Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Bài giảng giáo dục thể chất 2 đại học (bóng chuyền)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.14 KB, 45 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT & QUỐC PHÕNG

GIÁO TRÌNH
(Lƣu hành nội bộ)

GIÁO DỤC THỂ CHẤT (BÓNG CHUYỀN)
(Dành cho các lớp hệ Đại học chính quy)

Tác giả: Bộ môn Giáo dục thể chất

Năm 2016
1


Mục lục
Lời nói đầu

3

CHƢƠNG 1. LÝ THUYẾT

4

1.1. Lịch sử phát sinh, phát triển của môn Bóng chuyền

4

1.1.1. Lịch sử phát sinh, phát triển của môn Bóng chuyền

4



1.1.2. Ảnh hƣởng và tác dụng của tập luyện bóng chuyền đối với cơ thể

12

1.2. Những điều luật cơ bản và phƣơng pháp làm trọng tài

15

1.2.1. Những điểm cơ bản trong Luật bóng chuyền

15

1.2.2. Phƣơng pháp làm trọng tài

27

CHƢƠNG 2. THỰC HÀNH

33

2.1. Tƣ thế chuẩn bị và di chuyển

33

2.1.1. Tƣ thế chuẩn bị

33

2.1.2. Di chuyển


35

2.1.3. Các bài tập về tƣ thế chuẩn bị và di chuyển, thể lực

36

2.2. Kỹ thuật chuyền bóng

36

2.2.1. Chuyền bóng thấp tay bằng hai tay

36

2.2.2. Chuyền bóng cao tay bằng hai tay

37

2.2.3. Các bài tập bổ trợ kỹ thuật chuyền bóng thấp tay và cao tay

39

2.2.4. Các trò chơi vận động với bóng

39

2.2.5. Các bài tập thể lực

39


2.3. Kỹ thuật phát bóng

40

2.3.1. Kỹ thuật phát bóng thấp tay chính diện (nữ)

40

2.3.2. Kỹ thuật phát bóng cao tay chính diện (nam)

41

2.3.3. Các bài tập bổ trợ kỹ thuật phát bóng

42

2.3.4. Các bài tập thể lực

42

2.4. Kỹ thuật đập bóng

42

2.4.1. Kỹ thuật đạp bóng chính diện số 4 theo phƣơng lấy đà

42

2.4.2. Các bài tập bổ trợ để tiếp thu kỹ thuật đập bóng, thể lực


44

TÀI LIỆU THAM KHẢO

45

2


Lời nói đầu
Bóng chuyền là môn thể thao đối kháng gián tiếp và tính tập thể cao, đây cũng là một
môn thể thao giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục thể chất và huấn luyện thể
thao. Để đáp ứng yêu cầu đào việc biên soạn giáo trình phục vụ công tác giảng dạy và học
tập phải đảm bảo tính khoa học và thực tiễn gắn với phát triển của đất nước.
Giảng dạy bóng chuyền không chỉ trang bị cho người tập những kỹ năng, kỹ xảo vận động
mà còn trang bị cho họ những phẩm chất đạo đức, ý chí, tính kiên trì và lòng dũng cảm.
Thông qua các nguồn tài liệu tham khảo của các tác giả, chuyên gia về lĩnh vực bóng
chuyền trong và ngoài nước, cũng như đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy. Chúng
tôi tiến hành biên soạn cuốn “Giáo trình bóng chuyền”, có kết cấu nội dung và phương
pháp sát với chương trình giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học phục vụ sinh viên
trường Đại học Quảng Bình.
Trong quá trình biên soạn giáo trình chúng tôi đã cô đọng, cập nhật một cách đầy đủ nhất
những nội dung kiến thức cơ bản về giảng dạy môn bóng chuyền. Mặc dù đã rất cố gắng
song chắc khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Trân trọng cảm ơn!

3



CHƢƠNG 1. LÝ THUYẾT
1.1. Lịch sử phát sinh, phát triển của môn bóng chuyền
1.1.1. Lịch sử phát sinh, phát triển của môn bóng chuyền
a. Sự hình thành, phát tiển môn bóng chuyền trên thế giới
Các nhà sử học cho rằng: Bóng chuyển ra đời ở Mỹ khoảng năm 1895 do giáo viên
thể thao tên là WILIAM MORGAM nghĩ ra. Lúc đầu, luật chơi đơn giản và đƣợc xem nhƣ
trò chơi vận động cho học sinh. Ông dùng luới cao khoảng 1,95 m và ruột quả bóng rổ để
ngƣời ta chuyền qua lƣới. Lần đầu tiên tổ chức thi đấu bóng chuyền vào tháng 6 năm 1896
tại Springfield.
Năm 1897 ở Mỹ, Luật bóng chuyền ra đời gồm có 10 điều:
1. Đánh dấu sân.
2. Trang phục.
3. Kích thƣớc sân: 7,5 m x 15,1 m.
4. Kích thƣớc lƣới : 0,61 m x 8,2 m ; chiều cao lƣới : 198 cm.
5. Bóng: Ruột bóng bằng cao su, vỏ bóng bằng da hay chất tổng hợp tƣơng tự. Chu vi
bóng: 63,5 cm - 68,5 cm. Trọng lƣợng bóng : 340 gam.
6. Phát bóng: Cầu thủ phát bóng đứng một chân trên vạch biên ngang và đánh bóng
bằng bàn tay mở. Nếu lần đầu phát bóng phạm lỗi thì đƣợc phát lại.
7. Tính điểm: Mỗi lần đối phƣơng không đỡ đƣợc phát bóng thì bên phát bóng đƣợc
một điểm (chỉ có bên phát bóng mới đƣợc điểm).
8. Trong thời gian thi đấu (trừ phát bóng) bóng chạm lƣới coi nhƣ phạm luật.
9. Bóng rơi vào vạch giới hạn là phạm luật.
10. Không hạn chế số ngƣời chơi.
Từ năm 1895 đến năm 1920, bóng chuyền đƣợc du nhập vào các nƣớc khác và phát triển
rộng rãi ở các châu. Trong giai đoạn này luật bóng chuyền cũng thay đổi và hoàn thiện dần.
Năm 1912 các vận động viên nghiệp dƣ thành lập hiệp hội và năm 1913 tổ chức giải
bóng chuyền tại Paradiát.
Bóng chuyền vào châu Âu đầu tiên ở Pháp. Vào Anh năm 1914. Vào Nga, Tiệp Khắc,
Ba Lan khoảng năm 1920 - 1921 và phát triển nhanh ở các nƣớc châu Âu. Năm 1928 tại
Mátxcơva trong chƣơng trình đại hội thể dục thể thao đã có bóng chuyền.


4


Năm 1922 tại Brooklyn (Mỹ) chính thức tổ chức giải bóng chuyền và quyết định đƣa
môn bóng chuyền vào chƣơng trình Thế vận hội lần thứ VIII sẽ tổ chức vào năm 1924 tại
Pari (Pháp).
Cùng với sự phát triển của phong trào bóng chuyền, luật thi đấu cũng đƣợc thay đổi:
- Năm 1900 mỗi điểm kết thúc ở điểm 21. Chiều cao lƣới là 2,13 m và các đƣờng
biên đƣợc tính là trong sân.
- Năm 1912 diện tích sân là 10,6 m x 18,2m; chều cao lƣới là 2,28m; chiều rộng lƣới
là 0,91m. Sau khi phát bóng hỏng thì thay cầu thủ.
- Năm 1917: Chiều cao lƣới là 2,43 m.
- Năm 1918: Đội hình mỗi đội có 6 ngƣời, điểm mỗi hiệp là 15.
- Năm 1921: Có thêm đƣờng kẻ giữa sân.
- Năm 1922: Mỗi đội chỉ đƣợc chạm bóng 3 lần.
- Năm 1923: Diện tích sân bóng chuyền là 9,1 m x 18,2 m
- Năm 1925: Khi ở tỉ số 14 - 14, đội nào hơn 2 điểm trƣớc thì thắng hiệp ấy.
Luật lệ thay đổi có tác dụng thúc đẩy các mặt kỹ thuật và chiến thuật phát triển. Từ
một trò chơi đƣợc hình thành từ các động tác tự nhiên với mục đích nghỉ ngơi tích cực, bóng
chuyền trở thành một môn thể thao.
Từ năm 1929 đến năm 1939, kỹ thuật và chiến thuật bóng chuyền có những bƣớc tiến
nhảy vọt. Chắn bóng tập thể xuất hiện đã thúc đẩy sự phát triển các hình thức tấn công mới.
Bóng chuyền trở thành môn thể thao mang tính tập thể nhiều hơn. Điều đó đƣợc thể hiện rất
rõ trong cách sắp xếp các đấu thủ trên sân, trong việc tổ chức tấn công và phòng thủ, trong
việc yểm hộ ngƣời đập bóng và ngƣời chắn bóng.
Năm 1934 Tại Thụy Điển, thành lập ủy ban kỹ thuật bóng chuyền, quyết định lấy luật
bóng chuyền Mỹ làm cơ sở cho luật thi đấu bóng chuyền (có thay đổi vài điều) và đƣa môn
bóng chuyền vào chƣơng trình thi đấu Thế vận hội năm 1940.
+ Lấy đơn vị mét làm đơn vị đo lƣờng thống nhất.

+ Phần thân thể chạm bóng chỉ đƣợc tính từ thắt lƣng trở lên.
+ Đấu thủ chắn bóng không đƣợc chạm bóng lần thứ 2 khi chƣa có ngƣời khác chạm bóng.
+ Chiều cao của lƣới nữ là 2,24m.
+ Vị trí phát bóng đƣợc thu hẹp lại.

5


Tháng 4/1947 tại Pari (Pháp), Hội nghị bóng chuyền Quốc tế đầu tiên quyết định
thành lập hiệp hội bóng chuyền quốc tế (FIVB). Sự kện này chứng tỏ bóng chuyền là môn
thể thao có tầm thế giới.
Năm 1948: Lần đầu tiên FIVB tổ chức giải vô địch bóng chuyền nam Châu Âu tại ý
với 6 đội tham gia. Đội Tiệp Khắc đoạt chức vô địch.
Tháng 9/1949 tại Praha (Tiệp Khắc) tổ chức giải bóng chuyền Thế giới lần thứ nhất
cho các đội nam và vô địch châu Âu cho các đội nữ. Hai đội bóng chuyền nam, nữ của Liên
Xô đều giành chức vô địch.
Từ 1948 - 1968: Bóng chuyền phát triển mạnh trên thế giới. Các giải vô địch Thế
giới, vô địch châu Âu... đƣợc tiến hành thƣờng xuyên và có nhiều nƣớc tham gia. Giải vô
địch thế giới năm 1956 tại Pháp có 17 đội bóng chuyền nữ và 24 đội bóng chuyền nam tham
gia. Trong đó châu á có 3 đội tham gia là ấn Độ, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Cộng hoà
dân chủ nhân dân Triều Tiên. Châu Mỹ có 3 đội tham gia là Mỹ, Brazin và Cu Ba.
Năm 1964: Bóng chuyền chính thức đƣợc đƣa vào chƣơng trình thế vận hội Tokyo
(Nhật Bản), đội bóng chuyền nam Liên Xô và đội nữ Nhật Bản giang chức vô địch. Luật
bóng chuyền vẫn không ngừng đƣợc hoàn thiện:
+ Năm 1949: Mỗi hiệp đấu đƣợc tạm ngừng 3 lần để hội ý và cho phép chắn bóng tập thể.
+ Năm 1951: Có đƣờng hạn chế tấn công (vạch 3m) và cho phép đổi vị trí trên sân
sau khi phát bóng.
+ Năm 1952: Mỗi hiệp chỉ đƣợc hội ý 2 lần.
+ Năm 1957: Giảm số lần thay ngƣời từ 12 lần xuống 4 lần. Giảm thời gian thay
ngƣời từ 1 phút xuống 30 giây. Cấm làm động tác che khuất đấu thủ phát bóng. Ngoài ra,

FIVB còn qui định Luật bóng chuyền sẽ đƣợc thay đổi 4 năm 1 lần.
+ Năm 1961: Tăng số lần thay ngƣời trong một hiệp lên 6 lần.
+ Năm 1965: Cho phép tay qua lƣới chắn bóng và ngƣời tham gia chắn bóng đƣợc
đánh bóng lần thứ 2 ngay sau khi chắn chạm bóng nhằm nâng cao khả năng phòng thủ và sự
liên tục của trận đấu.
Trong thời gian 1948 - 1968, kỹ chiến thuật bóng chuyền cũng đƣợc phát triển cao:
+ Kỹ thuật đập bóng giãn biên, đập nhanh, đập lao, đập trên tay chắn đã xuất hiện
nhiều ở các giải đấu quốc tế.

6


+ Chiến thuật tấn công cũng phát triển nhƣ: Tấn công 2 chuyền phối hợp với động tác
giả; tấn công 3 ngƣời do hàng sau đan lên tổ chức (chuyền 2); tấn công "đan chéo", "đập
chồng", đập với động tác giả...
+ Chiến thuật phát bóng cũng xuất hiện, đặc biệt là kỹ thuật phát bóng cao tay
nghiêng mình bay của đội bóng chuyền nữ Nhật Bản.
+ Đi đôi với sự cải tiến kỹ - chiến thuật phát bóng, kỹ thuật đệm bóng cũng xuất hiện
và đƣợc sử dụng chủ yếu trong chuyền bƣớc một. Các kỹ thuật lăn ngã cứu bóng trong
phòng thủ cũng ra đời.
Tháng 7/1966 tại Hunggari lần đầu tiên tổ chức Giải bóng chuyền trẻ châu Âu (đến
20 tuổi) có 12 đội nữ và 16 đội nam tham gia. Đội bóng chuyền nam, nữ trẻ của Liên Xô
đoạt chức vô địch.
Bắt đầu từ năm 1965 đã xác định thứ tự tổ chức các giải bóng chuyền quốc tế lớn:
Cúp thế giới tổ chức vào năm sau giải vô địch, sau đó là giải vô địch châu Âu và cuối cùng
là Thế vận hội Olympic. Nhƣ vậy mỗi năm đều có một giải thi đấu chính thức. Từ năm 1975
giải vô địch Bóng chuyền châu Âu 2 năm tổ chức 1 lần.
FIVB tổ chức các giải chính thức sau:
+ Giải trong chƣơng trình của Thế vận hội Olympic tổ chức 4 năm 1 lần (1980...
2000, 2004)

+ Giải Vô địch Thế giới 4 năm một lần (1978, 1982... 1998, 2002).
+ Cúp Thế giới 4 năm một lần (1981, 1985... 2001, 2005).
+ Vô địch châu Âu 2 năm một lần (1981, 1983... 2003, 2005).
+ Vô địch trẻ châu Âu (đến 19 tuổi) 2 năm một lần (1982, 1984...).
+ Cúp vô địch các đội đoạt cúp châu Âu hằng năm dành cho các đội CLB.
Do yêu cầu phát triển toàn cầu đã có nhiều thay đổi về luật lệ, kỹ chiến thuật cũng
không ngừng đƣợc nâng cao nhằm làm cho bóng chuyền trở thành một môn thể thao thêm
phần hấp dẫn.
Năm 1983 Liên đoàn bóng chuyền Thế giới có 146 nƣớc thành viên. Bóng chuyền trở
thành một trong những môn thể thao hàng đầu của thế giới.
b. Lịch sử phát sinh và phát triển môn bóng chuyền ở Việt Nam qua các thời kỳ

7


Môn bóng chuyền xuất hiện ở Việt Nam khoảng năm 1920 - 1922 ở các thành phố
lớn nhƣ Hà Nội, Hải Phòng...
Sau tháng 8/1945, cùng với sự phát triển của phong trào thể dục thể thao nói chung,
môn bóng chuyền cũng từng bƣớc mở rộng tới các vùng và mọi miền trong cả nƣớc với số
lƣợng ngƣời tham gia đông đảo hơn. Vì vậy, môn bóng chuyền là môn thể thao có tính quần
chúng rộng rãi.
Từ khi xuất hiện cho đến nay, bóng chuyền Việt Nam đã tồn tại và phát triển qua các
thời kỳ:
* Sự hình thành và phát triển của bóng chuyền Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945
Vào khoảng năm 1920 - 1922 bóng chuyền xuất hiện và phổ biến trong học sinh
ngƣời Hoa ở Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác với luật chơi gần giống nhƣ bóng
chuyền hiện đại:
- Kích thƣớc sân là 9m x 18m.
- Khu phát bóng là 1,2m.

- Lƣới nam cao 2,40m; lƣới nữ cao 2,20m.
- Số điểm thi đấu mỗi hiệp là 21.
- Các cầu thủ trong đội đƣợc đánh 4 chuyền.
- Nếu phát bóng rơi vào khu phát bóng của đối phƣơng thì đƣợc 2 điểm
Năm 1927 trận thi đấu bóng chuyền đầu tiên đƣợc tổ chức giữa ngƣời Hoa ở Hải
Phòng và Hà Nội.
Năm 1928 Giải bóng chuyền đầu tiên đƣợc tổ chức ở Bắc kỳ giữa 2 đội: Một đội
ngƣời Việt Nam và một đội ngƣời Pháp.
Dƣới ách thống trị của thực dân phong kiến, phong trào bóng chuyền nƣớc ta không
đƣợc phát triển
* Từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1954
Sau Cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền nhân dân ra đời. Bác Hồ ra "Lời kêu
gọi tập thể dục" và đƣợc toàn dân nhiệt liệt hƣởng ứng. Một số môn thể thao đƣợc hình thành.
Bóng chuyền đã phát triển ở các vùng nông thôn và đƣợc nhân dân tham gia tập luyện đông

8


đảo. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bóng chuyên trở thành môn thể thao chủ
yếu trong các cơ quan kháng chiến ở Việt Bắc, ở Khu 5 và trong các đơn vị bộ đội...
Trong thời kỳ này đã tổ chức 2 giải bóng chuyền:
+ Giải vô địch Liên khu 3 cho 3 tỉnh: Thái Bình - Hải Dƣơng - Hƣng Yên
+ Giải vô địch Liên khu 5 cho 2 tỉnh: Quảng Nam - Quảng Ngãi.
Tuy phong trào phát triển rộng nhƣng kỹ chiến thuật bóng chuyền còn rất đơn giản,
vẫn áp dụng luật cũ. Mối liên hệ giữa phong trào trong nƣớc và thế giới chƣa có, do đó
những kỹ thuật tiên tiến trên thế giới không có điều kiện du nhập vào nƣớc ta.
* Từ năm 1954 đến năm 1975
Sau khi hoà bình lập lại ở nƣớc ta (1954), bóng chuyền có điều kiện thuận lợi để phát
triển. Phong trào bóng chuyền phát triển mạnh mẽ trong các lực lƣợng vũ trang. Đoàn Thể
Công - một tổ chức thể dục thể thao của quân đội đƣợc thành lập bao gồm nhiều môn trong

đố có bóng chuyền. Đội bóng chuyền Thể Công đã trở thành một đội thể thao tiêu biểu cho
nền thể dục thể thao mới, góp phần thúc đẩy phong trào phát triển và làm nòng cốt cho đội
tuyển quốc gia sau này. Thời kỳ này có nhiều đội nữ xuất hiện nhƣ: Quân y viện 108;
Trƣờng cấp 3 Trƣng Vƣơng (Hà Nội)... Tuy nhiên, phong trào chỉ ở giai đoạn tự phát và
thiếu sự chỉ đạo chung.
Năm 1955 Uỷ ban Thể dục thể thao Trung ƣơng đƣợc thành lập. Tháng 3 năm 1957
Hội bóng chuyền Việt Nam ra đời. Năm 1956 - 1957 tổ chức các giải Hoà bình - Thống
nhất, giải Mùa Xuân 1957 để động viên cổ vũ phong trào.
Tháng 10 năm 1957 Đội tuyển bóng chuyền Việt Nam đƣợc thành lập dự giải 4 nƣớc:
Việt Nam - Trung Quốc - Triều Tiên - Mông Cổ tại Bình Nhƣỡng (Triều Tiên). Tuy thành tích
không cao nhƣng qua thi đấu và tham quan phong trào các nƣớc bạn, các cán bộ và vận động
viên nƣớc ta đã tiếp thu đƣợc một số kỹ thuật mới, phƣơng pháp huấn luyện mới cũng nhƣ
những kinh nghiệm về xây dựng lực lƣợng, xây dựng và phát triển phong trào bóng chuyền.
Năm 1959 trình độ kỹ chiến thuật của các đội trong nƣớc ta tiến bộ khá nhanh nhƣng
nhìn chung còn yếu.
Năm 1960 lần đầu tiên tổ chức Giải bóng chuyền hạng A toàn miền Bắc gồm 8 đội
nam và 8 đội nữ.
Ngày 10 tháng 6 năm 1961: Hiệp hội bóng chuyền Việt Nam đƣợc thành lập.

9


Năm 1962 - 1964 phong trào bóng chuyền phát triển mạnh và vững chắc về chiều sâu
và chiều rộng. Hội bóng chuyền Việt Nam và bộ môn Bóng chuyền của Uỷ ban Thể dục thể
thao Trung ƣơng đã liên tiếp tổ chức những hội nghị chuyên đề nhằm mở rộng phong trào và
chỉ đạo nâng cao.
Tháng 7 năm 1963 Hội nghị về phƣơng hƣớng huấn luyện của bóng chuyền Việt
Nam đƣợc tổ chức tại Thái Bình với phƣơng châm huấn luyện là: "nhanh, chuẩn, biến hoá
trên cơ sở không ngừng nâng cao sức mạnh".
Đội tuyển bóng chuyền nam, nữ nƣớc ta tham gia đại hội Ganefo lần I (1963) tại

Inđônêxia.
Năm 1964: Uỷ ban Thể dục thể thao Trung ƣơng phong cấp kiện tƣớng và cấp I đầu
tiên cho vận động viên môn bóng chuyền.
Từ tháng 8 năm 1964, miền Bắc bƣớc vào cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại
của Mỹ. Phong trào thể dục thể thao nói chung và bóng chuyền nói riêng tạm thời bị thu hẹp.
Tháng 3 năm 1965, tổ chức Hội nghị bóng chuyền tại Hải dƣơng nhằm xác định
phƣơng hƣớng, nhiệm vụ phát triển môn bóng chuyền trong thời chiến: Tiếp tục duy trì ở
các địa phƣơng, cơ sở có phong trào mạnh.
Năm 1969, Giải bóng chuyền đại biểu các nghành lần thứ nhất đƣợc tổ chức tại Hà
Nội, đồng thời các giải bóng chuyền hạng A và B vẫn đƣợc duy trì nhằm củng cố và khôi
phục phong trào.
Năm 1970, Chỉ thị 180 của Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng về công tác thể dục thể thao
bổ sung tăng cƣờng lực lƣợng cán bộ, vận động viên bóng chuyền cho các cơ sở nhằm phục
vụ sức khỏe quần chúng.
Năm 1973, Giải bóng chuyền hạng A với sự tham gia của 24 đội nam, nữ.
Năm 1974, Giải bóng chuyền hạng B đƣợc tổ chức từ cơ sở đã thu hút đông đảo quần
chúng tham gia. Giải hạng A đƣợc tổ chức theo định kỳ và chọn đƣợc 12 đội A1 (nam, nữ)
và 12 đội A2 (nam, nữ).
* Từ năm 1975 đến nay
Từ năm 1975 đến nay, đất nƣớc hòa bình, thống nhất, môn bóng chuyền đƣợc phát
triển mạnh mẽ. Hằng năm từ cơ sở đến Trung ƣơng đều tổ chức các giải bóng chuyền cho

10


các đối tƣợng ở hầu hết các tỉnh, thành, nghành. Số đội tham gia thi đấu ngày càng tăng,
trình độ chuyên môn của vận động viên và các đội cũng không ngừng đƣợc nâng cao.
Tháng 8 năm 1991: Tại Hà Nội, Đại hội Hiệp hội Bóng chuyền Việt Nam lần II đã
quyết định đổi tên thành Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam (Volleyball Federatron of Vietnam
- VFV). Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam là thành viên chính thức của FIVB và AVC (Liên

đoàn Bóng chuyền Châu á). Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam gồm có 6 tiểu ban:
+ Tiểu ban huấn luyện - khoa học kỹ thuật.
+ Tiểu ban thi đấu, trọng tài.
+ Tiểu ban tài chính.
+ Tiểu ban thanh - thiếu niên.
+ Tiểu ban kiểm tra - khen thƣởng - kỷ luật.
+ Tiểu ban bảo trợ.
Giải bóng chuyền cho các đối tƣợng khác nhau đƣợc tổ chức hằng năm: Giải vô địch
các đội mạnh tòan quốc; giải A1, A2: giải bóng chuyền bãi biển...
Bóng chuyền là môn thi đấu chính thức của Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc (4
năm một lần) hay trong chƣơng trình Hội khỏe Phù Đổng (4 năm một lần).
Bóng chuyền là môn thể thao đƣợc Đảng và Nhà Nƣớc quan tâm tạo nhiều điều kiện
thuận lợi về vật chất lẫn tinh thần, do đó phong trào bóng chuyền đƣợc phát triển rộng rãi
trong mọi tầng lớp nhân dân. Bóng chuyền đỉnh cao cũng đƣợc phát triển mạnh mẽ ở các
tỉnh, thành, nghành: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Thái Bình, Long An, Quân đội,
Công an, Bƣu điện...
Tại các giải thi đấu khu vực hay quốc tế. Các đội tuyển bóng chuyền trong nhà hay
bãi biển của Việt Nam đã giành đƣợc thứ hạng cao. Đội tuyển bóng chuyền nữ Việt Nam
luôn chiếm vị trí số 2 từ Seagame 20 (Đại hội thể thao Đông nam á) cho đến nay.
Trong ngành Đại học - Cao đẳng - Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề, bóng
chuyền là môn thể thao phổ cập và nằm trong chƣơng trình giảng dạy chính khóa ở các
trƣờng. Đƣợc sự quan tâm lãnh đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo và Ban giám hiệu các trƣờng
nên phong trào phát triển mạnh. Mỗi trƣờng đều có đội đại biểu, có sân tập hoàn chỉnh và
các trang thiết bị khác để tập luyện bóng chuyền.

11


Năm 1968, đại hội bóng chuyền ngành Đại học và Trung học chuyên nghiệp lần I
đƣợc tổ chức có trên 100 đội nam, nữ tham gia. Năm 1969 thành lập đội đại biểu ngành

tham gia giải hạng A toàn miền Bắc.
Sau tháng 4 năm 1975, Bộ Đại học - Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề nay là Bộ
Giáo dục - Đào tạo đã cùng Hội thể thao Đại học và Chuyên nghiệp Việt Nam phối hợp tổ
chức định kỳ giải bóng chuyền toàn Ngành, lôi cuốn hàng trăm trƣờng và hàng ngàn vận
động viên tập luyện và thi đấu.
1.1.2. Ảnh hƣởng và tác dụng của tập luyện bóng chuyền đối với cơ thể
a. Đặc điểm môn bóng chuyền
Đặc điểm nổi bật của bóng chuyền là yêu cầu thiết bị dụng cụ, sân tập và luật tƣơng
đối đơn giản, đƣợc đông đảo quần chuáng ƣa thích.
Bóng chuyền là môn thể thao có tính tập thể, tính đối kháng cao, hoạt động thi đấu
bóng chuyền càng ở trình độ cao thì càng sôi nổi, hấp dẫn cho ngƣời tập lẫn ngƣời xem. Tập
luyện môn bóng chuyền đòi hỏi ngƣời tập có trình độ toàn diện về thể lực cũng nhƣ về kỹ
chiến thuật và tâm lý - ý chí.
Các kỹ thuật bóng chuyền đều đƣợc thực hiện trong điều kiện thời gian tay chạm
bóng rất ngắn. Do đó, yêu cầu đặc biệt quan trọng là sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các
động tác và sự di chuyển của vận động viên theo hƣớng và tốc độ bay của bóng.
Vận động viên cần học cách xác định quỹ đạo và tốc độ bay của bóng để di chuyển
đến đón bóng kịp thời và đúng lúc với tƣ thế chuẩn bị ban đầu thuận tiện nhất để thực hiện
các kỹ thuật đỡ bóng, chuyền bóng, đập bóng, chắn bóng và kịp thời thực hiện các động tác
cần thiết. Nhờ sự hổ trợ của các bài tập chuyên môn, vận động viên phải có khả năng giải
quyết nhanh những nhiệm vụ đó. Phát triển khả năng này ở mức độ cao là cơ sở để đảm bảo
cho việc tiếp thu kỹ thuật một cách tốt nhất.
Sự kết hợp sức nhanh và sức mạnh giữ vai trò hàng đầu trong bóng chuyền, đồng thời
tốc độ co cơ và việc điều chỉnh tốc độ di chuyển, độ chuẩn xác của động tác trong không
gian rất cần thiết trong chuyền bƣớc một, chuyền hai, đập bóng, phát bóng
Đặc điểm nổi bật nữa của bóng chuyền là tính phức tạp và sự nhanh chóng của việc
giải quyết các nhiệm vụ vận động trong tình huống thi đấu, sức nhanh của phản ứng vận
động và khả năng điều khiển động tác. Vận động viên cần phải xác định vị trí các đấu thủ

12



trên sân (đội của mình và đội bạn), phán đoán động tác của đồng đội và ý đồ chiến thuật của
đối phƣơng, nhanh chóng phân tích tình huống trận đấu, lựa chọn động tác hợp lý nhất và
thực hiện động tác đó có hiệu quả nhất.
Trong phƣơng pháp huấn luyện, giảng dạy môn bóng chuyền cần phải thể hiện những
xu hƣớng sau:
- Phát triển năng lực thực hiện động tác có tính đến hƣớng và tốc độ bay của bóng (về
không gian - thời gian).
- Phát triển thể lực chuyên môn, chủ yếu là sức mạnh và sức nhanh. Điều này có tác
dụng đến việc tiếp thu kỹ năng xác định chính xác thời điểm tay tiếp xúc voéi bóng (trong
chuyền - phát - đập bóng).
- Phát triển sức nhanh của các phản xạ phức tạp, định hƣớng thị giác, khả năng quan
sát và phán đoán, tƣ duy chiến thuật và các khả năng khác đảm bảo cho những phối hợp
chiến thuật.
Việc am hiểu đặc điểm môn bóng chuyền có ý nghĩa quyết định tới việc nâng cao tính
hiệu quả của quá trình giảng dạy và huấn luyện. Nét đặc trƣng của các môn bóng và đặc biệt
của môn bóng chuyền là:
- Hoạt động mang tính chất thi đấu đối kháng đƣợc quy định bởi luật thi đấu.
- Hoạt động thi đấu thƣờng xuyên thay đổi điều kiện do các hành động của vận động
viên và của đội bóng bị sự kiểm tra thƣờng xuyên và cố gắng phá vỡ tổ chức phòng thủ, ý đồ
tấn công của đối phƣơng. Nét đặc trƣng của thi đấu là tính phức tạp và tốc độ giải quyết các
nhiệm vụ vận động trong những điều kiện không ngừng thay đổi.
- Thành tích thi đấu đƣợc xác định thông qua những hoạt động của đội bóng trong
quá trình thi đấu đối kháng. Đó là kết quả của sự phối hợp giữa các vận động viên trong đội
bóng.
- Thành tích thể thao thể hiện ở số lƣợng các trận thắng và thứ hạng đƣợc xếp trong
bảng kết quả thi đấu. Cho dù một vận động viên nào đó của một đội chơi tốt đến đâu chăng
nữa, song nếu nhƣ đội đó thua thì cũng coi nhƣ là thất bại. Do đó, trong tập thể đội bóng,
mỗi vận động viên cần phải nổ lực hết mình nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng của đội.

Kết quả thi đấu là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá trình độ thể thao của vận động viên và
chất lƣợng công tác huấn luyện của huấn luyện viên, giáo viên.

13


- Đặc điểm hoạt động thi đấu bao gồm một số lƣợng lớn các bài tập thi đấu nhƣ các
động tác kỹ thuật, các hành động chiến thuật đƣợc lặp lại nhiều lần trong quá trình thi đấu để
đạt thành tích thể thao.
Những nét đặc thù của môn bóng chuyền cho phép ta đƣa ra những yêu cầu đối với
một vận động viên có trình độ chuyên môn cao. Những yêu cầu này có tác dụng định hƣớng
đối với việc đào tạo các vận động viên trong các môn thể thao thi đấu đồng đội và có thể
đƣợc xếp theo các nhóm sau:
+ Cấu trúc - hình thái.
+ Chức năng - thể lực.
+ Kỹ chiến thuật.
+ Tâm lý cá nhân.
+ Tập thi đấu và thi đấu.
+ Có khả năng về trí tuệ.
b. Ảnh hƣởng và tác dụng của tập luyện bóng chuyền với cơ thể
Từ những đặc điểm của bóng chuyền cho thấy: Giảng dạy và huấn luyện bóng chuyền
có ảnh hƣởng và tác dụng tốt đến ngƣời tập.
Mỗi kỹ thuật bóng chuyền dù đơn giản nhất nhƣ: Chuyền bóng thấp tay, chuyền bóng
cao tay, phát bóng... đòi hỏi ngƣời tập vận động tay chân, toàn thân một cách hợp lý và kịp
thời. Khi thực hiện độngtác yêu cầu phải tập trung chú ý cao và lặp lại nhiều lần giúp ngƣời
tập tăng cƣờng sức mạnh tay, chân, toàn thân, hình thành khả năng xử lý nhanh nhẹn, khéo
léo, tạo điều kiện thích ứng với những hoạt động phức tạp trong lao động sản xuất, trong
chiến đấu cũng nhƣ trong cuộc sống hàng ngày.
Tập luyện và thi đấu bóng chuyền là quá trình rèn luyện, bồi dƣỡng con ngƣời phát
triển toàn diện về phẩm chất tâm lý - ý chí, tinh thần tập thể, tính kiên trì, dũng cảm.

Sự đa dạng của các kỹ năng - kỹ xảo vận động và hành động thi đấu khác nhau không
chỉ về cƣờng độ dùng sức mà cả về cấu trúc phối hợp sẽ tạo điều kiện phát triển các tố chất
thể lực cảu con ngƣời nhƣ: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo và tính khéo léo trong
những động tác phối hợp hài hoà.
Tập luyện, thi đấu bóng chuyền có tác động tích cực tới sự phát triển, hoàn thiện khả
năng thích ứng và định hƣớng nhanh cho ngƣời tập, xử lý nhanh những tình huống thƣờng

14


xuyên thay đổi, biết lựa chọn kỹ thuật hợp lý nhất trong vốn dự trữ phong phú về kỹ thuật
của mình, biết nhanh chóng chuyển từ hành động này sang hành động khác giúp họ đạt đƣợc
tính linh hoạt cao của các quá trình thần kinh.
Sự đa dạng các kỹ năng - kỹ xảo vận động, hành động thi đấu khác nhau sẽ tạo điều
kiện phát triển các tố chất thể lực: nhanh, mạnh, bền, mềm dẻo và khéo léo.
Tập luyện và thi đấu bóng chuyền ảnh hƣởng tích cực tới sự phát triển cho ngƣời tập
lòng dũng cảm, tính kiên định, tính quyết đoán, tính sáng tạo và kỷ luật. Ngƣời tập biết hành
động tập thể, thƣờng xuyên hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, điều đó sẽ góp phần giáo dục ý
thức trách nhiệm tập thể, tình cảm bạn bè, tính tập thể... cho ngƣời tập.
Tập luyện bóng chuyền giúp cơ thể phát triển hài hòa. Sự phối hợp hành động khi
thực hiện các chiến thuật tạo vẻ đẹp và sức lôi cuốn ngƣời xem. Điều đó chứng tỏ bóng
chuyền là môn thể thao có sức hấp dẫn với quần chúng ở các lứa tuổi, đối tƣợng, ngành nghề
khác nhau và đội ngũ ngƣời tập bóng chuyền ngày càng phát triển và lớn mạnh.
1.2. Những điều luật cơ bản và phƣơng pháp làm trọng tài
1.2.1. Những điểm cơ bản trong luật bóng chuyền
a. SÂN THI ĐẤU (H.1 và H2)
- Kích thƣớc
Sân thi đấu hình chữ nhật, kích thƣớc 18 x 9m, xung quanh là khu tự do rộng ít nhất
3m về tất cả mọi phía.
Khoảng không tự do là khoảng không gian trên khu sân đấu không có vật cản nào ở

chiều cao tối thiểu 7m tính từ mặt sân.

Hình 1- Khu thi đấu

15


- Mặt sân
Mặt sân phải phẳng, ngang bằng và đồng nhất. Mặt sân không có bất kỳ nguy hiểm
nào gây chấn thƣơng cho vận động viên. Cấm thi đấu trên mặt sân gồ ghề hoặc trơn.
Mặt sân thi đấu trong nhà phải là màu sáng.
Độ dốc thoát nƣớc cho phép của mặt sân là 5mm/m. Cấm dùng các vật liệu cứng để
làm các đƣờng giới hạn trên sân.
- Các đƣờng trên sân (H.2)
Bề rộng các đƣờng trên sân là 5cm có màu sáng khác với màu sân và bất lỳ đƣờng kẻ
nào khác.
Các đƣờng biên: Hai đƣờng biên dọc và hai đƣờng biên ngang giới hạn sân đấu. Các
đƣờng này nằm trong phạm vi kích thƣớc sân đấu.
Đƣờng giữa sân (H.2)
Trục đƣờng giữa sân chia sân đấu ra làm hai phần bằng nhau, mỗi phần 9 x 9m,
đƣơng nhiên bề rộng của đƣờng giữa sân chia đều cho mỗi bên. Đƣờng này chạy dƣới lƣới
nối hai đƣờng biên dọc với nhau.
Đƣờng tấn công:
Ở mỗi bên sân có một đƣờng tấn công đƣợc kẻ song song với đƣờng giữa sân tính từ
mép sau đƣờng tấn công tới trục của đƣờng giữa là 3m, để giới hạn khu trƣớc (khu tấn công).

Hình 2 – Khu thi đấu

16



Khu phát bóng đƣợc giới hạn bởi hai vạch dài 15cm thắng góc với đƣờng biên ngang,
cách đƣờng này 20cm và đƣợc coi là phần kéo dài của đƣờng biên dọc. Cả hai vạch này đều
thuộc khu phát bóng (H.2). Chiều sâu khu phát bóng kéo dài tới hết khu tự do.
b. LƢỚI VÀ CỘT LƢỚI (H.3)
- Chiều cao của lƣới
Lƣới đƣợc căng ngang trên đƣờng giữa sân. Chiều cao mép trên của lƣới nam là
2,43m và của nữ là 2,24m.
Chiều cao của lƣới phải đƣợc đo ở giữa sân. Hai đầu lƣới ở trên đƣờng biên dọc phải
cao bằng nhau và không cao hơn chiều cao quy định 2cm.
- Cấu tạo
Lƣới màu đen, dài 9,50 - 10m, rộng 1m, đan thành các mắt lƣới hình vuông mỗi cạnh
10cm (mỗi bên đầu lƣới kể từ mép ngoài băng giới hạn lƣới có 1 khoảng dài từ 0,25m đến
0,5m) (H.3).

Hình 3

17


Viền suốt mép trên lƣới là một băng vải trắng gấp lại rộng 7cm. Hai đầu băng vải có
một lỗ để luồn dây buộc vào cọc lƣới.
Luồn một sợi dây cáp mềm bên trong băng vải trắng tới hai cọc lƣới để căng mép trên
của lƣới. Hai đầu băng viền mép trên của lƣới có hai lỗ và dùng hai dây để buộc kéo vào cột
giữ căng vải băng mép trên lƣới.
Viền suốt mép dƣới lƣới là một băng vải trắng gấp lại rộng 5cm, trong luồn qua một dây
buộc giữ căng phần dƣới của lƣới vào hai cột.
- Băng giới hạn
Là hai băng trắng dài 1m, rộng 5cm đặt ở hai bên đầu lƣới thẳng góc với giao điểm
của đƣờng biên dọc và đƣờng giữa sân. Băng giới hạn là một phần của lƣới (H.3).

- Ăng ten
Ăng ten là thanh tròn dẻo đƣờng kính 10mm dài 1,8m làm bằng sợi thủy tinh hoặc
chất liệu tƣơng tự.
Ăng ten đƣợc buộc chặt sát với mép ngoài mỗi băng giới hạn. Ăng ten đƣợc đặt đối
nhau ở hai bên lƣới (H.3).
Phần ăng ten cao hơn lƣới 80cm, đƣợc sơn xen kẽ các đoạn màu tƣơng phản nhau,
mỗi đoạn dài 10cm, tốt nhất là màu đỏ và trắng.
Ăng ten thuộc phần của lƣới và giới hạn 2 bên của khoảng không gian bóng qua trên
lƣới (H.3 và 5).
- Cột lƣới (H.3)
Cột căng giữ lƣới đặt ở ngoài sân cách đƣờng biên dọc 0,50 - 1,00m, cao 2,55m, có
thể điều chỉnh đƣợc.
Cột lƣới tròn và nhẵn, đƣợc cố định chắc xuống đất, không dùng dây cáp giữ. Cấm
cột lƣới có các dụng cụ phụ trợ nguy hiểm.
c. Những ngƣời tham gia
* Thành phần của đội
Một đội gồm tối đa 12 VĐV, 1 HLV trƣởng, 1 HLV phó, một săn sóc viên và một
bác sĩ.
Một VĐV của đội (trừ Libero) là đội trƣởng trên sân phải đƣợc ghi rõ trong biên bản
thi đấu.

18


Chỉ các VĐV đã đăng ký trong biên bản thi đấu mới đƣợc phép vào sân và thi đấu.
Khi HLV và đội trƣởng đã ký vào biên bản thi đấu thì không đƣợc thay đổi thành phần đăng
ký của đội nữa.
* Vị trí của đội bóng
Các VĐV không thi đấu có thể ngồi trên ghế của đội mình hoặc đứng ở khu khởi
động của đội mình.

HLV và những ngƣời khác của đội phải ngồi trên ghế nhƣng có thể tạm thời rời chỗ.
Ghế của đội đặt ở 2 bên bàn thƣ ký, ngoài khu tự do.
Chỉ các thành viên của đội mới đƣợc phép ngồi trên ghế và tham gia khởi động trong
thời gian trận đấu.
Các VĐV không thi đấu trên sân có thể khởi động không bóng nhƣ sau:
Trong thời gian trận đấu, các VĐV có thể khởi động không bóng ở khu khởi động.
Trong thời gian hội ý và hội ý kỹ thuật, có thể khởi động ở khu tự do sau sân của đội mình.
Khi nghỉ giữa hiệp các VĐV có thể khởi động bóng ở khu tự do.
* Trang phục
Trang phục thi đấu của một VĐV gồm: áo thể thao, quần đùi, tất và giầy thể thao.
Áo, quần đùi và tất của toàn đội phải đồng bộ, sạch sẽ và đồng màu (trừ VĐV
Libero).
Giầy phải nhẹ, mềm, đế bằng cao su hay bằng da và không có đế gót.
Trọng tài thứ nhất phải kiểm tra sự thống nhất trang phục của từng đội bóng và buộc
phải thực hiện đúng điều này.
Áo VĐV phải đánh số từ 1 đến 18.
d. ĐƢỢC 1 ĐIỂM, THẮNG 1 HIỆP VÀ THẮNG 1 TRẬN
* Đƣợc một điểm
- Đƣợc một điểm khi:
Bóng chạm sân đối phƣơng.
Do đội đối phƣơng phạm lỗi.
Đội đối phƣơng bị phạt.
- Phạm lỗi

19


Khi một đội có hành động đánh bóng sai luật hoặc phạm luật bằng hành động nào
khác thì trọng tài thổi còi phạm lỗi, xét mức phạm lỗi và quyết định phạt theo luật.
Nếu hai hay nhiều lỗi xảy ra liên tiếp thì chỉ tính lỗi đầu tiên.

Nếu hai đội cùng phạm hai hoặc nhiều lỗi thì xử hai đội cùng phạm lỗi. Đánh lại pha
bóng đó.
- Hậu quả của thắng một pha bóng.
Một pha bóng là chuỗi các hành động đánh bóng tính từ thời điểm ngƣời phát bóng
đánh chạm bóng đến khi trọng tài thổi còi "bóng chết".
Nếu đội phát bóng thắng pha bóng đó thì đội phát bóng đƣợc một điểm và tiếp tục
phát bóng.
Nếu đội đối phƣơng đỡ phát bóng thắng pha bóng đó thì đội đó đƣợc một điểm và
giành quyền phát bóng.
* Thắng một hiệp
Đội thắng một hiệp (trừ hiệp thứ 5 - hiệp quyết thắng) là đội đƣợc 25 điểm trƣớc và hơn đội
kia ít nhất 2 điểm. Trƣờng hợp hòa 24 - 24, phải đấu tiếp cho đến khi hơn nhau 2 điểm (26 24, 27 - 25...)
* Thắng một trận
- Đội thắng một trận là đội thắng 3 hiệp.
- Trong trƣờng hợp hòa 2 - 2, hiệp quyết thắng (hiệp 5) đấu đến 15 điểm và đội thắng
phải hơn ít nhất 2 điểm.
* Bỏ cuộc và đội hình không đủ ngƣời đấu
Nếu một đội sau khi đã đƣợc mời đến thuyết phục vẫn từ chối không đấu, đội đó bị
tuyên bố bỏ cuộc và bị thua với kết quả toàn trận 0 - 3; mỗi hiệp 0 - 25.
Nếu một đội không có lý do chính đáng để có mặt đúng giờ thi đấu thì bị tuyên bố bỏ
cuộc và xử lý kết quả thi đấu nhƣ trên.
Một đội bị tuyên bố không đủ đội hình thi đấu một hiệp hoặc một trận thì bị thua hiệp
đó hoặc trận đó. Đội đối phƣơng đƣợc thêm đủ số điểm và số hiệp còn thiếu để thắng hiệp
trận đó. Đội có đội hình không đủ ngƣời đấu bị giữ nguyên số điểm và kết quả các hiệp
trƣớc.
e. TỔ CHỨC TRẬN ĐẤU

20



* Bắt thăm
Trƣớc trận đấu, trọng tài thứ nhất cho bắt thăm để chọn quyền ƣu tiên đội nào phát
bóng trƣớc và đội nào chọn sân ở hiệp thứ 1.
Nếu thi đấu hiệp thứ 5, phải tiến hành bắt thăm lại.
Tiến hành bắt thăm với sự có mặt của hai đội trƣởng hai đội.
Đội thắng khi bắt thăm đƣợc chọn: Quyền phát bóng hoặc đỡ phát bóng. Hoặc chọn
sân. Đội thua lấy phần còn lại.
Nếu hai đội khởi động riêng, đội nào phát bóng trƣớc đƣợc khởi động trên lƣới trƣớc.
* Khởi động
Trƣớc trận đấu, nếu các đội đã khởi động tại sân phụ thì đƣợc cùng khởi động với
lƣới là 6 phút; nếu không có thể là 10 phút.
Nếu (cả) hai đội trƣởng yêu cầu khởi động riêng với lƣới thì thời gian cho mỗi đội
khởi động là 3 hoặc 5 phút.
* Đội hình thi đấu của đội
Mỗi đội phải luôn có 6 cầu thủ khi thi đấu.
Đội hình thi đấu ban đầu chỉ rõ trật tự xoay vòng của các cầu thủ trên sân. Trật tự này phải
giữ đúng suốt hiệp đấu.
Trƣớc hiệp đấu, huấn luyện viên phải ghi đội hình của đội vào phiếu báo vị trí và ký
vào phiếu, sau đó đƣa cho trọng tài thứ hai hoặc thƣ ký.
Các VĐV không có trong đội hình thi đấu đầu tiên của hiệp đó là cầu thủ dự bị (trừ
Libero).
Khi đã nộp phiếu báo vị trí cho trọng tài thứ hai hoặc thƣ ký thì không đƣợc phép
thay đổi hình trừ việc thay ngƣời thông thƣờng.
Giải quyết sự khác nhau giữa vị trí cầu thủ trên sân và phiếu báo vị trí:
Trƣớc khi bắt đầu hiệp đấu nếu phát hiện có sự khác nhau giữa vị trí VĐV trên sân
với phiếu báo vị trí thì các VĐV phải trở về đúng vị trí nhƣ phiếu báo vị trí ban đầu mà
không bị phạt.
Nếu trƣớc khi bắt đầu hiệp đấu phát hiện một VĐV trên sân không đƣợc ghi ở phiếu
báo vị trí của hiệp đó thì VĐV này phải thay bằng VĐV đã ghi ở phiếu báo vị trí mà không
bị phạt.


21


Tuy nhiên, nếu huấn luyện viên muốn giữ VĐV không ghi trong phiếu báo vị trí ở lại
trên sân, thì huấn luyện viên có thể xin thay thông thƣờng và ghi vào biên bản thi đấu.
* Vị trí (Hình 4)
Ở thời điểm VĐV phát bóng đánh bóng đi thì trừ VĐV này, các cầu thủ của mỗi đội
phải đứng đúng vị trí trên sân mình theo đúng trật tự xoay vòng.
Vị trí của các VĐV đƣợc xác định đánh số nhƣ sau:
Ba VĐV đứng dọc theo lƣới là những VĐV hàng trƣớc: vị trí số 4 (trƣớc bên trái), số
3 (trƣớc giữa) và số 2 (trƣớc bên phải).
Ba VĐV còn lại là các VĐV hàng sau: Vị trí số 5 (sau trái), số 6 (ở sau giữa) và 1
(sau bên phải).
Quan hệ vị trí giữa các VĐV:

Hình 4
Mỗi VĐV hàng sau phải đứng xa lƣới hơn ngƣời hàng trƣớc tƣơng ứng của mình.
Các VĐV hàng trƣớc và hàng sau phải đứng theo trật tự nhƣ Điều 7.4.1.
Xác định và kiểm tra vị trí các VĐV bằng vị trí bàn chân chạm đất nhƣ sau (Hình 4)

22


Mỗi VĐV hàng trƣớc phải có ít nhất một phần bàn chân gần đƣờng giữa sân hơn chân
của cầu thủ hàng sau tƣơng ứng.
Mỗi VĐV ở bên phải (bên trái) phải có ít nhất một phần bàn chân gần đƣờng dọc bên
phải (trái) hơn chân của VĐV đứng giữa cùng hàng của mình.
Khi bóng đã phát đi, các VĐV có thể di chuyển và đứng ở bất kỳ vị trí nào trên sân
của mình và khu tự do.

* Lỗi sai vị trí (Hình 4)
Một đội phạm lỗi sai vị trí: khi vào thời điểm ngƣời phát bóng đánh chạm bóng có bất
kỳ VĐV nào đứng không đúng vị trí.
Nếu lỗi sai vị trí xảy ra lúc VĐV phát bóng phạm lỗi phát bóng đúng lúc đánh phát
bóng đi, thì phạt lỗi phát bóng trƣớc lỗi sai vị trí.
Nếu VĐV phát bóng phạm lỗi sau khi phát bóng và có lỗi sai vị trí trƣớc thì bắt lỗi sai
vị trí trƣớc.
Phạt lỗi sai vị trí nhƣ sau:
Đội phạm lỗi bị xử thua pha bóng đó;
Các vận động viên phải đứng lại đúng vị trí của mình.
* Xoay vòng
Thứ tự xoay vòng theo đội hình đăng ký đầu mỗi hiệp, và theo đó để kiểm tra trật tự
phát bóng và vị trí các VĐV trong suốt hiệp đấu.
Khi đội đỡ phát bóng giành đƣợc quyền phát bóng, các VĐV của đội phải xoay một
vị trí theo chiều kim đồng hồ: VĐV ở vị trí số 2 chuyển xuống vị trí số 1 để phát bóng, VĐV
ở vị trí số 1 chuyển sang vị trí số 6...
* Lỗi thứ tự xoay vòng
Khi phát bóng phạm lỗi xoay vòng không đúng thứ tự xoay vòng. Phạt nhƣ sau:
Đội bị phạt thua pha bóng đó.
Các VĐV phải trở lại đúng vị trí của mình.
Thƣ lý phải xác định đƣợc thời điểm phạm lỗi, hủy bỏ tất cả các điểm thắng của đội
phạm lỗi từ thời điểm phạm lỗi. Điểm của đội kia vẫn giữ nguyên.
Nếu không xác định đƣợc thời điểm phạm lỗi sai thứ tự phát bóng thì không xóa điểm
của đội phạm lỗi chỉ phạt thua pha bóng.

23


f. ĐỘNG TÁC CHƠI BÓNG
* Số lần chạm bóng của một đội

Một đội có quyền chạm bóng tối đa 3 lần (không kể chắn bóng) để đƣa bóng sang sân
đối phƣơng. Nếu thực hiện quá 3 lần chạm bóng, đội đó phạm lỗi: đánh bóng 4 lần.

Hình 5
Chạm bóng liên tiếp: Một VĐV không đƣợc chạm bóng hai lần liên tiếp.
Cùng chạm bóng: Hai hoặc ba VĐV có thể chạm bóng trong cùng một thời điểm.
Khi hai (hoặc ba) VĐV cùng đội cùng chạm bóng thì tính hai (hoặc ba) lần chạm
bóng (trừ chắn bóng). Nếu hai (hoặc ba) VĐV cùng đến gần bóng nhƣng chỉ có một ngƣời
chạm bóng thì tính một lần chạm. Các VĐV va vào nhau không coi là phạm lỗi.
Nếu VĐV của hai đội cùng chạm bóng trên lƣới và bóng còn trong cuộc thì đội đỡ
bóng đƣợc chạm tiếp 3 lần nữa. Nếu bóng ra ngoài sân bên nào, thì đội bên kia phạm lỗi.
Nếu VĐV của hai đội cùng chạm giữ bóng trên lƣới thì tính 2 bên cùng phạm lỗi và
đánh lại pha bóng đó.
Hỗ trợ đánh bóng: Trong khu thi đấu, VĐV không đƣợc phép lợi dụng sự hỗ trợ của
đồng đội hoặc bất cứ vật gì để giúp chạm tới bóng.
Tuy nhiên, khi một VĐV sắp phạm lỗi (chạm lƣới hoặc qua vạch giữa sân...) thì đồng
đội có thể giữ lại hoặc kéo trở về sân mình.
* Tính chất chạm bóng
Bóng có thể chạm mọi phần của thân thể.
Bóng phải đƣợc đánh đi không dính, không ném vứt, không đƣợc giữ lại. Bóng có thể
nảy ra theo bất cứ hƣớng nào.

24


Bóng có thể chạm nhiều phần thân thể nhƣng phải liền cùng một lúc. Trƣờng hợp
ngoại lệ:
Khi chắn bóng, một hay nhiều cầu thủ chắn bóng có thể chạm bóng liên tục miễn là
những lần chạm đó phải xảy ra trong cùng một hành động.
Ở lần chạm bóng đầu tiên của một đội, bóng có thể chạm liên tiếp nhiều phần khác

nhau của thân thể miễn là những lần chạm đó phải xảy ra trong cùng một hành động.
* Lỗi đánh bóng
Bốn lần chạm bóng: Một đội chạm bóng 4 lần trƣớc khi đƣa bóng qua lƣới.
Hỗ trợ đánh bóng: Một VĐV trong khu sân đấu lợi dụng đồng đội hoặc bất kỳ vật gì
để chạm tới bóng.
Giữ bóng (dính bóng): VĐV đánh bóng không dứt khoát, bóng bị giữ lại hoặc ném
vứt đi.
Chạm bóng hai lần: Một VĐV đánh bóng hai lần liền hoặc bóng chạm lần lƣợt nhiều
phần khác nhau của cơ thể.

Hình 6
g. VẬN ĐỘNG VIÊN LIBERO
* Các chỉ định về Libero
Mỗi đội bóng đƣợc phép đăng ký 1 VĐV chuyên môn phòng thủ "Libero" trong số 12
cầu thủ của đội.

25


×