính là những vấn đề thuộc về bản chất của nhà nước
pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng.
2.3. Về thể chế đảng chính trị
Trong lịch sử, chính trường nước Anh bị chi phối bởi hệ thống lưỡng đảng, mặc dù
hiện nay có ba chính đảng đang kiểm soát hệ thống chính trị tại đây. Lúc đầu, Bảo thủ
11


và Tự do là hai chính đảng thống trị chính trường, nhưng Đảng Tự do sụp đổ vào đầu
thế kỷ XX và được thế chỗ bởi Đảng Lao động. Trong thập niên 1980, các đảng viên
Đảng Tự do sáp nhập với Đảng Dân chủ Xã hội để thành lập thành lập Đảng Dân chủ
Tự do, có đủ thực lực để được xem là một chính đảng lớn. Còn có các chính đảng nhỏ
hơn tham gia vào các cuộc tuyển cử. Trong số này có vài đảng giành được ghế tại
Quốc hội. Sự tồn tại của hai đảng đối lập trong hoạt động nhà nước đã góp phần hạn
chế đáng kể sự lạm quyền. Một trong những biểu hiện rõ rệt của nó là chế độ nội các
bóng “shadow cabinet” ở Anh. Theo đó, đảng đối lập thành lập ra một chính phủ
riêng của mình với chức năng chủ yếu là phản biện lại chính sách của chính phủ
đương nhiệm và trong trường hợp đảng cầm quyền buộc phải ra đi, chính phủ “trong
bóng tối” này sẽ tiếp quản nhiệm vụ mới một cách tương đối dễ dàng và suôn xẻ.
Ở các nước theo chế độ đa nguyên, đa đảng, thường xuyên duy trì của một đảng lớn
liên tục nắm quyền. Các đảng này vừa mang bản chất giai cấp tư sản, đồng thời vừa
đóng vai trò là lực lượng đại diện cho dân tộc trong quá trình đấu trang giành độc lập
dân tộc. Đảng nào đề ra được những đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
phù hợp với hoàn cảnh đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thành công trong việc
điều hòa quyền lợi của giai cấp và quyền lợi dân tộc thì được nhân dân ủng hộ, ngược
lại thì bị nhân dân lật đổ. Sự lựa chọn chế độ đa đảng hay một đảng lãnh đạo - cầm
quyền phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia. Trước tiên phải đặt lợi ích
của cả dân tộc lên trên hết, phải lấy an ninh quốc gia, ổn định và phát triển bền vững

làm tiền đề (cho các yêu cầu khác). Thứ hai, đương nhiên lựa chọn chế độ nào đều
phải được sự đồng tình, ủng hộ của đại đa số nhân dân, thông qua những người đại
diện của mình đó là Quốc hội.
Việt nam chỉ có một đảng lãnh đạo đó cũng là tất yếu của lịch sử, hoàn toàn phù hợp
với quy luật phát triển của xã hội. Tuy vậy, chúng ta cũng cần phải nhìn nhận những
tiến bộ của các đảng khác để học hỏi. Học không có nghĩa là rập khuôn, máy móc.
Không có nghĩa họ thành lập “Chính phủ bóng” thì chúng ta cũng phải thành lập. Mà
học hỏi ở đây, là chúng ta cần phải tạo lập được cơ chế cho phản biện xã hội, tạo điều
kiện để các tổ chức chính trị xã hội hoạt động, phát huy quyền làm chủ thực sự cho
quần chúng nhân dân.
12


2.4. Thể chế Các nhóm lợi ích
Ở các nước trên thế giới như: Anh, Mỹ, Pháp, Đức,… tồn tại thể chế Các nhóm
lợi ích. Các nhóm lợi ích này tồn tại và hoạt động nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của
một nhóm người trong xã hội. Ở Việt Nam, chúng ta không có các nhóm lợi ích giống
như họ, nhưng chúng ta có Mặt trận và các Đoàn thể, chúng ta cần phải có cơ chế và
tạo điều kiện để Mặt trận, Các Đoàn thể hoạt động, phát huy tối đa quyền làm chủ
của nhân dân. Cũng giống như việc Chính phủ các nước khác tạo điều kiện để nhân
dân bày tỏ nguyện vọng cũng như chính kiến của mình thông qua trung gian, điển
hình như “lobby”.
“Lobby" là khái niệm khá mới mẻ đối với Việt Nam, nhưng lại phổ biến ở nhiều nước
trên thế giới. Vận động hành lang theo đúng nghĩa được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật có mục đích rất trong sáng và có vai trò, tác dụng tích cực đến hoạt động
của chính quyền nói chung và cụ thể là quá trình hoạch định chính sách nói riêng. Tại
một số quốc gia, vận động hành lang được pháp luật thừa nhận như một hoạt động
hợp pháp. Những người tiến hành hoạt động này phải đăng ký với chính quyền và
thực hiện việc báo cáo định kỳ để bảo đảm được tiến hành một cách minh bạch, ít bị
lạm dụng nhất. Dù được thừa nhận công khai hay không, vận động hành lang vẫn

ngày càng trở nên quan trọng và là một thực tế không thể thiếu trong đời sống chính
trị. Nó phát triển "đồng hành" cùng với sự phát triển của hệ thống chính trị tại mỗi
quốc gia, thậm chí vượt ra ngoài khuôn khổ các quan hệ trong nội bộ của mỗi quốc
gia, vận động hành lang mang đến cho các nghị sĩ, người có thẩm quyền cái nhìn toàn
diện, đa chiều với đầy đủ thông tin, chứng cứ cũng như ý kiến, kiến nghị của cử tri và
xã hội về vấn đề đang được xem xét, quyết định, để trên cơ sở đó đưa ra những quyết
định có lợi cho xã hội, cử tri hoặc các nhóm lợi ích… Đó cũng là mục tiêu mà vận
động hành lang hướng tới.
Chính vì vậy, có thể nói, vận động hành lang là hoạt động ở "hậu trường", nhưng có
vai trò bổ sung cho quá trình hoạch định chính sách, cụ thể là nó tác động mạnh mẽ
đến tất cả các công đoạn của quá trình ra quyết định, quá trình làm luật và hình thành
chính sách đối nội, đối ngoại. Không những thế, trong quan hệ với Nghị viện và

13


Chính phủ, vận động hành lang còn là sự phản ánh, sự giám sát và là cầu nối giữa các
nhóm lợi ích và nhân dân với các cơ quan công quyền.
Trong giai đoạn hiện nay, việc tạo hành lang pháp lý để làm cầu nối giữa nhân dân
với Chính quyền là cực kỳ cần thiết, chúng ta phải đẩy mạnh hơn nữa cơ chế đối
thoại giữa nhân dân với chính quyền, tăng cường hơn nữa hoạt động của Mặt trận và
các Đoàn thể, phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân.

14


KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay, do rất nhiều nguyên nhân kể cả chủ quan và khách quan mà
tồn tại những thể chế chính trị khác nhau trên thế giới. Chúng ta cần phải có một cái
nhìn khách quan và toàn diện, mới có thể đánh giá được những mặt tích cực và hạn

chế của những thể chế ấy.
Có thể nói, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội giống như việc khai mở ra một con
đường mới. Điều đó cho thấy trước mắt chúng ta đầy rẫy những khó khăn và thách
thức mà chúng ta cần phải vượt qua. Một cơ thể yếu sẽ không thể gánh được nặng và
đi được xa. Hơn lúc nào hết chúng ta cần phải nâng cao sức đề kháng của bản thân, tự
hoàn thiện bản thân mình. hiện nay, có rất nhiều thể chế chính trị khách nhau trên thế
giới, nếu gạt đi những yếu tố lạc hậu, bảo thủ, phản tiến bộ thì còn lại đó là những tri
thức, những kinh nghiệm vô cùng quý báu mà đã được thực tiễn minh chứng. Chúng
ta cần phải biết trân trọng, học hỏi và kế thừa. Có như vậy, chúng ta mới có thể đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy nhanh thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Chính trị học nâng cao: Khoa Chính trị học, Học viện Báo chí và tuyên truyền.

2.

Dương Xuân Ngọc, Lưu Văn An: Thể chế chính trị thế giới đương đại, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
3.

Đặng Thị Lương: Các đảng chính trị trên thế giới, Nxb Chính trị - Hành chính,

Hà Nội 2012.
4.

Lê Thị Hằng: Đảng chính trị phương Tây, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,


2006.
5.

Ngô Đức Tính (chủ biên): Một số đảng chính trị trên thế giới, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 2001.

15



×