Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Giáo trình phương pháp dạy học môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.8 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Tác giả: Th.s Lương Thị Lan Huệ

Năm 2017

1


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO YÊU CẦU
ĐỔI MỚI.................................................................................................................................3
1.1 Khái niệm..........................................................................................................................3
1.2 Thực trạng dạy học môn GDCD ở trường THPT..............................................................5
1.3 Đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD hiện nay và một số yêu cầu đối với giáo viên và
học sinh trong quá trình dạy học môn GDCD ở trường THPT...........................................................7

CHƯƠNG 2 MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC
TẬP MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY............................................................10
2.1 Phương pháp thu thập thông tin......................................................................................10
2.2 Phương pháp phá băng....................................................................................................11


2.3 Phương pháp sơ đồ mạng nhện.......................................................................................17
2.4 Phương pháp tình huống..................................................................................................19
2.5 Phương pháp thảo luận nhóm......................................................................................... 24
2.6 Phương pháp thuyết trình............................................................................................... 30
2.7 Phương pháp đóng vai.....................................................................................................32
CHƯƠNG 3 CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC MÔN GDCD Ở
TRƯỜNG....................................................................................................... 35
3.1 Hình thức lên lớp.............................................................................................................35
3.2 Đặc điểm của hình thức lên lớp.......................................................................................35
3.3 Một số yêu cầu đối với bài giảng trên lớp môn GDCD...................................................36
3.4 Công tác chuẩn bị bài giảng trên lớp...............................................................................37
3.5 Lên lớp của giáo viên......................................................................................................39
3.6 Các hình thức tổ chức ngoài giờ lên lớp.........................................................................40
CHƯƠNG 4 THIẾT KẾ BÀI DẠY HỌC VÀ TỔ CHỨC DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.........................................................40
4.1 Quan niệm và các bước thiết kế bài dạy học môn GDCD theo hướng đổi mới...................40
4.2 Soạn giáo án và tổ chức dạy học trong sinh viên...................................................................41

2


LỜI NÓI ĐẦU
***&***

Giáo dục công dân là một môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội đóng vai trò quan
trọng trong việc xác lập thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng cho học sinh.
Cùng với các môn học khác, môn Giáo dục công dân góp phần đào tạo con người phát
triển toàn diện, vừa hồng vừa chuyên cho xã hội. Vì vậy, giảng dạy tốt môn Giáo dục công
dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc trau dồi phẩm chất chính trị, giáo dục ý thức
đạo đức, pháp luật cũng như rèn các kỹ năng và phát triển trí tuệ cho học sinh. Cùng với xu

hướng đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo nói chung, vấn đề đặt ra đối với dạy
học môn GDCD cũng cần phải đổi mới sâu sắc và toàn diện. Hội nghị lần thứ Tám BCH
Trung ương Đảng khóa XI đã chỉ rõ cần phải ‘đổi mới cách dạy, cách học, chuyển từ cách
dạy chú trọng kiến thức, kỹ năng, sang chú trọng phẩm chất, năng lực, chuyển từ việc
truyền thụ, cung cấp tri thức cho người học sang phát huy tính tích cực, chủ động của
người học” [ ]. Thực tiễn dạy học nói chung và dạy học môn Giáo dục công dân cho thấy
nâng cao chất lượng dạy học cần phải đổi mới, phối hợp đồng bộ nhiều yếu tố trong đó, đổi
mới phương pháp dạy học có ý nghĩa quyết định đến nâng cao hiệu quả dạy học..
Nhằm giúp sinh viên tiếp cận nội dung đổi mới và yêu cầu dạy học môn Giáo dục
công dân, chúng tôi biên soạn giáo trình: Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân ở
trường Trung học phổ thông. Nội dung giáo trình này nhằm cung cấp cho sinh viên một số
kiến thức về phương pháp dạy học môn GDCD theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo, thực hành soạn và giảng thử môn GDCD ở trường THPT trong môi trường giả
định. Hy vọng giáo trình sẽ là tài liệu nghiên cứu bổ ích cho sinh viên chuyên ngành Giáo
dục chính trị và Địa-GDCD.

Quảng Bình, tháng 7 năm 2017
Giảng viên

Lương Thị Lan Huệ

PHẦN 1
3


CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO
YÊU CẦU ĐỔI MỚI
1.1 Khái niệm
1.1.1 Khái niệm Giáo dục công dân
Cụm từ ‘Giáo dục công dân” xuất hiện từ rất sớm. Từ xưa con người đã có ý

thức được rằng cần phải sống phù hợp chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực pháp luật
mới xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với người khác, với cộng đồng xã hội. Cần
nhận thấy rằng, giá trị đạo đức, nhân văn hiện hữu trong mỗi con người không tự
nhiên mà có, nó là kết quả của quá trình giáo dục và tự giáo dục trong đó, con đường
giáo dục thông qua trường học luôn đóng vai trò quan trọng. Nếu không có định
hướng giáo dục của nhà trường, gia đình, xã hội thì hệ thống giá trị đạo đức, nhân
văn cốt lõi sẽ hình thành ngẫu nhiên, tự phát, lệch lạc không đáp ứng được yêu cầu
xã hội. Mỗi chế độ xã hội có một chuẩn mực đạo đức và pháp luật riêng để giáo dục
con người. Từ đó, có thể định nghĩa giáo dục công dân như sau: Giáo dục công dân
là một môn học nhằm giáo dục nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống cũng như
giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ của người học sinh đối với gia đình, cộng
đồng, xã hội. Đây là môn học đóng vai trò to lớn trong việc giáo dục nhân cách cho
học sinh, xây dựng nền tảng đạo đức để các em trưởng thành.
Trong hệ thống các môn học ở trường phổ thông Việt Nam, Giáo dục công dân
là môn học mới, thay thế môn Chính trị trước đây. Năm 1990-1991 môn Giáo dục
công dân mới được thực hiện đại trà ở bậc Trung học phổ thông. Trước năm 1991
nội dung môn Giáo dục công dân chủ yếu hướng đến mục tiêu tuyên truyền về đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và được gọi là môn
Chính trị. Sau năm 1991, Giáo dục công dân mới được xem là môn khoa học xã hội,
chú trọng mục tiêu giáo dục nhân cách. Chỉ thị số 30/1998/CT-BGD ĐT của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngày 20/5/1998 đã xác định: “Môn Giáo dục công
dân ở trường Trung học phổ thông có vị trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển
nhân cách học sinh”. Tuy nhiên mãi đến năm 2002, chương trình môn Giáo dục công
dân hiện hành mới được xây dựng và năm học 2006-2007 được thực hiện đại trà.
4


Theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, nội dung môn Giáo dục công dân bậc Trung học phổ thông bao
gồm:

- Lớp 10 có hai chủ đề: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học và Công dân với đạo đức.
- Lớp 11 gồm có 2 chủ đề: Công dân với kinh tế và Công dân với các vấn đề
chính trị-xã hội.
- Lớp 12 có 01 chủ đề: Công dân với pháp luật.
Nhìn chung chương trình môn Giáo dục công dân hiện hành ở bậc Trung học phổ
thông về cơ bản đã đáp ứng đúng quy định của Luật Giáo dục, được cụ thể hóa trên
ba bình diện: kiến thức, kỹ năng và thái độ; đã xác định được chuẩn kiến thức, kỹ
năng làm cơ sở biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên để giảng dạy và kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh; đã chú trọng đến giáo dục các giá trị, chuẩn
mực đạo đức và chuẩn mực pháp luật gắn với quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Kết cấu chương trình đã có phần dạy về các vấn đề của địa phương. Tuy nhiên, nội
dung chương trình và sách giáo khoa được biên soạn cách đây khá lâu do đó có nhiều
nội dung mới không được cập nhật cần được bổ sung và phát triển.
1.1.2 Khái niệm phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân
Danh từ phương pháp theo nghĩa gốc chữ Hy Lạp là Metod nghĩa là con
đường, phương tiện hay phương thức hành động để đạt đến mục đích nào đó. Theo
nghĩa chung nhất, phương pháp được hiểu là phương thức giúp chúng ta tìm hiểu sự
vật hiện tượng, nhận thức được đối tượng. Với ý nghĩa đó, trong hoạt động thực tiễn
và nhận thức, con người cần nắm lấy phương pháp tối ưu nhằm đạt được hiệu quả
một cách nhanh nhất, đúng đắn nhất.
Phương pháp giữ vai trò rất quan trọng, có tính chất quyết định tới hiệu quả của
con người trong hoạt động. Nhà giáo dục học V.I.Paplôp cho rằng: "Với một phương
pháp tốt, một tài năng vừa phải có thể làm được nhiều việc. Còn đối với một phương
pháp tồi thì ngay cả thiên tài cũng sẽ không làm được gì và cũng không có thành tựu
gì có giá trị và chính xác".
5


Phương pháp gồm hai mặt:

Mặt chủ quan: Con người là chủ thể sáng tạo và sử dụng phương pháp. Phương
pháp là sản phẩm của hoạt động nhận thức của con người.
Mặt khách quan: Để sáng tạo, vận dụng phương pháp đạt hiệu quả phải xuất
phát từ khách thể trong hiện thực khách quan, phù hợp với quy luật, hoàn cảnh khách
quan và đối tượng tác động.
Cho đến nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về dạy học. Theo nghĩa chung
nhất, dạy học là một quá trình bao gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định
hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục
đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa
mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó người học có khả năng giải quyết được
những vấn đề thực tiễn đặt ra trong cuộc sống của mình. Dạy học là tạo môi trường
cho học sinh học theo cách học của chúng, trẻ học những cái mà chúng khám phá ra
chứ không phải là những cái mà giáo viên áp đặt vì quá trình học của học sinh là quá
trình suy nghĩ diễn ra trong đầu của học sinh, có như vậy học sinh mới hiểu và nhớ.
Từ xưa đến nay, có rất nhiều cách dạy học nhưng chung quy lại có hai cách dạy
học cơ bản. Một là, dạy học theo kiểu kiến tạo (Dạy học tích cực, hiện đại) tức là
giáo viên thường đưa ra các câu hỏi nhằm gợi mở cho học sinh khám phá tri thức,
sau đó, giáo viên sửa sai cho học sinh. Cách dạy học này, giáo viên đóng vai trò là
người cố vấn, tổ chức cho học sinh tìm kiếm tri thức còn học sinh là người chủ động,
sáng tạo trong việc học. Hai là dạy học theo hình mẫu (dạy học truyền thống), giáo
viên dạy những gì mình có còn học sinh thụ động chiếm lĩnh tri thức. Cách dạy học
này, giáo viên là hình mẫu duy nhất trong việc cung cấp tri thức cho học sinh học
sinh ít có cơ hội chia sẻ đóng góp những kiến thức và kinh nghiệm của mình. Vì chỉ
có một phía trình bày là giáo viên nên dường như giáo viên là người chịu trách
nhiệm duy nhất về thành công và chất lượng của bài dạy. Điều này không thể khuyến
khích học sinh tích cực học tập, dễ ỷ lại vào giáo viên. Như vậy, dạy như thế nào và
học như thế nào cho có hiệu quả lại là vấn đề phương pháp.
Phương pháp dạy học là phương pháp được xây dựng và vận dụng vào một quá
trình cụ thể - quá trình dạy học. Đây là quá trình được đặc trưng ở tính hai mặt: Hoạt
động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Do đó, phương pháp dạy học là tổ hợp

6


các cách thức hoạt động của cả thầy và trò trong quá trình dạy học, được tiến hành
dưới vai trò chủ đạo của thầy và chủ động của trò nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ
dạy học. Nói cách khác đó là cách thức dạy của thầy nhằm truyền đạt tri thức và cách
thức hoạt động của trò nhằm tiếp thu tri thức. Bản chất của phương pháp dạy học là
sự tác động biện chứng giữa hai chủ thể: thầy và trò. Đó là sự tương tác giữa hai hoạt
động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích: chiếm lĩnh tri
thức. Trong đó, cách dạy của thầy quyết định cách học, khả năng nhận thức của trò,
ngược lại cách học của trò cũng tác động đến sự vận dụng, điều chỉnh cách dạy của
thầy.
Một trong những yêu cầu đầu tiên đối với giáo viên trong quá trình dạy học là
phải tìm hiểu, nắm bắt được những thông tin cơ bản và nhu cầu học tập của học sinh
để từ đó giáo viên có những phương pháp, nội dung dạy học phù hợp, dạy những cái
gì mà người học muốn học chứ không dạy cái mà người dạy có. Trong một buổi dạy
giáo viên phải định lượng xem học sinh đã biết được những gì, học sinh muốn điều
gì và cần học cái gì? Điều gì chưa hiểu? Trên cơ sở đó, giáo viên đề ra các biện pháp
tác động phù hợp với từng đối tượng, từng nhóm học sinh và điều chỉnh phương
pháp nội dung bài giảng của mình. Người ta nói ví von rằng, nếu bạn là một người
thợ xây, bạn có hộp đồ nghề. Trong hộp đồ nghề có đầy đủ tất cả các vật dụng cần
thiết, người thợ xây phải suy nghĩ để sử dụng đúng công dụng của từng đồ vật khác
nhau. Tương tự như vậy, trong giảng dạy có rất nhiều phương pháp. Người giáo viên
phải có nền tảng kiến thức, nắm vững các phương pháp giảng dạy để vận dụng linh
hoạt mới có hiệu quả.
Đối với người học (học sinh) cần phải ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của
mình trong học tập. Có ba quan điểm về học tích cực, đó là:
Thứ nhất, học là công việc của người học chứ không phải là việc của người
khác.
Thứ hai, mỗi cá nhân sẽ được gọi là học nếu nếu bản thân họ đưa ra cách trả

lời và khi đó, họ đã đối phó được với việc học, còn khi họ sao chép từ sách hay từ
kiến thức của giáo viên thì không phải là học (chỉ là quá trình chuyển giao). Đó là
quá trình dạy học lấy học sinh làm trung tâm.

7


Thứ ba, người học có cơ hội học tập, họ muốn học, nội dung bài học là những
cái lôi cuốn họ.
Ở trường Đại học New England, Australia cho rằng, người học học tốt nhất khi
đáp ứng được 10 điều sau đây:
+ Kiến thức trước đây của mỗi cá nhân được liên kết.
+Giáo viên phải nắm được kiến thức có sẵn vè các lĩnh vực của học sinh.
+Khi người học được thảo luận vấn đề họ hiểu với người khác
+Khi người học được tạo động cơ học, họ thích học và bị cuốn hút vào việc
học
+Khi người học cảm thấy thoải mái trước việc đương đầu với thử thách
+Khi người học hiểu rõ người dạy yêu cầu họ cái gì
+Khi người học có đủ thời gian mà họ có thể làm chủ được kiến thức của
mình.
+Khi người học học tập thật sự tích cực
+Khi người học hiểu được vấn đề bằng cách của họ
+Khi những lời giải thích của người dạy phù hợp với phương pháp học của
người học.
1.2 Thực trạng dạy học môn GDCD ở trường Trung học phổ thông
1.2.1 Về phía người dạy (giáo viên)
Dạy học môn Giáo dục công dân gần đây đã có khởi sắc, giáo viên đã chú trọng
hoạt động dạy học kích thích tính tích cực học tập của học sinh, sưu tầm dụng cụ trực
quan để bài giảng thêm sinh động, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, sử
dụng phương tiện dạy học hiện đại, học sinh chủ động hơn trong học tập. Tuy nhiên,

dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông hiện nay vẫn còn tồn
tại nhiều bất cập. Cụ thể:
Có nhiều giáo viên lạm dụng phương pháp thuyết trình làm cho không khí lớp học
nhàm chán, chất lượng dạy học chưa cao. Mặc dù đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh đã trở thành nguyên tắc dạy học, được
quán triệt đến từng giáo viên, tuy nhiên đến nay phổ biến vẫn là phương pháp dạy
học truyền thống, giáo viên thuyết giảng, học sinh nghe và ghi chép lại. Nhiều giáo
8


viên đã lạm dụng phương pháp này làm cho không khí lớp học trở nên nặng nề, hiệu
quả dạy học chưa cao. Chính giáo viên cũng cảm thấy căng thẳng và mệt mỏi do áp
lực thời gian và nội dung cần truyền tải. Chúng ta biết rằng phương pháp dạy của
thầy quyết định phương pháp học của trò và phương pháp học của trò cũng có tác
động nhất định đến phương pháp dạy của thầy.Vì vậy, nếu sử dụng thuần túy phương
pháp thuyết trình một chiều sẽ không tạo cho học sinh thói quen tự học, tự nghiên
cứu. Hậu quả là làm triệt tiêu tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của người học
trong học tập, hiệu quả dạy học không cao, ở tầm vĩ mô thì chi phí đào tạo không
hiệu quả.
Nhiều giáo viên chưa đầu tư, chưa tỏ ra linh hoạt trong vận dụng phương pháp
dạy học tích cực dẫn đến chất lượng bài dạy chưa cao. Một số giáo viên sử dụng
phương pháp dạy học tích cực chủ yếu thảo luận nhóm, phương pháp hỏi đáp nhưng
chưa đầu tư xây dựng hệ thống câu hỏi dẫn đến lên lớp đặt câu hỏi tùy tiện như câu
hỏi quá dễ, quá khó, quá dài, nội dung nào cũng nêu câu hỏi dẫn đến mục tiêu bài
dạy không đạt được. Mặt khác, khi học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên không có thói
quen nhận xét, đánh giá, khích lệ, động viên. Do đó, không phát huy được hiệu quả
trong dạy học. Các hình thức thảo luận rập khuôn, máy móc, chưa chú ý đến sự tham
gia tích cực của các thành viên nhóm dẫn đến nhiều học sinh quan niệm giờ thảo
luận cũng là giờ nghỉ giải lao.
Trong giảng dạy việc liên hệ thực tiễn của giáo viên còn có nhiều bất cập.

Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, một bộ phận giáo viên
chưa chú trọng liên hệ thực tiễn, thông tin mới chưa được cập nhật kịp thời, lý giải
các vấn đề thực tiễn đôi khi chưa thấu đáo dẫn đến bài giảng đơn điệu, sáo rỗng,
nhàm chán. Như trên đã viện dẫn, môn Giáo dục công dân là tổ hợp các môn học
mang tính lý luận cao song lý luận tự bản thân nó là sự tổng kết thực tiễn, vì vậy nếu
trong giảng dạy giáo viên không gắn lý luận với thực tiễn thì bài dạy sẽ không có
tính thuyết phục cao.
1.2.2 Về phía người học (học sinh)
Thứ nhất, hầu hết học sinh chưa có phương pháp học tập có hiệu quả. Nhiều học
sinh quan niệm, học là khi học sinh lắng nghe giáo viên giảng bài, ghi chép bài và
làm bài tập đầy đủ. Quan niệm về học như vậy là chưa đầy đủ. Thực chất của việc
9


học là tự đặt ra câu hỏi và tự trả lời. Ngoài học ở trên lớp, về nhà học sinh phải đọc,
nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu liên quan, tự đặt câu hỏi và tự trả lời. Tức là các
em phải rèn cho mình có thói quen tự học và tự nghiên cứu. Ngay cả những học sinh
có ý thức tự học, tự nghiên cứu, trả lời vanh vách các câu hỏi của giáo viên nhưng
vẫn chưa phải là mục tiêu học sinh hướng tới. Học là phải tỏ ra có kỷ năng thích ứng
và vận dụng trong thực tiễn cuộc sống. Thực tiễn dạy học cho thấy, hầu hết học sinh
chưa có thói quen tự học, tự nghiên cứu, chưa sử dụng quỹ thời gian tự học ở nhà có
hiệu quả. Các em đang lảng phí thời gian học tập vào ban đêm. Trong khi đó, thời
gian và kiến thức học sinh học ở trên lớp chưa đủ để thẩm thấu, dẫn đến chưa biến
kiến thức của bài học thành kiến thức riêng có của mình.Tình trạng học theo mùa vụ,
học vào thời điểm chuẩn bị thi, học xong rồi quên trở nên phổ biến trong học sinh.
Thứ hai, phần lớn học sinh chưa có thói quen tư duy phản biện trong học tập môn
Giáo dục công dân. Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân
tích và đánh giá một thông tin đã có theo cách nhìn khác nhau nhằm làm sáng tỏ và
khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Tư duy phản biện trở nên đặc biệt quan
trọng đối với phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm – tức kích thích tính

tích cực học tâp của học sinh. Khi học sinh có tư duy phản biện sẽ hiểu sâu sắc hơn
nội sung bài học, kiến thức ghi nhớ bền vững hơn, đồng thời tỏ rõ “cái tôi”, năng lực
chiếm lĩnh tri thức của mình. Tuy nhiên, thực tế các giờ thảo luận hiện nay, nhiều
học sinh còn thụ động, có tư tưởng ngồi chờ, ỉ lại, xuề xòa, ít có chính kiến. Các em
chưa có thói quen đặt câu hỏi, tại sao? Vì sao có kết quả như thế? Nêu ví dụ chứng
minh, cần làm rõ thêm ý? Điều này tôi chưa hiểu? Khi học sinh chưa hình thành
được thói quen tư duy phản biện (đặt câu hỏi chất vấn, lấy ví dụ phân tích, chứng
minh, diễn giải các vấn đề kinh tế - xã hội) sẽ làm cho giờ học nhàm chán, phương
pháp dạy học tích cực trở nên không hiệu quả. Một mặt nào đó chưa tạo ra động lực
chiếm lĩnh tri thức cả người dạy và người học.
Thứ ba, phần lớn học sinh chưa có kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ trong học tập
môn Giáo dục công dân. Kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ là giao tiếp thông qua cử
chỉ, hành động của cơ thể như nét mặt, điệu bộ, cử chỉ, hành động. Những hình thức
giao tiếp này đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình giao tiếp, chuyển tải
thông tin. Ví dụ, khi học sinh thuyết trình nội dung thảo luận của nhóm hoặc bài tập
10


cá nhân nếu sử dụng các động tác, cử chỉ, điệu bộ bổ trợ để biểu lộ, minh hoạ cho bài
thuyết trình của mình ngay lập tức sẽ thu hút sự chú ý, quan tâm của cả lớp. Đồng
thời nó cũng chứng tỏ sự tự tin, cái tôi trong quá trình học tập của học sinh. Khác với
các bộ môn khoa học khác, Giáo dục công dân được xem là một môn học mang tính
lý luận trừu tượng khó so với tư duy của học sinh. Vì vậy, khi trả lời câu hỏi, hay
thuyết trình bài tập thảo luận nhóm học sinh tỏ ra rất căng thẳng. Hầu hết học sinh
chưa có kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ, chủ yếu sử dụng thuần tuý ngôn ngữ nói,
đọc để thuyết trình dẫn đến hiệu quả giờ thảo luận chưa cao. Ví dụ, khi lên bảng trình
bày thay vì nhìn xuống lớp để trao đổi thông tin thì một số học sinh quay mặt về phía
giáo viên đứng nghiêm tỏ vẻ lo lắng, sợ sệt. Một số em trình bày theo kiểu học thuộc
làm cho người nghe nhàm chán. Nguyên nhân của hạn chế này có thể là do tố chất
của một số học sinh nhút nhát, không tự tin khả năng của mình, hoặc do chưa nắm

được nội dung bài học cần chuyển tải, do bí từ diễn đạt, do ức chế tâm lý như đứng
trước đám đông. Những hạn chế trên đang là rào cản lớn trong việc thực hiện phương
pháp dạy học tích cực-Lấy người học làm trung tâm trong dạy học môn Giáo dục
công dân.
Thứ tư, đa số học sinh gặp khó khăn trong việc sưu tầm, lựa chọn ví dụ minh họa
và dẫn dắt vấn đề lý luận. Lựa chọn ví dụ nào để minh họa một cách cụ thể sống
động, dễ hiểu, vừa mang tính thời sự, thực tiễn vừa giải quyết được nội dung, mục
tiêu bài học đặt ra là một thách thức đối với học sinh. Hầu hết, các em tỏ ra không tự
tin với những ví dụ do mình sưu tầm nên chủ yếu dựa vào những ví dụ có sẵn trong
sách tham khảo làm cho phương pháp và cách thức tiếp cận kiến thức còn nghèo nàn,
đơn điệu, thiếu tìm tòi, sáng tạo.
1.3 Đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân hiện nay và một
số yêu cầu đối với giáo viên, học sinh trong quá trình dạy học môn Giáo dục
công dân ở trường Trung học phổ thông
1.3.1 Đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT
hiện nay
Những yếu tố tác động dẫn đến cần phải đổi mới phương pháp dạy học nói chung
và phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân nói riêng. Đó là:
11


Thời kỳ hiện nay là thời kỳ khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin và
truyền thông phát triển nhanh chóng. Nhân loại đang bước đầu quá độ sang nền kinh
tế tri thức, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Bối cảnh quốc tế đó nó đòi hỏi
sản phẩm của đào tạo sẽ hoạt động trong nền kinh tế thị trường có tính quốc tế, sự
hội nhập về văn hóa, giáo dục...Đặc điểm quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường
đó là sự cạnh tranh, do đó, sản phẩm đào tạo vừa phải có bản sắc dân tộc, có tính
quốc tế vừa phải có năng lực cạnh tranh để hội nhập và phát triển. Chính sự phát
triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra yêu cầu mới đối với sự nghiệp giáo
dục đào tạo nguồn nhân lực. Đó là chuyển nền giáo dục mang tính hàn lâm, xa rời

thực tiễn sang chú trọng vào phát triển năng lực, có kỹ năng thích ứng trong môi
trường thực tiễn. Phương pháp dạy học truyền thống nhồi nhét, thầy đọc trò chép
theo lối học vẹt ít thực hành tỏ ra không còn phù hợp với xu thế hiện nay.
Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện về giáo
dục và đào tạo nêu rõ : Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học theo hướng
hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng
của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp
sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa,
nghiên cứu khoa học. Đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ chương trình giáo
dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm
đến học sinh học được cái gì sang quan tâm học sinh vận dụng được cái gì từ bài học.
Chuyển từ lối truyền đạt một chiều sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn
luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập nhóm,
bên cạnh những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ
sung các chủ đề học tập tích hợp liên môn nhằm giải quyết các vấn đề phức hợp
trong cuộc sống.
1.3.2 Một số yêu cầu đối với giáo viên và học sinh trong dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THPT
1.3.2.1 Một số yêu cầu đối với giáo viên trong dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THPT
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và môn Giáo dục công dân nói
12


riêng không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp truyền thống như thuyết trình, đàm
thoại, bài tập mà bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của
nó đồng thời vận dụng những phương pháp dạy học hiện đại nhằm kích thích tính
tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập.
Để nâng cao chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân, người giáo viên nói

chung và giáo viên dạy môn Giáo dục công dân cần đạt được 4 yêu cầu : Đạo đức
nghề nghiệp, ý thức chính trị, năng lực sư phạm, kiến thức chuyên chuyên môn.
Trong đó, năng lực sư phạm và kiến thức chuyên môn là yếu tố động nhất vì nó đáp
ứng đòi hỏi đổi mới phương pháp dạy học tích hợp và phân hóa hiện nay.
Bản chất của quá trình dạy học vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật, do
đó, người giáo viên đứng trên bục giảng phải có 3 yếu tố : Dạy đúng, đảm bảo tính
khoa học; dạy phù hợp với đối tượng và dạy hay, truyền cảm hứng đến cho người
học.
Dạy đúng, đảm bảo tính khoa học yêu cầu người giáo viên phải có trình độ
chuyên môn, năng lực nhận thức nhất định để dạy đúng các khái niệm, chuyển tải nội
dung bài học mang giá trị khoa học cao, học sinh dễ hiểu và nhớ, có khả năng vận
dụng...Hơn ai hết, giáo viên phải là người hiểu rõ yêu cầu, nội dung chương trình
môn học, hiểu rõ nội dung của từng bài dạy để truyền đạt ý tưởng của bài dạy cho
học sinh một cách chính xác nhất.Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, giáo
viên có nền tảng kiến thức chưa đủ mà đòi hỏi người giáo viên phải luôn có thói
quen tự học tự nghiên cứu để làm giàu thêm kiến thức của mình. Mặt khác, phương
pháp dạy theo hướng tích cực còn bao hàm cả việc sử dụng nhiều phương pháp dạy
học mới, nhiều kỹ thuật, công nghệ hiện đại như thiết kế giáo án điện tử vận dụng nó
trong giảng dạy do đó, đòi hỏi giáo viên không chỉ nâng cao kiến thức chuyên môn
mà còn phải nâng cao khả năng sử dụng phương tiện công nghệ thông tin hiện đại.
Để làm được điều này, yêu cầu giáo viên giảng dạy giáo dục công dân phải được đào
tạo đúng chuyên ngành, có hiểu biết sâu rộng ngành học của mình, có kỹ năng sư
phạm tốt. Đáp ứng yêu cầu này giáo viên có thể dạy tốt theo xu hướng tích hợp.
Dạy phù hợp với từng đối tượng chính là dạy học phù hợp trình độ nhận thức, tâm
sinh lý lứa tuổi, dạy học dựa trên tiềm năng và nhu cầu của người học. Khi người
giáo viên bước vào lớp học là giáo viên chấp nhận sự đa dạng về nhân cách của
13


người học. Chính sự đa dạng về nhân cách mà học sinh trong lớp học có nhiều trình

độ, cách thức lĩnh hội kiến thức khác nhau. Do đó, người giáo viên phải thiết kế bài
giảng sao cho đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức và tính nâng cao. Nội dung bài dạy
phải có nhiều hoạt động, có nhiều câu hỏi theo thứ tự từ thấp đến cao để tất cả mọi
học sinh có thể tham gia tích cực. Ở phương Tây, giáo viên thường vận dụng lý
thuyết trí tuệ đa cấp vào dạy học. Lý thuyết này cho rằng, con người có nhiều dạng
trí thông minh khác nhau do đó họ sẽ có cách học khác nhau. Dạy học phải dựa trên
nhu cầu và tiềm năng của mỗi học sinh. Để giảng dạy phù hợp với đối tượng yêu cầu
người giáo viên phải nắm bắt tâm sinh lý học sinh, trình độ nhận thức của từng em,
biết linh hoạt trong việc vận dụng phương pháp dạy học. Bài giảng luôn được bổ
sung mới theo hướng phát triển năng lực học sinh. Chú ý tổ chức dạy học phân hóa
theo năng lực của học sinh. Chú trọng các hoạt động sáng tạo, trải nghiệm của học
sinh. Ngoài việc tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ dạy học ở trên lớp,
giáo viên cần coi trọng giao nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, ở ngoài
nhà trường. Tiếp tục đổi mới kiểm tra, đánh giá theo yêu cầu nâng cao vận dụng kiến
thức liên môn vào thực tiễn, cần tăng cường các câu hỏi mở, gắn với thực tiễn địa
phương và cuộc sống các em để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về các vấn
đề kinh tế -xã hội. Chú ý hướng dẫn học sinh đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá bản
thân, năng lực của mình.Tăng cường bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và đổi mới sinh
hoạt tổ chuyên môn.
Dạy hay được xem là đỉnh cao của dạy học bởi nó kết hợp của rất nhiều yếu tố
như nhân cách, đạo đức, trình độ chuyên môn giỏi, kỹ năng sư phạm vững vàng.
Biểu hiện cụ thể sinh động nhất của dạy hay là sự lôi cuốn người học vào bài dạy.
Chúng ta biết rằng, một giờ dạy thành công không chỉ đo bằng chuẩn kiến thức và kỹ
năng mà còn được đo bằng cảm xúc của người học. Khi nào người học cảm thấy
thích thú với tiết dạy đó mới gọi là thành công trọn vẹn. Trong thời đại bùng nổ
thông tin hiện nay thì người học có thể tiếp nhận tri thức bằng nhiều kênh khác nhau
do đó, đỉnh cao của dạy học chưa hẵn là truyền đạt kiến thức mà chính là truyền cảm
hứng đến cho người học. Khi người học cảm thấy thích thú giờ học nào đó thì tự nó
sẽ chuyển thành động cơ nghiên cứu học tập của học sinh. Thực tiễn dạy học cho
thấy rằng, để dạy hay, ngoài phẩm chất chính trị, đạo đức thì người giáo viên cần

14


phải có trình độ chuyên môn yên thâm, năng lực sư phạm vững vàng.
Xuất phát từ những yêu cầu chung về chuẩn nghề nghiệp của giáo viên, người
giáo viên giảng dạy Giáo dục công dân cần có các năng lực sau:
Năng lực dạy học môn Giáo dục công dân: Đó là năng lực xây dựng kế hoạch
giảng dạy môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông thể hiện ở khả năng xác định
mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học phù hợp với nội dung tri thức môn Giáo
dục công dân với đặc điểm tâm sinh lý học sinh ; Năng lực dạy học theo hướng phát
triển chương trình môn Giáo dục công dân thể hiện ở khả năng dạy học, kiểm tra,
đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ được quy định trong chương trình
môn Giáo dục công dân bậc THPT; Năng lực vận dụng các phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; Năng lực sử
dụng hiệu quả các phương tiện dạy học môn Giáo dục công dân theo hướng ứng
dụng công nghệ thông tin ; Năng lực kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Giáo
dục công dân của học sinh một cách trung thực, khách quan, không phân biệt đối xử;
Năng lực giáo dục học sinh qua môn Giáo dục công dân thể hiện ở khă năng tổ chức
các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh, phát hiện và xử lý tình huống
trong dạy học một cách kịp thời có hiệu quả; Năng lực phát triển nghề nghiệp thể
hiện khả năng tự tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách, tự học, tự nghiên
cứu để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ.
1.3.2.2 Một số yêu cầu đối với học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân ở
trường THPT
Theo quan điểm dạy học hiện đại, quá trình dạy học là sự tác động biện chứng
của hai chủ thể giáo viên và học sinh. Để hoạt động dạy học có hiệu quả thì cần phải
có yêu cầu đối với học sinh về phẩm chất, năng lực học tập thể hiện trên các yếu tố ý
thức được tầm quan trọng của học tập, tự giác, chủ động học tập, biết cách tự học, tự
nghiên cứu. Môn Giáo dục công dân bao gồm tổ hợp kiến thức liên môn mang tính lý
luận cao do đó, yêu cầu học sinh cần rèn luyện ý thức học tập, khả năng tập trung cao

trong giờ học. Học sinh phải xem việc học là nhiệm vụ của mình nên cần chủ động
trong việc học. Tích cực chủ động trong học tập là phải động não, biết vận dụng và
có ý thức thực hiện các chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực pháp luật đã được học.
Dạy học hiện nay phải đặt học sinh vào vị trí trung tâm, đóng vai trò là người
15


chủ động trọng trong việc học. Đây là điểm khác biệt so với phương pháp dạy học
truyền thống. Dạy học môn Giáo dục công dân theo hướng phát triển năng lực người
học đòi hỏi giáo viên phải thiết kế nhiều hoạt động cho học sinh trải nghiệm. Từ đó
các em mới có niềm tin vào các chuẩn mực đạo đức, pháp luật và vận dụng tốt trong
cuộc sống.
Theo quan điểm dạy học mới, để học tốt, học sinh phải quán triệt hai nguyên tắc
học sau:
Học là việc của người học chứ không phải của người khác.
Học là tự trả lời câu hỏi còn việc sao chép từ sách này qua sách khác là cách học
truyền thống chứ không phải hiện đại, kích thích tính tích cực của người học.

CHƯƠNG 2 MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH
CỰC HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THPT HIỆN
NAY
2.1 Phương pháp thu thập thông tin
Theo lý thuyết về trí tuệ đa dạng của H Gardner thì con người có nhiều dạng
trí tuệ khác nhau do đó mỗi cá nhân sẽ có cách học khác nhau. Dạy học lấy người
học làm trung tâm là giáo viên phải luôn tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu học tập của học
sinh để có những phương pháp, nội dung dạy phù hợp. Dạy học phải dựa trên nhu
cầu, tiềm năng của người học. Cách làm là ngay buổi đầu lên lớp, giáo viên phải có
sẵn chương trình môn học GDCD để phổ biến cho toàn lớp. Nói rõ mục tiêu, yêu cầu
của môn học này. Giáo viên có thể chia thành từng nhóm hoặc làm việc từng cá nhân
(tùy theo sĩ số của lớp đông hay ít). Nội dung thu thập thông tin là những điểm mạnh,

điểm yếu, nhu cầu học tập của học sinh, trên cơ sở thông tin thu thập được giáo viên
sẽ nắm bắt được tâm sinh lý, nhu cầu, khả năng của các em để có phương pháp dạy
học phù hợp.
Điểm mạnh

Điểm yếu

Nhu cầu/ mong muốn học
tập của học sinh

16


Ngoài ra, sau mỗi tiết dạy, giáo viên có thể dùng 5 phút trước khi kết thúc giờ lên lớp
để hỏi học sinh ba câu hỏi cơ bản:
- Các em đã biết thêm những nội dung gì mà trước đây chưa biết?
- Vấn đề nào làm cho các em cảm thấy hứng thú/khó hiểu?
- Các em muốn học thêm, biết thêm những vấn đề nào trong ngày mai?
Sau đó, giáo viên hướng dẫn học sinh nghiên cứu chương trình học và điền
thông tin ngắn gọn vào bảng sau:
Biết

Hứng thú/khó hiểu

Muốn học

Trên cơ sở các thông tin thu thập được từ học sinh để giáo viên đề ra các biện
pháp, phương pháp tác động phù hợp với từng đối tượng, từng nhóm học sinh và
điều chỉnh nội dung, phương pháp bài dạy của mình. Cách làm này nên tiến hành
thường xuyên bởi vì tạo cho học sinh có cảm giác mình được quan tâm, được coi

trọng, rèn luyện được thói quen tự học, tự nghiên cứu, kích thích các em động não
trong học tập. Về phía giáo viên sẽ tạo được thói quen tìm tòi, nghiên cứu bài giảng
trước khi đến lớp, kịp thời điều chỉnh phương pháp, nội dung bài giảng của mình.
Đồng thời nó tạo nên sự phối kết hợp trong dạy và học, đảm bảo sự trao đổi thông tin
hai chiều giữa giáo viên và học sinh.
2.2 Phương pháp phá băng
Cơ sở lý luận của phương pháp này là học sinh từ các nơi khác nhau cùng về
học chung một lớp. Sự khác nhau về nơi ở, về môi trường học tập mới, môn học mới,
thầy cô mới dẫn đến tâm lý chung của các em là bỡ ngỡ, lạ lùng, lúng túng, vừa
muốn “tìm hiểu” lại vừa “phòng thủ”, e ngại tạo nên sự “đóng băng” trong quan hệ
giao tiếp. Điều này cản trở giáo viên thực hiện phương pháp thảo luận nhóm và làm
việc theo nhóm. Vì vậy, việc làm đầu tiên của giáo viên trong buổi đầu tiên lên lớp là
“phá băng”, phá tan khoảng cách đóng băng trong giao tiếp để các em hợp tác, cởi
mở hơn. Phương pháp này được hiểu như một trò chơi, một cách thức tổ chức lớp
học lấy người học làm trung tâm.

17


Cách thức tiến hành: Giáo viên mời khoảng 8 học sinh tham gia trò chơi, chia
thành 4 cặp đôi. Mỗi cặp đôi (2 học sinh) người đóng vai “hỏi” và người còn lại đóng
vai “trả lời”. Người đóng vai hỏi có nhiệm vụ thu thập thật nhiều thông tin về người
bạn của mình. Sau 3 phút, cặp đôi nào nói được nhiều thông tin về người bạn của
mình nhất thì cặp đôi đó chiến thắng.
Ý nghĩa, tác dụng của trò chơi này là làm cho không khí của lớp học vui vẻ,
hoà đồng, thân thiện hơn, giúp cho học sinh hiểu biết lẫn nhau, thấy được tầm quan
trọng của việc hợp tác, chia sẻ thông tin trong học tập và trong cuộc sống. Từ đó, học
sinh sẽ có ý thức hợp tác, chia sẻ, tương trợ trong các giờ thảo luận nhóm và làm việc
theo nhóm. Đây không chỉ là hoạt động làm quen đơn thuần mà còn là một cách thức
tổ chức lớp học lấy người học làm trung tâm.

2.3 Phương pháp sơ đồ mạng nhện
Cơ sở lý thuyết của phương pháp này là “học là việc của người học chứ không
phải của người khác”. Vì vậy, người học phải độc lập, suy nghĩ và tự đưa ra câu trả
lời.
Cách thức tiến hành: Giáo viên vẽ lên bảng một vòng tròn, ở giữa vòng tròn là
câu hỏi (nội dung) học sinh cần tìm hiểu. Xung quanh vòng tròn là các tia. Mỗi tia là
một câu trả lời ngắn gọn. Học sinh tự nghiên cứu trong khoảng thời gian nhất định
(thường từ 3-5 phút) sau đó chọn những từ trọng tâm nhất để điền vào các tia xung
quanh vòng tròn. Ví dụ khi dạy bài 8: Tồn tại xã hội và ý thức xã hội (Sách GDCD
lớp 10, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam năm 2010), giáo viên có thể sử dụng sơ đồ
mạng nhện để làm rõ các yếu tố cấu thành tồn tại xã hội, giáo viên hướng dẫn học
sinh nghiên cứu sách giáo khoa và vẽ sơ đồ mạng nhện như sau:
Môi trường tự
nhiên

Các yếu tố cấu thành tồn
tại xã hội
Dân số
18


Phương thức sản xuất

Theo mô hình này, ở giữa vòng tròn là câu hỏi giáo viên đưa ra hay nói cách khác đó
là nội dung học sinh cần làm sáng tỏ (phân tích các yếu tố cấu thành tồn tại xã hội).
Nhìn vào mô hình trên, học sinh nhanh chóng nhận biết được có 3 yếu tố cấu thành
tồn tại xã hội đó là: Môi trường tự nhiên, dân số và phương thức sản xuất.
Vận dụng phương pháp này bắt buộc 100% học sinh có sẵn sách giáo khoa và
phải tư duy để tìm ra câu trả lời ngắn gọn nhất. Sau khi hoàn thành sơ đồ màng nhện,
giáo viên cử một hoặc hai học sinh nhìn vào nội dung “rút gọn”

Ý nghĩa, tác dụng của phương pháp này là rèn luyện cho học sinh khả năng tư duy
xác định nội dung trọng tâm của nội dung bài học cần tìm hiểu, rèn luyện kỹ năng
phân tích, lý giải vấn đề. Đây cũng là một phương pháp tốt giúp cho học sinh cũng
cố, ôn tập các kiến thức đã học.
2.4 Phương pháp tình huống
2.4.1 Khái niệm
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học bên cạnh sử dụng phương pháp dạy
học truyền thống cần áp dụng phương pháp giảng dạy khích lệ tính chủ động, tích
cực, sáng tạo của học sinh trong học tập. Phương pháp giảng dạy bằng tình huống
(phương pháp tình huống) là một trong những phương pháp có thể giảm lối học thụ
động, sách vở, rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy phản biện cho học sinh.
Theo từ điển Tiếng Việt “Tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một
nơi, trong một thời gian hoặc một thời điểm”. Từ khái niệm trên cho thấy, tình huống
được nảy sinh trong đời sống thực tiễn, nó đặt ra yêu cầu cho con người cần phải suy
nghĩ, đối phó hoặc giải quyết để mang lại hiệu quả trong công việc, trong cuộc sống.
Tình huống trong giảng dạy là một câu chuyện miêu tả một sự kiện, hoàn cảnh
có thật hay hư cấu để đạt được mục tiêu bài giảng đã đề ra. Tình huống bao giờ cũng
mang tính gay cấn, xung đột mở ra nhiều cách liên tưởng, giải quyết khác nhau. Do
đó, hình huống trong giảng dạy thường là câu chuyện chưa hoàn chỉnh. Bản chất
19


của phương pháp dạy học bằng tình huống ở bậc trung học phổ thông là thông qua
việc giải quyết những tình huống, học sinh có được kỹ năng đối phó, tự tin và xử lý
linh hoạt các vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Môn Giáo dục công dân có tính đặc thù trong việc trang bị cho học sinh hệ
thống kiến thức về các chuẩn mực đạo đức, pháp luật phù hợp với lứa tuổi để từ đó
góp phần hình thành những phẩm chất, nhân cách của con người Việt Nam trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ
của thời đại. Vì vậy, dạy học Giáo dục công dân cần phải gắn với đời sống thực tiễn.

Sử dụng phương pháp tình huống trong dạy học môn Giáo dục công dân khắc phục
được tính lý thuyết, trừu tượng, học sinh không phải tiếp nhận những nguyên lý, quy
luật triết học, kinh tế chính trị, pháp luật chung chung mà đi thẳng vào giải quyết
những vấn đề thực tế. Trên cơ sở đó làm tăng thêm sự hiểu biết và khả năng áp dụng
các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, các nguyên lý, quy luật đã học vào thực tiễn cuộc
sống. Đồng thời sử dụng phương pháp tình huống làm cho giờ học sinh động hẳn lên,
thúc đẩy sự quan tâm chú ý của học sinh và tăng cường sự say mê yêu thích của học
sinh đối với môn học này.
2.4.2 Các bước thực hiện phương pháp tình huống trong dạy học môn Giáo dục công
dân
- Bước 1: Chuẩn bị tình huống
Để thực hiện tốt phương pháp tình huống, khâu quan trọng đối với giáo viên là
bước chuẩn bị tình huống trước khi lên lớp. Trong bước chuẩn bị, giáo viên phải lựa
chọn tình huống có sẵn do sưu tầm hoặc tự xây dựng. Tùy theo mục tiêu bài dạy mà
lựa chọn tình huống cho phù hợp. Tình huống phải mang tính thời sự và sát thực tế;
tạo khả năng để học sinh đưa ra nhiều giải pháp. Nội dung tình huống phải đúng và
phù hợp với trình độ của học sinh THPT, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của môn
học.
Sau khi đã chuẩn bị tình huống cụ thể và các câu hỏi liên quan đến tình huống,
giáo viên lập kế hoạch chia nhóm, phân công nhiệm vụ, xác định thời gian và định
hướng cách xử lý tình huống.
Bước 2: Tổ chức thực hiện.
Muốn thực hiện thành công phương pháp tình huống, ngoài những hiểu biết
20


sâu về tình huống giảng dạy, giáo viên cần có các kỹ năng dạy học theo nhóm, kỹ
năng tổ chức lớp học.
Giáo viên giới thiệu tình huống và cung cấp thông tin về tình huống cho từng
cá nhân hoặc từng nhóm học sinh. Có nhiều cách cung cấp thông tin về tình huống

(phát tài liệu, qua băng video, nói trên lớp, yêu cầu các học sinh đóng vai). Giáo viên
dành thời gian để từng học sinh đọc, tìm hiểu về tình huống. Tuỳ theo thời lượng, nội
dung của bài giảng, độ phức tạp của tình huống, quy mô lớp học để quyết định thời
gian. Giáo viên cần phải đảm bảo rằng tất cả học viên trong lớp đã hiểu rõ tình
huống. Giáo viên chia thành các nhóm học sinh để thảo luận tình huống. Nêu rõ
nhiệm vụ mà nhóm phải hoàn thành, thời gian và cách thức làm việc nhóm. Khi các
nhóm bàn bạc, trao đổi, thảo luận, giáo viên cần đi đến từng nhóm để theo dõi xem
các nhóm có đi đúng hướng không? Có cần trợ giúp không? Sau khi hết thời gian
thảo luận, các nhóm trình bày kết quả xử lý tình huống của nhóm mình bằng hình
thức đóng vai, cả lớp đóng góp ý kiến. Sự thành công của cuộc thảo luận mở này (cả
lớp cùng trao đổi trao đổi, thảo luận) sẽ quyết định thành công của phương pháp tình
huống. Khi các học sinh thảo luận, giáo viên có thể ghi chép lại, tóm tắt những gì đã
đạt được, đưa ra những nhận xét, đánh giá và chốt lại vấn đề.
Ví dụ, vận dụng một tình huống cụ thể vào dạy học bài1: Thế giới quan duy
vật và phương pháp luận biện chứng, sách Giáo dục công dân lớp 10, nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam, năm 2006.
Tình huống: Cách xem xét các sự vật hiện tượng
Cách tiến hành như sau:
Thứ nhất, xây dựng mục tiêu tình huống.
Thông qua việc giải quyết tình huống “Cách xem xét các sự vật hiện tượng” để
trang bị cho học sinh những kiến thức, hiểu biết về phương pháp biện chứng, phương
pháp siêu hình. Học sinh biết vận dụng nội dung phương pháp biện chứng, phương
pháp siêu hình để lý giải, phân tích các vấn đề thực tiễn đặt ra trong cuộc sống và có
quan điểm biện chứng khi xem xét các sự vật hiên tượng.
Thứ hai, cung cấp thông tin về nội dung tình huống.
Hoàn thành công việc đồng áng, ông Hoà tranh thủ đi cắt tóc. Sau khi cắt tóc
xong, ông hỏi anh thợ cắt tóc: “Hết bao nhiêu tiền để chú trả”.
21



Anh thợ cắt tóc vừa dọn dẹp vừa lễ phép trả lời: “Dạ, ba mươi ngàn đồng thưa
chú”. Ông Hoà giãy nảy: “Sao đắt thế? Cách đây vài tháng chú lấy hai mươi ngàn
đồng thôi mà”. Anh thợ cắt tóc phân trần: “Thưa chú, dạo này mọi chi phí đều tăng
lên gấp đôi, từ lương thực, xăng dầu, tiền điện, tiền nước, tiền thuê cái quán này cũng
tăng lên chú à”. Ông Hoà tỏ vẻ bực bội: “Giá lương thực, điện nước, xăng dầu, thuê
quán đúng là tăng cao nhưng mà có liên quan gì đến việc cắt tóc đâu? Chú mày
“chém” đắt quá!”. Nói vậy nhưng ông Hoà vẫn móc ví trả tiền. Ông ra về mà trong
lòng vẫn ấm ức. Chứng kiến câu chuyện của ông Hoà từ đầu tới cuối, Bạn A cho
rằng lập luận của anh thợ cắt tóc rất biện chứng còn lập luận của ông Hoà thì mang
tính siêu hình. Em có đồng ý với ý kiến của bạn A không? Tại sao?
Thứ ba, nêu nhiệm vụ của học sinh
Học sinh phải vận dụng kiến thức triết học về phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình để xác định quan điểm của anh thợ cắt tóc và ông Hoà là
mang tính biện chứng hay siêu hình? Xem xét quan điểm nào là hợp lý và cần rút ra
kết luận gì về cách xem xét các sự vật hiện tượng?.
Thứ tư, hướng dẫn thực hiện
Giáo viên cử ba học sinh đóng vai: anh thợ cắt tóc, ông Hoà, bạn A. Phương
tiện sử dụng trong giảng dạy: Bảng viết, giấy khổ lớn. Phòng học đủ lớn để các nhóm
làm việc.
Giáo viên tổ chức theo các bước sau:
+ Bước 1: Học sinh tìm hiểu tình huống, cử 3 học sinh đóng vai.
+ Bước 2: Chia nhóm để thảo luận: Tuỳ theo số lượng học sinh và lượng thời
gian để chia nhóm.
+ Bước 3: Học sinh thảo luận theo nhóm.
+ Bước 4: Mỗi nhóm cử đại diện trình bày.
+ Bước 5: Thảo luận cả lớp về các ý kiến đã trình bày.
+ Bước 6: Giáo viên kết thúc thảo luận, chốt lại vấn đề.
Đối với tình huống trên, sau khi tranh luận, giáo viên phải giúp học sinh nhận
thức được:
- Nhận định của bạn A cho rằng: Lập luận của ông Hoà là mang tính siêu hình


22


còn lập luận của anh thợ cắt tóc mang tính biện chứng là chính xác. Đồng ý với ý
kiến của bạn A. Cụ thể:
- Anh thợ cắt tóc lý giải giá cắt tóc tăng lên là do sự ảnh hưởng, tác động của
các chi phí như giá lương thực, xăng dầu, điện nước, tiền thuê quán tăng lên. Trong
trường hợp này, anh thợ cắt tóc đã xem xét sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ, tác
động, ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nên quan điểm của anh thợ cắt tóc là thể hiện
quan điểm biện chứng. Ngược lại, ông Hoà lại cho rằng giá lương thực, thực phẩm,
điện nước, xăng dầu, tiền thuê quán tăng không phụ thuộc, không liên quan đến giá
cắt tóc. Trong trường hợp này, ông Hoà đã xem xét sự việc trong sự tách rời, cô lập
nên lập luận của ông Hoà thể hiện quan điểm siêu hình.
- Trong cuộc sống chúng ta cần có quan điểm biện chứng khi xem xét, đánh
giá các sự vật hiện tượng. Bởi vì, tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan đều liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, không có sự vật nào là đứng yên một
chỗ. Do đó, khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng cần đặt nó trong mối quan hệ
với sự vật khác. Vì vậy, việc anh thợ cắt tóc tăng giá cắt tóc là đúng nhưng anh đã lợi
dụng giá xăng dầu tăng để thu lợi bất chính bằng cách đẩy giá cắt tóc lên quá cao là
không nên.
2.4.3 Một số ưu điểm và hạn chế khi vận dụng phương pháp tình huống vào dạy học
môn Giáo dục công dân
Dạy học Giáo dục công dân bằng tình huống có một số ưu điểm như nâng cao
tính thực tiễn của môn học, gắn lý thuyết vào giải quyết các sự vật, hiện tượng cụ thể
trong cuộc sống. Góp phần làm sáng tỏ nội dung bài học. Bằng những tình huống cụ
thể, kiến thức Giáo dục công dân được cũng cố và nâng cao, học sinh ghi nhớ bền
vững hơn và có khả năng thích ứng trước cuộc sống thực tiễn đầy biến động. Mặt
khác, thông qua cách trình bày xử lý tình huống của học sinh sẽ giúp cho giáo viên
tiếp thu được nhiều ý kiến hay làm phong phú thêm bài giảng của mình và rút ra

nhiều kinh nghiệm khi vận dụng phương pháp tình huống. Bên cạnh đó, dạy học
Giáo dục công dân bằng tình huống gặp phải một số thách thức, khó khăn như làm
gia tăng khối lượng kiến thức, thời gian của giáo viên. Những tình huống Giáo dục
công dân không sẵn có, giáo viên phải đầu tư thời gian, công sức để viết, sưu tầm,
nghiên cứu. Phương pháp tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp hơn so với
23


phương pháp thuyết trình (truyền thống) như cách thức tổ chức lớp học, bố trí thời
lượng, đặt câu hỏi, dẫn dắt cả lớp thảo luận, phản biện, nhận xét. Ngoài ra, để giải
quyết tình huống có hiệu quả, đòi hỏi giáo viên phải nắm vững kiến thức chuyên
môn, vốn hiểu biết rộng, luôn cập nhật thông tin mới, nhuần nhuyễn kỹ năng sư
phạm. Đây thực sự là một thách thức lớn cho giáo viên khi ứng dụng phương pháp
này. Bên cạnh đó, tư tưởng “thầy làm thay cho trò”, ngồi chờ, ỉ lại, ít hợp tác vẫn tồn
tại phổ biến trong cách học của học sinh. Khả năng lập luận và giải quyết các tình
huống Giáo dục công dân của học sinh đặc biệt là học sinh lớp 10 còn hạn chế. Phần
lớn học sinh đều e ngại và cho rằng đây là môn học khó nên tỏ ra mất tự tin khi giải
quyết tình huống.
Từ sự phân tích trên, để có được tình huống phong phú, hay, cập nhật, giáo
viên cần làm những công việc sau:
Một là, giáo viên rèn luyện thói quen sưu tầm, tra cứu tài liệu, nghiên cứu và
viết tình huống. Nội dung tình huống Giáo dục công dân phải mang tính thực tiễn,
thời sự, miêu tả quan niệm sống, cuộc sống thường ngày của con người trong xã
hội... Các tình huống phải bám sát đối tượng học, nhằm giải quyết mục tiêu bài học
đặt ra. Để làm cho tình huống sống động, hấp dẫn nên sử dụng các trích dẫn hài
hước, dí dỏm.
Hai là, sau khi các nhóm trình bày, giáo viên nhận xét, đánh giá bằng điểm số
để khích lệ học sinh tham gia tích cực hơn. Giáo viên không nên tỏ thái độ cáu gắt,
xoáy sâu những sai sót, hạn chế của các nhóm để học sinh tự tin hơn trong các giờ
thảo luận tiếp theo.

Ba là, xây dựng ngân hàng tình huống Giáo dục công dân. Hiện nay việc sưu
tầm, viết tình huống giảng dạy Giáo dục công dân đang dừng ở góc độ cá nhân
nhưng cũng rất hạn chế. Nếu các bộ môn Giáo dục công dân chủ động xây dựng
ngân hàng tình huống thì chất lượng và hiệu quả sẽ được cải thiện đáng kể. Ở cấp vĩ
mô cần có sự giao lưu, nối kết về chuyên môn giữa các trường với nhau. Đây là điều
kiện quan trọng để nâng cao trình độ chuyên môn, cũng như chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực hiện nay.
2.5 Phương pháp thảo luận nhóm
2.5.1 Khái niệm
24


Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học được chia thành những nhóm nhỏ để bàn
bạc, trao đổi, thảo luận về một vấn đề học tập và đưa ra ý kiến chung của nhóm về vấn
đề đó. Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, trong một khoảng thời gian nhất
định, các thành viên trong nhóm tiến hành trao đổi , hợp tác, tranh luận để cùng nhau
giải quyết nhiệm vụ của mình, từ đó tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức của bài học. Trong
quá trình làm việc theo nhóm, mỗi học sinh tự do phát biểu ý kiến của mình, lắng nghe
ý kiến của bạn trong bầu không khí thân thiện, cởi mở.
Khái niệm trên cho thấy, đặc trưng cơ bản nhất của phương pháp thảo luận nhóm
là lớp học được chia thành các nhóm và được phân công giải quyết một công việc cụ
thể hướng tới giải quyết nội dung bài học. Mỗi thành viên không chỉ có trách nhiệm
hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân mình mà còn phải có trách nhiệm hợp tác, giúp đỡ
các thành viên trong nhóm hoàn thành bài tập thảo luận được giao. Kết quả của từng
nhóm sẽ được trình bày trước lớp để thảo luận chung trước khi giáo viên đi đến kết
luận cuối cùng.
Mục đích của việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo
dục công dân là nhằm giúp cho học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học
tập, tạo cơ hội cho học sinh có thể chia sẻ kiến thức về chuẩn mực đạo đức, pháp luật,
triết học, kinh nghiệm trong cuộc sống, những ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên

quan đến nội dung bài học.
2.5.2 Các bước tiến hành phương pháp thảo luận nhóm
Bước 1: Chuẩn bị thảo luận
Giáo viên chuẩn bị trước các chủ đề thảo luận cho từng nhóm. Chủ đề thảo
luận có thể là một nội cụ thể trong bài học, một tình huống, một câu trích dẫn hoặc
câu hỏi mở. Nội dung thảo luận phải nhằm giải quyết mục tiêu bài dạy đặt ra. Giáo
viên phải nghiên cứu kỹ nội dung thảo luận, mục tiêu bài học mà soạn câu hỏi, tình
huống cho phù hợp. Nội dung thảo luận phải đáp ứng được các yêu cầu dạy học là
mang tính vừa sức, tính nâng cao, phù hợp với đối tượng, giải quyết được nội dung
đặt ra. Giáo viên cần có các câu hỏi mang tính gợi ý (bắc giàn). Ví dụ khi dạy bài 13:
Công dân với cộng đồng, sách Giáo dục công dân lớp 10, nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam, năm 2006 giáo viên có thể sử dụng phiếu thảo luận bằng các câu hỏi mở để
làm rõ cộng đồng, mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng như sau:
25


×