Tải bản đầy đủ (.pdf) (197 trang)

Nâng cao hiệu quả đầu tư công tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 197 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

PHẠM MINH HÓA

NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành:

KINH TẾ ĐẦU TƯ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. NGUYỄN THÀNH ĐỘ
2. PGS.TS. ĐỖ VĂN THÀNH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong Luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Các
kết quả nghiên cứu của Luận án không trùng với các công trình khoa học
khác đã công bố.

Nghiên cứu sinh

Phạm Minh Hóa


LỜI CẢM ƠN
Luận án "Nâng cao hiệu quả đầu tư công tại Việt Nam” không thể hoàn


thành nếu không có sự hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ tận tình của hai thầy hướng dẫn
là: GS.TS Nguyễn Thành Độ và PGS.TS Đỗ Văn Thành và các thầy giáo, cô giáo
của Khoa Đầu tư, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
Nghiên cứu sinh xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường, các thầy
giáo, cô giáo của Khoa Đầu tư đã tận tình truyền đạt kiến thức, hướng dẫn về nội
dung và phương pháp nghiên cứu khoa học và tạo điều kiện giúp đỡ Nghiên cứu
sinh trong suốt quá trình học tập tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
Nghiên cứu sinh xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới GS.TS Nguyễn
Thành Độ và PGS.TS Đỗ Văn Thành đã tận tình hướng dẫn, động viên khích lệ,
dành thời gian trao đổi và định hướng cho Nghiên cứu sinh trong quá trình thực
hiện luận án.
Nghiên cứu sinh xin cảm ơn gia đình đã thường xuyên động viên, khích lệ để
Nghiên cứu sinh có thêm động lực để hoàn thành luận án.
Do điều kiện chủ quan và khách quan, chắc chắn luận án còn có thiếu sót,
Nghiên cứu sinh rất mong tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp quý báu để
hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả

Phạm Minh Hóa


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH, BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................... 6

1.1. Tổng quan nghiên cứu .................................................................................... 6
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài ..................................................................... 6
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước ................................................................... 14
1.1.3. Những kết luận rút ra và khoảng trống nghiên cứu ................................ 19
1.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 22
1.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu................................................................ 22
1.2.2. Phương pháp xử lý tài liệu, số liệu ........................................................ 23
1.2.3. Phương pháp phân tích thông tin ........................................................... 23
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ CÔNG VÀ HIỆU QUẢ ĐẦU
TƯ CÔNG ............................................................................................................ 29
2.1. Lý luận chung về ĐTC.................................................................................. 29
2.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 29
2.1.2. Đặc điểm của ĐTC................................................................................ 33
2.1.3. Mối quan hệ của ĐTC đối với tăng trưởng và giảm nghèo .................... 35
2.2. HQĐT công ................................................................................................... 44
2.2.1. Khái niệm HQĐT công ......................................................................... 44
2.2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá HQĐT công .................................................... 47
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến HQĐT công .................................................... 52
2.3.1. Nhân tố khách quan............................................................................... 52
2.3.2. Nhân tố chủ quan .................................................................................. 54
2.4. Kinh nghiệm của các nước về ĐTC và hiệu quả của ĐTC và bài học cho
Việt Nam .............................................................................................................. 62
2.4.1. Kinh nghiệm các nước về ĐTC và HQĐT công .................................... 62
2.4.2. Bài học cho Việt Nam ........................................................................... 69
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM71
3.1. Tổng quan về ĐTC tại Việt Nam ................................................................. 71
3.1.1. Quy mô ĐTC ........................................................................................ 71
3.1.2. Phân bổ và quản lý, sử dụng vốn ĐTC .................................................. 73
3.1.3. ĐTC theo hình thức Hợp tác Công tư PPP ............................................ 76
3.2. Thực trạng HQĐT công tại Việt Nam ......................................................... 78

3.2.1. Thực trạng hiệu quả kinh tế của ĐTC .................................................... 78
3.2.2. Thực trạng hiệu quả xã hội của ĐTC qua thực hiện mục tiêu giảm
nghèo ............................................................................................................. 94
3.3. Đánh giá chung về HQĐT công tại Việt Nam ............................................. 98


3.3.1. Kết quả đạt được ................................................................................... 98
3.3.2. Tồn tại, hạn chế................................................................................... 102
3.3.3. Nguyên nhân ....................................................................................... 104
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI
VIỆT NAM ........................................................................................................ 119
4.1. Bối cảnh thế giới, trong nước và những vấn đề đặt ra .............................. 119
4.1.1. Bối cảnh thế giới ................................................................................. 119
4.1.2. Bối cảnh trong nước ............................................................................ 119
4.1.3. Những vấn đề đặt ra ............................................................................ 121
4.2. Quan điểm định hướng nâng cao HQĐT công tại Việt Nam .................... 122
4.2.1. HQĐT công cần phải gắn với thực hiện mục tiêu phát triển bền vững,
nâng cao chất lượng cuộc sống và phúc lợi xã hội......................................... 122
4.2.2. Mức độ lan tỏa, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển là thước đo
quan trọng của HQĐT công .......................................................................... 123
4.2.3. Quản lý, kiểm soát chặt chẽ ĐTC là trọng tâm của chính sách ĐTC nhằm
nâng cao HQĐT công ................................................................................... 125
4.2.4. Tuân thủ triệt để quy hoạch, quyết định đầu tư đồng bộ với khả năng bố
trí nguồn lực trên cơ sở bộ tiêu chí ưu tiên, thực hiện nghiêm túc kỷ luật tài
khóa đảm bảo cho ĐTC đạt được hiệu quả.................................................... 125
4.3. Giải pháp nâng cao HQĐT công ở Việt Nam ............................................ 128
4.3.1. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, lập kế hoạch
ĐTC ............................................................................................................. 128
4.3.2. Nhóm giải pháp về điều chỉnh cơ cấu ĐTC ......................................... 132
4.3.3. Nhóm giải pháp về cơ cấu lại NSNN, tăng cường kỷ luật tài khóa ...... 137

4.3.4. Nhóm giải pháp về tăng cường quản lý ĐTC ...................................... 141
4.3.5. Nhóm giải pháp về tăng cường, nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát và
công khai, minh bạch trong ĐTC .................................................................. 144
4.4. Một số kiến nghị đối với Nhà nước ............................................................ 146
4.4.1. Xây dựng hệ thống đánh giá chương trình, dự án ĐTC, nhà thầu, cơ
quan, đơn vị, tổ chức sử dụng vốn ĐTC ........................................................ 146
4.4.2. Thành lập cơ quan chuyên trách, độc lập thực hiện kiểm tra, giám sát
ĐTC ............................................................................................................. 147
4.4.3. Phát triển tổ chức tư vấn độc lập đánh giá, thẩm định trước khi phê duyệt,
khi điều chỉnh chương trình, dự án ĐTC. ...................................................... 148
4.4.4. Hoàn thiện cơ chế tài chính nhằm thu hút nguồn lực từ khu vực tư nhân
tham gia đầu tư phát triển CSHT thông qua hình thức PPP ........................... 148
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NCS
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BOT

: Xây dựng - kinh doanh - chuyển giao

BT

: Xây dựng – chuyển giao

BTO

: Xây dựng – chuyển giao – kinh doanh


CSHT

: Xây dựng – chuyển giao – kinh doanh

ĐTC

: Đầu tư công

FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

: Tổng giá trị sản phẩm quốc dân

HDI

: Chỉ số phát triển con người

HQĐT

: Hiệu quả đầu tư

NSĐP

: Ngân sách địa phương

NSNN


: Ngân sách nhà nước

NSTW

: Ngân sách trung ương

ODA

: Viện trợ chính thức

PPP

: Hợp tác Công - Tư

TPP

: Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương
UNTACD

WB

: Ngân hàng thế giới

WTO

: Tổ chức thương mại quốc tế

VLHSS


: Bộ dữ liệu Khảo sát mức sống hộ gia đình


DANH MỤC HÌNH, BẢNG BIỂU
HÌNH
Hình 2.1:
Hình 2.2:
Hình 2.3:

Mối quan hệ giữa vốn ĐTC và sản lượng kinh tế ............................ 35
Đóng góp của ĐTC vào GDP ......................................................... 37
Mối quan hệ của ĐTC đối với tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ........... 42

BẢNG
Bảng 3.1.

Quy mô ĐTC giai đoạn 2000-2015 ................................................. 71

Bảng 3.2.
Bảng 3.3.
Bảng 3.4.

Cơ cấu đầu tư giai đoạn 2000-2014 ................................................ 72
Cơ cấu ĐTC thực hiện phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2005-2013 ... 73
Cơ cấu vốn ĐTC theo phân cấp quản lý giai đoạn 2000-2015................ 75

Bảng 3.5.
Bảng 3.6:
Bảng 3.7:
Bảng: 3.8:


ĐTC và tăng trưởng kinh tế ............................................................ 78
Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu ........................................... 81
Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các biến số với độ trễ là 2 ... 81
Kiểm định đồng liên kết ................................................................. 82

Bảng 3.9:
Bảng 3.10:
Bảng 3.11:
Bảng 3.12.

Kết quả hồi quy mô hình VECM .................................................... 84
Thống kê mô tả các biến ................................................................. 86
Kết quả hồi quy mô hình ................................................................ 87
Hệ số ICOR theo khu vực kinh tế giai đoạn 2005-2014 .................. 88

Bảng 3.13 :
Bảng 3.14 :
Bảng 3.15.
Bảng 3.16:

Thống kê mô tả các biến ................................................................. 90
Kết quả hồi quy mô hình ................................................................ 90
Tỷ lệ nghèo của Việt Nam .............................................................. 94
Mối quan hệ tương quan giữa ĐTC với giảm nghèo ....................... 97

BIỂU
Biểu 3.1:

ĐTC và tăng trưởng kinh tế ............................................................ 79



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
HQĐT công luôn là một vấn đề thu hút được sự quan tâm không chỉ của
Chính phủ, chuyên gia kinh tế, nhà nghiên cứu mà còn là của toàn xã hội, nhất là
ở các nước đang phát triển và kém phát triển. Bởi lẽ ở những nước này, hoạt
động ĐTC luôn được cho là kém hiệu quả do chất lượng lựa chọn dự án thấp,
chậm trễ trong việc thiết kế và hoàn thành dự án, do tham nhũng, do chi phí luôn
tăng so với quyết định đầu tư ban đầu, rất nhiều dự án không hoàn thành, các
CSHT không hoạt động và được bảo dưỡng hiệu quả (Straub, 2008). HQĐT
công thấp gây rất nhiều bức xúc cho người dân do nguồn vốn dành cho ĐTC
phần lớn là từ thuế của người dân trong khi hàng hóa, dịch vụ công không đáp
ứng được nhu cầu của người dân và phát triển của đất nước. Theo Ngân hàng
Thế giới (WB), 30% lợi ích tiềm năng của ĐTC trên thế giới đã bị mất do
HQĐT thấp, ở các nước đang phát triển mất 40% lợi ích tiềm năng, ở các nước
đang nổi lên mất 27% và các nước phát triển mất khoảng 13%.
Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, ĐTC là một trong yếu tố đóng vai
trò quan trọng và quyết định đối với tăng trưởng kinh tế. ĐTC được tập trung
chủ yếu vào xây dựng CSHT kinh tế kỹ thuật, giáo dục, y tế, xóa đói giảm
nghèo. Nguồn lực tài trợ cho ĐTC chủ yếu là từ NSNN, viện trợ từ nước
ngoài (ODA). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi mà tỷ lệ tăng đầu tư
nói chung và ĐTC nói riêng trên GDP ngày càng mở rộng tăng lên thì hiệu
quả ngày càng giảm; tình trạng lãng phí, tham nhũng ngày càng phổ biến lên
đến 20% - 30%. Việc chấp nhận chủ trương đầu tư cũng như ra quyết định
đầu tư vẫn chủ yếu dựa trên các yêu cầu phát triển KT-XH và khả năng huy
động vốn. Trong khi đó, các tiêu chuẩn về HQĐT chưa được xem là yếu tố
quyết định đối với quyết định ĐTC và chưa quy định ràng buộc về mặt pháp

lý một cách chặt chẽ. Cơ chế, chính sách, công cụ quản lý đầu tư tồn tại nhiều


2

hạn chế, bất cập, chậm được khắc phục.
Vậy đâu là nguyên nhân của vấn đề? Phải chăng đó là do tồn tại thuộc về
thể chế, bộ máy quản lý? Hay do sự can thiệp một cách quá mức không theo
nguyên tắc thị trường của Chính phủ đối với ĐTC? Liệu có phải do nhà nước
đầu tư vào các lĩnh vực mà đáng nhẽ để cho khu vực tư nhân thực hiện đầu tư?...
Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét đánh giá một cách khách quan liệu có phải
ĐTC thực sự kém hiệu quả ở tất cả lĩnh vực đầu tư (CSHT, giáo dục, y tế, xóa
đói giảm nghèo…) hay chỉ ở một số lĩnh vực? Thất thoát là một trong tiêu chí
đánh giá tính hiệu quả của ĐTC nhưng liệu xét trên phạm vi tổng thể nền kinh tế
thì ĐTC có tác động tích cực hay tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế? Đây có
phải là thời điểm thoái lui của ĐTC để xác định vai trò của đầu tư khu vực tư
nhân đối với tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh Chính phủ đang nỗ lực tái cấu
trúc nền kinh tế, tái cấu trúc ĐTC, tái cơ cấu nợ công. Tuy nhiên, câu trả lời cho
hầu hết câu hỏi nêu trên đó chính là HQĐT công. Khi ĐTC thực sự hiệu quả và
có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn cũng như trong dài
hạn và đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống của người dân, góp phần tích
cực trong xóa đói giảm nghèo thì không có lý do gì để cắt giảm ĐTC hay coi
ĐTC là nhân tố gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Mặc dù đến nay Luật ĐTC năm 2014
đã có hiệu lực thi hành nhưng trên thực tế vẫn tồn tại các quan điểm khác nhau,
chưa thống nhất về ĐTC, HQĐT công. Ngoài ra, theo cảnh báo của Bộ Tài
chính, từ ngày 01/7/2017, Việt Nam sẽ không còn được hưởng ưu đãi về lãi suất
và thời gian trả nợ đối với nguồn vốn ODA và thực tế mức nợ công đã chạm
mức trần an toàn; thu NSNN ngày càng khó khăn do đến thời điểm buộc phải cắt
giảm các dòng thuế theo cam kết của các hiệp định thương mại tự do thì sử dụng
có hiệu quả từng đồng vốn cho ĐTC là giải pháp then chốt thúc đẩy tăng trưởng,

phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo ổn định tài chính vĩ mô.
Vì vậy, với đề tài “Nâng cao hiệu quả ĐTC tại Việt Nam”, tác giả mong
muốn đóng góp một góc nhìn về ĐTC trong mối quan hệ với tăng trường kinh tế và


3

giảm nghèo trên cơ sở hệ thống lý luận và nghiên cứu thực trạng từ đó có thể đề
xuất một số khuyến nghị về chính sách có liên quan đến vấn đề này.
2. Mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của Luận án là nghiên cứu, đánh giá HQĐT công tại
Việt Nam giai đoạn 2000-2015 thông qua các chỉ tiêu hiệu quả được xem xét
dưới góc độ thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo; từ đó đề
xuất giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao HQĐT công ở Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu tổng quát nêu trên, Luận án hướng tới giải quyết
các mục tiêu cụ thể sau:
- Hệ thống cơ sở lý luận về ĐTC, HQĐT công gắn với tăng trưởng kinh
tế và giảm nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng ĐTC và HQĐT công ở Việt Nam thông
qua việc tính toán và phân tích một số chỉ tiêu HQĐT công, mức độ ảnh
hưởng đến tăng trưởng và giảm nghèo ở Việt Nam
- Đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao HQĐT công tại Việt
Nam.
Các câu hỏi nghiên cứu cần giải quyết trong luận án gồm:
Một là, ĐTC và mối quan hệ của ĐTC với tăng trưởng kinh tế và giảm
nghèo là gì?
Hai là, hiệu quả của ĐTC và các chỉ tiêu đánh giá HQĐT công là gì?
Ba là, các nhân tố tác động đến hiệu quả của ĐTC là gì?
Bốn là, thực trạng ĐTC và HQĐT công ở Việt Nam gắn với tăng trưởng
kinh tế, giảm nghèo thời gian qua như thế nào?

Năm là, làm thế nào để nâng cao HQĐT công ở Việt Nam trong thời
gian tới?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
HQĐT công ở Việt Nam gắn với thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế


4

và giảm nghèo.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: phân tích, đánh giá HQĐT công về khía cạnh kinh
tế (mức độ tác động đến tăng trưởng kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy đầu
tư tư nhân) và khía cạnh xã hội (mức độ tác động đến giảm nghèo).
- Phạm vi về thời gian: Do hạn chế về nguồn và khả năng phân tách nên số
liệu phục vụ nghiên cứu chủ yếu là số liệu thứ cấp theo nguồn chính thống (Niên
gián thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính) và bắt đầu từ năm 2000
đến năm 2015 và số liệu từ 05 cuộc điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam
(VHLSS) các năm 2004, 2006, 2008, 2010 và 2012.
4. Quy trình nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu của luận án được tác giả thể hiện qua sơ đồ sau:
HQĐT công:

Các nhân tố
ảnh hưởng đến
HQĐT công
tại Việt Nam

Thực
trạng

HQĐT công tại
Việt Nam

+ Các chỉ tiêu
nghiên cứu đánh
giá HQĐT công
+ HQĐT công
gắn với thực
hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh
tế và giảm nghèo

Giải pháp nâng cao HQĐT công tại Việt Nam

5. Những đóng góp mới của Luận án
- Hệ thống hóa và góp phần luận chứng các vấn đề lý luận về ĐTC và


5

HQĐT công: Khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ của ĐTC với tăng trưởng
kinh tế và giảm nghèo; Khái niệm, các chỉ tiêu đánh giá HQĐT công xét trên
phạm vi tổng thể nền kinh tế gắn với mục tiêu của ĐTC (tăng trưởng kinh tế,
giảm nghèo) và chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến HQĐT công gắn với quan
điểm toàn diện về ĐTC.
- Phân tích và đánh giá thực trạng HQĐT công của Việt Nam giai đoạn
2000-2015 thông qua một số chỉ tiêu tổng hợp; trong đó, có sử dụng một số
công cụ kinh tế lượng để đánh giá HQĐT công gắn với mục tiêu tăng trưởng
kinh tế và giảm nghèo. Trên cơ sở đó, chỉ ra kết quả đạt được, các hạn chế và
nguyên nhân.

- Xác định quan điểm, định hướng và đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm
nâng cao HQĐT công ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của Luận án được chia làm 04 chương, gồm:
Chương 1: Tổng quan và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Lý luận chung về ĐTC và nâng cao HQĐT công
Chương 3: Thực trạng HQĐT công tại Việt Nam gắn với tăng trưởng
kinh tế và giảm nghèo
Chương 4: Giải pháp nâng cao HQĐT công tại Việt Nam gắn với tăng
trưởng kinh tế và giảm nghèo


6

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
ĐTC là một trong những lĩnh vực được quan tâm không chỉ của các nhà hoạch
định chính sách, các nhà kinh tế thực tiễn mà nó còn nhận được sự quan tâm của các
nhà khoa học trên thế giới với những cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề khác
nhau với những phương pháp nghiên cứu khác nhau được áp dụng cho mỗi nghiên
cứu, cụ thể:
Với các nhà nghiên cứu trên thế giới, ĐTC lần đầu tiên được đề cập đến như là
một yếu tố của quá trình sản xuất (Arrow và Kurz (1970)), theo đó, tác giả đã khẳng
định ĐTC có vai trò, đóng góp tích cực đối với tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở kết luận
này, các nhà nghiên cứu tiếp tục phát triển các mô hình nghiên cứu về ĐTC và tiêu
biểu là mô hình tăng trưởng nội sinh của nhóm tác giả Glomm và Ravikumar (1994),
và Fisher,W.H.,Turnovsky (1998). Khi nghiên cứu mô hình tăng trưởng một khu vực,

với giả định hoạt động sản xuất chỉ diễn ra ở một khu vực, đó là khu vực kinh tế tư
nhân, hàm sản xuất tổng hợp bao gồm vốn ĐTC, vốn đầu tư tư nhân và lao động nhưng
vốn ĐTC có vai trò bổ sung, hỗ trợ cho khu vực kinh tế tư nhân tạo ra tăng trưởng kinh
tế; đồng thời, nguồn lực cho ĐTC được tài trợ bởi thuế và vay nợ, tại công trình nghiên
cứu “Public versus private investment in human capital: endogenous growth and
income inequality”, Gerhard Glomm và B. Ravikumar (1992) đã chứng minh được sự
tồn tại một trạng thái cân bằng cạnh tranh duy nhất được đặc trưng bởi phương trình
Euler và thiết lập sự tồn tại của một kế hoạch ĐTC tối ưu.
Trong khi đó, tác giả Turnovsky (1997) có cách tiếp cận khác khi sử dụng mô
hình hai khu vực kinh tế, kết quả nghiên cứu của tác giả đã chỉ ra rằng tăng trưởng
kinh tế là kết quả đóng góp tổng hợp của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế
nhà nước. Mục tiêu của khu vực kinh tế tư nhân là tối đa hóa lợi nhuận, mục tiêu
của khu vực kinh tế nhà nước nhằm mục đích là sản xuất là một khối lượng hàng


7

hóa công cộng với mức chi phí thấp nhất. Hàm sản xuất phụ thuộc cả vào vốn đầu
tư tư nhân và vốn ĐTC, cũng như phụ thuộc vào biến lao động nội sinh.
Trong mô hình kinh tế mở, nguồn lực cho ĐTC ở các nước đang phát triển
được tài trợ bởi vay nợ nước ngoài thông qua các khoản vay nợ song phương, đa
phương hoặc những cam kết viện trợ phát triển chính thức (ODA). Trước đó,
Brakman và Van Marrewijk (1998) đã chỉ ra trong thời kỳ hậu Chiến tranh Thế giới
II phần lớn vốn hỗ trợ phát triển chính thức được sử dụng để đầu tư vào CSHT và
mối liên kết giữa viện trợ nước ngoài, tăng trưởng kinh tế, điều hành kinh tế vĩ mô
là nguồn gốc của cuộc tranh luận kinh tế cũng như căng thẳng chính trị ở cả nước
tài trợ và nhận viện trợ. Tuy nhiên, để ĐTC được hiệu quả tối đa từ nguồn viện trợ,
trong tác phẩm "Aid, Policies, and Growth" của Burnside và Dollar (2000) cho rằng
các nước nhận viện trợ phải có chính sách kinh tế “tốt” nên kể cả nhà tài trợ cũng
như nước nhận tài trợ cần phải thận trọng khi sử dụng nguồn vốn viện trợ cho ĐTC.

Nhưng trong nghiên cứu của các tác giả Dalgaard và Hansen (2001), Collier và
Dehn (2001), Easterly (2003) các tác giả có ý kiến không đồng tình với kết luận của
Burnside và Dollar mà chỉ ra nguyên nhân chủ yếu là do thông tin và dữ liệu phân
tích, đánh giá. Hidefumi Kasuga và Yuichi Morita (2011) rằng ở các nước nghèo,
đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho phát triển CSHT và cải thiện thu nhập cho
người, HQĐT công từ nguồn viện trợ phụ thuộc vào tốc độ tăng viện trợ hơn là hiệu
quả hoạt động của Chính phủ. Theo đó, chỉ cần một sự gia tăng nhỏ trong viện trợ
cũng có thể cải thiện hiệu quả viện trợ theo các mục tiêu đã đề ra. Mặc dù vậy, thực
tế nguồn vốn viện trợ nước ngoài cũng như chi tiêu công của Chính phủ không đủ
để đáp ứng nhu cầu về tài chính cho ĐTC ở những nước nghèo, nước đang phát
triển mà cần phải có sự bổ sung từ khu vực tư nhân.
Khi xét dưới góc độ tài chính, các Chính phủ, nhà nghiên cứu, định chế tài chính
quốc tế đều thừa nhận rằng, khu vực kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường không thể lấp
đầy khoảng trống về sự thiếu hụt của CSHT. Ở các quốc gia đang phát triển, viện trợ
của các định chế tài chính quốc tế góp phần tạo ra sự thiếu hụt CSHT (Lucioni, 2004),
khi nghiên cứu mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và ĐTC ở những nước mới nổi,
IMF (2004) đã giải thích việc sụt giảm ĐTC thông qua việc mở rộng phạm vi của


8

ĐTC, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, khuyến nghị các nước mới nổi
nên quan tâm nhiều hơn đến chất lượng của ĐTC và sử dụng cán cân vãng lai như là
một chỉ dấu bổ sung cho cán cân tổng thể truyền thống, nâng cao năng lực thể chế để
phát triển mô hình hợp tác Công tư (PPP). Có nhiều cách để khuyến khích, thúc đẩy
ĐTC mà trước hết phải đề cập đến nguyên lý vàng trong quản lý chi tiêu công; theo đó,
thu nhập hiện tại được sử dụng để chi tiêu thường xuyên và vay nợ được sử dụng để
chi tiêu cho đầu tư, NSNN nên được chi thành hai bộ phận: chi tiêu thường xuyên và
đầu tư. Mặc dù, nguyên lý rất đơn giản nhưng việc áp dụng thực tế rất phức tạp, nhất là
khi khu vực công không nhận được đầy đủ kết quả tài chính của hoạt động đầu tư và

ĐTC làm tăng tài sản phi tài chính nên thực tế trong nhiều trường hợp ĐTC không thể
đồng nghĩa với chi tiêu công.
Khi xem xét tính hiệu quả của ĐTC, phân tích lợi ích-chi phí (CBAs) được coi
là phương pháp cơ bản nhưng không phải lúc nào, dự án nào cũng có thể sử dụng
được do thiếu nguồn lực và thông tin; nhất là đối với những dự án mà đầu ra là
những sản phẩm mang tính xã hội, liên quan đến con người. Năm 1973 tác giả Dale
W.Warnke trong nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng lương tâm xã hội của người
lập kế hoạch hoặc ra quyết định; vốn kiến thức và những hạn chế của phân tích chi
phí-lợi ích là những yếu tố quan trọng quyết định tính hiệu quả của ĐTC cũng như
phân bổ nguồn lực tối ưu. Do đó, các nhà nghiên cứu phát triển phương pháp đánh
giá thay thế trong điều kiện ít thông tin cơ bản, chuyên sâu và không phải lúc nào
cũng lượng hóa được lợi ích của ĐTC bằng các chỉ tiêu tài chính cụ thể. Trong
trường hợp này, phương pháp được lựa chọn đó là đánh giá hiệu quả chi phí thấp
nhất và sử dụng mô hình cân bằng tổng thể. Điều này cho phép phân tích kinh tế vĩ
mô định lượng của một lượng lớn các chính sách ĐTC. Tuy nhiên, cần phải cải
thiện khả năng tiếp cận cơ sở dữ liệu và thông tin hiện hữu để phục vụ đánh giá và
có một sự hiểu biết tốt về quá trình xây dựng chính sách để đảm bảo rằng thông tin
và phương pháp phù hợp cung cấp đầu vào liên quan đến hoạch định chính sách,
định hướng trong lựa chọn ĐTC.


9

Ngoài ra, có thể kể đến một số phương pháp tiếp cận khác như: quyết định ĐTC
một cách tối ưu được xây dựng như là một vấn đề của điều khiển tối ưu đa tiêu thức
của P. K. Rao và V.S.Rajamani (1974), Michel Beuthe và cộng sự (2000) đã đề xuất
một phương pháp hỗ trợ quyết định đa tiêu thức đơn giản không chỉ có thể thực hiện
được mà còn thực tế cho việc đánh giá các dự án ĐTC cộng, phương pháp được sử
dụng để tính toán những yếu tố không chắc chắn đối với các giải pháp của dự án.
Phương pháp này làm giảm đáng kể những câu hỏi mà người ra quyết định phải trả lời.

Trong điều kiện ngân sách hạn chế, nghiên cứu của các tác giả này đã tìm cách hiệu
chỉnh hàm lợi ích thông qua giá trị đồng tiền tương đương và cho thấy làm thế nào để
tính toán một giá trị trong phân tích đa tiêu thức và tính toán chi phí đối với tính không
chắc chắn của một dự án.
Tiếp đó đến năm 2011, tác giả Era Dabla-Norris, Jim Brumby và cộng sự đã đề
xuất một số chỉ số mới để đánh giá hiệu quả quản lý ĐTC qua bốn giai đoạn của quá
trình: thẩm định dự án, lựa chọn dự án, thực hiện dự án và đánh giá dự án trên cơ sở
khảo sát tại 71 quốc gia với 40 quốc gia có thu nhập thấp, và 31 quốc gia có thu nhập
trung bình, kết quả nghiên cứu cho thấy các chỉ số này có thể áp dụng để đánh giá
chính sách ĐTC và so sánh giữa các quốc gia có điều kiện tương đồng và rất thích
hợp đối với các quốc gia quan tâm đến cải cách và nâng cao HQĐT công.
Một trong những khía cạnh cũng được sự quan tâm và khai thác của các nhà
nghiên cứu đó là việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của ĐTC, năm
2008 tác giả Haque và Kneller đã chứng minh rằng yếu tố thể chế có ảnh hưởng lớn tới
HQĐT công, nhóm tác giả cũng cho rằng: không giống như nguồn vốn sự nghiệp,
việc sử dụng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản và lựa chọn dự án đầu tư phát triển
bị ảnh hưởng bởi thái độ thất thường, tham nhũng của các chính trị gia và quan
chức nhà nước. Việc lựa chọn dự án đầu tư nhiều khi phụ thuộc vào số tiền các chủ
đầu tư đưa cho các quan chức, nhiều hơn là ai sẽ là người đưa ra được mức giá và
chất lượng dịch vụ tốt, một loạt các chương trình, dự án công được lựa chọn do nó
có thể tạo ra thu nhập bất hợp pháp cho nhiều người hơn là việc cải thiện chất lượng
cuộc sống cho mọi người. Do vậy, ảnh hưởng của hệ thống thể chế về tổng vốn đầu


10

tư thường bị bóp méo dẫn đến hiệu quả thấp, lãng phí, hoặc tham nhũng (DablaNorris et al., 2011). Đối với nhiều quốc gia, ĐTC còn được coi là một công cụ để
tìm kiếm lợi ích của các nhóm lợi ích khác nhau bao gồm các chính trị gia thuộc
quốc hội, các bộ tổng hợp, bộ chuyên ngành và các địa phương (Grigoli, F. & Mills,
2010). Đây cũng chính là những thách thức cho tất cả các quốc gia, nhất là các quốc

gia đang phát triển như Việt Nam, trong quá trình cải cách hệ thống quản lý ĐTC
(World Bank, 2010). Sự phân chia quyền lực giữa cơ quan hành pháp và cơ quan
lập pháp sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý các hoạt động ĐTC (Grigoli, F. &
Mills, 2010).
Hệ thống thể chế đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định đến
hiệu quả của các hoạt động ĐTC (Grigoli & Mills, 2010). Hệ thống thể chế sẽ
quy định rõ vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể tham gia vào hoạt
động của các dự án ĐTC. Hệ thống thể chế cũng cho thấy liệu rằng các dự án
có được phân tích chi phí/lợi ích một cách thoả đáng hay không? Liệu rằng các
dự án có được thực hiện theo đúng thời gian hay không? Esfahani & Ramieze
(2003) và Haque & Kneller (2008) đã cho rằng hệ thống thể chế sẽ quyết định
đến chất lượng của các quyết định đầu tư và chất lượng lựa chọn dự án, quản
lý, và thực hiện dự án; do vậy nó đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định
tỷ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư và gia tăng lợi tức.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của ĐTC tới kinh tế xã hội cũng đã nhận được sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu, theo Eberts (1986), Garcia-Mila và McGuire (1988) và
Aschauer (1989) đã chỉ ra rằng các yếu tố đầu vào công cộng như đường giao
thông, cấp nước, sân bay, dịch vụ công cộng… có tác động mạnh mẽ đến tăng
trưởng. Việc thiếu hụt đầu tư cho phát triển CSHT chính là điểm nghẽn của tăng
trưởng kinh tế.
Xét về tính hiệu quả, nếu như Ford và Poret (1991) và Richmond (1993) cho rằng
vốn công cộng rất hiệu quả thì trong nghiên cứu Hulten và Schwab (1993), HoltzEakin (1994), Holtz-Eakinvà Schwartz (1995) lại cho kết quả khác về vấn đề này, vốn
công cộng không thực sự mang lại hiệu quả. Mặc dù nhiều nghiên cứu thực nghiệm


11

cho kết quả khác nhau, gây tranh cãi nhưng đều thống nhất rằng đầu tư phát triển
CSHT là yếu tố quan trọng đối với năng lực sản xuất của nền kinh tế, vốn ĐTC là vốn
sản xuất thực sự.

Ở các nước phát triển, phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy ĐTC có tác động
tích cực đến tăng trưởng. Khi xem xét tác động của ĐTC đến tăng trưởng kinh tế giai
đoạn 1960-1985, Barro (1991) đã chỉ ra ĐTC có tác động đến tăng trưởng kinh tế
nhưng chưa thực sự rõ nét. Nhưng khi coi ĐTC bao gồm đầu tư của doanh nghiệp
nhà nước và đầu tư của Chính phủ cũng như có sự phân biệt rõ ràng giữa đầu tư của
khu vực nhà nước với đầu tư của các khu vực kinh tế khác, Easterly và Rebelo (1993)
lại chỉ ra rằng ĐTC có tác động rõ nét đến tăng trưởng kinh tế, nhất là đầu tư vào phát
triển CSHT.
Tác giả Aschauer (1998) khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa ĐTC và tăng
trưởng kinh tế tại 48 tiểu bang của Hoa Kỳ đã kiểm định lại các giả thuyết của mô
hình tăng trưởng tân cổ điển trong đó vốn công được coi là bổ sung cho vốn tư
nhân. Tác giả cho rằng đa số những nghiên cứu trước đây cho kết luận vốn ĐTC
không hiệu quả vì đã biểu thị mối quan hệ tuyến tính giữa vốn ĐTC và sản lượng,
vì thế không có khả năng đánh giá mức tối ưu của ĐTC. Tác giả cho rằng mối quan
hệ giữa ĐTC và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ phi tuyến. Tại các nước phát
triển như Mỹ thì tăng trưởng kinh tế có thể tăng bằng cách gia tăng chi tiêu ĐTC do
tỷ lệ ĐTC đang thiếu hụt tại Mỹ. Tăng ĐTC có thể có ảnh hưởng tích cực tĩnh và
động đến tăng trưởng kinh tế. Ảnh hưởng tĩnh là những tác động ban đầu về sản
lượng, việc làm, năng suất lao động; phát sinh do sự gia tăng của năng suất vốn tư
nhân và tăng trưởng trong lực lượng lao động do có sự cải thiện trong CSHT và
khuyến khích đầu tư các ngành công nghiệp mới và thu hút lao động làm việc. Cụ
thể, khi lấy số liệu giai đoạn 1970 – 1980, tác giả nhận thấy 10% tăng trưởng vốn
ĐTC dẫn tới 0,8% tăng trưởng sản lượng và 0,3% gia tăng việc làm mỗi năm. Ảnh
hưởng động của việc tăng vốn ĐTC phụ thuộc vào sự chuyển đổi ban đầu về sản
lượng và việc làm, nghĩa là ảnh hưởng bởi tác động tĩnh của vốn ĐTC ban đầu.
Trong khi đó, Arslanalp và các cộng sự (2010) khi sử dụng hàm sản xuất ước lượng


12


cho 48 nước đang phát triển và phát triển (OECD & Non– OECD) trong giai đoạn
1960–2001 cho thấy mối quan hệ cùng chiều và có ý nghĩa về mặt thống kê giữa
vốn ĐTC và sản lượng tại các nước OECD.
Bên cạnh các nghiên cứu về vai trò của ĐTC đến tăng trưởng kinh tế, một số
nghiên cứu tìm cách ước lượng tỷ lệ ĐTC tối ưu. Khi nghiên cứu 98 nước sau chiến
tranh thế giới thứ II (giai đoạn 1970 – 1985), Barro (1989) đã phân tích mô hình trong
đó tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tỷ lệ ĐTC/đầu tư tư nhân, theo đó, tác động của
ĐTC lên tăng trưởng kinh tế có ba giai đoạn và đi theo hình chữ U ngược, và đỉnh của
chữ U là tỷ lệ tối ưu ĐTC cho tăng trưởng. Kamps (2005) đã ứng dụng mô hình phi
tuyến để phân tích sự phụ thuộc của tăng trưởng kinh tế theo tỉ lệ ĐTC/đầu tư tư nhân
và tỉ lệ thất nghiệp, và xác định tỉ lệ ĐTC tối ưu cho tăng trưởng kinh tế là 33,65% ở
các nước liên minh châu Âu.
Ngoài ra, khi sử dụng các phương pháp kinh tế lượng khác nhau (GMM, WLS,
SUR và GMM–HAC) với các biến số: thu nhập, tỉ trọng ĐTC và đầu tư tư nhân, tăng
trưởng dân số và tốc độ tăng trưởng để đánh giá về ĐTC tại các nền kinh tế đang phát
triển và chuyển đổi thì tỉ lệ ĐTC tối ưu cho tăng trưởng là 9% đến 10% GDP, và tồn
tại hiệu ứng ĐTC lấn át đầu tư tư nhân trong các nền kinh tế đang phát triển và
chuyển đổi.
Khi xét dưới góc độ chi tiêu công, Devarajan (1996) chỉ ra rằng kết quả
chi đầu tư của Chính phủ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng, ngược lại, dựa
trên mô hình tăng trưởng tân cổ điển, vốn ĐTC hỗ trợ cho vốn đầu tư tư nhân,
Milbourne (2003) trong nghiên cứu của mình đã kết luận ĐTC tác động tích
cực đến tăng trưởng và hoàn toàn có ý nghĩa thống kê. ĐTC cho phát triển
CSHT kinh tế, giáo dục đào tạo có tác động đến tăng trưởng lớn hơn đầu tư cho
nông nghiệp, y tế và một số lĩnh vực khác. Nhưng chi tiêu công (bao gồm cả
chi đầu tư) cho giáo dục, nông nghiệp, nhà ở, phúc lợi xã hội góp phần quan
trọng trong thực hiện giảm nghèo được chứng minh trong nghiên cứu của
Gomanee (2003)và của Mosley (2004). Ở các quốc gia chậm phát triển và đang
phát triển, phần lớn người nghèo sống ở khu vực nông thôn nên đây chính là



13

khu vực được Chính phủ quan tâm nhất trong thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
Khi nghiên cứu tại Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Uganda… Fan (1999, 2002,
2004) đã chỉ ra rằng chi đầu tư của Chính phủ vào giáo dục đào tạo, nghiên cứu
nông nghiệp, đường giao thông có tác động lớn nhất đến giảm nghèo ở khu vực
nông thôn.
Một số nghiên cứu đã ước tính hiệu quả của chi tiêu công, bao gồm cả chi
phí ĐTC vào đói nghèo. Sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia, Gomanee (2003) và
Mosley (2004) đã ước tính ảnh hưởng của chi tiêu chính phủ trong các lĩnh vực
khác nhau đối với thu nhập bình quân đầu người trên một ngày. Nghiên cứu cho
thấy tác động chi tiêu chính phủ về giáo dục, nông nghiệp, nhà ở và tiện nghi (an
ninh, nước, vệ sinh môi trường và xã hội) có ý nghĩa thống kê đối với vấn đề đói
nghèo và cần phải thay đổi cách phân phối thu nhập theo hướng vì người nghèo.
Khi nghiên cứu trường hợp của Ấn Độ; Fan, Hazell và Thorat (1999) đã ước tính
hiệu quả của chi tiêu công đối với mức độ đói nghèo ở nông thôn. Theo đó, tác
động của nghiên cứu R & D trong nông nghiệp, giao thông, giáo dục tới đói nghèo
ở nông thôn là có ý nghĩa thống kê. Trong số này, chi tiêu công cho nghiên cứu R
& D trong nông nghiệp và phát triển hệ thống giao thông nông thôn có tác động
lớn nhất tăng trưởng và giảm nghèo.
Tương tự, khi nghiên cứu trường hợp của Trung Quốc, Fan (2002) tiến hành
phân tích hiệu ứng của chi tiêu công cho giáo dục nông thôn, viễn thông, thủy lợi,
điện, nghiên cứu R & D trong nông nghiệp và giao thông nông thôn đối với đói
nghèo ở Trung Quốc cho thấy chi tiêu công cho giáo dục có ảnh hưởng lớn nhất đối
với đói nghèo, sau đó là nghiên cứu R & D và chi tiêu phát triển giao thông nông
thôn. Ngoài ra, khi nghiên cứu các yếu tố quyết định giảm tỷ lệ nghèo đói ở Ấn Độ
trong giai đoạn 1960-1994, Datt và Ravallion (2002) chứng minh rằng chi tiêu của
chính phủ có ảnh hưởng lớn và có ý nghĩa thống kê về xóa đói giảm nghèo.
Khi xem xét ảnh hưởng của dòng vốn công cộng đối với đói nghèo và bất bình

đẳng, trong nghiên cứu của tác giả Calderon và Serven (2004) đã ước tính ảnh
hưởng của các chỉ số về số lượng và chất lượng CSHT đối với bất bình đẳng, được


14

đo bằng hệ số Gini và chỉ ra rằng cả hai chỉ số có ảnh hưởng tiêu cực và có ý nghĩa
thống kê về mức độ bất bình đẳng. Deininger và Okidi (2003) cũng chỉ ra rằng các
hộ gia đình ở Uganda đã được kết nối với mạng lưới điện trong năm 1992 có tỷ lệ
tăng trưởng thu nhập cao hơn nhiều trong giai đoạn 1992-1999 so với các hộ gia
đình không được kết nối.
Trong mối quan hệ giữa ĐTC – tăng trưởng kinh tế - giảm nghèo, Anderson,
P De Renzio, S Levy (2006) đã đưa ra cơ sở lý thuyết và giải thích cơ chế, vai trò,
tác động của ĐTC đến tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo thông qua các kênh và ở
góc độ vĩ mô cũng như vi mô. Đồng thời, các tác giả đã đề xuất phương pháp thẩm
định dự án ĐTC và sự phân bổ nguồn lực tối ưu giữa các vùng để đạt được các mục
tiêu tăng trưởng kinh tế và cải thiện phúc lợi xã hội phù hợp với từng thời kỳ.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Bên cạnh các nghiên cứu ở trên thế giới, tại Việt Nam các nhà nghiên cứu
cũng đã dành sự quan tâm cho vấn đề này, khá nhiều nghiên cứu sử dụng phân tích
định tính hoặc phân tích định lượng nhưng sử dụng phương pháp thống kê mô tả
cho các nghiên cứu về ĐTC, các số liệu được thu thập từ các nguồn dữ liệu công bố
chính thức của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tổng cục thống kê…
Thêm vào đó, các nghiên cứu có chung quan điểm khi cho rằng, ĐTC luôn
chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn đầu tư xã hội và có đóng góp vai trò quan
trọng cho phát triển kinh tế ở Việt Nam (World Bank, 2005) nhưng HQĐT công
còn thấp và được thể hiện một cách tương đối đầy đủ, tổng quát tại công trình
nghiên cứu của Vũ Tuấn Anh (2010). Điều này được thể hiện ở hệ số ICOR trong
khu vực công là cao nhất so với các khu vực khác như khu vực tư nhân trong nước
và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; đầu tư dàn trải, chưa chú trọng đến hiệu quả

về lợi ích-chi phí của từng chương trình, dự án ĐTC. Bằng việc tính toán, xác định
hệ số ICOR giữa khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn từ 2000-2010, trong công trình nghiên
cứu của Bùi Trinh (2011) cho thấy nếu tính theo giá trị tích lũy tài sản thì chỉ số
ICOR hay hiệu quả vốn ĐTC của Việt Nam giai đoạn từ 2000-2005 (4,37) và giai


15

đoạn 2006-2010 (5,13) không phải quá thấp so với các quốc gia khác trong khu vực.
Tuy nhiên, một phần lớn vốn ĐTC không đi vào tích lũy tài sản nên chỉ số ICOR
của Việt Nam trong giai đoạn này cao hơn rất nhiều và tăng mạnh qua các năm,
tăng từ 6,94 (giai đoạn 2000-2005) lên 9,68 (giai đoạn 2006-2010). Điều này có
nghĩa rằng ĐTC ở Việt Nam thời gian qua rất không hiệu quả, ít nhất là so với các
nước trong khu vực có cùng trình độ phát triển.
Cùng với việc đánh giá thông qua hệ số ICOR nêu trên, tác giả Nguyễn Công
Nghiệp (2010) đã nghiên cứu và đề xuất tiêu chí đánh giá HQĐT công bao gồm hiệu quả
kinh tế và hiệu quả xã hội. Tác giả Nguyễn Đình Cung (2011) đã chỉ ra rằng đầu tư của
nhà nước đã và đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng đầu tư xã hội nhưng lại dàn trải,
kém hiệu quả gây bất ổn kinh tế vĩ mô và Việt Nam cần tính đúng và đủ các khoản chi
đầu tư vào NSNN theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế, không phân bố đầu tư nhà nước
vào các ngành mà tư nhân trong nước có thể kinh doanh, lấy hiệu quả kinh tế làm thước
đo và tiêu chí chủ yếu để quyết định dự án đầu tư.
Liên quan đến vấn đề HQĐT từ NSNN trong một số lĩnh vực, Trịnh Quân
Được (2001) đã hệ thống hóa, phát triển lý luận về HQĐT phát triển công nghiệp từ
nguồn vốn NSNN và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, về thất thoát
lãng phí trong ĐTC, Thái Bá Cẩn (2003) nghiên cứu về công tác quản lý tài chính đối
với các dự án đầu tư của Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng và đã làm rõ những đặc
trưng của hoạt động đầu tư xây dựng, chi phí đầu tư xây dựng, cơ chế quản lý đầu tư

xây dựng và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm ngăn người thất thoát, lãng phí
trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư.
Khi đánh giá mối quan hệ giữa ĐTC với tăng trưởng kinh tế thông qua mô
hình hồi quy theo thời gian, Vũ Sỹ Cường và các cộng sự (2014) trong công trình
nghiên cứu chỉ ra rằng ĐTC ở Việt Nam càng lớn thì càng làm giảm tốc độ tăng
trưởng GDP, gia tăng ĐTC tiếp tục có thể gia tăng sản lượng (do ĐTC là một yếu tố
quan trọng của tổng cầu), nhưng do HQĐT công suy giảm và lãng phí nên tốc độ tăng
trưởng do ĐTC mang lại có xu hướng giảm dần.


16

Trong khi đó tác giả Tô Trung Thành (2011) lại tập trung đánh giá mối quan hệ
giữa ĐTC, đầu tư tư nhân với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn 19862010 thông qua mô hình VECM cũng cho thấy hiệu ứng tích cực của ĐTC đối với
GDP, tức là sự gia tăng vốn đầu tư có tác động làm tăng GDP. Tuy nhiên, tác động của
ĐTC lên GDP là rất thấp so với tác động của đầu tư tư nhân (1% tăng lên của đầu tư tư
nhân có thể đóng góp 0.33% tăng trưởng, trong khi ĐTC chỉ đóng góp 0.23% tăng
trưởng trong dài hạn). Từ đó, các nghiên cứu này đều đi đến kết luận cần giảm tỉ trọng
ĐTC và tái cấu trúc lại ĐTC cho hợp lý, đồng thời, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng
hiện tượng ĐTC lấn át đầu tư tư nhân là rõ nét và tác động của ĐTC đối với tăng
trưởng kinh tế thấp hơn nhiều so với đầu tư của khu vực tư nhân. Từ đó, đã đưa ra
khuyến nghị cần phải giảm tỷ trọng nhưng cần phải nâng cao hiệu quả của ĐTC, đa
dạng hóa nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đầu tư của nhà nước cần phải rút lui khỏi
những lĩnh vực mà khu vực kinh tế tư nhân có thể đảm nhiệm được và đạt hiệu quả cao
hơn, ĐTC chỉ mang tính chất “hỗ trợ” mà không nên nhằm mục đích “kinh doanh”.
Tuy nhiên, tác giả Phó Thị Kim Chi và cộng sự (2013) lại chỉ ra rằng ĐTC ở Việt
Nam có tác động đến GDP trong ngắn hạn hơn là trong dài hạn và không có tác động
rõ nét trong thúc đẩy đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, khi sử dụng mô hình ARDL, Trần
Nguyễn Ngọc Anh Thư và Lê Hoàng Phong (2014) , lại cho thấy tác động của ĐTC
đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong ngắn hạn không có ý nghĩa thống kê,

nhưng có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn. Do đó, việc cắt giảm ĐTC để ổn
định kinh tế vĩ mô có thể không gây ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam trong ngắn hạn. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng chỉ rõ mức độ tác động của ĐTC
đến tăng trưởng kinh tế là kém nhất so với đầu tư của khu vực tư nhân và khu vực FDI.
Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia (2013) đánh giá HQĐT
của khu vực nhà nước đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế bằng việc sử dụng hàm
sản xuất Cobb-Douglas với chỉ số MP (sản phẩm cận biên của khu vực nhà nước). Kết
quả ước lượng cho thấy MP nền kinh tế cao nhất trong giai đoạn từ năm 1995-1997,
đạt mức trên 7% nhưng sau đó giảm dần đến nay. Thời điểm năm 2010-2011, chỉ số
MP của khu vực nhà nước ở mức thấp, chỉ khoảng trên 3%. Hệ số MP của khu vực
cũng đang giảm dần và xu hướng tương tự cũng xảy ra đối với hệ số MP của toàn nền


17

kinh tế. Tuy vậy nếu so MP của khu vực nhà nước và khu vực còn lại (tư nhân và FDI),
có thể nhận thấy MP của khu vực kinh tế nhà nước thấp hơn trong tất cả các giai đoạn.
Ngoài ra, khi xét dưới góc độ phân cấp ĐTC, trên cơ sở phân tích dữ liệu về
ĐTC tại 31 địa phương bằng phương pháp hồi quy Pooled OLS, Hoàng Thị Chinh
Thon và cộng sự (2010) chỉ ra rằng phải tăng tỷ trọng chi tiêu ngân sách vượt mức
giới hạn nào đó thì mới ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của địa phương. Điều
này được lý giải bởi CSHT ở Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém, thiếu đồng bộ và
đầu tư giàn trải, nếu lượng đầu tư không đủ thì các khoản đầu tư đó sẽ tác động tiêu
cực đến tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, do đặc điểm của quản lý NSNN ở Việt Nam
là tập trung nhưng chi theo phân cấp. Phần lớn các địa phương được trợ cấp từ ngân
sách trung ương để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Ngân sách địa
phương luôn luôn trong trạng thái cân bằng, các khoản thâm hụt thì dồn về ngân
sách trung ương. Ngoài ra, liên quan đến vấn đề nâng cao hiệu quả chi tiêu công
còn được đề cập khá đầy đủ, chi tiết tại Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn
Thị Phú Hà (2007) và đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chi tiêu

NSNN phục vụ nhu cầu phát triển ở Việt Nam.
Tuy nhiên, các mô hình kinh tế lượng nêu trên chưa đi sâu phân tích đóng
góp của các khoản mục ĐTC đến tăng trưởng, do đó chưa đưa ra được kiến nghị cụ
thể về việc tái cấu trúc ĐTC theo hướng nào và cần những điều kiện hỗ trợ gì về thể
chế, chính sách để thực hiện được định hướng tái cấu trúc ĐTC đó. Ngoài ra, mặc
dù các tác giả đều coi đầu tư dàn trải kém hiệu quả là căn bệnh kinh niên ở Việt
Nam nhưng chưa đi sâu làm rõ vì sao hiện tượng đó lại chậm được khắc phục.
Đối với vấn đề tái cấu trúc ĐTC, các tác giả đều xuất phát từ việc phân định rõ
ràng chức năng của nhà nước đối với tăng trưởng Trần Du Lịch (2011) đã nêu rõ rằng
ĐTC là một công cụ quan trọng của nhà nước để khắc phục ba khuyết tật lớn của thị
trường, đó là (1) nguy cơ bất ổn định kinh tế; (2) coi nhẹ các hoạt động mang lại lợi ích
xã hội lớn, mặc dù lợi nhuận kinh doanh không cao; (3) giải quyết vấn đề phân hóa
giàu nghèo. Từ đó, tác giả đã khẳng định vai trò dẫn dắt thị trường của lực lượng kinh
tế nhà nước, trước hết là các doanh nghiệp nhà nước phải tập trung vào việc cung cấp
hàng hóa và dịch vụ công cộng và các ngành kinh tế có hiệu quả sinh lời thấp, nhưng
cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa như cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ, đầu tư
cho thị trường bất động sản sơ cấp, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghiệp


18

công nghệ cao… Ở một góc độ khác, tác giả Vũ Tuấn Anh (2010) nhấn mạnh đến vai
trò của nhà nước sử dụng ĐTC như một công cụ kích thích phát triển những ngành
được ưu tiên, thường là những ngành then chốt có tác dụng lôi kéo nền kinh tế mà khu
vực tư nhân chưa thể hoặc không muốn đầu tư. Ngoài ra, với tư cách là nhà đầu tư kinh
doanh, nhà nước trực tiếp đầu tư vào hai lĩnh vực chính là phát triển kết cấu hạ tầng và
các lĩnh vực kinh doanh nhằm phát triển các hàng hóa và dịch vụ công và những lĩnh
vực mới có tác động lan tỏa đối với nền kinh tế. Tuy vậy, những kiến nghị này chưa
thực sự làm rõ khi nào thì nhà nước nên trực tiếp đầu tư và khi nào thì chỉ cần tạo môi
trường hấp dẫn để thu hút đầu tư tư nhân vào cung câp các hàng hóa dịch vụ vốn trước

đây là lĩnh vực truyền thống của ĐTC. Điều này đặt ra yêu cầu phân định rõ “sân chơi”
giữa nhà nước và khu vực tư nhân từ góc độ lý thuyết, từ đó áp dụng vào điều kiện của
Việt Nam để trả lời những câu hỏi cơ bản như: Nhà nước sẽ đầu tư vào lĩnh vực nào,
còn lĩnh vực nào kiên quyết chuyển sang cho khu vực tư nhân thực hiện hoặc chỉ cần
tạo các cơ chế, chính sách khuyến khích các hình thức hợp tác công-tư thích hợp.
Mặc dù vậy, từ quan điểm về vai trò nhà nước đã nêu trên, các nghiên cứu đã
đưa ra nhiều kiến nghị khác nhau về định hướng tái cấu trúc ĐTC. Về định hướng lâu
dài đối với ĐTC, các nghiên cứu đều cho rằng nước ta còn phải thực hiện chính sách
chủ động bội chi ngân sách bằng con đường vay nợ để đầu tư phát triển hạ tầng kĩ thuật
và xã hội, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước. Đó là chính sách tài
chính công tích cực trong điều kiện tích lũy của nền kinh tế còn thấp, tiết kiệm nội địa
chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển bền vững. Nhưng chính sách này phải kèm theo
các điều kiện rất nghiêm ngặt như: phải có chiến lược nợ Chính phủ và nợ Quốc gia rõ
ràng; những điều kiện bảo đảm hiệu quả trong đầu tư; khả năng trả nợ hàng năm; tuân
thủ nguyên tắc “chi phí cơ hội” và tính đồng bộ trong đầu tư, chi tiêu nhà nước thật sự
tiết kiệm; cơ chế phân bổ vốn đầu tư minh bạch; cơ chế giám sát dòng vốn đầu tư chặt
chẽ (Trần Du Lịch, 2010).
Trong khi đó, khi nghiên cứu về quy mô đầu tư, các nghiên cứu đều thống nhất
ở quan điểm phải thu hẹp tỉ trọng ĐTC, nhưng quan điểm về thay đổi cấu trúc ĐTC lại có
nhiều ý kiến khác nhau. Để giảm tỉ trọng ĐTC, nhiều nghiên cứu cũng thừa nhận khó khăn
trong việc xác định được những dự án đầu tư nào cần cắt giảm. Liên quan đến vấn đề này,


×