Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Thể chế chính trị ở một số nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.23 KB, 43 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính trị không chỉ là một tiểu hệ thống thuộc kiến trúc thượng tầng xã
hội, có tác động ảnh hưởng tới các yếu tố quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở hạ
tầng xã hội mà quan trọng còn là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các
đảng phái và các chủ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Mỗi bộ phận của
chính trị lại có những chức năng riêng và đồng thời có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau.Sự liên kết đó tạo thành một cơ chế hoạt động nhịp nhàng, giúp cho
thống trị đạt được mục tiêu của mình.
Trong đó, hệ thống chính trị là công cụ, là phương tiện và là phương
thức tổ chức thực tiễn quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Hệ thống
chính trị giúp bảo vệ và đem lại lợi ích cho giai cấp thống trị, giúp giai cấp
thống trị duy trì trật tự an ninh chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Bên
cạnh đó, nó còn có vai trò to lớn trong việc quản lý các lĩnh vực khác nhau
trong đời sống xã hội như: kinh tế, văn hoá, quốc phòng, ngoại giao…
Hệ thống chính trị có vai trò quan trọng đối với tất cả các quốc gia. Một
hệ thống chính trị có kết cấu hợp lý và các thành phần trong đó có mối quan
hệ chặt chẽ sẽ giúp mỗi quốc gia phát triển đi lên. Ngược lại hệ thống chính
trị không ổn định sẽ kìm hãm sự phát triển của quốc gia đó.
Hơn nữa, ngành Khoa học Quản lý không chỉ yêu cầu người học cần
trang bị những kiến thức vững chắc về các lĩnh vực chuyên môn mà còn đòi
hỏi có những hiểu biết chung về chính trị - xã hội, trong đó có hệ thống chính
trị để sau khi tốt nghiệp có thể áp dụng những kiến thức đó vào công việc
trong tương lai.
Xuất phát từ những lý do trên nhóm chúng tôi đã chọn đề tài: “Thể chế
chính trị ở một số nước TBCN trên thế giới” làm hướng nghiên cứu của
mình.

1



2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hệ thống chính trị là một nhân tố quan trọng của bất kỳ một nền chính
trị nào trên thế giới. Dựa vào việc tổ chức và hoạt động của một hệ thống
chính trị nào đó họ có thể nhận biết được hoạt động thực tiễn của nền chính trị
trong một quốc gia. Do vậy hệ thống chính trị có vai trò quan trọng nên đã có
nhiều công trình nghiên cứu khác nhau tiếp cận theo những khía cạnh rất
riêng với những mục tiêu khác nhau.
Trong bài tiểu luận này em sẽ tiếp cận với khía cạnh rất riêng về hệ
thống chính trị theo cách nghiên cứu của mình nhằm làm sang tỏ các nội dung
trong bài.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về hệ thống chính trị, mô hình hệ thống
chính trị và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự đổi
mới không ngừng của thế giới trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn
nữa, việc nghiên cứu đề tài giúp chúng em củng cố thêm kiến thức về bài học.
3.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu
Bài tiểu luận này được thực hiện nhằm làm sáng tỏ những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
-Đưa ra một số khái niệm cơ bản
-Phân tích về chế độ đa đảng của một số nước trên thế giới
-Làm rõ tính tất yếu của chế độ nhất nguyên chính trị của Việt Nam
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bài tiểu luận nghiên cứu về vấn đề Đảng trong các nước tư bản chủ
nghĩa và tại Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận này nghiên cứu trong phạm vi các nước tư bản: Mỹ, Liên
hiệp vương quốc Anh và Bắc Ailen, Pháp, Đức, Liên Bang Nga, Khu vực

ASEAN và tại Việt Nam
2


5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng: Chủ yếu dự vào quan điểm chủ nghĩa
Mác- Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phép duy vật biện chứng góp
phần phát hiện mâu thuẫn và động lực của sự phát triển chính trị xã hội. Giúp
giải quyết một cách khoa học mối quan hệ giữa các mục tiêu chính trị và
phương tiện thực hiện mục tiêu đó.
Phương pháp duy vật lịch sử: Nghiên cứu các hiện tượng, sự kiện chính
trị thông qua việc nghiên cứu các quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa
của hiện tượng, từ đó làm logic khách quan nội tại phản ánh bản chất và quy
luật vận động của chính trị trong đời sống xã hội hiện thực. Việc sử dụng
đúng đắn phương pháp lịch sử cho phép khắc phục chủ quan duy ý chí trong
nghiên cứu hệ thống chính trị.
Phương pháp mô hình hóa: Phương pháp này giúp ta có thể mô hình
hoá cơ chế nào đó của hệ thống chính trị như các phần tử của hệ thống: Nhà
nước, cơ quan nhà nước…và sự tác động qua lại với các hệ thống chính trị
khác.
Phương pháp so sánh: Cho phép ta nắm bắt được đối tượng nghiên cứu
qua những nét tương đồng và khác biệt với đối tượng so sánh.
Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu: Cho phép ta tổng hợp những
khía cạnh riêng lẻ, khác nhau và lặp đi lặp lại của hệ thống chính trị. Từ đó
làm cơ sở phân tích các diễn biến đời sống chính trị và đưa ra được những
nhận định chính xác.
6. Đóng góp của tiểu luận
Bài tiểu luận được thực hiện nhằm giúp cho những ai quan tâm về chế
độ đa đảng tại một số nước tư bản chủ nghĩa điển hình có them những tài liệu
để đọc và hiểu hơn về bản chất của chế độ đa đảng tại các nước này. Ngoài ra

tiểu luận cũng làm rõ những nội dung về việc nhất nguyên chính trị tại Việt
Nam
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung bài tiểu luận có 3 chương, 10 tiết.
3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG KHÁI NIỆM
1.1.Thể chế
Theo nghĩa rộng, thể chế dùng để chỉ một hệ thống những quy định,
luật lệ, giá trị, chuẩn mực hợp thành những nguyên tắc tổ chức và phương
thức vận hành của một xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Theo nghĩa hẹp: thể chế dùng để chỉ một hệ thống những quy định, luật
lệ, giá trị, chuẩn mực hợp thành những nguyên tắc tổ chức, phương thức và
vận hành của một lĩnh vực hoặc một cấu trúc xã hội nào đó trong một giai
đoạn lịch sử nhất định.
1.1.1. Thể chế chính trị
Thể chế chính trị là hệ thống các định chế, các giá trị, chuẩn mực hợp
thành những nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của một chế độ
chính trị, là hình thức thể hiện các thành tố của hệ thống chính trị thuộc
thượng tầng kiến trúc, là cơ sở chính trị - xã hội quy định tính chất, nội dung
của chế độ xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Khái niệm thể chế chính trị bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Thể chế chính trị là hệ thống các định chế, các giá trị tạo thành những
nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của một chế độ chính trị, của hệ
thống chính trị. Thể chế chính trị bao gồm thể chế nhà nước, thể chế các đảng
chính trị, thể chế các tổ chức chính trị xã hội, trong đó, thể chế nhà nước là
quan trọng nhất.

Thể chế chính trị là hình thức thể hiện các thành tố của hệ thống chính
trị thuộc thượng tầng kiến trúc. Song thể chế chính trị đồng thời lại là cơ sở
chính trị - xã hội quy định tính chất, nội dung của chế độ chính trị xã hội.
Hiệu lực, vai trò của thể chế chính trị tùy thuộc vào hiệu lực và vai trò
của từng thể chế trong hệ thống chính trị cũng như của cơ chế vận hành của
toàn hệ thống, trong đó thể chế nhà nước là quan trọng nhất.

4


1.1.2. Các Đảng phái chính trị
Trong xã hội hiện đại, đảng chính trị đã trở thành đại biểu thực thụ cho
các lực lượng quần chúng nhất định trong quan hệ với quyền lực nhà nước.
Hiện nay, các học giả tư sản có hàng trăm định nghĩa khác nhau về đảng chính
trị. Nhưng, từ sự ra đời và tồn tại của các đảng chính trị đã cho thấy rõ:
Đảng chính trị là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp. Đảng ra
đời một cách tự giác khi cuộc đấu tranh giai cấp phát triển ở trình độ cao đến
mức cần phải có một tổ chức tham mưu lãnh đạo, điều hành thống nhất về tư
tưởng và hành động của cả giai cấp. Lịch sử đấu tranh giai cấp của nhân loại
bao giờ cũng có những tổ chức tương tự như đảng chính trị. Song, lịch sử thật
sự của đảng chính trị chỉ bắt đầu từ cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống
phong kiến và phát triển mạnh mẽ trong xã hội hiện đại. Đảng sẽ mất ý nghĩa
tồn tại khi sứ mệnh lịch sử của giai cấp đã hoàn thành.
Đảng chính trị bao giờ cũng mang bản chất giai cấp. Đảng chính trị
không chỉ là đại diện cho hệ tư tưởng mà còn là tổ chức cao nhất, chặt chẽ
nhất của một giai cấp; tập hợp những người giác ngộ nhất, kiên quyết nhất
trong đấu tranh thực thi quyền lực và lợi ích giai cấp mình, nên không có
đảng nào là phi giai cấp hay siêu giai cấp. Một giai cấp có thể có nhiều đảng,
mỗi đảng đại diện cho một tầng lớp trong giai cấp và cũng là đại biểu cho cả
giai cấp đó. Lênin đã viết: ''Cuộc đấu tranh của các chính đảng là biểu hiện

hoàn chỉnh, đầy đủ và rõ rệt nhất của cuộc đấu tranh chính trị của các giai
cấp''. Các đảng chính trị đều hướng tới 1ãnh đạo, điều hành chính quyền nhà
nước, tổ chức cho giai cấp và các lực lượng ngoài giai cấp tiến hành đấu tranh
theo đường lối chính trị của mình.Đây là vấn đề có tính nguyên tắc.
Bản chất giai cấp quy định vai trò lịch sử của đảng chính trị. Vai trò của
một đảng chính trị đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố và
điều kiện khác nhau, nhưng cơ bản nhất là phụ thuộc vào địa vị lịch sử và bản
chất giai cấp của đảng đó. Cho nên, khi xem xét toàn diện một đảng, phải tìm
cho được bản chất của nó. Lênin đã nhấn mạnh: ''Để nhận rõ được cuộc đấu
5


tranh của các đảng, thì không nên tin ở lời nói, mà nên nghiên cứu lịch sử thật
sự của đảng, nghiên cứu chủ yếu là việc làm chứ không phải là những lời họ
nói về bản thân họ, xem họ giải quyết các vấn đề chính trị như thế nào, xem
thái độ họ như thế nào trong những vấn đề có 1iên quan đến lợi ích thiết thân
của các giai cấp khác nhau trong xã hội''.
Như vậy, về bản chất, đảng chính trị là đội tiên phong của giai cấp hay
tầng lớp, lãnh đạo tầng lớp hay giai cấp đó đấu tranh để hiện thực hóa quyền
lực, lợi ích của tầng lớp và cả giai cấp mà mình đại diện trong một hoàn cảnh
lịch sử xác định.
Đảng phái chính trị(thường được gọi vắn tắt là chính đảng hay đảng) là
một tổ chức chính trị tự nguyện với mục tiêu được một quyền lực chính trị
nhất định trong chính quyền, thường là bằng cách tham gia các chiến dịch bầu
cử. Các đảng thường có một hệ tư tưởng hay một đường lối nhất định, nhưng
cũng có thể đại diện cho một liên minh giữa các lợi ích riêng rẽ. Các đảng
thường có mục tiêu thực hiện một nhiệm vụ, lý tưởng của một tầng lớp, giai
cấp, quốc gia để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp, giai cấp hay quốc gia đó.
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)


Trên thế giới hiện nay tồn tại hai dạng

thể chế đảng chính trị bao gồm đơn đảng và đa đảng, trong đó, loại hình đa
đảng bao gồm lưỡng đảng, đa đảng và liên minh đảng cầm quyền.
1.2. Khái niệm về chế độ đa đảng
Chế độ đa đảng là một hình thái chính trị nhà nước trong đó lý do tồn
tại của các đảng là sự cạnh tranh về quyền lực. Mỗi đảng thường là đại diện
cho các lực lượng chính trị khác nhau, các nhóm lợi ích khác nhau… theo
đuổi những lý tưởng, mục tiêu khác nhau, thường là đối lập với nhau về nhiều
mặt, từ chính sách đối nội, đối ngoại, đến quan điểm, hệ tư tưởng – chế độ xã
hội và ngày nay còn là thái độ, ứng xử đối với môi trường.
Đa đảng đối lập là nét đặc trưng của thể chế chính trị tư sản trên thế
giới hiện nay. Nói chung ở các nước tư bản, về hình thức, đa đảng chính trị
đều "tự do”, "bình đẳng” trong cuộc đấu tranh nghị trường và đều có khả năng
6


trở thành đảng cầm quyền, nhưng trong thực tế chỉ có các đảng lớn, có thế lực
mới có khả năng chiến thắng và bao giờ cũng có một đảng cầm quyền hoặc
lãnh đạo, có khi kéo dài nhiều thập kỷ. Mặt khác, chế độ đa đảng ở phương
Tây, về thực chất, cũng là dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị, vì tất cả các
đảng cánh hữu đều nhằm phục vụ chế độ tư bản.
1.2.1. Các hình thức đa Đảng
Căn cứ vào số lượng các đảng phái chính trị trong xã hội cũng như
cách thức hoạt động của các đảng này, người ta phân chia thành 3 dạng: lưỡng
đảng, đa đảng và liên minh đảng cầm quyền.
Lưỡng đảng: đời sống chính trị của quốc gia do hai chính đảng chi
phối, hoặc chỉ tồn tại hai đảng, hoặc nếu nhiều hơn thì các đảng khác đều
không đủ thế lực, đều lu mờ trước sân khấu chính trị rồi ngả về ủng hộ một
trong hai đảng.

Đa đảng: Số lượng chính đảng chi phối đời sống chính trị của một quốc
gia nhiều hơn hai đảng.
Liên minh đảng cầm quyền: Trong các quốc gia có thể chế chính trị đa
đảng, một đảng nào đó chiếm được đa số (sau thắng lợi bầu cử), nhưng chưa
đạt đến mức độ tuyệt đối thì phải liên minh với một số đảng khác tạo thành
một liên minh cầm quyền. Khi đó giữa các đảng có sự dàn xếp với nhau, điều
hòa về các vị trí chủ chốt trong nội các, điều hòa về chính sách và quyền lực.
Đảng nào chiếm số lượng cử tri đông nhất thì đảng đó có nhiều đại biểu trong
quốc hội, có nhiều ghế trong chính phủ, chiếm nhiều vị trí chủ chốt trong
chính quyền nhà nước.
1.2.2. Nguồn gốc của chế độ đa Đảng
Sự xuất hiện học thuyết "tam quyền phân lập" (học thuyết phân chia
quyền lực) gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại chế độ
phong kiến chuyên chế. Để hạn chế quyền lực của nhà vua, các nhà tư tưởng
của giai cấp tư sản đã đưa ra luận điểm về sự cần thiết phân chia quyền lực
nhà nước thành các nhánh quyền lực độc lập. Những nhà tư tưởng này đã
7


nhận thấy ở các nhà nước quân chủ chuyên chế quyền lực nhà nước tập trung
trong tay một nhà quân chủ (một người), dẫn đến việc độc đoán, lạm quyền,
tuỳ tiện trong việc sử dụng quyền lực nhà nước.
Thuyết “Tam quyền phân lập" ra đời là một bước tiến bộ so với chế độ
quân chủ phong kiến. Nó đã trở thành ngọn cờ tư tưởng tập hợp quần chúng
chống chế độ phong kiến trong quá trình cách mạng tư sản thế kỷ XVII XVIII. Khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, học thuyết "Tam quyền
phân lập" trở thành nguyên tắc cơ bản về tổ chức hoạt động của nhà nước tư
sản nhằm hạn chế sự độc quyền, lạm quyền, tuỳ tiện trong việc sử dụng quyền
lực nhà nước. Nguyên tắc này đã tạo ra cơ chế kiềm chế và đối trọng giữa các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong nhà nước tư sản.
Học thuyết "Tam quyền phân lập" gắn liền và phù hợp với chế độ chính

trị đa đảng của nhà nước tư sản. Có nhà nước tư sản áp dụng học thuyết này
một cách mềm dẻo (ở các nhà nước theo chính thể đại nghị, giữa hành pháp
và lập pháp có sự phối hợp với nhau và hành pháp chịu trách nhiệm trước lập
pháp); có những nhà nước áp dụng học thuyết này một cách cứng rắn (ở các
nhà nước theo chính thể cộng hoà tổng thống có sự độc lập của các cơ quan
quyền lực, hành pháp không chịu trách nhiệm trước lập pháp).
Như vậy, có thể thấy rằng, không có một khuôn mẫu cố định của học
thuyết "Tam quyền phân lập" để áp dụng chung cho mọi nhà nước tư sản với
các hình thức nhà nước khác nhau và càng không thể có một khuôn mẫu
chung về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước áp dụng chung cho mọi
nhà nước với những chế độ chính trị khác nhau. Ngay đối với một đất nước,
thì cách thức tổ chức và phân công quyền lực nhà nước cũng không phải là
bất biến, mà phải được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cho phù hợp với từng
giai đoạn lịch sử của nước đó.
Xã hội tư bản lấy tự do cạnh tranh làm nền tảng cho sự tồn tại và phát
triển chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập. Các giai cấp có lợi ích
khác nhau đều có quyền thành lập đảng chính trị của mình và được phép hoạt
8


động trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước tư sản. Trong xã hội ấy, các tập
đoàn tư bản lũng đoạn khác nhau cũng thành lập ra các đảng chính trị để bảo
vệ cho lợi ích của tập đoàn đó. Họ ra sức công kích lẫn nhau. Mỗi đảng đều
đưa ra cương lĩnh tranh cử nhằm lôi kéo các tầng lớp dân cư mong chiếm
được nhiều ghế trong các cuộc bầu cử quốc hội, giành chức vụ đứng đầu cơ
quan hành pháp (tổng thống, thủ tướng) để đứng ra thành lập chính phủ.
Cơ chế đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập được coi như là cơ chế
dân chủ nhất, thích hợp nhất trong một xã hội mà quyền lực nhà nước được
coi là trung tâm giành giật trên chính trường của các thế lực tư sản. Chừng
nào trong xã hội còn sự cạnh tranh đối nghịch về lợi ích giữa các giai cấp, các

tập đoàn tư bản thì chừng ấy cơ chế đa đảng còn có thể phát huy tác dụng.
Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng, mâu thuẫn giữa các đảng chính trị của các tập
đoàn tư bản khác nhau thường không phải là mâu thuẫn một mất, một còn.
Nói chung, về bản chất nó đều bảo vệ quyền lợi cơ bản của giai cấp tư sản đã
được xác định trong Hiến pháp mà bất kỳ đảng nào cũng đều phải tuân theo.
Các đảng ấy chỉ khác nhau về lợi ích cục bộ, còn về cơ bản nó vẫn thống nhất
với nhau và khi cần phải bảo vệ lợi ích chung thì nó vẫn cố kết với nhau như
bàn thạch. Do đó, dù có mâu thuẫn, nhưng cuối cùng, sau những ván bài
chính trị, họ vẫn có thể nhân nhượng nhau, hợp tác với nhau, chia sẻ quyền
lực cho nhau; thành ra cơ chế đa đảng, xét đến cùng thì bản chất vẫn là một,
vẫn chỉ là đảng của giai cấp tư sản thay nhau nắm giữ quyền lực nhà nước.
Chế độ đa đảng tồn tại ở nhiều nước trên thế giới còn do những yếu tố
lịch sử, trong quá trình đấu tranh giành độc lập, hoặc phá bỏ chế độ phong
kiến, trong suốt quá trình phát triển kinh tế, văn hóa của từng quốc gia. Từ khi
giai cấp tư sản nắm giữ được ngọn cờ dân tộc, biến dân tộc đó thành dân tộc tư sản thì toàn bộ dân cư của quốc gia đều vận động trong quỹ đạo của giai
cấp tư sản.

9


1.2.3. Ưu điểm và nhược điểm của chế độ đa Đảng
1.2.3.1. Ưu điểm
Đa đảng đưa lại một số tác động tích cực nhất định cho các đảng tư sản
và chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho họ khả năng tránh nguy cơ độc
quyền, độc đoán, hạn chế sự lạm quyền, tuỳ tiện sử dụng quyền lực.
1.2.3.2. Nhược điểm
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhìn thấy những hạn chế của thuyết phân
quyền và đã chỉ ra bản chất bên trong của nó và quyền lực nhà nước được
sinh ra từ mâu thuẫn giai cấp. Sự xuất hiện giai cấp, đồng thời cũng xuất hiện
nhà nước và cùng với nó là quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là quyền

lực của một nhóm chủ thể nhất định đối với toàn xã hội, với đặc thù sử dụng
những biện pháp cưỡng chế mang tính nhà nước. Quyền lực nhà nước là
phạm trù thuộc thượng tầng kiến trúc, do đó, tính chất của quyền lực nhà
nước sẽ do hạ tầng cơ sở là các quan hệ kinh tế quy định. Bộ phận cấu thành
quan trọng nhất tạo nên bản chất của quyền lực nhà nước là ý chí của giai cấp
cầm quyền. Quyền lực nhà nước chỉ tồn tại thông qua bộ máy nhà nước. Bộ
máy này tạo nên sức mạnh của quyền lực nhà nước. Bản thân nhà nước không
phải là quyền lực, mà cùng với pháp luật chỉ là những công cụ thực hiện
quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị, phục vụ lợi
ích của giai cấp thống trị và, do đó, về bản chất, nó là quyền lực thống nhất.
Nguyên tắc phân quyền chỉ tồn tại khi có sự tranh giành quyền lực giữa
các thế lực xã hội khác nhau. Ở nhà nước tư sản, quyền lực nhà nước được tổ
chức theo nguyên tắc "Tam quyền phân lập", nhưng xét về bản chất, thì quyền
lực nhà nước lại thống nhất ở tính giai cấp và tính chính trị. Trên thực tế, phân
chia quyền lực hoàn toàn không tạo thành bức tường giữa các quyền lực, vì về
bản chất, quyền lực nhà nước là thống nhất trong một nhà nước thống nhất. Vì
vậy, ngay trong các nhà nước tư sản, bên cạnh tư tưởng về sự kiềm chế, đối
trọng giữa các quyền lực, đã đòi hỏi sự cần thiết về mối tương hỗ, phối hợp
giữa các quyền lực. Đối với những vấn đề có tính nguyên tắc trong chính sách
10


nhà nước, thì mọi nhánh quyền lực đều phải hành động thống nhất với nhau,
nếu không sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ và tan rã. Như vậy, có thể thấy
rằng, quan điểm về tổ chức phân chia quyền lực không có ý nghĩa tuyệt đối,
phân chia quyền lực không loại trừ sự thống nhất trong chính sách nhà nước
về những vấn đề có tính nguyên tắc và sự tương hỗ, phối hợp giữa các nhánh
quyền lực.
Việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc "Tam quyền phân
lập”, tuy có những mặt tích cực trong việc hạn chế sự lạm quyền, tuỳ tiện sử

dụng quyền lực, nhưng mặt khác, lại tạo ra cơ chế kiềm chế, cản trở việc hình
thành các cơ cấu, tổ chức nhà nước. Vì vậy, trong những trường hợp này, để
giải toả tình hình, các nhánh quyền lực nhà nước, các chính đảng, lực lượng
đối lập buộc phải thoả hiệp với nhau.
Thể chế đa đảng cũng dễ khuyến khích các lực lượng đối lập vì lợi ích
cục bộ chỉ biết phản đối tất cả những gì của đảng cầm quyền, bất chấp phảitrái, đúng - sai, không tôn trọng những lợi ích chính đáng của nhân dân. Thực
tế đã và đang diễn ra ở không ít các quốc gia là các đảng tranh giành quyền
lực, đấu đá lẫn nhau, gây ra rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thậm chí, sự tranh giành quyền lực giữa các đảng đã đẩy một số nước
lâm vào khủng hoảng chính trị, chẳng những quyền dân chủ của người dân
không được đảm bảo mà tính mạng của họ cũng bị đe dọa.
Ví dụ: Cuộc xung đột giữa những người "áo đỏ” với Chính phủ đương
nhiệm ở Thái Lan và cuộc xung đột giữa chính phủ và phe đối lập Cư-rơ-gưxtan vừa qua là những ví dụ. Đảng phái chính trị (hàng trăm đảng phái) và do
thế lực quân phiệt Thái Lan cố tình dùng quyền lực của mình để đàn áp phong
trào dân chủ và thanh trừng lẫn nhau, nên trong 66 năm (từ sau Cách mạng tư
sản năm 1932 – 1998), Thái Lan đã trải qua 33 cuộc đảo chính, bình quân cứ
2 năm lại có một cuộc đảo chính thay đổi chính phủ.
Ví dụ: Tháng 5/2010, Thủ tướng Anh Gordon Brown- lãnh đạo Công
đảng đã bất ngờ tuyên bố sẽ từ chức lãnh đạo Công đảng sau khi đảng này
11


thất bại trong cuộc bầu cử cuối tuần trước. Trong cuộc bầu cử này, đảng Bảo
thủ chiếm được nhiều số ghế nhất nhưng không đủ đa số để thành lập chính
phủ. Quốc hội Anh đã rơi vào trạng thái “treo” do không đảng nào thu đủ đa
số cần thiết 326 ghế để giành quyền đứng ra thành lập chính phủ. Lãnh đạo
Đảng Bảo thủ David Cameron trở thành thủ tướng đứng ra lập nội các mới
trong sự liên minh với đảng Dân chủ tự do của ông Nick Clegg. Đây là chính
phủ liên minh đầu tiên kể từ năm 1935 tới nay.


12


Chương 2:
CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG Ở MỘT SỐ NƯỚC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Mỹ
Hoa Kỳ là liên bang tồn tại lâu đời nhất trên thế giới. Ở nước Mỹ có
nhiều chính đảng, mỗi đảng đều đại diện cho lợi ích của những bộ phận dân
cư khác nhau. Nhưng từ ngày thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776) tới
nay, không đảng nào có đủ sức mạnh cạnh tranh với hai đảng (Đảng Cộng hòa
và Đảng Dân chủ) đại diện cho hai tập đoàn tư bản kếch xù. Thành thử lịch sử
Nhà nước Mỹ, kể từ khi họ giành được độc lập tới nay, là lịch sử đấu tranh,
giành giật giữa hai chính đảng mà kết cục là Đảng Dân chủ và Đảng Cộng
hòa thay nhau cầm quyền. Các chính đảng khác đều không đủ thế lực, đều lu
mờ trước sân khấu chính trị rồi ngả về ủng hộ một trong hai đảng.
2.1.1. Sự hình thành hệ thống hai đảng (lưỡng đảng)
Hình thành từ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XVIII, dưới chính quyền Tổng
thống Oasinhtơn. Do không được Tổng thống ủng hộ, Jephesơn tập hợp thành
nhóm Cộng hòa đổi tên thành Cộng Hòa – Dân chủ, tiền thân của Đảng Dân
chủ sau này.
Đến năm 1824, đảng phân liệt thành nhiều phe phái và phân chia thành
hai nhóm chống đối nhau: Đảng Dân chủ (đại diện cho chế độ nô lệ ở miền
Nam) và Đảng Uých (đại diện cho các chủ ngân hàng, tư sản và chủ đồn điền
miền Nam).
Trong những năm 1850, Đảng Uých sụp đỗ và đến 1854, những người
thuộc Đảng Uých và những người thuộc Đảng Dân chủ có xu hướng chống
chế độ nô lệ đã thành lập Đảng Cộng hòa (đại diện cho quyền lợi của miền
Bắc và miền Tây). Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa thay nhau nắm chính
quyền cho đến ngày nay.


13


Ngoài ra, ở Mỹ còn tồn tại một số đảng khác như: Đảng Dân túy, Cấp
tiến, Độc lập, Cải cách, Đảng Cộng sản Mỹ (được thành lập 1920).
2.1.2. Đặc điểm
Chính trị tại Hoa Kỳ hoạt động dưới một hệ thống lưỡng đảng gần như
suốt chiều dài lịch sử Hoa Kỳ. Đối với các chức vụ được đưa ra bầu cử ở các
cấp, bầu cử sơ bộ do tiểu bang đảm trách sẽ được tổ chức để chọn ra các ứng
cử viên của từng đảng chính yếu để chuẩn bị cho tổng tuyển cử sau đó. Từ lần
tổng tuyển cử năm 1856, hai đảng có ảnh hưởng chi phối là Đảng Dân chủ
được thành lập năm 1824 (mặc dù nguồn gốc của đảng có thể lần tìm ngược
về năm 1792), và Đảng Cộng hòa thành lập năm 1854.
Có nhiều chính đảng, mỗi đảng đại diện cho lợi ích của những bộ phận
dân cư khác nhau à các chính đảng khác đều không đủ thế lực, đều lu mờ và
ngả về ủng hộ một trong hai đảng.
Hệ thống Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa ở Mỹ không gắn bó và kỷ
luật. Nội bộ các đảng không đồng nhất, thiếu sự gắn kết do nền tảng xã hội
mỗi đảng khác nhau nhưng đều cùng bảo vệ quyền lợi cơ bản của giai cấp tư
sản à tổ chức và hoạt động của hai đảng như hai tổ chức bầu cử.
Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa như hai tổ chức tranh cử thường
trực. Khi bầu cử kết thúc thì hoạt động của các đảng cũng dừng.
Tổ chức lỏng lẻo, quyền lực phân tán, không có nội quy, kỷ luật, chế
định đảng viên. Không có tôn chỉ lâu dài, không có cương lĩnh cố định.
Các tổ chức trong đảng hoạt động độc lập, quan hệ trên dưới rời rạc.
Tuy nhiên, hai đảng thống nhất ở mục tiêu chung là bảo vệ chế độ sở
hữu tư nhân, hiến pháp liên bang, thể chế chính trị đương thời,…
2.2. Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen
2.2.1. Sự hình thành hệ thống đa đảng

Các đảng chính trị ở Vương quốc Anh ra đời vào giữa thế kỷ thứ 19. Từ
đó đến những năm 1920, Đảng Bảo thủ và Đảng Tự do thống trị đời sống
chính trị ở Vương quốc Anh. Tuy nhiên, năm 1923, Công Đảng – một liên
14


minh giữa các nghiệp đoàn và nhiều tổ chức theo đường lối xã hội chủ nghĩa
– giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và lên nắm quyền trong một thời
gian ngắn.
Trong suốt Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai, trong khoảng thời gian từ
năm 1939 đến năm 1945, Chính phủ Vương quốc Anh là một liên minh hiệu
quả của ba chính đảng.
Từ sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai năm 1945, đảng
Bảo thủ và Công đảng luôn thống lĩnh chính trị nước Anh, thay nhau lên nắm
quyền từ đó đến nay.
Đảng Tự do sáp nhập với Đảng Dân chủ Xã hội mới được thành lập
năm 1988 để lập ra đảng Dân chủ Tự do và trở thành đảng lớn thứ ba ở
Vương quốc Anh. Ba đảng này đại diện cho phái đoàn của Vương quốc Anh
trong Nghị viện châu Âu và các cơ quan phân cấp ở Xcốt-len và xứ Uên.
Bắc Ai-len khác với các nước khác trong Vương quốc Anh ở chỗ sự
gắn kết đảng phái chủ yếu dựa trên gốc gác tôn giáo và dân tộc của cá nhân.
Đảng Dân chủ Tự do và Công đảng không tranh giành bầu cử ở đây. Đảng
Bảo thủ có tham gia tranh giành ghế, nhưng nhận được rất ít sự ủng hộ trong
các cuộc bầu cử gần đây.
Ở Vương quốc Anh có ba chính đảng chính, gồm Công Đảng, Đảng
Bảo thủ và Đảng Dân chủ Tự do.Một số đảng phái chính trị nhỏ khác cũng có
đại diện trong nghị viện Vương quốc Anh và châu Âu, và trong các cơ quan
chính quyền phân cấp ở Xcốt-len, xứ Uên và Bắc Ai-len.
Có một số đảng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa ở Xcốt-len – Đảng
Dân tộc Xcốt-len – và ở xứ Uên – Đảng Plaid Cymru.

Bắc Ai-len có một số đảng bị chia tách chủ yếu dựa trên đường lối dân
tộc và tôn giáo. Các đảng như vậy bao gồm Đảng của những người liên hiệp
Ulster (Ulster Unionists), Đảng của những người liên hiệp Dân chủ
(Democratic Unionists), Đảng Dân chủ và Lao động (Social Democratic and
Labour Party) và Đảng Sinn Féin.
15


Đảng Xanh (Green Party) và Đảng Độc lập Vương quốc Anh (UK
Independence Party) cũng nhận được khá nhiều sự ủng hộ.
2.2.2. Đặc điểm
Không giống các quốc gia châu Âu khác, Liên hiệp Vương quốc Anh
sử dụng hệ thống một đại biểu cho một đơn vị bầu cử (first-past-the-post
system) để tuyển chọn thành viên Quốc hội. Do đó, các cuộc tuyển cử và các
chính đảng tại Anh bị chi phối bởi Luật Duverger, dẫn đến việc qui tụ các ý
thức hệ chính trị tương đồng về một vài chính đảng lớn và hạn chế khả năng
của các đảng nhỏ giành được quyền đại diện tại Quốc hội.
Trong lịch sử, chính trường Anh quốc bị chi phối bởi hệ thống lưỡng
đảng, mặc dù hiện nay có ba chính đảng đang kiểm soát hệ thống chính trị tại
đây. Lúc đầu, Bảo thủ và Tự do là hai chính đảng thống trị chính trường,
nhưng Đảng Tự do sụp đổ vào đầu thế kỷ 20 và được thế chỗ bởi Đảng Lao
động. Trong thập niên 1980, các đảng viên Tự do sáp nhập với Đảng Dân chủ
Xã hội để thành lập thành lập Đảng Dân chủ Tự do, có đủ thực lực để được
xem là một chính đảng lớn. Còn có các chính đảng nhỏ hơn tham gia vào các
cuộc tuyển cử. Trong số này có vài đảng giành được ghế tại Quốc hội.
Sự tồn tại của hai đảng đối lập trong hoạt động nhà nước đã góp phần
hạn chế đáng kể sự lạm quyền. Một trong những biểu hiện rõ rệt của nó là chế
độ nội các bóng “shadow cabinet” ở Anh. Theo đó, đảng đối lập thành lập ra
một chính phủ riêng của mình với chức năng chủ yếu là phản biện lại chính
sách của chính phủ đương nhiệm và trong trường hợp đảng cầm quyền buộc

phải ra đi, chính phủ “trong bóng tối” này sẽ tiếp quản nhiệm vụ mới một
cách tương đối dễ dàng và suôn xẻ.
Các đảng được tổ chức chặt chẽ, luôn thống nhất nhưng không có
cương lĩnh lâu dài và điều lệ.
Các đảng phái tìm cách tác động đến sự hình thành bộ máy nhà nước
bằng cách cử ra ứng cử viên tham gia tranh cử vào các cơ quan lập pháp, hành
pháp.
16


Tác động đến hoạt động của bộ máy nhà nước: điều này được thể hiện
ở sự kiểm soát và tác động của đảng đến các thành viên của nó khi họ tham
gia chính quyền, đặc biệt là họ khi nắm giữ những chức vụ lãnh đạo cấp cao
(như tổng thống, thủ tướng). Thông qua các đảng viên cốt cán đó, đảng khéo
léo đưa những chủ trương, đường lối của mình vào chính sách, pháp luật của
nhà nước theo hướng có lợi cho đảng mình.
Hệ thống chính phủ Anh được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới - một
di sản từ thời quá khứ thực dân — chủ yếu tại các quốc gia trong Khối Thịnh
vượng chung Anh. Thành viên Nghị viện (Member of Parliement) chiếm đa
số trong Hạ viện thường là phái có quyền chỉ định thủ tướng - thường là lãnh
đạo của đảng lớn nhất hay, nếu không có đảng nào chiếm đa số, là liên minh
lớn nhất.
2.3. Pháp
2.3.1. Sự hình thành hệ thống đa đảng
Hiện nay ở Pháp có trên 20 đảng, tập hợp thành hai phe: tả và hữu.
Trong phe tả lại chia thành tả, trung tả, cực tả. Trong phe hữu có hữu, trung
hữu và cực hữu.
*Đảng xã hội Pháp:
Năm 1901, ở Pháp tồn tại hai Đảng Xã hội, một Đảng theo xu hướng
Macxít, một Đảng chống Macxít. Năm 1905, hai Đảng này sáp nhập thành

Phân bộ Pháp của Quốc tế Công nhân. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, nội
bộ đảng lại chia rẽ, đa số đảng viên ủng hộ Chính phủ tham gia chiến tranh.
Từ Đại hội Tua thàng 12 – 1920, ¾ số đại biểu tán thành tham gia quốc
tế cộng sản và tách ra thành lập Đảng Cộng sản. Đảng xã hội suy yếu. Nhưng
từ năm 1924, PS liên kết với những người cấp tiến, khôi phục lực lượng và
dần dần trở thành Đảng lớn trong quốc hội, nhiều thời kỳ giành quyền thành
lập Chính phủ.
Cử tri cửa PS tương đối đồng đều trong các tầng lớp dân cư, nhưng
nhiều nhất là công nhân, những người làm công ăn lương, thu nhập thấp.
17


Tổ chức đảng gồm 3 cấp: trung ương, tỉnh và đảng bộ cơ sở, không có
cấp chi bộ. Cơ quan quyền lực cao nhất là đại hội đảng, họp mỗi năm một lần,
bầu ban chấp hành (Hội đồng toàn quốc) gồm 27 người, đứng đầu là Bí thư
thứ nhất. Tuy nhiên trong nội bộ Đảng vẫn còn tồn tại các phe nhóm, mâu
thuẫn với nhau.
* Đảng liên minh vì nền cộng hòa (OPR)
Tiền thân của đảng này là tập hợp dân tộc Pháp, do Đờ Gôn thành lập
năm 1947. Đảng trải qua nhiều lần đổi tên: Liên minh vì nền cộng hoà mới
(1958), Liên minh dân chủ vì nền cộng hoà (1968). Đảng có tên như hiện nay
từ namư 1976, dưới sự lãnh đạo của ông Chirac.
Từ năm 1958 – 1978, Đảng này đã trở thành đảng cánh hữu lớn nhất
nước Pháp, có số lượng cử tri và nghị sĩ cao nhất. Cử tri của Đảng là những
người làm nghề tự do: thợ thủ công, thương gia, công chức cao cấp, tín đồ
Thiên chúa giáo.
Đảng được tổ chức thành 3 cấp: trung ương, tỉnh và các đơn vị bầu cử. Cơ
quan cao nhất là đại hội đảng. Đại hội bầu ban chấp hành trung ương, Bộ chính
trị. Hen nay Đảng có 12 đảng viên là Nghị sĩ Châu Âu. Bộ máy tổ chức của
Đảng gọn nhẹ, chỉ có khoảng 70 người chuyên trách ở trung ương. Cấp tỉnh có

Bí thư, tỉnh uỷ, các đơn vị bầu cử có Bí thư, đảng uỷ. Hoạt động của Đảng thông
qua các đảng viên nắm giữ các chức vụ trong chính phủ và Quốc hội.
*Đảng cộng sản (PCF)
Đảng thành lập năm 1920, do tách ra từ Đảng Xã hội. Đảng đóng vai
trò đặc biệt quan trọng trong thời kỳ Mặt trận Bình dân năm 1935, lãnh đạo
phong trào chống chủ nghĩa phatxít. Đảng đấu tranh bảo vệ quyền lợi của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng lien minh với Đảng Xã hội trong
các cuộc bầu cử, tham gia Chính phủ của phe tả vào các thời kỳ: 1945 – 1947,
1980 – 1984, 1997 – 2002. Trong cuộc bầu cử Tổng thống và Quốc hội năm
2002 Đảng bị thất bại nặng nề.

18


Những năm gần đây, nhất là từ khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Châu Âu,
uy tín của Đảng bị giảm sút và hiện nay đang trong thời kỳ khủng hoảng.
Đảng có khoảng 60 vạn đảng viên, tổ chức theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, sinh hoạt theo đơn vị lãnh thổ, đơn vị sản xuất. Cơ quan cao nhất là
đại hội Đảng, nhiệm kỳ 3 năm. Đại hội bầu ban chấp hành trung ương, Bộ
chính trị, Ban Bí thư, bầu Hội đồng Kiểm tra chính trị, Hội đồng Kiểm tra Tài
chính. Hội đồng Dân tộc của Đảng là Cơ quan cố vấn gồm các thành viên là
uỷ viên Bộ Chính trị, các Nghị sĩ, Bí thư Đảng uỷ các xí nghiệp lớn.
* Đảng Xanh
Ra đời vào những năm 1980, Đảng Xanh là một đảng có ảnh hưởng
lớn trong phe tả, đấu tranh bảo vệ môi trường, chống chiến tranh. Đảng này
chủ trương xây dưng nền kinh tế tương trợ, đáp ứng lợi ích chung, tăng lương
cho người lao động, cải cáh lương hưu, áp dụng tuần làm việc 35 giờ. Đảng
kêu gọi tiết kiệm năng lượng, đa dạng hoá các nguồn năng lượng tái tạo
nhưng chống các nhà máy điện nguyên tử.
*Đảng Mặt trận Dân tộc

Là Đảng cực hữu thành lập năm 1972, lãnh tụ của đảng là ông Le Pen.
Bản chất đảng là quốc gia chủ nghĩa, bài ngoại, than Phatxít chống Cộng hoà.
Đảng chủ trương thanh trừng sắc tộc, cho rằng giữa các chủng tộc không thể
có sự bình đẳng về khả năng cũng như trình tự tiến hoá.
*Các đảng khác
Đảng Cộng hòa: thành lập năm 1977, đại diện cho quyền lợi của giới tư
sản công nghiệp, tài chính….
Liên minh dân chủ Pháp: thành lập 2-1978, gồm một số đảng cánh hữu.
Đảng cấp tiến và Xã hội cấp tiến: là đảng của các phần tử cấp tiến cánh
hữu.
Trung tâm dân chủ xã hội: là đảng tư sản, thành lập 5-1976.
Đảng xã hội thống nhất: thành lập năm 1960, do tách ra từ đảng Xã hội,
có ảnh hưởng trong bộ phận trí thức và sinh viên.
19


Đảng Công nhân đấu tranh cực tả.
Liên đoàn những người cộng sản cách mạng là đảng cực tả.
Đảng dân chủ tự do (phe hữu).
Đảng Phong trào những người săn bắn.
Phong trào Quốc gia những người cộng hòa (cực hữu)
2.3.2. Đặc điểm
Khác với Mỹ, sự khác biệt giữa các Đảng là không lớn, ở Pháp các
đảng phân thành hai cực đối lập và sự liên kết trong đảng rất chặt chẽ, các
đảng viên phải tuân thủ nghiêm ngặt nghị quyết của đảng. Đặc trưng của hệ
thống đảng ở Pháp là chưa có đảng nào chiếm đa số tuyệt đối trong các cuộc
bầu cử, nên các đảng phải liên minh với nhau.
Hệ thống đảng phái ở Pháp tương đối phức tạp, số lượng đảng nhiều,
các liên minh đảng không chặt chẽ dẫn đến thiếu ổn định, chính phủ thường
xuyên thay đổi. Đứng đầu phe tả, nhưng Đảng Xã hội có xu hướng trung tả,

ngả dần về phía hữu, có chính sách gần với đảng Liên minh vì nền cộng hòa,
một đảng trung hữu. Hai đảng này thay nhau cầm quyền hàng chục năm,
nhưng không tạo ra bước về phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy người
dân Pháp muốn có sự đổi mới. Đã có nhiều cử tri bỏ phiếu cho các đảng cực
hữu hoặc cực tả gây nên biên động lớn về chính trị.
2.4. Đức
2.4.1. Sự hình thành hệ thống đa đảng
Từ thế kỷ 19, nước Đức đã duy trì hệ thống đa đảng. Gần đây nhất năm
1994, Quốc hội ban hành luật về các đảng chính trị. Thông qua bầu cử, các
đảng cạnh tranh nhau để nắm quyền lực nhà nước.
*Đảng Xã hội-Dân chủ (SPD)
Đảng ra đời năm 1963, đã 4 lần cầm quyền. Đợt dài nhất từ năm 19691982, trong liên minh với Đảng Dân chủ-Tự do.

20


Hiện nay SPD có gần 1 triệu đảng viên. Đó là các nhân viên, công chức
nhà nước, trong đó công nhân chiếm ¼. Bộ máy SPD gọn nhẹ từ trung ương
đến địa phương, chỉ từ cấp khu vực trở lên mới có người chuyên trách.
SPD từ chối chủ nghĩa Mác, điều hòa lợi ích lao động và tư bản bằng
con đường cải cách kinh tế-xã hội. Chủ trương xây dựng một nền “kinh tế thị
trường xã hội” với đặc trưng: tư hữu hóa tự do kinh doanh, nhà nước quản lý
phát triển kinh tế thông qua pháp luật và ủy ban chống độc quyền để điều
chỉnh và giảm bớt cạnh tranh, cân bằng xã hội thông qua các chính sách bảo
hiểm, đền bù xã hội và trợ cấp xã hội. Đảng nhấn mạnh vai trò kiểm sóat của
nhà nước trong quản lý kinh tế.
SPD chủ trương cố gắng làm dịu tình hình quốc tế, phát triển quan hệ
với các nước xã hội chủ nghĩa, đòi giảm vũ khí hạt nhân, phi quân sự hóa vũ
trụ. Đảng là thành viên sáng lập và nhiều năm liền đứng đầu Quốc tế Xã hội.
*Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU)

Đảng thành lập năm 1945, gồm những người theo đạo Thiên chúa giáo
và Tin lành, đại diện cho tầng lớp đại tư bản và giáo sĩ. Ngoài ra trong CDU
còn có các công chức, nông dân khá giả, công nhân xây dựng. Hiện nay, CDU
có khoảng 734.000 đảng viên.
CDU muốn phục thù những thất bại trước đây, xem lại các đường biên
giới Châu Âu, chủ trương nước Đức có vũ khí hạt nhân.
Từ năm 1983-1998, CDU là đảng cầm quyền. Năm 1998, do mất uy
tín, nội bộ chia rẽ nên đảng mất quyền lãnh đạo chính phủ.
* Liên minh Xã hội Thiên chúa giáo (CSU)
Thành lập năm 1945, là đảng cực hữu, họat động chủ yếu ở bang
Bavaria, thực chất là một bộ phận của CDU. Đảng có khoảng 178.000 đảng
viên. Cơ quan ngôn luận của đảng là Liên minh ở Đức, Vì một liên minh ở
Đức và Tạp chí nguỵêt san tư tưởng chính trị Đức.
* Đảng Dân chủ-Tự do (FDP)
Thành lập năm 1948, đại diện cho xu hướng tự do, tư bản độc quyền,
đảng quan tâm tới lợi ích của các nhà kinh doanh vừa và nhỏ, công chức, viên
21


chức, trí thức, thợ thủ công và nông dân. Đảng bên vực sở hữu cá nhân, tự do
kinh doanh và tự do cạnh tranh. Trong đối ngoại, đảng ủng hộ việc triển khai
các tên lửa của Mỹ ở Đức. Năm 1982, đảng này tham gia chính phủ do CDU
lãnh đạo. Hiện nay, đảng có khoảng 72.000 đảng viên.
Cơ quan lãnh đạo là Ban chấp hành liên bang và Ủy ban liên bang. Cơ
quan báo chí là tạp chí Diễn đàn tự do, Người tự do và Bản tin phóng viên
dân chủ tự do.
* Đảng Xanh
Đảng Xanh thành lập năm 1980 với quan điểm chính trị và họat động
thực tiễn là bảo vệ môi trường thiên nhiên và xã hội, giữ gìn sinh thái trong
lành và bền vững. Cơ sở xã hội là những họat động văn hóa, khoa học, kỹ

thuật, giáo dục, đặc biệt là giáo dục thế hệ trẻ. Nguyên tắc tổ chức là phân
quyền cho các địa phương. Mục đích của đảng là: dùng phương pháp hòa
bình, phi bạo lực để cải tạo và tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội
không có bốc lột và bạo lực, chống chiến tranh, chạy đua vũ trang, chống khai
thác thiên nhiên.
Đảng có hơn 30.000 đảng viên. Trong cuộc bầu cử năm 1998, đảng này
giành 47 ghế trong Hạ viện, tham gia liên minh với đảng Xã hội-Dân chủ
thành lập Chính phủ và giữ 3 ghế Bộ trưởng.
*Các đảng nhỏ khác
Đảng Dân tộc dân chủ - Đảng quốc xã mới, thành lập năm 1964, đại
diện cho tầng lớp trung lưu với tư tưởng phục thù phát xít. Đảng có khoảng
7.000 đảng viên.
Đảng Chủ nghĩa xã hội dân chủ (PDS) là đảng kế thừa đảng Xã hội chủ
nghĩa thống nhất Đức và là Đảng Macxit thành lập năm 1946. Hiện nay, PDS
đang trong quá trình khôi phục và vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã
hội.
Đảng nông dân dân chủ Đức, thành lập năm 1948 bao gồm nông dân,
nông dân tập thể, giới trí thức có liên hệ với nông nghiệp.
22


Đảng cộng sản Đức là đảng Macxit của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, thành lập năm 1918. Đảng tuyên bố nhiệm vụ của mình là đấu tranh
vì sự nghiệp đổi mới dân chủ của nhà nước và xã hội, hạn chế chính quyền
độc tài, thủ tiêu chủ nghĩa quốc xã mới.
Ngoài ra ở Đức còn có các đảng: Alliance 90, Tự do dân chủ, Dân chủ
Thiên chúa giáo…Các đảng tham gia Quốc hội thành lập đảng đoàn.
2.4.2. Đặc điểm
Xuất phát từ phương thức bầu cử, cho nên đảng nào năm Hạ viện sẽ
trở thành đảng cầm quyền. Tuy nhiên sau bài học đắt giá về chế độ chuyên

chế, phatxít, người dân Đức không muốn quyền lực tập chung vào một đảng
hay một các nhân nào, nên từ sau chiên tranh thế giới thứ hai đến nay, nước
Đức thường xuyên duy trì “hệ thống hai đảng rưỡi” nh ưng kh ông bao giờ đạt
đa số trong Quốc hội mà phải liên minh với một hoặc nhiều đảng nhỏ khác.
Trong quá trình hoạt động, đảng cầm quyền không thể tự định tất cả,
mà phải thương lượng, điều chỉnh chính sách với đảng trong liên minh cầm
quyền.
2.5. Liên Bang Nga
2.5.1. Sự hình thành hệ thống đa đảng
Năm 1917, Đảng Bôn-Sê-Vich do Lênin lãnh đạo đã tiến hành cuộc
Cách mạng tháng mười, lật đổ chế độ Nga hoàng, xây dựng nhà nước chuyên
chính vô sản đầu tiên trên thế giới. Với khẩu hiệu công khai hóa, dân chủ hóa,
các trào lưu tư tưởng tự do phát triển. Ngay trong Đảng Cộng sản Liên Xô
cũng khuyến khích đa nguyên ý kiến. Trong Đảng xuất hiện các phe nhóm có
cương lĩnh khác nhau: mácxit, cộng sản, dân chủ… Từ tháng 3/1991, các
đảng phái, các phong trào, liên minh bắt đầu đăng ký hoạt động. Đến cuối
năm 1991 đã có 26 đảng đăng ký. Và đến 01/7/1998 ở nước Nga có 95 đảng
chính trị.
Tuy nhiên, pháp luật Nga không cho phép các tổ chức chính trị dùng
bạo lực để thay đổi Hiến pháp và phá hoại an ninh quốc gia, cấm các tổ chức
23


thành lập lực lượng vũ trang. Theo bộ luật mới được thông qua về các đảng
phái (năm 2001), có những quy định chặt chẽ về số lượng, vai trò ảnh hưởng
đối với nhân dân, cho nên đến cuối năm 2002, số đảng đáp ứng đủ tiêu chí
theo luật chỉ có gần 30 đảng.
2.5.2. Đặc điểm
Các đảng ở Liên bang Nga được hình thành bằng hai cách: từ dưới lên
và từ trên xuống:

Từ dưới lên: ban đầu xuất hiện một nhóm người có cùng chí hướng,
dưới hình thức các câu lạc bộ, nhóm sáng kiến, sau đó phát triển dần thành
các đảng. Ví dụ: Đảng Lao động tự do, Đảng Nga, Đảng phục sinh, Phong
trào dân chủ Nga, Yablôkô… Các đảng được hình thành theo cách này thường
có tổ chức không chặt chẽ, phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của lãnh tụ
Từ trên xuống: do các cá nhân – lãnh tụ đứng ra thành lập. Đây là
những người có cương vị cao trong bộ máy chính quyền hoặc QUốc hội, vá
cách thành lập này đang rất phổ biến. Các đảng này phụ thuộc rất lớn vào
chính quyền, khi không được chính quyền ủng hộ thì uy tín giảm sút ngay
chóng. Ví dụ: Phong trào “Ngôi nhà của chúng ta”.
Ngoài ra còn một số đảng được thành lập trên các nguyên tắc khác: trên
cơ sở tổ chức kinh tế - thương mại (Đảng tự do Kinh tế), Đảng Nhân dân yêu
nước được thành lập trên cơ sở các cưu chiến binh Apganishtan, Đảng sáng
kiến dân chủ được thành lập trên cơ sở Liên minh giới chủ và những người
cho thuê…
Các đảng phái ở Liên bang Nga hiện nay có gần 30 đảng, đại diện cho
một số trào lưu chính trị chủ yếu như sau:
Phong trào dân chủ: ra đời từ thời ký cải tổ ổ Liên Xô, hình thành xu
hướng chính trị đối lập Đảng Cộng sản Liên Xô, đấu tranh đòi cải cách kinh
tế, chính trị, đòi thiết lập chế độ đa nguyên, đa đảng ở Liên Xô. Năm 1990,
các đảng dân chủ đầu tiên ra đời: Đảng Xã hội – Dân chủ, Dân chủ Nga, Đảng
Cộng hòa Nga.
24


Phong trào Cộng sản: Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, với khẩu
hiệu dân chủ hóa, công khai hóa, trong lòng Đảng Cộng sản Liên Xô đã xuất
hiện các nhóm đối lập. Đó là các nhóm: Cương lĩnh Đảng Cộng Sản Liên Xô,
Cương lĩnh Macxít. Từ hai tổ chức trên sau chia thành các phe nhóm: Đảng
những người Cộng sản Nga, liên minh những người Cộng sản Nga, Đảng

Công nhân – Cộng sản Nga… với tổng cộng hơn 10 đảng phái. Lớn nhất là
Đảng Cộng sản Liên bang Nga hình thành trên cơ sở Đảng Cộng sản Liên Xô
cũ, thành lập vào tháng 2-1993.
Phong trào Dân chủ yêu nước và Quốc gia: là các tổ chức có tư tưởng
dân tộc, nhấn mạnh vai trò của nước Nga, dân tộc Nga, khơi dậy lòng tự hào
dân tộc của các tầng lớp dân cư. Xu hướng dân tộc yêu có: Phong trào ký ức,
Tổ quốc, Đảng Dân tộc cộng hòa, Phong trào thống nhất dân tộc, Đảng Nga…
Phong trào Trung dung: có đường lối chính trị ôn hòa, liên minh cả với
phe tả lẫn phe hữu, có lúc ủng hộ cải cách, có khi phản đối, tủy thuộc lực
lượng cầm quyền. Tiêu biểu là các tổ chức: Phong trào cải cáh dân chủ, Đảng
nhân dân nước Nga tự do, Phong trào Cải cách dân chủ, Đảng nhân dân nước
Nga tự do, Phong trào nước Nga, Ngôi nhà của chúng ta, Phong trào Tổ quốc,
Phong trào Nga vì Chủ nghĩa Xã hội mới.
Ranh giới giữa các đảng chính trị và các phong trào, đoàn thể xã hội ở
Nga hiện nay không rõ ràng. Có nhiều phong trào, tổ chức đoàn thể hoạt động
với tư cách là một đảng, và ngược lại có nhiều đảng hoạt động còn yếu, vai
trò như một tổ chức chính trị - xã hội.
Tình trạng đa đảng cộng sản là bước lùi của phong trào cộng sản, phản
ánh mâu thuẫn, các trào lưu tư tưởng khác nhau. Tất cả các đảng cộng sản đếu
có điểm chung là chủ nghĩa Mac-Lenin, chủ nghĩa xã hội, chính quyền Xô
viết, xóa bỏ ách áp bức bóc lột, ưu tiên chế độ công hữu, khôi phục Liên
Xô… Mâu thuẫn chủ yếu giữa các đảng cộng sản tập trung vào các vấn đề về
tư tưởng lý luận, con đường đấu tranh, phương thức giành chính quyền (bạo

25


×