Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố Sơn La nhiệm kỳ 20162021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.12 KB, 56 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tăt

Cụm từ đầy đủ

1

BMNN

Bộ máy nhà nước

2

ĐBQH

Đại biểu Quốc hội

3

HĐND

Hội đồng nhân dân

4

TAND

Tòa án nhân dân


5

UBHC

Ủy ban hành chính

6

UBND

Ủy ban nhân dân

7

VKSND

Viện kiếm sát nhân dân

8

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

ST
T



3


A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề án
Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của BMNN là
một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục đích đặt ra là làm cho
các cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng như ở địa phương thực hiện đúng
và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định Hiến pháp
và pháp luật. Trong bộ máy nhà nước, HĐND vừa là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân.
HĐND có hai chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng
giám sát. Trong hai chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò rất quan
trọng, bảo đảm HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản để
nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND. Trong những năm qua, hoạt động
giám sát của HĐND có nhiều chuyển biến rõ rệt. Hàng năm đã xây dựng
chương trình kế hoạch giám sát; tổ chức các đoàn giám sát khi cần thiết, trong
thực hiện giám sát có những hình thức phối hợp với các cấp, các ngành... Do
đó, đã đưa lại nhiều kết quả khả quan, bước đầu góp phần khắc phục tính hình
thức trong hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, hoạt động giám sát của HĐND còn nhiều
hạn chế. như việc xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa
thật sự khoa học; một số vụ việc tiêu cực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở
địa phương chưa được phát hiện kịp thời; các kết luận sau khi giám sát
thường chung chung, thiếu kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận đó nên
vẫn còn hiện tượng sau giám sát đâu lại vào đấy; kỹ năng giám sát của các đại



4

biểu HĐND còn nhiều bất cập... Chính vì vậy, hiệu quả hoạt động giám sát
của HĐND hiện nay còn thấp. Để khắc phục tình trạng trên, yêu cầu cấp thiết
đặt ra hiện nay là phải nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND.
Việc triển khai đề án vừa góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giám
sát của HĐND ở đây, vừa có thể rút ra những vấn đề có ý nghĩa cho việc tăng
cường hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND nói chung.
Bản thân tác giả là đại biểu HĐND, là Phó trưởng Ban Kinh tế - Xã hội
của HĐND thành phố Sơn La khóa XVIII, nhiệm kỳ 2011-2016, qua thực tiễn
công tác và nghiên cứu sâu các quy định hiện hành về chức năng giám sát của
HĐND, do vậy đã chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân thành phố Sơn La nhiệm kỳ 2016-2021" làm Đề án tốt nghiệp hệ
Cao cấp lý luận chính trị của mình.
Tại thời điểm tác giả sưu tầm, nghiên cứu để hoàn thành đề tài này, Kỳ
họp thứ 8 và thứ 9 của Quốc hội khóa XII trong năm 2015 đã thảo luận xem
xét và thông qua Luật tổ chức chính quyền địa phương, thay thế cho Luật tổ
chức HĐND và UBND năm 2003. Về mặt pháp lý, Luật tổ chức chính quyền
địa phương được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2015, nhưng chưa có hiệu
lực tại thời điểm xây dựng đề tài này. Do đó, cơ sở lý luận, pháp lý, các căn cứ
để xây dựng đề tài phần lớn từ Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Rất
mong được sự đóng góp, tham gia ý kiến của các thầy, cô giáo tại Học viện
chính trị Khu vực I, các đồng chí, đồng nghiệp.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong hoạt động của HĐND và
hiệu lực quản lý điều hành của nhà nước nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND thành phố nhiệm kỳ 2016 2021.



5

Phát huy dân chủ, trí tuệ, tinh thần trách nhiệm, tính sáng tạo, đổi mới
nội dung phương pháp hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban
của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và cá nhân đại biểu HĐND thành phố trên cơ
sở các quy định của pháp luật, sác định hướng phát triển kinh tế - xã hội,
nhằm khai thác, phát huy hiệu quả tiềm năng lợi thế, thu hút các nguồn lực
đầu tư đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, đưa Sơn La trở
thành tỉnh phát triển khá trong vùng miền núi phía Bắc, góp phần cùng cả
nước thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Phấn đấu đến năm 2021:
-100 % các đại biểu HĐND Thành phố, HĐND xã, phường và các
ngành hữu quan nêu cao tinh thần trách nhiệm. Đoàn kết, thống nhất, phối
hợp chặt chẽ để tổ chức triển khai thật tốt hoạt động giám sát của HĐND đảm
bảo HĐND thực sự là cơ quan quyền lực, đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân địa phương trong việc thực hiện quyền làm chủ của mình.
-100 % đại biểu HĐND nhân dân thành phố hoạt động có hiệu quả,
100% đại biểu HĐND thành phố được trao đổi trực tiếp về những vấn đề
mình quan tâm, vướng mắc với những người làm công tác nghiên cứu và có
kinh nghiệm hoạt động HĐND.
- 100% đại biểu HĐND thành phố ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông
tin vào hoạt động của đại biểu để phục vụ cho hoạt động giám sát, thảo luận,
quyết định các vấn đề tại kỳ họp cũng như việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng,
giải thích và tuyên truyền pháp luật đến cử tri.
- 100 % các đại biểu tăng cường mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa Tổ
đại biểu với Thường trực, các Ban HĐND cấp tỉnh, thành phố và cấp xã,
phường, không có sự trùng lắp về đơn vị chịu sự giám sát; đảm bảo 80% Đại



6

biểu luôn có sự tham dự và đóng góp ý kiến với Thường trực HĐND và các
Ban HĐND của cấp thành phố với giám sát của Tổ đại biểu HĐND tỉnh.
- 95% nội dung đổi mới phải xuất phát từ thực tiễn hoạt động của
HĐND thành phố, được lựa chọn một cách thận trọng, khách quan, khoa học,
bảo đảm tính kế thừa, tính khả thi và được tiến hành đồng bộ.
- 90% đại biểu tập trung nghiên cứu lý luận chung về hiệu quả giám sát
của HĐND cấp thành phố, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và hiệu quả
giám sát của HĐND Thành phố Sơn La nhiệm kỳ 2011-2016, đồng thời đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND Thành phố Sơn La
nhiệm kỳ 2016-2021.
- 100% đại biểu bám sát chức năng nhiệm vụ của Thường trực HĐND,
các Ban của HĐND và đại biểu HĐND thành phố để tuyên truyền sâu và phản
ánh toàn diện các hoạt động của HĐND. Đa dạng, phong phú các hoạt động
thông tin, tuyên truyền. Đổi mới về hình thức phương pháp tuyên truyền;
cung cấp và hiện đại hoá trang thiết bị cho công tác tuyên truyền.
-100% đại biểu chuyên trách tăng cường công tác phối hợp tiếp công
dân tại trụ sở tiếp công dân của thành phố; khuyến khích hoạt động tiếp công
dân của đại biểu HĐND thành phố tại nơi làm việc và tại trụ sở tiếp công dân
của huyện, thành phố nơi đại biểu ứng cử; nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác đôn đốc, giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
công dân.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND thành phố, hàng
năm 100% đại biểu HĐND thành phố được tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ
năng hoạt động phù hợp với vị trí nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
3. Giới hạn của đề án
- Đối tượng nghiện cứu: Hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng

nhân dân cấp thành phố.


7

- Không gian: Địa bàn thành phố Sơn La với 12 xã, phường thành phố.
- Thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2021

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở lý luận
Đề án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm chỉ đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối đổi mới đất nước, về xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thể hiện
trong các Nghị quyết Đại hội Đảng và các Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng, cũng như Hiến pháp và các văn bản pháp luật của nhà
nước.
1.1.1. Một số quan niệm về giám sát.
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 tại các điều 1, 29, 30, và 31
không cung cấp thông tin định nghĩa trực tiếp giám sát là gì. Tuy nhiên, có thể
hiểu, trước tiên, giám sát là một chức năng luật định, tức là gắn với quyền hạn
và là trách nhiệm của HĐND. Chức năng được bảo đảm bởi một số hình thức
hoạt động và công cụ đặc thù, cách làm đặc thù của HĐND. Vai trò giám sát là
nói tới vị thế của HĐND với tư cách tổ chức và đại biểu HĐND với tư cách cá
nhân trong thực hiện chức trách.
Giám sát là sự quan sát, xem xét, tra hỏi. Theo Từ điển luật học thì
giám sát là sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục
và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực, để buộc và hướng hoạt
động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được



8

mục đích, hiệu quả đã được thực hiện từ trước, bảo đảm cho pháp luật được thực
hiện nghiêm minh.
Giám sát có những hình thức mang tính kỹ thuật, là sự quan sát, theo
dõi quy trình quy phạm trong quá trình sản xuất hay trong đầu tư xây dựng,
quản lý môi trường…theo những tiêu chuẩn và quy phạm kỹ thuật nghiêm
ngặt. Nhưng cũng có hình thức giám sát mang tính chất kinh tế - chính trị - xã
hội - pháp luật, là sự quan sát, theo dõi về việc thực hiện các chế độ chính
sách, pháp luật của nhà nước.
Từ các khái niệm chung về giám sát trên, căn cứ đối tượng giám sát của
HĐND, có thể hiểu khái niệm giám sát của HĐND như sau:
Giám sát của HĐND là hoạt động có mục đích, thường xuyên, liên tục
của HĐND nhằm quan sát, theo dõi, kiểm tra, phát hiện, uốn nắn việc tuân
theo pháp luật, chấp hành Nghị quyết HĐND của Thường trực HĐND,
UBND, TAND, VKSND cùng cấp, của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân địa phương theo quy
định của pháp luật.
Như vậy, giám sát của HĐND thực chất là hoạt động nhằm kiểm soát
thực thi quyền lực nhà nước. Giám sát chứa đựng những yếu tố thuộc tính của
công tác kiểm tra, kiểm soát và thanh tra. Trong quá trình giám sát, chủ thể
giám sát có quyền tiếp cận mọi đối tượng, mọi văn bản, hồ sơ theo yêu cầu
giám sát. Giám sát cũng luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời
được câu hỏi giám sát ai? giám sát việc gì? Đặc điểm cơ bản này cho chúng ta
phân biệt giữa giám sát và kiểm tra. Bởi nói tới kiểm tra thì chủ thể hoạt động
kiểm tra và đối tượng chịu sự tác động này có thể đồng nhất là một. Đó là
trường hợp chủ thể tự kiểm tra hoạt động của mình, tức là tự xem xét đánh giá
tình trạng tốt xấu của công việc đang làm để từ đó uốn nắn, sửa chữa. Nhưng



9

trong hoạt động giám sát thì không thể có tình trạng tự chủ thể hoạt động
quan sát chính hành vi của mình mà phải là hoạt động theo dõi, thẩm tra và
xem xét của một chủ thể khác, từ đó đưa ra kết luận và xử lý.
-

Giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào hoạt
động giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền và
nghĩa vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu giám sát.

-

Giám sát phải được tiến hành trên những căn cứ do pháp luật quy định.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì: nếu như thiếu những
quy định này thì chủ thể giám sát không có cơ sở để thực hiện quyền
giám sát và tiêu chí để đưa ra những nhận định về hoạt động của đối
tượng chịu giám sát.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền dân chủ nhân

dân
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, vấn đề quan trọng hàng đầu đặt
ra cho Chính phủ là phải khẩn trương nghiên cứu ban hành văn bản về tổ chức
chính quyền địa phương. Sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương Ban Nghiên
cứu tổ chức chính quyền địa phương do Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên
Giáp làm Trưởng ban đã trình để Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh
số 63 ngày 22-11-1945 về tổ chức HĐND và UBHC, Sắc lệnh số 77 ngày 2112-1945 về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã, thành phố. Sắc lệnh số
63 quy định cụ thể về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của HĐND và

UBHC các cấp (xã, huyện, tỉnh kỳ), trong đó ghi rõ: “Hội đồng nhân dân do
nhân dân bầu ra theo lối phổ thông và trực tiếp đầu phiếu và là cơ quan đại
diện cho nhân dân. ủy ban hành chính do hội đồng nhân dân bầu ra và là cơ
quan hành chính vừa thay mặt cho nhân dân, vừa đại diện cho Chính phủ” 1.
Sắc lệnh số 77 về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã, thành phố quy
1 Xem Việt Nam Dân quốc công báo, số 11, năm 1945


10

định chi tiết về cách tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của HĐND và UBHC
thành phố, cách tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của UBHC khu phố nơi
không tổ chức HĐND. Tại mỗi thành phố sẽ có 3 cơ quan là HĐND thành phố,
UBHC thành phố, UBHC khu phố1.
Một vấn đề hết sức quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước dân chủ nhân dân là bộ máy chính quyền nhà nước - chính quyền của
nhân dân được lập ra phải bằng con đường bầu cử trực tiếp hoặc gián tiếp,
phải thực hiện quyền dân chủ của nhân dân bằng con đường lập hiến. Chính
bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ
tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo trình Quốc hội thông qua đã toát
lên đầy đủ tư tưởng của Người về xây dựng chính quyền và các thiết chế dân
chủ nhân dân. Tư tưởng chủ đạo của Hiến pháp năm 1946 là “Bảo đảm các
quyền tự do, dân chủ”; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân”; “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”;
“Tất cả công dân Việt Nam đều ngang nhau về mọi phương diện chính trị,
kinh tế, văn hóa, đều được tham gia chính quyền và công cuộc Kiến quốc tùy
theo tài năng và đức hạnh của mình” 2. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nước ta
là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, chính quyền từ xã
đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra” 3, “Nhân dân có quyền bãi miễn đại

biểu Quốc hội và đại biểu HĐND nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng
đáng”. Khi được bầu làm Chủ tịch Chính phủ, Người nói: “Chính phủ rất
mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ
của mình là đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân”. Thực hiện chính quyền
1 Xem Việt Nam Dân quốc công báo, số 16, năm 1946
2 Xem Hiến pháp Việt Nam (Năm 1946, 1959, 1980 và 1992) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 7, 8, 9.
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội, 1995, t 1, tr. 698.


11

mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân không có nghĩa phải xây dựng một chính
quyền có bộ máy đồ sộ với những người đại biểu đại diện tầng tầng lớp lớp,
mà phải xây dựng một chính quyền gần dân, sát dân với bộ máy gọn nhẹ, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả với đội ngũ công chức tinh thông, cần mẫn, là
công bộc của nhân dân, tiêu tốn ít tiền của nhân dân nhưng làm được nhiều
việc cho dân, phục vụ đắc lực nhân dân. HĐND ở đâu hoạt động hình thức,
chồng chéo, kém hiệu lực, hiệu quả, không làm được nhiều việc cho dân thì
phải xem xét tinh giản để lợi cho dân.
Ý tưởng “thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân” được thể hiện trong 2 sắc lệnh nói trên và được khẳng định lại trong
Hiến pháp 1946 bằng các quy định về tổ chức HĐND và UBND, cụ thể như:
“ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có hội đồng nhân dân do đầu phiếu, trực tiếp,
phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay
xã cử ra ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện chỉ có ủy ban hành chính. ủy ban
hành chính bộ do hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra, ủy ban hành chính
huyện do hội đồng các xã bầu ra. Hội đồng nhân dân quyết nghị những vấn đề
thuộc về địa phương mình, những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị
của cấp trên. ủy ban hành chính có trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh của
cấp trên; thi hành các nghị quyết của hội đồng nhân dân địa phương mình sau

khi được cấp trên chuẩn y; chỉ huy công việc hành chính trong địa phương” 1.
Có thể nói các quy định trong sắc lệnh 63 và 77 và trong Hiến pháp năm 1946
do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo về tổ chức chính quyền ở
nông thôn và ở các thành phố còn giữ nguyên giá trị đến ngày nay.
1.1.3. Quan điểm của Đảng về nhà nước
Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ lịch sử của nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà là “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia
1 Xem Hiến pháp Việt Nam, sách đã dẫn, tr 21.


12

trên nền tảng dân chủ”. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quan
điểm của Đảng về nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước đã được thể chế hoá
trong bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946. Do các điều kiện lịch sử của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mô hình bộ máy nhà nước theo quy
định của Hiến pháp 1946 đã không được tổ chức trong thực tiễn. Tuy nhiên,
những nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước dân chủ nhân dân vẫn được thực
hiện nhất quán trong quá trình “kháng chiến, kiến quốc”. Sau chiến thắng
Điện Biên Phủ, trong bối cảnh mới của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đề ra
hai nhiệm vụ chiến lược: “tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và đấu
tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc
lập và dân chủ trong cả nước”. Trong điều kiện đó, Đảng chủ trương ở miền
Bắc “phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của
chuyên chính vô sản”, “Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà làm nhiệm vụ
của chuyên chính vô sản” 1.
Đảng ta nhấn mạnh: Để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động, nhà nước ta phải là một thiết chế của dân, do dân và vì dân, là một tổ
chức đủ năng lực để tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới; nền
kinh tế mới; nền văn hoá mới và con người mới, đủ sức bảo vệ lợi ích của tập

thể và của cá nhân, đủ sức giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc XHCN và những thành quả cách mạng.
Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử to lớn với nhiệm vụ, chức năng và
trách nhiệm được xác định bởi chế độ làm chủ tập thể XHCN, cần tăng cường
hiệu lực của nhà nước, thi hành những biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo bộ
máy nhà nước được tổ chức và hoạt động phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng trong giai đoạn phát triển của đất nước. Muốn vậy, cần nêu cao vị
trí của Quốc hội và HĐND các cấp. Trong hệ thống chính quyền nước ta,

1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Nxb Sự thật, H,1961, tr.179.


13

Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của cả nước; và các HĐND
là cơ quan quyền lực nhà nước của các địa phương. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Quốc hội quyết định những công việc quan trọng nhất của nhà nước và
các HĐND địa phương quyết định những công việc quan trọng của chính
quyền nhà nước ở địa phương. Quốc hội và HĐND cử ra các cơ quan chấp
hành ở trung ương là Hội đồng Chính phủ và ở các cấp là UBND. Quốc hội
và HĐND các cấp giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy chính quyền nhà
nước các cấp. Trách nhiệm của Hội đồng Chính phủ và UBND các cấp trước
Quốc hội và HĐND các cấp phải được quy định rõ ràng và thể hiện đầy đủ
bằng những thể thức cụ thể. Phải quy định chế độ và tạo điều kiện để các đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND có thể thu thập và phản ánh ý kiến của nhân
dân cho các cơ quan nhà nước và theo dõi cách giải quyết của các cơ quan ấy.
Phải có chế độ liên hệ thường xuyên giữa cử tri và đại biểu Quốc hội, đại biểu
HĐND, bảo đảm sự kiểm tra và quyền bãi miễn của cử tri đối với đại biểu do
họ bầu ra.
1.2. Cơ sở chính trị pháp lý.

Điều 2, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi khẳng định: Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân... Với khẳng định trên, ở nước ta nguồn gốc, bản chất quyền lực nhà
nước là quyền lực nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông
qua các cơ quan đại diện đó là Quốc hội và HĐND các cấp. Quốc hội là cơ
quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, HĐND là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương.
Như vậy, trong BMNN, HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương, do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ nhân dân ở địa phương đó. HĐND có quyền
quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương theo quy định pháp luật.


14

Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, Đảng và nhà nước ta đã
quan tâm đến việc xây dựng, củng cố và phát triển HĐND. Vì thế, HĐND đã
làm được nhiều việc ích nước lợi dân, đã thể hiện được vai trò là cơ quan đại
biểu của nhân dân, là chỗ dựa vững chắc để nhân dân xây dựng, củng cố
chính quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh.
Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn chúng ta chưa quan tâm đúng
mức đến việc xây dựng mô hình từng cấp và tổng kết kinh nghiệm trong hoạt
động của HĐND. Vì thế, trên thực tế cả về mặt tổ chức cũng như hoạt động
của HĐND các cấp vẫn còn là một trong những khâu yếu kém của BMNN.
Do vậy, có ý kiến cho rằng: cần bỏ HĐND, hay nói cách khác sự tồn tại của
HĐND không cần thiết vì hoạt động của nó rất hình thức, làm cho BMNN
thêm cồng kềnh, tốn kém. Đó là quan điểm không thể chấp nhận được vì nó
trái với bản chất của nhà nước ta - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, theo đó, phải có cơ quan đại diện của nhân dân ở Trung ương cũng

như ở khắp các địa phương, cơ sở để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình. Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải tăng cường củng cố, kiện toàn
HĐND, để HĐND hoạt động thực chất hơn và ngày càng có hiệu lực, hiệu
quả tương xứng với vị trí, vai trò của HĐND như Hiến pháp năm 1992 đã
khẳng định.
HĐND là cầu nối giữa chính quyền Trung ương với chính quyền địa
phương; vừa bảo đảm sự tập trung thống nhất trong hoạt động của BMNN
trên phạm vi toàn quốc, vừa đảm bảo phát huy được nội lực từng địa phương,
cơ sở. Thông qua Quốc hội và HĐND các cấp, bằng quyền dân chủ trực tiếp
của mình, nhân dân thực hiện được quyền làm chủ trên phạm vi cả nước và
trước hết làm chủ ở ngay địa phương, cơ sở. Trên những cơ sở lý luận và thực
tiễn đó, điều 119 Hiến pháp năm 2013 và điều 1 Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003 đều xác định: HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ nhân dân, do nhân


15

dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên. Hiến pháp cũng quy định thẩm quyền rộng rãi cho
HĐND, đảm bảo thật sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, chịu
trách nhiệm và toàn quyền quyết định những vấn đề trọng đại ở địa phương
trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Từ những quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003, có thể khái quát vị trí, vai trò của HĐND trên các mặt sau
đây:
Thứ nhất, HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương. Ở địa
phương, HĐND là cơ quan duy nhất được thành lập bằng một cuộc bầu cử do
cử tri địa phương trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, bỏ
phiếu kín; hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thông qua kỳ họp toàn thể.

Mọi quyết định của Hội đồng được thông qua bằng việc biểu quyết theo
nguyên tắc đa số tương đối hoặc đa số tuyệt đối. Tính chất đại diện của
HĐND về mặt hình thức được thể hiện rõ nét nhất ở vấn đề cơ cấu đại biểu
trong hội đồng. HĐND không đại diện cho một đảng phái, tổ chức nào mà đại
diện cho toàn thể nhân dân; thành phần trong HĐND thể hiện khối đại đoàn
kết của toàn dân sống trên địa phương. Tính chất đại diện của HĐND khác
với tính chất đại diện của Quốc hội. Hiến pháp năm 2013 xác định:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân (Điều 69); đại biểu
Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu
cử ra mình và của nhân dân cả nước (Điều 79). Còn HĐND là cơ quan chỉ
đại diện cho nhân dân địa phương bầu ra mình, đồng thời chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương đó và cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 113).
Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng như thực tiễn, cách thành lập HĐND,
cơ cấu đại biểu, hình thức hoạt động... mới chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức,
còn hiệu quả hoạt động trong thực tế là cơ sở phản ánh đầy đủ nhất tính chất
đại diện của HĐND.


16

Thứ hai, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thể, hiện
ở các mặt sau đây: Được thành lập bởi các đại biểu do nhân dân địa phương
bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ nhân dân; Có quyền
căn cứ vào pháp luật, bầu, miễn nhiệm, bãi miễn các chức danh của UBND là
cơ quan chấp hành của mình; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân
của TAND cùng cấp; cũng như có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do HĐND bầu ra; Có quyền căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật ra Nghị
quyết để triển khai các mặt công tác ở địa phương.
Tóm lại, xét về mặt hình thức cũng như nội dung hoạt động, thiết chế
HĐND ở nước ta thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân

dân ở địa phương. Quyền lực của HĐND được xác định trong Hiến pháp về
bản chất cũng là quyền lực của nhân dân lao động. Vấn đề đặt ra là, bằng cách
nào để HĐND thực hiện được quyền lực của mình trên thực tiễn là mục đích
hướng tới của công cuộc đổi mới và hoàn thiện BMNN nói chung và HĐND các
cấp nói riêng.
1.3. Cơ sở thực tiễn.
Cơ sở thực tiễn của đề án là tình hình phát triển đất nước trên các lĩnh
vực và sự phát triển kinh tế, xã hội địa phương đang đặt ra yêu cầu phải nâng
cao chất lượng giám sát của HĐND.
Thực tiễn hoạt động của Đại biểu HĐND thành phố Sơn La và yêu cầu
chất lượng của Đại biểu trước sự phát triển xã hội trong điều kiện hiện nay ở
Sơn La.
Đề án dựa trên Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung 2001) (2002) (2013), cơ sở dữ liệu và tài
liệu là các báo cáo tình hình phát triển kinh tế, xã hội và tình hình hoạt động của
HĐND thành phố Sơn La.


17

Trong những năm qua, HĐND thành phố Sơn La luôn chú trọng tới
chất lượng của đại biểu HĐND, các đại biểu HĐND từng bước được nâng cao
cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị và năng lực công tác;
cơ cấu đại biểu HĐND được điều chỉnh hợp lý hơn; tỷ lệ đại biểu trẻ, đại biểu
nữ đã được tăng lên. Đa số đại biểu HĐND có ý thức rèn luyện, học tập, trau
dồi kiến thức, kinh nghiệm công tác, giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức lối
sống, cơ bản đã đáp ứng với yêu cầu công tác trong tình hình mới, và từ đầu
nhiệm kỳ 2011-2016 đến nay, HĐND thành phố đã luôn chủ động, năng động,
sáng tạo, tích cực đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động, ngày càng khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò của HĐND trong hệ thống

chính trị, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh và thành phố.
Song, bên cạnh đó để thật sự đáp ứng được yêu cầu công tác và nhiệm
vụ trong tình hình mới, đại biểu HĐND thành phố Sơn La vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế, như: Chất lượng đại biểu chưa cao, nhất là các đại biểu cán bộ
lãnh đạo các Ban HĐND; đại biểu có năng lực, kinh nghiệm trong dự báo, có
tầm nhìn chiến lược còn thiếu; công tác quy hoạch đại biểu thiếu bền vững;
một số đại biểu giữ cương vị lãnh đạo trong hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước ở địa phương, do vậy khi thực thi trách nhiệm của đại biểu đôi lúc chưa
khách quan. Số lượng đại biểu chuyên trách ít, áp lực công việc nhiều nên
thời gian dành cho nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn phục vụ công
việc còn nhiều hạn chế, một số đại biểu chưa đủ tự tin để bảo vệ quan điểm
của mình khi xem xét những vấn đề được trình tại kỳ họp; bộ máy Văn phòng
chậm được kiện toàn, nguồn lực cán bộ, chuyên viên thiếu về số lượng, chất
lượng chưa đáp ứng yêu cầu công tác tham mưu, phục vụ kỳ họp. Chế độ
thông tin phục vụ đại biểu HĐND thành phố còn thiếu, chưa kịp thời và chưa
được cập nhật thường xuyên. Số lượng, quy mô các cuộc khảo sát, giám sát


18

của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND chưa bao quát hết các
lĩnh vực của đời sống, chất lượng một số cuộc giám sát chưa cao.
Nội dung giám sát tuy đã chú trọng lựa chọn vấn đề có trọng tâm, trọng
điểm, xong chưa đầy đủ, toàn diện, còn nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng tại địa phương có
những nổi cộm, bức xúc nhưng chưa được tổ chức giám sát hoặc đã thực hiện
nhưng kết quả giám sát chưa sâu, chưa giải quyết triệt để được những vấn đề
tồn tại. Nhiều lĩnh vực cần được quan tâm tổ chức giám sát để đánh giá kết
quả thực hiện, đánh giá những tồn tại, vướng mắc và đưa ra kiến nghị giải

pháp cụ thể nhưng chưa được tổ chức thực hiện. Một số cuộc giám sát chưa
chỉ ra được những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cụ thể của những tồn tại,
hạn chế thuộc lĩnh vực được giám sát.
Việc bố trí thành phần Đoàn giám sát chưa thực sự thống nhất, chưa
đảm bảo khoa học, nên chưa phát huy được hiệu quả. Nhất là, đối với hoạt
động giám sát của các Ban của HĐND thành phố, do vậy thực chất chưa đáp
ứng mục đích, yêu cầu của Đoàn giám sát.
Việc tổ chức họp Đoàn giám sát để thống nhất nội dung trước khi tiến
hành giám sát hầu hết chưa thực hiện được; Việc thực hiện các kết luận, kiến
nghị sau giám sát đôi khi còn mang tính hình thức, đối phó, chưa thể hiện rõ
trách nhiệm của cơ quan, đơn vị có liên quan. Bên cạnh đó, việc theo dõi, đôn
đốc các cơ quan chức năng thực hiện các kiến nghị sau giám sát còn thiếu tính
quyết liệt, chưa theo đuổi đến cùng; việc tổ chức giám sát lại rất ít được thực
hiện; chế tài xử lý việc thực hiện các kết luận sau giám sát còn thiếu nên cũng
làm giảm hiệu lực, hiệu quả sau giám sát.
Trước yêu cầu nhiệm vụ và trách nhiệm với cử tri, xuất phát từ thực tiễn
hoạt động giám sát nêu trên và yêu cầu đặt ra trong giai đoan hiện nay, việc


19

nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của HĐND thành phố Sơn La thực sự
là vấn đề cấp bách và cần thiết.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Sơn La là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc, điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ
thuật tạo điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế, đời sống của một
bộ phận nhân dân, nhất là nhân dân ở các xã còn gặp nhiều khó khăn; công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội bước đầu đã đạt được nhiều kết quả khích lệ, cơ
sở hạ tầng, kỹ thuật và bộ mặt đô thị của thành phố có nhiều khởi sắc và

chuyển biến tích cực, 100% các xã đều có đường asphalt hoặc đường bê tông
đến trung tâm.
Thành phố Sơn La, địa hình chia cắt phức tạp, núi đá cao xen
lẫn đồi, thung lũng, lòng chảo. Thành phố Sơn La là trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, có diện tích tự nhiên 330 km 2, dân số trên 10 vạn
người, 12 dân tộc anh em cùng chung sống (chủ yếu là dân tộc Thái 48,32%
và dân tộc Kinh 44,72%); có 12 đơn vị hành chính (bao gồm 7 phường, 5 xã)
với 169 bản, tiểu khu, tổ dân phố. Đảng bộ thành phố Sơn La có 57 chi bộ,
đảng bộ cơ sở; trong đó: có 17 đảng bộ và 40 chi bộ cơ sở; có 269 chi bộ trực
thuộc đảng ủy cơ sở (đến nay 100% bản, tiểu khu, tổ dân phố, trường học, trạm
y tế đã có chi bộ) với trên 6.522 đảng viên.
Thành phố Sơn La được thành lập theo Nghị định số 98/2008/NĐ-CP
ngày 03.9.2008 của Chính phủ. Trong những năm qua, thành phố có bước
phát triển tích cực, từng bước thể hiện rõ vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hoá, khoa học của tỉnh. Kinh tế liên tục tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế có
bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông
nghiệp; quy mô kinh tế được mở rộng; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đô
thị phát triển theo hướng văn minh, hiện đại. Văn hóa - xã hội tiếp tục phát
triển, đạt kết quả quan trọng, nhất là giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá


20

của một đô thị miền núi, nhiều dân tộc; đời sống của nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Hệ thống chính trị được củng cố, tăng cường; năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền,
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được nâng lên. Chính trị - xã
hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ an toàn tuyệt đối
các cơ quan của tỉnh, các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại diễn ra
trên địa bàn.

Có thể nói, với một tỉnh miền núi còn gặp nhiều khó khăn, song trong
những năm qua, Đảng bộ thành phố Sơn La luôn chú trọng tới công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ đặc biệt là chất lượng Đại biểu HĐND.
Thành phố đã triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 41/2013/NQ HĐND ngày 14.3.2013 của HĐND tỉnh theo đúng phương châm: “nhân dân
làm, nhà nước hỗ trợ”. Năm 2014 hoàn thành 197 tuyến, 53,26 km đường giao
thông nội bản, tiểu khu. Triển khai thực hiện Nghị quyết 40/2012/NQ-HĐND
ngày 12/12/2012 (Nghị quyết 63/2013/NQ-HĐND ngày 12/12/2013) của HĐND
tỉnh và phát động phong trào thi đua “Nhân dân các dân tộc thành phố chung
tay xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh”. Đến nay thành phố đã có 15
trường đạt chuẩn quốc gia ,11 trường đạt cận chuẩn, là đơn vị đầu tiên của tỉnh
đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; 100% xã, phường có Trạm
y tế, trong đó 8/12 Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia. Tiếp tục đổi mới công tác
dân vận; công tác nắm tình hình tư tưởng, đời sống của nhân dân; kịp thời giải
quyết những vấn đề bức xúc, kiến nghị nảy sinh ngay tại cơ sở, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trên các lĩnh vực, thành
phố vẫn còn một số tồn tại, hạn chế: Kinh tế phát triển chưa toàn diện; năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh nhìn chung còn thấp; các nguồn lực
về vốn, nhân lực và công nghệ trên địa bàn chưa được khai thác tốt; sức lan
toả của một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của tỉnh còn hạn


21

chế. Công tác quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị còn yếu; hạ tầng đô thị
chưa đồng bộ; còn nhiều vấn đề tồn tại trong quản lý quy hoạch, đất đai, xây
dựng, môi trường… chậm được khắc phục; chưa tạo được sự đột phá trong thu
hút, sử dụng và phát huy có hiệu quả các nguồn lực phục vụ đầu tư phát triển đô
thị. Văn hoá, xã hội còn có những hạn chế; vai trò trung tâm về văn hoá, khoa
học, giáo dục, y tế của tỉnh chưa được phát huy đầy đủ; Công tác xây dựng

Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chưa đồng bộ; trình độ, năng
lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn hạn chế; cải cách hành chính chưa đạt
được yêu cầu đề ra. Sự chủ động trong tham mưu, đề xuất với Tỉnh uỷ,
HĐND, UBND tỉnh, phối hợp với các cơ quan chuyên môn của tỉnh có mặt
chưa thường xuyên và kịp thời.
Phát huy vai trò trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh;
tại kỳ họp thứ 6 nhiệm kỳ 2011-2016 HĐND thành phố đã ra Nghị quyết
Chuyên đề phấn đấu đến hết năm 2015, xây dựng thành phố Sơn La trở thành
đô thị phát triển khá trong các đô thị khu vực trung du và miền núi Bắc Bộ;
sớm hình thành các yếu tố cơ bản của đô thị loại II trực thuộc tỉnh; Đến năm
2020 "xây dựng thành phố Sơn La trở thành đô thị hiện đại mang bản sắc văn
hoá các dân tộc đặc thù của vùng Tây Bắc; là một trong những trung tâm giáo
dục và đào tạo nguồn nhân lực đa ngành của tiểu vùng Tây Bắc".
2.2. Thực trạng của vấn đề cần giải quyết trong đề án
2.2.1. Những kết quả đạt được
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy và tuân thủ các quy định của
pháp luật hiện hành, thời gian qua HĐND các cấp trong tỉnh đã từng bước
được kiện toàn, củng cố về tổ chức bộ máy theo hướng: coi trọng tiêu chuẩn
đại biểu; từng bước nâng cao chất lượng đại biểu; đảm bảo cơ cấu thành
phần; tăng tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách của HĐND các cấp; công
tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Ban của HĐND tỉnh; sự phối hợp
hoạt động giữa HĐND các cấp ở địa phương thường xuyên và chặt chẽ hơn.


22

Thường trực HĐND các cấp ngày càng phát huy hơn vai trò trong tổ chức và
điều hành hoạt động của HĐND các cấp. Hoạt động của các Ban của HĐND
các cấp được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, đúng quy định của
pháp Luật. Đa số các đại biểu HĐND các cấp đã thực hiện khá tốt nhiệm vụ

đại biểu. Ngày càng có nhiều đại biểu tích cực nghiên cứu, tham gia ý kiến
đóng góp tâm huyết, xây dựng vào các quyết định chung của tỉnh, huyện, xã,
nhất là đối với các cơ chế, chính sách của tỉnh, qua đó đã góp phần quan
trọng vào sự phát triển chung của tỉnh.
*Về cơ cấu, chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Sơn La
nhiệm kỳ 2011- 2016
Tổng số 30 đại biểu, trong đó:
- Đại biểu là các phòng, ban thành phố: 21 đại biểu
- Đại biểu là cán bộ xã, phường

: 9 đại biểu

* Về tổ chức bộ máy bao gồm:
- Thường trực HĐND thành phố: 3 thành viên (1 Chủ tịch, 1 Phó Chủ
tịch, 1 uỷ viên)
Chuyên trách: 2 (phó chủ tịch, uỷ viên); Kiêm nhiệm 01
- Ban Kinh tế - xã hội: Thành viên: 7
Chuyên trách: 1 (phó trưởng ban); Kiêm nhiệm: 06
- Ban Pháp chế: Thành viên: 5
Kiêm nhiệm: 5
- Bộ phận văn phòng giúp việc: 3
Kỳ họp HĐND là một hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND các cấp.
Đặc điểm lớn nhất trong hoạt động giám sát tại kỳ họp là có sự tham gia của
tất cả các đại biểu HĐND, đồng thời là môi trường để phát huy tính dân chủ
và trí tuệ tập thể. Do xác định đúng tầm quan trọng của kỳ họp, trong những
năm qua hoạt động giám sát của HĐND thành phố Sơn La tại các kỳ họp đã
có bước chuyển biến tích cực, chuẩn bị chu đáo về chương trình, nội dung của
kỳ họp, các đại biểu tham gia đầy đủ (đạt 99%).



23

Cụ thể: Tại kỳ họp, HĐND xem xét báo cáo công tác của Thường trực
HĐND thành phố, UBND, TAND và VKSND cùng cấp. Để có căn cứ xem
xét các loại báo cáo, ngoài thông tin trong báo cáo, các đại biểu còn kết hợp
với các nguồn thông tin khác như thông tin qua nghiên cứu báo cáo thẩm tra
của các ban, thông tin qua việc giám sát ở cơ sở, tiếp xúc cử tri cũng như qua
thư khiếu nại của công dân và phản ánh của dư luận xã hội. Nếu như trước
đây, sau khi nghe người đứng đầu cơ quan trình bày báo cáo, phần lớn đại
biểu đều cơ bản nhất trí theo báo cáo, ít có ý kiến phản biện, nên các báo cáo
của các cơ quan thường được thông qua kỳ họp một cách chóng vánh, thì từ
kỳ họp thứ 4 (nhiệm kỳ 2011-2016) đến nay, cách xem xét báo cáo đã có
nhiều đổi mới; sau khi người đứng đầu cơ quan trình bày báo cáo, các đại biểu
HĐND đã tích cực thảo luận, góp ý kiến, số đại biểu tham gia đóng góp ý
kiến, thảo luận, tranh luận ngày càng nhiều và thiết thực hơn, bước đầu khắc
phục được tính qua loa, đại khái, hình thức.
*Việc chất vấn
Việc chất vấn và trả lời chất vấn của các đại biểu đã trở thành hình thức
giám sát quan trọng và thường xuyên trong các kỳ họp của HĐND. Trung
bình mỗi kỳ họp có khoảng 8 -12 ý kiến chất vấn tại hội trường, nội dung các
câu hỏi chất vấn phần nào phản ánh được chất lượng hoạt động của các đại
biểu ngày càng được nâng lên.
Các đại biểu HĐND thành phố đã có nhiều ý kiến chất vấn UBND và
các ngành chức năng về các vấn đề nổi cộm, bức xúc mà cử tri quan tâm, nội
dung chất vấn đã có địa chỉ rõ ràng. Số lượng và chất lượng chất vấn của đại
biểu HĐND thành phố tại các kỳ họp ngày càng nhiều và có chiều sâu. Các cá
nhân đứng đầu cơ quan ban ngành khi bị chất vấn đã nêu cao tinh thần trách
nhiệm trước nhân dân, nghiên cứu kỹ lưỡng và trả lời nghiêm túc các câu hỏi
đáp ứng yêu cầu đại biểu và cử tri. Điều đó phần nào thể hiện được năng lực
và bản lĩnh chính trị của người đại biểu trong việc thực hiện chức năng đại

diện của mình.


24

Đặc biệt, từ đầu nhiệm kỳ HĐND thành phố đã có nhiều đổi mới về nội
dung và hình thức hoạt động chất vấn; trong đó có đổi mới về công tác chuẩn
bị nội dung chất vấn, tạo các điều kiện thuận lợi cho đại biểu thực hiện quyền
năng chất vấn tại kỳ họp. Điểm đáng chú ý nhất là các kỳ họp gần đây trong
phiên khai mạc, bế mạc, chất vấn và trả lời chất vấn, HĐND thành phố đã tổ
chức truyền hình và phát thanh trực tiếp để nhân dân theo dõi. Không những
thế, tại kỳ họp thứ 8 HĐND thành phố vừa qua, Thường trực HĐND đã thành
lập 2 đường dây điện thoại nóng để tiếp nhận thông tin liên quan đến kỳ họp
do cử tri phản ánh. Nhìn chung, hoạt động này đã cung cấp được nhiều thông
tin quan trọng cho đại biểu, hội đồng và cử tri; có tác dụng tích cực cho kỳ
họp của hội đồng. Chính vì vậy, hoạt động chất vấn đã làm sáng rõ được
nhiều vấn đề dư luận xã hội quan tâm, cử tri thắc mắc do các cơ quan chức
năng giải quyết kéo dài, gây bất bình trong nhân dân. Chất vấn và trả lời chất
vấn được đặt đúng lúc, đúng chỗ để xem xét giải quyết trên cơ sở khách quan,
xuất phát từ lợi ích của dân thì có tác dụng trong việc giải quyết những mâu
thuẫn, tồn tại, vướng mắc góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
*Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu
Việc HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND
bầu là một công cụ giám sát mới của HĐND các cấp. Thường trực HĐND
thành phố triển khai thực hiện về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ
chủ chốt do HĐND bầu qua đó chúng ta thấy rằng bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do HĐND bầu mặc dù lần đầu tiên được quy định trong
Luật Tổ chức HĐND và UBND nhưng đã thể hiện là một công cụ giám sát rất
hữu hiệu. Nếu HĐND sử dụng tốt hình thức giám sát này sẽ có cơ sở để quy

kết hệ quả, tức là tiền đề để đi đến việc áp dụng các biện pháp chế tài giám
sát. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc thăm dò tín nhiệm đối với cán
bộ chủ trì của thành phố là việc làm có tính nhạy cảm cao, bước đầu rất khó


25

thực hiện, đòi hỏi HĐND phải có cách làm việc khoa học và hợp lý, phù hợp
với tình hình thực tiễn.
*Về việc xem xét giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân
Trong các nhiệm kỳ trước, hoạt động này còn mang tính hình thức,
Thường trực HĐND thành phố Sơn La chủ yếu làm nhiệm vụ "kính chuyển"
đến các cơ quan hữu quan có trách nhiệm giải quyết, còn kết quả như thế nào
thì hầu như không biết. Những năm gần đây, HĐND thành phố Sơn La đã có
bước cải tiến đưa công tác này vào nề nếp. Công dân đến khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị đều được cán bộ đón tiếp, hướng dẫn, giải thích đầy đủ, đúng pháp
luật với thái độ nhiệt tình có trách nhiệm. Đối với những nội dung khiếu nại tố
cáo có cơ sở xem xét, ban tiến hành tiếp nhận đơn, hồ sơ để chuyển cho cơ
quan có thẩm quyền giải quyết, đồng thời đôn đốc họ phải sớm trả lời công dân
theo quy định pháp luật.
Trong năm 2014 HĐND đã tiếp nhận 30 đơn, thư (trong đó tố cáo 8,
khiếu nại 12, kiến nghị 10). Đơn, thư của công dân cũng được chuyển đúng
địa chỉ cơ quan và người có thẩm quyền. Kết quả đã có 17/30 đơn, thư đã
được trả lời và công dân rất đồng tình. Số còn lại HĐND tiếp tục kiểm tra,
giám sát đôn đốc giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
*Hoạt động giám sát của các ban Hội đồng nhân dân
Để hoạt động giám sát đạt kết quả tốt, các ban của HĐND thành phố
Sơn La đã xây dựng kế hoạch giám sát cụ thể; xác định rõ đối tượng, phạm vi
và vấn đề trọng tâm cần tập trung giám sát; thống nhất thời gian, chương trình

giám sát; huy động lực lượng và yêu cầu các đơn vị được giám sát phải chuẩn
bị báo cáo bằng văn bản theo yêu cầu nội dung cần kiểm tra, theo dõi. Bởi
vậy, đã tạo được bước chuyển tích cực trong hoạt động kiểm tra giám sát của
HĐND; khắc phục được tình trạng phiến diện, tràn lan, tốn nhiều thời gian
công tác mà không thu được kết quả giám sát trên thực tế.
Trong nhiệm kỳ 2011-2016, ngoài giám sát tại kỳ họp, Ban Kinh tế - Xã


×