Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Tiem nang va hien trang phat trien du lich dao phu quy binh thuan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 65 trang )

CHƯƠNG 1: ĐỊA LÝ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI ĐẢO
PHÚ QUÝ
1.1. Địa lý môi trường tự nhiên đảo Phú Quý

1.1.1. Vị trí địa lý
2
Đảo Phú Quý (còn gọi là Cù Lao Thu) có diện tích tự nhiên 17,82 km , là một
phần đảo gồm 10 đảo nhỏ: Phú Quý, Hòn Tranh, Hòn Trứng, Hòn Đen, Hòn Giữa, Hòn
Đỏ, Hòn Đồ lớn, Hòn Đồ nhỏ, Hòn Tí và Hòn Hải. Trong đó, đảo Phú Quý có diện tích
lớn nhất, Hòn Hải nằm trên đường cơ sở để tính lãnh hải của Việt Nam là phần nhô ra xa
nhất của đường viền nội thuỷ Việt Nam ở phần Đông Nam của biển Đông, Huyện đảo
Phú Quý có toạ độ địa lý:
+ Từ 10º28´58˝ đến 10º33΄35˝ vĩ độ Bắc
+ Từ 108º55΄13˝ đến 108º 58΄12˝ kinh độ Đông.
• Cách thành phố Phan Thiết khoảng 56 hải lí (hơn 100 km) về hướng Đông
Nam.
• Cách quần đảo Trường Sa 540 km về phía Tây Bắc.
• Cách thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa 150km (về phía Nam).
• Cách Côn Đảo 330km (về phía Đông Bắc).
• Cách thành phố Vũng Tàu 200km (về phía Đông).
Huyện đảo Phú Quý có 3 xã:
Long Hải: thôn Tân Hải, Quý Hải, Đông Hải, Phú Long.
Ngũ Phụng (huyện lỵ): thôn Phú An, Thương Châu, Quý
Thạnh.
Tam Thanh: thôn Mỹ Khê, Hội An, Triều Dương.

1


Hình 1.1 Bản đồ hành chính đảo Phú Quý – tỉnh Bình Thuận
(Nguồn:Tác giả thiết lập bằng MapInfo)



Lợi thế
Phú Quý với vị trí là trung tâm của ngư trường Bình Thuận. Phú Quý có nhiều ưu
thế để trở thành một trung tâm khai thác, chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá không chỉ
riêng Bình Thuận mà cả nước. Đồng thời qua việc phát huy các ưu thế này sẽ góp phần
khẳng định chủ quyền vùng biển quốc gia của Tổ Quốc.
Phú Quý nằm tiếp cận với các đường hàng hải quốc tế quan trọng với lượng chu
chuyển hàng hoá rất lớn (đó là các tuyến từ Đông Bắc Á tới vùng Vịnh Thái Lan, từ Thái
Bình Dương sang Ấn Độ Dương) và gần khu vực khai thác dầu khí lớn nhất nước ta hiện
2


nay. Với vị trí địa lý như vậy, đảo Phú Quý có ưu thế lớn về phát triển và cung ứng các
loại dịch vu vận tải đường biển (dịch vụ đóng, sửa chữa tàu thuyền, dẫn đường, cung cấp
các dịch vụ hàng hải khác…), cung cấp các dịch vụ thăm dò và khai thác dầu khí, khai
thác hải sản, đánh bắt xa bờ, dịch vụ tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn…
Với vị trí địa lý đó đã cho phép Phú Quý phát triển các loại hình du lịch, nổi bật
nhất vẫn là hình thức tham quan và nghỉ dưỡng.
Hạn chế
Quy mô kinh tế nhỏ bé, trình độ phát triển thấp, nền kinh tế mang đặc trưng của
một nền kinh tế làng chài (ngư nghiệp). Dân số tập trung khá cao trên một diện tích
2
không gian nhỏ (mật độ trên 1.466 người/km , năm 1010), diện tích đất đá hạn chế, các
điều kiện thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân còn rất hạn chế.
Vì nằm giữa biển khơi, nên các phương tiện di chuyển từ đất liền ra đảo cũng rất
khó khăn. Đặc biệt là các tháng chịu ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, bão. Vì vậy, các
tiềm năng du lịch của Phú Quý vẫn chưa được khai thác một cách triệt để. Nên việc phát
triển du lịch ở đây là vấn đề rất khó khăn.

1.1.2. Đặc điểm địa chất

1.1.2.1 Đặc điểm địa tầng
Một số công trình có nghiên cứu, điều tra địa chất, địa chất thủy văn ở một số
công trình đã phản ánh một số đặc điểm địa chất:
Ở một số độ sâu nhất định, vùng đảo Phú Quý được tạo thành bởi các hoạt động
núi lửa và các thành tạo nguồn gốc biển, gió có tuổi từ Pleistocen đến Holocen. Từ dưới
lên trên gồm có các thành tạo địa chất sau:
Hệ tầng Phan Thiết, trầm tích biến tuổi Pleistocen giữa, tướng bar cát ở trung tâm
đảo. Thành phần trầm tích gồm: Cát thạch anh hạt vừa – thô lẫn ít sét – bột màu nâu đỏ.
Trầm tích biển tuổi Pleistocen muộn, tướng bar cát “cát dính kết Phú Quý”
b 3
2
(m Q1 )2: Phân bố chủ yếu ở phía Đông Nam và Nam đảo với diện tích khoảng 3km .
Thành phần trầm tích: cát, cát sạn thạch anh, dính kết chắc màu xám trắng chứa vụn sinh
vật biển, san hô, di tích Foramifera và di tích bào tử, phấn hoa…
21-2
Trầm tích biển tuổi Holocen sớm – giữa (m Q
): Phân bố dọc bờ biển của đảo
2
với diện tích khoảng 4km . Thành phần trầm tích gồm: Cát hạt vừa màu xám, gắn kết
yếu, chứa vụn san hô, bột sét màu xám xanh, có chứa bào tử phấn hoa, tảo biển.
1-2
Trầm tích gió tuổi Holocen sớm – giữa (vQ 2 ): Phân bố trên mặt sườn và chân
3


2
các đồi thấp, chủ yếu phần phía đông của đảo, với diện tích khoảng 5km . Thành
phần

4



trầm tích gồm: cát thạch anh có chứa ít vụn nhỏ sạn hô, vỏ sò có màu vàng nhạt, vàng da
cam, hạt mịn đến vừa, chọn lọc tốt.
2-3
Trầm tích biển tuổi Holocen muộn (mQ2 ): Phân bố thành những dải nhỏ gần sát
2
mép nước biển, với diện tích khoảng 1km . Thành phần trầm tích gồm: Cát thạch anh
chứa vụn sinh vật biển; màu xám hạt vừa thô, chọn lọc trung bình đến tốt.
2-3
Trầm tích gió tuổi Holocen muộn (vQ 2 ): Có diện phân bố hẹp, tạo những cồn
cát
cao 5 – 10m. Thành phần trầm tích gồm: cát thạch anh chứa ít vụn sinh vật biển; màu
trắng xám, vàng nhạt; hạt mịn đến vừa, chọn lọc tốt. Dày 3 – 7m.
3
Trầm tích biển tuổi Holocen muộn (mQ2 ): Phân bố thành những dải nhỏ sát mép
2
nước biển, với diện tích khoảng 1km . Thành phần trầm tích gồm: cát, cát sạn chứa vụn
san hô màu xám trắng hạt vừa – thô.
1.1.2.2 Đặc điểm kiến tạo và khoáng sản
Đảo Phú Qúy với vị trí là phần chuyển tiếp giữa vùng nâng Đà Lạt và vùng sụt lún
Biển Đông. Kế thừa những giai đoạn kiến tạo trước, vào Pleistocen, vùng đảo Phú Quý
chịu chế độ sụt lún mạnh và biển tiến. Đầu Pleistocen muộn, toàn vùng được nâng lên: bề
mặt địa hình bị bóc mòn mạnh và kèm theo các hoạt động núi lửa. Vào cuối Pleistocen
muộn, trở lại quá trình sụt lún, biển tiến. Đầu Holocen, toàn vùng vẫn tiếp tục sụt lún; ở
các hố trũng ven rìa, thực vật phát triển khá mạnh.
Qua các tài liệu đã điều tra ở đảo Phú Quý chưa phát hiện được loại khoáng sản
nào có giá trị có khả năng khai thác ở quy mô lớn ngoài các loại:
Than bùn: Trong tầm tích biển Holocen dưới, giữa khu vực xã Ngũ Phụng nhưng
chưa đánh giá được trữ lượng và quy mô.

Đá xây dựng: trong phun trào Bazan Pleistocen trung lượng và phun trào Bazn
holocen có thể phục vụ làm vật liệu xây dựng.Tuy nhiên do nguồn đá hạn chế, phải bảo
vệ cảnh quan môi trường (chống xói mòn, sạt lở) nên hiện nay huyện Phú Quý nghiêm
cấm việc khai thác đá này trên đảo.
Cát nén: Là một nguồn vật liệu xây dựng của huyện. Nguồn cát này phân bố trên 3
xã có bề dày từ 3- 4m. Hiện nay do bảo vệ chống xói mòn và xâm thực của biển nên
huyện Phú Quý nghiêm cấm việc lấy nguồn cát trên.

1.1.3. Khí hậu
Nằm giữa biển khơi nên Phú Quý chịu ảnh hưởng sâu sắc chế độ khí hậu của biển
rất rõ rệt:
5


- Nhiệt độ không không khí trung bình năm 27ºC, nhiệt độ trung bình cao nhất
29ºC (tháng 5), thấp nhất 24ºC (tháng 1), biên độ nhiệt dao động trong năm không lớn
(4ºC), không có mùa lạnh.
- Lương mưa trung bình năm 1.300 mm/năm, nhưng lại phân bố không đều trong
năm. Mùa mưa thương bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 (tháng 10 có lượng mưa cao nhất
300 mm ). Mùa ít mưa từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau với lương mưa trung bình 10
mm/tháng.
- Gió trên đảo hoạt động gồm 2 hướng gió chính: Gió mùa Đông Bắc từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau (trùng với mùa khô ), tốc độ trùng bình 5m/s, tốc độ cực đại (tháng
1) có thể đạt 16 – 18 m/s; gió mùa Tây Nam bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 (trùng với
mùa khô), tốc độ trung bình 3,8 – 4,7 m/s, vào buổi chiều (17 – 20 giờ) thường có giông,
có gió giật từ 14 đến 18 m/s có lúc đạt 20 đến 22 m/s. Trong những thời gian có gió mùa
và gió lớn thường tạo sóng lớn, ảnh hưởng đến hoạt động khai thác hải sản và giao thông
của huyện đảo.
- Bão: Vùng đảo Phú Quý mùa bão thường chỉ giới hạn trong vòng 2 tháng 10 và
11 và khả năng có bão ở khu vực này ít hơn so với các khu vực khác, tần suất 0,66

lần/năm (trong vòng 60 năm trở lại đây). Một số cơn bão đở bộ vào đảo Phú Quý từ năm
1968 đến nay theo số liệu thống kê đươc như sau:
+ Tháng XI năm 1968 cơn bão Mamie cấp 8, cấp 9.
+ Tháng X năm 1963 cơn bão Kim cấp 8, cấp 10, cấp 11.
+ Tháng XI năm 1994 cơn bão Tess cấp 10, cấp 11.
+ Tháng IX năm 2006 cơn bão Chan Chu.
Mặc dù ít có bão, nhưng trên đảo Phú Quý thường xuyên chịu ảnh hưởng của áp
thấp nhiệt đới và cũng chính áp thấp nhiệt đới là loại nhiễu động rất mạnh của thời tiết
trong vùng này. Bão và áp thấp nhiệt đới sinh ra rất to, mưa lớn, biển động mạnh gây nên
xói lở vùng bờ biển trên đảo làm thay đổi đường bờ, thay đổi cán cận vật lý tại khu vực,
làm thiệt hại không nhỏ cho người dân trên đảo nhất là nhiều khi áp thấp nhiệt đới kéo
dài, biển thường xuyên bị động mạnh nên nhiều tàu, thuyền không thể ra khơi đánh bắt
hải sản được.
- Độ ẩm không khí trung bình trong năm từ 82% đến 84%, thấp nhất là tháng 1
với 78% và cao nhất là tháng 9 đạt 88%. Nhìn chung không khí quanh năm thường khô.
Khí hậu huyện Phú Quý mang tính chất của khí hậu đại dương, khá thích nghi cho
việc phát triển du lịch. Khí hậu quanh năm ấm áp, dễ chịu, điều này tạo thuận lợi cho việc

6


tổ chức các chuyến du lịch hoặc các hoạt động du lịch của du khách. Tuy nhiên, do bị ảnh
hưởng của thiên tai: áp thấp nhiệt đới, gió, bão…nên ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt
động du lịch, đặc biệt là phương tiện di chuyển từ đất liền ra đảo.

1.1.4. Thủy văn
Là một đảo diện tích không lớn, bao quanh bởi biển cả và xa đất liền, nước ngọt
cho tiêu dùng trong sinh hoạt và sản xuất là yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định bậc
nhất sống còn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và đời sống của nhân dân trên đảo Phú
Quý.

1.1.4.1
Tài nguyên nước mặt
Nguồn nước mặt trên đảo phụ thuộc vào việc tích trữ nước mưa qua các lớp phủ
thực vật. Tuy nhiên trên đảo hiện không có sông, hồ hoặc ao đầm chứa nước. Phần lớn
nước mưa, sau khi thấm thấu vào lòng dất (không được nhiều) đều chảy ra biển bằng các
dòng chảy mặt. Nguồn sinh thuỷ phụ thuộc vào lượng mưa được thấm thấu xuống đất và
độ che phủ bằng cây rừng và cây lâu năm. Việc tích tụ nước mưa hiện nay chủ yếu là do
các hộ gia đình tự lo liệu, phân tán và kết quả không nhiều. Để tăng thêm nguồn nước
mặt, cần xây dựng các hồ chứa nước và trồng thêm nhiều cây lâu năm để giữ nước và
giảm bốc hơi.
Do được bao quanh bởi biển, diện tích đảo không lớn vì vậy một phần khá lớn
nước mưa rơi trên đảo được thoát trực tiếp ra biển, đặc biệt đối với các đảo địa hình ít
phân cắt, ít các thung lũng cung như các vùng trũng có khả năng trữ nước, giữ nước tạm
thời cũng như không có các tầng cách nước để chặn nước dưới đất không thoát trực tiếp
ra biển nên trên các đảo dòng mặt không phát triển, thường chỉ tồn tại các dòng chảy tạm
thời, ít các dòng chảy thường xuyên có lưu lượng lớn.
Vùng đảo có khả năng xâm nhập nước mặm vào các tầng nước nông, gây thêm
những khó khăn về nguồn nước ngọt để phát triển kinh tế, dân sinh trên huyện đảo.
1.1.4.2 Nước ngầm
Tài nguyên nước dưới đất đóng vai trò hết sức quan trọng trong cung cấp nước
phục vụ ăn uống sinh hoạt và sản xuất trên đảo. Đất đá nằm dưới mặt đất là các bể chứa
nước ngầm có vai trò trữ nước mưa để cung cấp cho đảo.
Theo kết quả dự án “Điều tra đánh giá nguồn nước ngầm vùng đảo Phú Quý –
Tỉnh Bình Thuận” do liên đoàn Địa chất thuỷ văn và Địa chất công trình miền Trung thực
hiện năm 1997 cho thấy: Trên đảo Phú Quý đã phát hiện 2 tầng chứa nước. Tầng chứa
nước lỗ hổng và tầng chứa nước khe nứt có tuổi đệ tứ không phân chia (q) chủ yếu là

7



phun trào baza. Nguồn cung cấp chủ yếu của 2 tầng này là nước mưa đước thẩm thấu,
tích tụ lại và nhận nguồn cung cấp ở các tầng năm trên.
Nước trong tầng chứa (q) là nước nhạt, ở các giếng mép biển là nước hỗn hợp, ở
trung tâm đảo thì có nước Clorua – Natri. Tầng chứa nước (q) này là nguồn cung cấp chủ
yếu cho đao Phú Quý hiện nay.
 Khai thác tổng hợp, hợp lý tài nguyên nước
Tài nguyên nước trên đảo hạn chế vì vậy để đáp ứng yêu cầu nước trên các đảo
cần phải sử dụng kết hợp sử dụng tổng hợp các nguồn nước trong đó các giải pháp quan
trọng là khai thác nước dưới đất kết hợp với xây dựng các công trình trữ nước mặt và bổ
sung nhân tạo nước dưới đất.
Để trữ nước mặt nên phát triển các ao hồ, ao nhỏ trong các vùng địa hình thấp.
Các ao hồ nhỏ không chỉ nhằm mục đích trữ nước để cung cấp cho ăn uống sinh hoạt sản
xuất mà còn góp phần cung cấp cho nước ngầm, vì vậy các công trình trữ nước mặt có
thể chỉ là công trình trữ nước tạm thời.
Bố trí các công trình khai thác nước ngầm một cách hợp lý để có thể khai thác
được tối đa dòng ngầm song không gây ra xâm nhập mặn. Vì vậy, khi thiết kế công trình
khai thác phải xác định khoảng cách từ giếng tới ranh giới mặn nhạt, cũng như tính toán
chiều sâu phân bố đới nước mặn để lựa chọn dạng công trình và chiều sâu khai thác hợp
lý.
Áp dụng các biện pháp tăng cường lượng cung cấp thấm của nước mưa cho nước
ngầm như áp dụng biện pháp canh tác hợp lý, trồng rừng, tận dụng các vùng trũng để trữ
nước ngầm làm nguồn cung cấp cho ăn uống, sản xuất cũng như để bổ sung cho nước
dưới đất.
Khai thác hợp lý tài nguyên nước tốt còn phục vụ cho việc phát triển du lịch. Đáp
ứng được các nhu cầu sinh hoạt của du khách: có nước ngọt để sử dụng, tắm, giặt…
1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

1.2.1. Lịch sử hình thành đảo Phú Quý – Thời kì đầu sơ khai
Đã từ lâu đảo Phú Quý trở nên rất quen thuộc với nhiều người qua sử sách xưa
dưới nhiều tên gọi: Cổ Long, Thuận Tịnh, Cù Lao Khoai Xứ, Cù Lao Thu... Từ niên hiệu

trị thứ 4 (1844) vì tiềm năng kinh tế dồi dào và số lượng đặc sản đáng kể biệt nạp cho
Triều đình Huế, đảo được đổi tên từ Tổng Hạ sang Tổng Phú Quý trực thuộc huyện Tuy
Phong, phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận. Hiện nay, Phú Quý là một huyện đảo xa của
tỉnh Bình Thuận.

8


Tuy là một hòn đảo nằm biệt lập giữa trùng dương nhưng dấu tích phát hiện được
cho thấy đảo đã được khai phá tạo nên cuộc sống ở đảo từ rất sớm. Trong quá trình khai
thác đá quánh, nhân dân đã tìm thấy những mộ vò lớn. Trong mộ có chôn theo một số
công cụ lao động như rìu, bôn và cả những chiếc vòng đeo tay bằng đá với kỹ thuật chế
tác rất tinh xảo. Điều này phù hợp với những giai thoại được lưu truyền rằng trước khi có
sự khai phá thiên nhiên của những con người từ lục địa, ở đây đã có một giống người
"Thượng" sinh sống bằng nghề hái lượm và bắt cá ven biển. Trải qua những biến thiên
của lịch sử, Phú Quý là nơi hội tụ của nhiều luồng dân di cư từ lục địa ra với nhiều thành
phần dân tộc khác nhau. Trong đó người Kinh đóng vai trò chủ thể.
Khi bắt đầu phát triển mạnh kỹ thuật đóng thuyền buồm với những chiếc thuyền ra
được khơi xa thì cũng là lúc có nhiều người từ lục địa đặt chân lên đảo. Cùng với những
phần mộ còn xót lại trên đảo, sự tích công chúa Bàng Tranh chứng tỏ người Chăm đã có
mặt ở đảo này. Sự tích kể rằng: Bàng Tranh là một công chúa xinh đẹp vì chống lệnh vua
cha nên bị kết tội phản nghịch nên bị kết đày ra đảo.
Bên cạnh đó, do không chịu nổi sự hà khắc của chế độ nông nô, bất mãn với triều
đình phong kiến, nhiều người đã tìm đường ra đây lập kế sinh nhai. Người Kinh có mặt ở
đảo cũng từ rất sớm. Lúc bấy giờ, vào một thời điểm mà triều đại phong kiến Việt Nam
đang trượt nhanh trên con đường mục nát, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi. Ở các tỉnh miền
trung lúc bấy giờ, những người cùng khổ hoặc phải bán vợ đợ con hoặc phải phiêu dạt đi
khắp nơi để kiếm sống. Và Phú Quý là một điểm đến an lành mà họ đã tình cờ bắt gặp.
Trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh (1627–1672), rất nhiều ngư dân thuộc các tỉnh
duyên hải miền trung, hoặc chạy giặc lánh nạn, hoặc đi tìm nguồn cá, thuyền của họ vượt

sóng trùng dương đã gặp phải những trận cuồng phong khốc liệt và "xiêu" lên đảo.
Cùng với người Kinh, một số người Hoa cũng hoà nhập vào cộng đồng cư dân ở
Phú Quý. Vào thế kỷ 17, một số quan lại nhà Minh sau khi chống nhà Thanh thất bại, đã
phải trốn ra nước ngoài. Từng đoàn thuyền vượt biển tiến về phía nam, trong số đó có
hàng chục thuyền đã quyết định dừng chân lập nghiệp ở Phú Quý. Người Hoa đến đây
sống dựa vào các ngành nghề như dệt tơ lụa, buôn bán. Quá trình phát triển về sau, một
số người do làm ăn trở nên giàu có đã lần lượt tìm vào các thành phố lớn ở đất liền, chỉ
một số ít còn lại trên đảo.
Khi dân cư ngày một đông hơn thì các hình thức tổ chức xã hội cũng dần dần được
hình thành. Vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), chính quyền Đàng Trong đã
tổ chức trên đảo thành từng hộ bạch bố đến đội bạch bố rồi dần dần trở thành ấp và làng.

9


Tuy số dân lúc bấy giờ chưa đông đúc nhưng Phú Quý có đến 14 làng và 1 ấp. Mỗi làng
được lập trên cơ sở một nhóm nhỏ ngư dân, đôi lúc chỉ có từ 10 đến 12 tránh đinh và
thường mang những tên cũ của địa phương trước khi đến đây lập nghiệp: Thoại Hải, Thế
Hanh, Thế An, Hội Thiên, Hội Hưng, Hương Lăng, Mỹ Xuyên, Phú Ninh, An Hoà, Hải
Châu, Thương Hải, Triều Dương, Hội An, Mỹ Khê và ấp Quý Thạnh. Từ niên hiệu Đồng
Khánh - Nguyễn Cảnh Tông năm thứ 1 (1886), toàn đảo được tổ chức thành 11 làng và
đến năm 1930 do sự sáp nhập ba làng Phú Ninh vào Phú Mỹ và Hương Lăng vào Quý
Thạnh nên chỉ còn lại 9 làng: Long Hải, Phú Mỹ, An Hoà, Hải Châu, Thương Hải, Quý
Thạnh, Triều Dương, Mỹ Khê và Hội An. Hiện nay, đảo được chia làm 3 xã: Long Hải,
Ngũ Phụng, Tam Thanh.
Phú Quý trong một thời gian dài đã sống trong điều kiện khép kín tự cung tự cấp
với những hoạt động kinh tế như trồng trọt, đánh bắt hải sản, một số ngành nghề thủ công
như dệt vải, đan võng, ép dầu... Trong đó, ngư nghiệp đóng vai trò chủ đạo.

1.2.2. Dân cư, dân tộc

Về dân số: Theo niên giám thống kê năm 2010, dân số toàn huyện là 26.107 nhân
khẩu, mật độ dân số bình quân 1.466 người/km². Tốc độ dân số cao, nếu tính từ năm
2000 đến nay tốc độ tăng dân số tự nhiên ngày càng tăng từ 1,74% năm 2000 lên 2,2%
năm 2005.
Biểu đồ 1.1 Dân số trung bình đảo Phú Quý giai đoạn 2005 - 2010

10


24763

Bảng 1.1 Diễn biến dân số của đảo Phú Quý năm 2010
Chỉ tiêu

Đơn vị

Năm 2010

1. Tổng dân số

Người

26.107

Dân số trung bình nam

Người

13.321


Dân số trung bình nữ

Người

12.786

11


Dân số trung bình nông thôn

Người

26.107

Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên

%

2,0

2. Tổng số học sinh

Học sinh

6772

Mẫu giáo

Học sinh


1427

Tiểu học

Học sinh

2735

THCS

Học sinh

1745

PTTH

Học sinh

865

Tỷ lệ học sinh THPT đỗ tốt nghiệp (%)

Học sinh

74,15

Nguồn: Phòng VHTT huyện Phú Quý
Về dân tộc: Kinh chiếm đa số và một số dân tộc khác qua quá trình lập nghiệp ở
đảo: Chăm, Hoa. Cho đến nay, những di tích còn lại ở Phú Quý đã tạo điều kiện cho các

nhà nghiên cứu khoa học, các khách du lịch về đây tìm hiểu, tham quan.
Năm 2005 là năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm (2001 – 2005), tình hình kinh tế xã hội luôn được phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ngày càng được cải
thiện, trình độ dân trí ngày càng nâng lên. Tuy nhiên, trong công tác tuyên truyền vận
động còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là sự nhận thức của nhân dân còn mang nặng tư
tưởng “sinh con trai để nối dõi tông đường, sinh con dự phòng..”, một số phong tục, tâp
quán lạc hậu, chưa khác phục được (dựng vợ, gả chồng quá sớm). Bên cạnh đó một số
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn sinh con thứ 3 trở lên đã làm cho tốc độ tăng
dân số của huyện ngày càng tăng lên.

1.2.3. Lao động
Giai đoạn 2005 – 2010, cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực, phù hợp
với sự chuyển dịch cơ cấu GDP, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp – dịch vụ, giảm tỷ
trọng nông, lâm, ngư nghiệp. Hiện tại số lao động đang làm việc trong nông, lâm nghiệp
– thuỷ sản chiếm 44,6% (giảm 82%), công nghiệp xây dựng chiếm 35,7% (tăng 6,6%)
thương mại – dịch vụ 19,7% (tăng 1,6%).
Nhìn chung nguồn lao động của huyện tương đối dồi dào, là điều kiện thuận lợi
trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật và được đào tạo còn chiếm tỷ lệ thấp. Do vậy, trong tương lai còn có hướng đào
tạo nghề cho người lao động nhất là khoa công nghệ mới có thể đáp ứng được nhu cầu
lao động trong điểu kiện khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển.
12


CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN ĐỊA LÝ MÔI TRƯỜNG DU LỊCH ĐẢO PHÚ QUÝ
Thời gian gần đây, nhằm tăng cường quảng bá về hình ảnh và thu hút khách du
lịch đến, Phú Quý đã tiến hành xây dựng các ấn phẩm quảng cáo, bên cạnh đó quan tâm
đầu tư xây dựng mới một số khu du lịch, khu vui chơi giải trí đáp ứng nhu cầu tham
quan, tìm hiểu và phát triển du lịch. Sở du lịch kết hợp với UBND huyện đã tiến hành
khảo sát, quy hoạch các tuyến điểm du lịch như: Khu du lịch bãi tắm Doi dừa, Khu du
lịch Bãi Nhỏ - Gành Hang, Khu du lịch nghĩ dưỡng Mộ Thầy, Khu du lịch Vịnh Triều

Dương, Khu du lịch Hòn Tranh…
Song song với các khu dịch UBND huyện cũng đã quy hoạch, hình thành các
tuyến du lịch gồm:
Tuyến Du lịch trên bển bằng ca nô (Tàu dịch vụ) câu cá gắn với tham quan
các đảo lẻ như Hòn Tranh, hòn Trứng, hòn Hải, hòn Bố.
Tuyến tham quan núi cao cát, Chùa Linh Sơn, Miếu Bà Chúa Bàng Tranh,
Mộ Thầy gắn với khu nuôi trồng hải sản ở Mộ Thầy.
Tuyến tham quan ngọn Hải Đăng, Núi cấm, Chùa Linh Bửu.
Tuyến tham quan Vạn An Thạnh xem nhà trưng bày xương Cá Voi và tham
quan các chùa: Linh Quang, Thạnh Lâm, Linh Bửu.
Tuyến tham quan bè nuôi cá Mú Lạch dù và tắm biển.
2.1. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch đảo Phú Quý

2.1.1. Giao thông vận tải
Giao thông vận tải là nền tảng của mọi sự phát triển, những nỗ lực của ngành giao
thông vận tải trong suốt thời gian qua đã giúp cho Phú Quý có hệ thống giao thông hoàn
thiện hơn.
Mạng lưới giao thông đường bộ trên đảo chủ yếu là các tuyến nối trung tâm huyện
với các xã, đường liên xã đã được cải tạo và nâng cấp khá tốt, bao gồm một số tuyến
chính sau:
Tuyến vành đai xung quanh đảo Phú Quý với chiều dài toàn tuyến 16,5km
chạy vòng quanh đảo.
Các tuyến đường liên xã đang được nâng cấp, mở rộng; Tuyến cảng Triều
Dương – Trung tâm huyện ; tuyến Ngũ Phụng – Long Hải; tuyến Tam Thanh – Long Hải.
Tổng chiều dài các đường liên xã khoảng 40 km.

13


Hình 2.1 Đường vòng quanh đảo xã đảo Long Hải

Ngoài ra trên địa bàn huyện có khoảng 60 km đường nội bộ trong các khu dân cư
đa phần là đường đất, chất lượng kém bề rộng từ 2 đến 4 m rất khó khăn cho giao thông
đi lại khi kinh tế huyện đảo ngày càng phát triển.
Toàn huyện có 43 xe ô tô vận tải các loại đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá
của đảo, việc đi lại của người dân trên đảo chủ yếu bằng xe gắn máy (90% hộ gia đình có
xe máy).
Năm 1978 huyện thành lập hợp tác xã vận tải biển có 6 thuyền với công suất
120CV, trọng tải 60 tấn. Năm 1991 toàn huyện có 12 thuyền vận tải đường biển của các
thành phần kinh tế tham gia chở hàng hóa và hành khách với 1.284 CV và 420 tấn trọng
tải
Cùng với công ty vận tải biển, hợp tác xã vận tải biển đã đáp ứng nhu cầu đi lại
của cán bộ, nhân dân và vận chuyển hàng hóa. Trong quá trình khai thác, hầu hết số
thuyền máy đều tu sửa, đưa trọng tải từ 60 lên 200 tấn/ năm.
Để tạo điều kiện cho việc lưu thông dễ dàng hơn thì việc cải tiến phương tiện giao
thông là điều rất cần thiết. Các đội ngũ tàu được trang bị đầy đủ và dần dần cải thiện.
Hiện tại có các đội tàu được trang bị để phục vụ cho việc đi lại của khách như: tàu Bình
Thuận 16, 18; tàu Quê Hương, tàu Phú Quý 07…Ngoài ra, để rút ngắn thời gian đi lại thì
tầu cao tốc đã ra đời, do tư nhân làm chủ.
Trưa ngày 13/6/2011 đúng 10 giờ 15 phút, chiếc tàu cao tốc mang tên Hoàng Phúc
01 đã cập cảng Phú Quý, đây là chiếc tàu cao tốc đầu tiên do tư nhân Phú Quý đầu tư với

14


tổng kinh phí gần 22 tỷ đồng. Tàu có chiều dài 32 m, chiều rộng 8,8 m, chở được 255
hành khách. Tàu cao tốc này thiết kế dạng 2 thân, 2 tầng nên tàu có thể chạy được thời
tiết gió cấp 7 với vận tốc 23 hải lý/giờ, kính và cửa ra vào của tàu có hệ thống chống
thấm nước, toàn bộ tàu đều trang bị hệ thống máy lạnh cao cấp tạo cảm giác thoải mái và
an toàn cho hành khách khi đi tàu.
Tuy nhiên, do nằm cách xa với đất liền nên việc đi lại của người dân cũng rất khó

khăn. Vào những lúc chịu ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, bão…các phương tiên di
chuyển ra đảo rất khó khăn. Thiếu lương thực trên đảo, người dân bị cô lập, ảnh hưởng
đến tâm lí của các du khách. Vì vậy, ngoài việc cải tiến các tàu khách, thì việc xây dựng
sân bay cũng rất cần thiết, vừa tạo điều kiện cho việc di chuyển dễ dàng, vừa thuận lợi
cho việc quảng bá hình ảnh Phú Quý.

2.1.2. Hệ thống điện nước
Hệ thống nước
Đến nay, Nhà nước đã đầu tư cho huyện đảo hơn 120 giếng khoan bơm tay Unicef
để lấy nước sinh hoạt. Đầu năm 2009, hai nhà máy nước được xây dựng tại xã Ngũ
3
Phụng và Long Hải với tổng công suất 2.200m /ngày đêm được đưa vào sử dụng đã đáp
ứng được trên 90% nhu cầu nước ngọt của huyện đảo. Bên cạnh đó người dân tự sắm
nhiều lu vại chứa nước mưa cũng đã phần nào làm bài toán nước ngọt cho đảo không còn
nan giải nữa.
Hệ thống điện
Trên huyện đảo hiện có trạm phát điện với 6 máy phát diezen, công suất 500
KW/máy, tổng công suất 3 MW, thực hiện phát điện liên tục 16 giờ/ ngày. Ngoài ra còn
có 2 tổ máy phát điện diezen của bưu điện và 2 tổ máy phát điện diezen của quân đội. Về
cơ bản, sản xuất điện đáp ứng nhu cầu điện sinh hoạt và sản xuất của toàn đảo, đảm bảo
100% hộ sử dụng điện với số giờ sử dụng điện được nâng lên 6 giờ/ngày năm 2001 lên
16 giờ/ngày năm 2005. Lượng điện năng tiêu thụ tính bình quân đầu người mới chỉ đạt
khoảng 30KWh/người/tháng. Tuy nhiên, so với nhu cầu sản xuất, dịch vụ và sinh hoạt thì
còn thiếu điện trầm trọng (mới chỉ cấp điện được 16/24 giờ/ ngày). Hiện nay đang tích
cực thực hiện nhiều giải pháp để tăng thêm nguồn điện cấp cho huyện đảo băng các
nguồn năng lượng mặt trời và sức gió…Đồng thời để đáp ứng cung cấp điện cho người
dân, dự án Nhà máy điện gió Phú Quý do Tổng Công ty Điện lực Dầu khí đầu tư, với
công suất lắp đặt 6 MW đã được khởi công xây dựng, với tổng vốn 335 tỷ đồng. Dự kiến
Nhà máy hoàn thành vào cuối năm 2011, khi đưa vào vận hành sẽ cung cấp sản lượng
15



điện hàng năm 25,4 triệu kW/h và được đấu nối lên đường dây 220kV, vận hành đồng bộ
với Nhà máy điện diezen hiện có, sẽ góp phần giải quyết tình trạng thiếu điện hiện nay .

2.1.3. Bưu chính viễn thông
Hệ thống thông tin liên lạc của huyện trong những năm gần đây có những bước
phát triển mới. Huyện có thể gửi thư điện tử, điện thoại, fax, dịch vụ EMS…đến tỉnh và
các tỉnh khác trong và ngoài nước.
Hình 2.2 Trung tâm viễn thông Phú Quý
Phát triển mạnh nhất ở đảo hiện nay là tiếp nhận
những thông tin thông qua các hệ thống thông tin đại
chúng. Toàn đảo có trên 97% số hộ dân có ti vi, có đài thu
phát các kênh của VTV và đài tỉnh. Tính bình quân trên
đảo hiện 18 máy điện thoại/100 dân. Vùng phủ sóng điện
thoại di động được mở rộng, chất lượng dịch vụ được cải
thiện, với 5 trạm thu phát sóng (BTS) của các mạng di
động. Các cơ quan, đơn vị trên đảo đều trang bị hệ thống
ADSL...Nhờ vậy, việc tiếp cận thông tin của nhân dân, cán
bộ trên đảo được nhanh chóng và thuận lợi hơn trước. Công tác cứu hộ, cứu nạn được
tiến hành chủ động, hạn chế thấp nhất thiệt hại về người và của khi mưa bão xảy ra.
Đến nay, có hơn 100 tàu thuyền sử dụng tần số vô tuyến điện loại máy VTĐ tầm
xa, trong đó đã cấp phép gần 40 máy ICOM 718, trên 1.000 tàu thuyền sử dụng loại máy
vô tuyến điện tầm ngắn; hệ thống VSAT-IP được lắp đặt phục vụ công tác phòng chống
lụt bão thay thế hệ thống VSAT cũ, giúp ngư dân liên lạc về đất liền thuận lợi, đồng thời
trong mùa mưa bão, công tác thông tin phòng chống lụt bão được nhanh chóng hơn.
Huyện đảo Phú Quý là một trong những đảo biển trọng điểm khởi đầu được Chính
phủ quan tâm đầu tư xây dựng về kinh tế - quốc phòng và hệ thống cơ sở hạ tầng trên đảo
trong vài năm gần đây. Nhiều hạng mục công trình với mức đầu tư lớn đã, đang và sẽ tiếp
tục được thi công xây dựng, sớm hoàn thiện và đưa vào sử dụng. Ðặc biệt là cảng biển,

hệ thống đường giao thông vành đai liên xã, nhà máy điện, trung tâm y tế, trung tâm quân
- dân y kết hợp… đã kịp thời hoàn thành và đưa vào khai thác phục vụ nhu cầu dân trí,
phát triển kinh tế của đảo. Ðây là những yếu tố thuận lợi cho du lịch Phú Quý phát triển
trong tương lai.

16


2.2. Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch đảo Phú Quý
Cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch là yếu tố cấu thành quan trọng của sản phẩm du
lịch, là tiêu chí quan trọng cho sự lựa chọn của du khách. Nó là yếu tố quan trọng góp
phần tạo nên sự độc đáo và tạo dựng hình ảnh của khu du lịch và tạo nên sự khách biệt
của sản phẩm du lịch so với các khu du lịch khác. Cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch bao gồm
các tiện nghi lưu trú, tiện nghi ăn uống, các tiện nghi thể thao và vui chơi giải trí, phương
tiện vận chuyển và các tiện nghi phục vụ du lịch khác.

2.2.1. Hệ thống các cơ sở lưu trú
Để tạo điều kiện cho việc nghỉ ngơi cho khách du lịch, việc xây dựng thêm nhà
nghỉ, khách sạn ở đảo Phú Quý là điều cần thiết. Mặc dù chưa có các khách sạn, nhà nghỉ
có quy mô lớn, nhưng cũng đã đủ đáp ứng được các nhu cầu của du khách. Kết hợp vào
đó là phong cách phục vụ nhiệt tình, mến khách đã để lại nhiều lưu luyến cho khách du
lịch.
Tuy nhiên, số lượng khách sạn, nhà nghỉ ở Phú Quý chiếm tỉ lệ rất ít. Chủ yếu là
các nhà trọ nhỏ, do các chủ nhà tự xây dựng và kinh doanh với quy mô nhỏ.
Bảng 2.1 Danh sách các nhà trọ trên địa bàn đảo Phú Quý
TT

Tên chủ cơ sở

Địa điểm


Bảng hiệu

Số phòng/
Số giường

1

Nguyễn Thị Thanh Thảo

Triều Dương

Thanh Thảo

12/12

2

Phạm Thị Hạnh

Triều Dương

Minh Tân 1+2

12/15

3

Nguyễn Minh Duệ


Triều Dương

SoNy

03/03

4

Châu Văn Diễn

Triều Dương

Hướng Dương Lầu

09/12

5

Nguyễn Thị Phú

Triều Dương

Anh Tuấn

05/08

6

Trần Thị Lê


Triều Dương

Hồng Mai

03/04

7

Đỗ Văn Tiến

Mỹ Khê

Phượng Tiến

08/09

8

Phạm Hoàng Phú

Triều Dương

Hoàng Phú

04/04

Nguồn: Phòng VHTT huyện đảo Phú Quý

2.2.2. Các cơ sở ăn uống
Các cơ sở ăn uống trong huyện Phú Quý khá phong phú, đa dạng về loại hình: nhà

hàng sinh thái, quán cà phê, quán rượu có phục vụ ăn… Các cơ sở có thể nằm trong các

17


cơ sở lưu trú nhằm phục vụ nhu cầu ăn uống nghỉ ngơi, hội họp và giao lưu của khách
đang lưu trú tại khách sạn. Các cơ sở ăn uống cũng có thể nằm độc lập bên ngoài các cơ
sở lưu trú, ở các điểm tham quan du lịch, trên các bãi biển, trong các cơ sở vui chơi giải
trí…nhằm phục vụ các đối tượng khác nhau. Trong thời gian qua, các cơ sở ăn uống phát
triển tương đối nhanh.

Bảng 2.2 Danh sách các quán ăn trên địa bàn đảo Phú Quý
TT

Tên chủ quán

Số bàn/
Số ghế

Địa điểm

Ngành nghề

1

Trần Thị Mỹ Dung

8/35

Mỹ Khê


Ăn uống bình dân

2

Nguyễn Lộc

11/48

Mỹ Khê

Ăn uống bình dân

3

Huỳnh Văn Hớn

6/30

Triều Dương

Ăn uống bình dân

4

Nguyễn Thị Phửu

14/60

Triều Dương


Café-nhậu-Karaoke

5

Nguyễn Thị Kim Thanh

21/90

Triều Dương

Café - nhậu bình dân

6

Nguyến Thị Hoài Lan

12/54

Triều Dương

Nhậu bình dân

7

Nguyễn Thị Khai

13/56

Triều Dương


Café - nhậu bình dân

8

Bùi Kim

10/48

Mỹ Khê

Ăn uống bình dân

9

Đỗ Thị Quyết

12/55

Triều Dương

Ăn uống bình dân

Nguồn: Phòng VHTT huyện đảo Phú Quý

2.2.3. Cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí, thể thao, cơ sở y tế.
Cơ sở y tế: Mạng lưới cơ sở vật chất nghành y tế từng bước đươc củng cố để đáp
ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Hiện tại trên đảo có 4 sở y tế, gồm 1
bệnh viện quân dân y kết hợp và 3 trạm y tế xã.
Cơ sở vật chất nghành y tế thông qua vốn đầu tư của chương trình biển Đông – hải

đảo đã có sự cải thiện đáng kể. Tổng số dường bệnh có 65 giường (bệnh viện 50 giường,
trạm y tế xã 15 giường). Số lượng y, bác sĩ qua các năm đèu tăng, hiện có 26 y, bác sĩ và
9 y tá, hộ lý.

18


Bệnh viện quân dân y kết hợp có 50 giường bệnh, được trang bị các máy móc,
thiết bị (Monitoring theo dõi bệnh nhân, máy trợ thở, máy gây mê, X-Quang, máy siêu
âm…) do ngành và dự án EU tài trợ đang phục vụ.
Tram y tế xã: Có 3 xã đều có trạm y tế được xây dựng kiên cố, có điện thắp sáng
và trang thiết bị điện thoại. Các trạm đều có trang thiết bị, dụng cụ y tế tương đối đầy đủ,
đảm bảo điều kiện cần thiết để thực hiện các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại trạm,
100% trạm y tế các xã có bác sĩ, nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi. Bình quân có cán bộ y
tế/trạm.
Y tế thôn: hầu hết các thôn đều có nhân viên y tế hoạt động nhưng chất lượng còn
nhiều hạn chế do chế độ đãi ngộ đối vối lực lượng này còn thấp.

2.2.4. Phương tiện vận chuyển
Tuyến hàng hải nội địa Phan Thiết – Phú Quý đã hình thành từ lâu và là tuyến vận
tải chủ yếu giữa đất liền và đảo. Theo Sở giao thông vận tải Bình Thuận, hiện tại, có năm
tàu vận chuyển hàng hóa, hành khách chạy tuyến này, trong đó có hai tàu của Nhà nước
và ba tàu của tư nhân. Bình quân mỗi chuyến, mỗi tàu này chở được khoảng 160 hành
khách và 50 tấn hàng hóa, chạy tốc độ tối đa 10 hải lý/ giờ và có tuổi thọ bình quân
khoảng 10 năm.
Năm 2010 Hợp tác xã Vận tải Phú Hưng đã đưa vào sử dụng tàu trung tốc Phú
Hưng, nhưng cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu đi lại và thông thương giữa đất
liền và Phú Quý. Đầu năm 2011, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ du
lịch Hoàng Phúc đã mạnh dạn đầu tư mua tàu cao tốc Hoàng Phúc 01 trị giá 21 tỉ đồng về
phục vụ nhu cầu thông thương, giao lưu kinh tế cũng như việc đi lại của người dân. Đây

có thể coi là cầu nối mới góp phần đưa Phú Quý gần hơn với đất liền, tạo điều kiện thúc
đẩy kinh tế nơi đây phát triển.
 Nhận xét chung về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch:
Nhìn chung cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch Phú Quý còn
nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu để phát triển du lịch của huyện.
Về cơ sở lưu trú, quy mô, số lượng, chất lượng còn nhỏ, hẹp, hoạt động dịch vụ
còn đơn sơ, chưa khai thác hết tiềm năng sẵn có của mình.
Về hệ thống thương mại – dịch vụ, các tụ điểm trung tâm văn hóa, vui chơi giải
trí…còn mới bắt đầu phát triểm, cần được đầu tư trang bị hiện đại trong tương lai.

19


2.3. Hiện trạng môi trường phục vụ phát triển du lịch

2.3.1. Các vấn đề môi trường phát sinh trong quá trình phát triển du
lịch
Du lịch đem lại nguồn lợi ích rất lớn cho phát triển kinh tế và xã hội tuy nhiên, khi
phát triển ngành du lịch thì phải có các sản phẩm du lịch đi kèm và hỗ trợ để phát triển.
Các sản phẩm phục vụ đi kèm này không ít thì nhiều đều gây ảnh hưởng đến môi trường,
phá vỡ cân bằng sinh thái như: việc khai phá và chuyển đổi mục đích sử dụng các vùng
đất tự nhiên để xây dựng khách sạn, nhà nghỉ, các khu vui chơi giải trí, cơ sở hạ tầng
phục vụ du lịch… làm mất nơi cư trú của nhiều loài động vật hoang dã, phá vỡ các hệ
sinh thái tự nhiên, gây suy giảm đa dạng sinh học và làm thay đổi điều kiện địa mạo thủy
vực. Chính vì vậy, phát triển du lịch cần quan tâm đến công tác bảo tồn và lập kế hoạch
bảo vệ môi trường cho các hoạt động phát triển du lịch để giảm thiểu các tác động tiêu
cực có thể xảy ra. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với ngành du lịch bởi môi trường luôn
là yếu tố được quan tâm hàng đầu, tác động trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của các
hoạt động du lịch.
Hoạt động du lịch phát triển đồng nghĩa với việc gia tăng lượng du khách tới các

địa điểm tham quan du lịch, tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ và khai thác tài
nguyên để phục vụ phát triển du lịch. Vì vậy, nếu chúng ta không quy hoạch, quản lý tốc
độ phát triển du lịch một cách hợp lý thì sẽ làm tăng áp lực của phát triển du lịch lên môi
trường, đặc biệt là vào mùa du lịch hoặc thời điểm tổ chức lễ hội và sẽ dễ nảy sinh một
trong số các vấn đề sau:
Gia tăng lượng chất thải sinh hoạt góp phần làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi
trường đất, nước.
Tăng lượng khí thải ở các khu du lịch do việc gia tăng các hệ thống điều
hòa nhiệt độ trong hệ thống khách sạn, các máy phát điện dự phòng, lưu lượng xe chuyên
chở khách ra vào khu du lịch.
Đa dạng sinh học có nguy cơ bị đe dọa do việc săn bắt để phục vụ nhu cầu
ẩm thực, đồ lưu niệm, và việc chặt phá cây rừng lấy gỗ củi, khắc tên lên cây của du
khách.
Ngoài ra, còn có những tác động tiêu cực khác như sự lan truyền dịch bệnh
đến cộng đồng, xói mòn và thoái hóa đất.

2.3.2. Hiện trạng môi trường phục vụ phát triển du lịch
2.3.2.1 Hiện trạng môi trường nước

20


Chất lượng nước chịu tác động mạnh do các hoạt động sản xuất công nghiệp, quá
trình đô thị hoá và sinh hoạt hàng ngày của người dân… Những năm vừa qua, công
nghiệp cũng như du lịch ở đảo Phú Quý còn chư phát triển do đó nguồn nước cũng như
chất lượng nước còn được bảo tồn tương đối tốt.
Nhìn chung một số kết quả phân tích về nước biển ven bờ vào thời điểm năm 2008
- 2009 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận công bố thì chất lượng nước
biển ven bờ tương đối ổn định, các chỉ tiêu có biến đổi nhưng không nhiều.
Chất lượng nước mặt tại các điểm du lịch tương đối tốt, đa số các chỉ tiêu được

xác định là không vượt quá QCVN 08:2008/BTNMT.
Hiện nay, dân số và lượng khách du lịch còn ít do đó nước thải từ các khu dân cư,
khu du lịch, nhà hàng, khách sạn có tác động nhất định song chưa phải là nguồn ô nhiễm
môi trường nước mặt.
Tuy nhiên dự báo số lượng du khách sẽ tăng nhanh trong những năm tới, do đó,
nước thải cần phải được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường, nơi tiếp nhận
nước thải sau xử lý, đặc biệt là nguồn nước mặt trong khu vực.
2.3.2.2 Rác thải
Theo niên giám thống kê năm 2010, dân số toàn đảo là 26.107 người. Ước tính
mỗi ngày trên địa bàn toàn đảo thải ra khoảng trên 14 tấn rác thải sinh hoạt từ dân định
cư. Hiện tại, tỷ lệ thu gom rác còn rất thấp chủ yếu do các hộ gia đình tự xử lý dưới hình
thức đốt.
Ngoài ra, toàn bộ lượng rác thải thu gom trên địa bàn đảo hiện nay được thu gom
rồi đem đổ tại các bãi chứa rác, chưa có biện pháp xử lý hoặc xử lý còn thô sơ (đốt, sử
dụng chế phẩm), chưa được tổ chức phân loại tại nguồn. Các bãi rác nằm gần khu dân cư
và chưa được xử lý triệt để nên cũng góp phần gây ô nhiễm môi trường.

2.3.3. Quản lý nhà nước về môi trường trong khu, điểm du lịch
Nhằm bảo vệ môi trường du lịch, ngăn ngừa và giảm thiểu các tác động xấu đến
môi trường trong quá trình tiến hành các hoạt động du lịch, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường đã ra quyết định số 02/2003/QĐ-BTNMT ngày 29/07/2003 về việc ban hành
“Quy chế Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch”. Quy chế này bao gồm 6 chương và
23 điều khoản với những nội dung nhằm đảm bảo phát triển du lịch một cách bền vững,
góp phần bảo vệ môi trường của đất nước.
Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch, đảm bảo phát triển du lịch
theo hướng du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, thuần

21



phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam, quyết định 1783/QĐ/CT-UBND ngày 10/5/2005
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận về phê duyệt đồ án quy hoạch chung xây
dựng đảo Phú Quý; Quyết định số 45/2006/QĐ-UBND ngày 02/10/2006 của Ủy ban
nhân dân huyện Phú Quý về việc quy hoạch các điểm xây dựng trung tâm hành chính xẫ,
hệ thống trường học, các điểm kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn huyện Phú Quý giai đoạn
2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020.
Các hoạt động du lịch trên địa bàn đảo từng bước được chú trọng đầu tư ổn định
và đi vào nề nếp, đảm bảo việc bảo tồn và giữ gìn các cảnh quan thiên nhiên đặc trưng,
việc khai thác và sử dụng các tài nguyên hợp lý hơn. Đồng thời kết hợp đan xen giữa hoạt
động phát triển của ngành du lịch với việc thực hiện đánh giá tác động môi trường. Từ
năm 2005 đến nay, Phòng văn hóa thông tin huyện đảo Phú Quý đã phối hợp với các
ngành, các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch khai thác một cách có hiệu quả các
nguồn tài nguyên; tăng cường công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực du lịch, trong đó
chú trọng công tác lập quy hoạch và quản lý quy hoạch, vệ sinh môi trường, an toàn thực
phẩm, an toàn cho du khách. Khuyến cáo một số mô hình du lịch lưu trú mới như nhà cho
thuê, cắm trại, tổ chức lễ hội ẩm thực, các loại hình vui chơi giải trí mới lạ, hấp dẫn phù
hợp với điều kiện từng khu vực.
Như vậy, tình hình thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong phát triển du lịch
đã có những chuyển biến tích cực, khả năng nhận thức và quản lý môi trường khu du lịch
ngày càng được tăng cường và chặt chẽ hơn. Việc quy hoạch môi trường, lập kế hoạch và
khai thác tài nguyên được chú trọng nhiều hơn nhằm hạn chế các tác động của du lịch
đến môi trường.
2.4. Hiện trạng sử dụng tài nguyên du lịch tự nhiên đảo Phú Quý

2.4.1. Danh thắng du lịch
Địa hình của đảo không bằng phẳng, nổi lên có 3 ngọn núi chính là núi Cấm
(108m), núi Cao Cát (85m) và núi Ông Đụn (44.9m). Trong số những ngọn núi này, núi
Cấm với ngọn hải đăng được coi như một công trình thiên nhiên rất quan trọng để ngư
dân “bắt” được đảo trong những cuộc hải trình. Năm 1996, Trung ương đầu tư xây dựng
ngọn hải đăng cao 28m trên núi Cấm phục vụ việc đi lại trên biển của ngư dân, hàng hải

quốc gia và quốc tế. Những khi thời tiết trong xanh, từ trên đỉnh núi Cấm ta có thể trông
thấy các điểm cao ở đất liền như: núi Tà Cú (Hàm Thuận Nam), mũi Cà Ná (Ninh Phước)
và cả dãy núi Nam Trường Sơn nên cũng dễ dàng trong việc xác định phương hướng.

22


Trung tâm đảo có những dãy đồi cao từ 20 – 30m và vên bờ thường cao khoảng 5m, có
nơi đồi cao từ 7 – 8m. Thấp nhất là bãi Triều Dương, chỉ cao 2m so với mực nước biển.

Hình 2.3 Núi Cấm và hải đăng trên đỉnh núi Cấm
Đảo Phú Quý còn có 9 đảo nhỏ bao bọc xung quanh, tạo thành một quần đảo, nhân
dân địa phương gọi là những “hòn lẻ”. Các hòn đảo này được chia làm hai khu vực, nơi
xa nhất cách đảo lớn 35 hải lí.
Khu vực gần đảo lớn có 6 đảo nhỏ, gồm: hòn Trứng lớn nằm cách đảo lớn khoảng
2
5 hải lí về phía Tây Bắc, có diện tích 3.600m . Ở hướng Bắc Phú Quý và cách xa bờ
2
chừng 200m đến 30m có 3 đảo lẻ: hòn Đen gồm toàn đá đen, có diện tích 23.100m (hòn
Đen nhân dân địa phương còn gọi là hòn Nghiêng hay hòn Mực); hòn Đỏ gồm toàn đá
2
màu đỏ, có diện tích 28.500m (nhân dân địa phương còn gọi là hòn Bút, hòn Son, hòn
Bút Nghiêng); hòn Giữa là một dãy đá gành nằm vắt ngang như một nhịp cầu nối liền

2
hòn Đen với hòn Đỏ, có diện tích 2.900m .
Hình 2.4 Hòn Trứng và hòn Tranh nhìn từ khúc quanh
Lớn nhất trong các hòn lẻ ở Phú Quý là hòn Tranh, cách đảo khoảng 0,5 hải lí về
23



2
phía Đông Nam. Hòn Tranh có hình dạng chữ S, diện tích 0,57 km . Trước kia hòn này là

24


một đảo hoang, cỏ tranh mọc um tùm, nhân dân địa phương thường đến đây cắt cỏ tranh
lợp nhà nên gọi là hòn Tranh. Về phía Đông Nam đảo, cách hòn Tranh khoảng từ 100m
2
còn có hòn Trứng nhỏ, có diện tích 2000m .
Khu đảo lẻ xa đảo lớn có 3 hòn, gồm: hòn Hải (hòn Khám) cách đảo lớn 35 hải lí
về phía Nam – là đường A6, đường cơ sở để tính lãnh hải Việt Nam, cũng là mũi nhọn xa
nhất của đường viện nội thủy Việt Nam ở hướng Đông Nam biển Đông. Đây là khối đá
2
lớn, thẳng đứng, cao hơn 100m, có diện tích 46.100m . Hòn Đồ lớn (hòn Bố) cách hòn
2
Hải 11 hải lí về phía Tây, cách đảo lớn 27 hải lí về phái Nam, có diện tích 38.900m . Cứ
đến tháng 4, tháng 5 âm lịch hằng năm, chim biển về làm tổ, sinh sản ở hòn Đồ, nhân dân
thường đi lấy trứng chim về sử dụng. Hòn Tý (hòn Vung) cách hòn Hải 3 hải lý về phía
2
Tây Bắc, có diện tích 5.800m . Hòn Tý có hình dạng của cái vung nồi đất ngày xưa nên
nhân dân thường gọi là hòn Vung. Theo truyền tụng của những cụ cao niên thì trước đây
đã tìm thấy nhiều tiền kẽm của các triều đại trước để lại ở hòn Tý, nên nhân dân còn gọi
là hòn Tiền.
Ngoài ra, còn có hòn Đồ Nhỏ (hòn Trào) cách hòn Đồ Lớn khoảng 2 hải lí về phía
Đông, dài khoảng 10m, rộng 5m, gồm nhiều ghềnh đá lộ đầu lổm chổm, khi nước ròng
(cạn) mới nổi lên, khi nước lớn chỉ thấy nhấp nhô trên mặt biển.
Hòn Tro (hòn Mới) - Là một hòn lẻ mới hình thành vào năm 1923. Lịch sử hòn
Tro được các bô lão ở địa phương kể lại rằng: Đêm 30 tháng chạp năm Nhâm Tuất, vào

lúc nhân dân đang chuẩn bị đón giao thừa thì bỗng nhiên nhà cửa bị rung chuyển, làm
nghiêng đổ các chân đèn trên bàn thờ. Các đợt rung chuyển mỗi lúc một mạnh thêm và
tiếp tục mãi cho đến hai tuần sau thì đột nhiên ngoài biển khơi phía Tây Nam làng Mỹ
Khê (thôn Mỹ Khê, xã Tam Thanh ngày nay) có một cột khói đen dựng đứng phun lên
mù mịt cả một vùng trời. Khoảng 5 ngày sau xuất hiện một cột lửa đỏ rực bốc lên cao và
cũng chừng 5 ngày sau nữa khi cột lửa từ từ hạ xuống và tắt hẳn thì dân làng thấy một
hòn đảo nhỏ nhô lên khỏi mặt nước cao độ vài chục mét và ở cách xa khoảng 32 hải lí.
Hòn này hình tròn với đường kính khoảng 40m, trên mặt có cát trắng và xung quanh có
những cạnh đá bậc thang thoai thoải. Sau 3 tháng kể từ ngày có hiện tượng lạ đó, hòn này
bị chìm xuống cách mặt nước 33m và hình thành nên một bãi đá ngầm dài 700m và rộng
gần 500m, nhân dân Phú Quý gọi là hòn Rạn Mới.
Ngoài những hòn Lẻ, Phú Quý còn có nhiều doi, lạch, mũi, bãi như: doi Dừa, doi
Ông Tỉnh, doi Thầy, lạch Chà Tre, lạch Bãi Lăng, lạch Dù, lạch Thế, lạch Chõi, lạch Ông
Bền, mũi Cây Thẻ, mũi Gành Hang, bãi Láng, bãi Phủ, bãi Nhỏ, mũi Trâu Nằm…
25


×