ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
--------------
ĐOÀN THỊ MỸ DUNG
ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ - VĂN HĨA
ĐỊA DANH THÀNH PHỐ TAM KỲ (QUẢNG NAM)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ HỌC
ĐÀ NẴNG - 2016
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
--------------
ĐOÀN THỊ MỸ DUNG
ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ - VĂN HĨA
ĐỊA DANH THÀNH PHỐ TAM KỲ (QUẢNG NAM)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Trần Văn Sáng
ĐÀ NẴNG – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và hồn tồn khơng trùng lặp với bất
kỳ một cơng trình nào đã cơng bố trong hoặc ngoài nước.
Tam Kỳ, ngày 22 tháng 12năm 2016
TÁC GIẢ
Đoàn Thị Mỹ Dung
LỜI CẢM ƠN
Để có được bản luận văn tốt nghiệp Cao học chun ngành Ngơn ngữ
học khóa 30 (K30), tơi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Đại
học Đà Nẵng, Trường Đại học Sư phạm, phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa
ngữ văn và đặc biệt là TS. Trần Văn Sáng - người đã trực tiếp hướng dẫn, dìu
dắt, giúp đỡ tơi về mặt khoa học trong suốt q trình triển khai, nghiên cứu,
hồn thành đề tài "Đặc điểm ngơn ngữ - văn hóa địa danh Thành phố Tam
Kỳ”.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cơ giáo, các nhà khoa học trong và
ngồi Đại học Đà Nẵng đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt những kiến thức
khoa học quý giá chuyên ngành ngôn ngữ học cho bản thân tôi trong những
năm tháng học tại Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng).
Dù đã nỗ lực, cố gắng, song dĩ nhiên luận văn vẫn khó có thể tránh
khỏi những thiếu sót về mặt khoa học, về mặt chun mơn…vì vậy, tơi rất
mong nhận được sự góp ý, phê bình của q thầy cơ giáo, các nhà khoa học,
độc giả và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Tam Kỳ, ngày 22 tháng 12 năm 2016
Tác giả
Đoàn Thị Mỹ Dung
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
NTB
CTXD
CTGT
DTTS
TK
ĐHTN
ĐVHC
QN
SCN
TCN
TPT
Chữ viết đầy đủ
Nam Trung Bộ
Cơng trình xây dựng
Cơng trình giao thơng
Dân tộc thiểu số
Thành phố Tam Kỳ
Địa hình tự nhiên
Đơn vị hành chính
Tỉnh Quảng Nam
Sau Cơng ngun
Trước Cơng ngun
Tiếng Việt phổ thơng
MỤC LỤC
MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Kết quả thu thập địa danh thành phố Tam Kỳ.................................38
Bảng 2.1. Mơ hình cấu trúc phức thể địa danh thành phố Tam Kỳ.................47
Bảng 2.2. Thống kê cấu tại thành tố chung của địa danh thành phố Tam Kỳ.......49
Bảng 2.3.Thống kê tần số xuất hiện của các địa danh thành phố Tam Kỳ đi
kèm với các loại thành tố chung......................................................................50
MỤC LỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Vị trí của địa danh học trong ngơn ngữ học...................................20
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài nghiên cứu địa danh
Địa danh là một hiện tượng xã hội, nhằm để phân biệt các thực thể địa
lý mà trong sinh hoạt, sản xuất con người đã tạo nên. Địa danh có quan hệ
mật thiết với cuộc sống thường nhật của chúng ta, có liên hệ rộng rãi, gắn bó
với các lĩnh vực ngoại giao, quốc phịng, thương mại, dân chính, trắc họa và
nghiên cứu khoa học, ghi lại dấu ấn phản ánh các giá trị văn hóa lịch sử và
đời sống xã hội. Thông qua nghiên cứu địa danh, chúng ta có thể hiểu được
nhiều vấn đề như sự phân bố và di chuyển dân cư, tơn giáo, tín ngưỡng,
phong tục tập qn, lịch sử văn hóa, sự biến đổi mơi trường tự nhiên và xã hội
của một vùng đất. Do vậy, nghiên cứu địa danh khơng chỉ có ý nghĩa to lớn về
mặt thực tiễn mà cịn có ý nghĩa sâu sắc về mặt văn hóa học.
Địa danh là đối tượng quan tâm của nhiều lĩnh vực khoa học như lịch
sử, địa lý, dân tộc học, văn hóa học, ngơn ngữ học...
Đi theo khuynh hướng của ngôn ngữ học, người ta nghiên cứu địa danh
ở ba bình diện: bình diện nghiên cứu cấu tạo (tức là nghiên cứu địa danh ở
mặt đồng đại); bình diện nghiên cứu “nghĩa” của địa danh, tức là ở mỗi địa
danh nó cho chúng ta biết cái gì; và bình diện nghiên cứu nguồn gốc địa danh.
Như vậy, nếu xem xét địa danh trong mối quan hệ với các bộ môn của
ngôn ngữ học, chúng ta thấy, địa danh không chỉ là đối tượng của từ vựng học
mà còn là cứ liệu nghiên cứu của ngữ âm học. Bởi vì địa danh được cấu tạo
bởi những đơn vị ngữ âm, chịu sự tác động của các quy luật ngữ âm. Nhiều
địa danh ghi bằng tiếng Việt ngày nay là kết quả của quá trình biến đổi cách
phát âm các địa danh trước đây. Địa danh cịn là tài liệu nghiên cứu của ngữ
pháp học, vì địa danh là những danh từ, danh ngữ tuân theo những phương
thức cấu tạo từ, ngữ của tiếng Việt. Địa danh cũng là đối tượng nghiên cứu
của phương ngữ học. Bởi vì nó là sản phẩm do người bản địa tạo ra, gắn chặt
2
với lời ăn tiếng nói của từng vùng, từng địa phương. Đây chính là cách tốt
nhất để chúng ta nhận diện về “nghĩa” của địa danh ở từng vùng lãnh thổ.
Đặc biệt, địa danh còn là tư liệu đáng quan tâm của ngôn ngữ học và
lịch sử. Mỗi một địa danh sinh ra trong một thời điểm lịch sử nhất định. Vì
vậy nó đã trở thành “vật hóa thạch”, là “tấm bia” bằng ngôn ngữ độc đáo về
thời đại mà nó ra đời. Và từ “những hóa thạch ngơn ngữ ấy”, người ta có thể
đưa ra những chứng cứ để lý giải hay chứng minh cho một hiện tượng văn
hóa, lịch sử nhất định mà nếu thiếu chúng, những nhận định có liên quan đến
văn hóa hay lịch sử ấy chỉ thuần túy là những kết luận mang tính giả định.
Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, cùng với sự thay đổi của
tổ chức hành chính đất nước, Tam Kỳ cũng có những thay đổi về địa giới và
tên gọi. Trước thế kỷ XV, đây vốn là vùng đất Chiêm Động của vương quốc
cổ Chămpa. Thế rồi trong quá trình mở nước vào phương Nam của dân tộc,
vùng đất này từng bước được sáp nhập vào lãnh thổ của Đại Việt. Ngày nay,
Tam Kỳ là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam, là trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học của tỉnh Quảng Nam, và là địa phương có bề dày truyền
thống yêu nước và cách mạng sâu sắc. Nghiên cứu địa danh Tam Kỳ là góp
phần nghiên cứu ngơn ngữ văn hóa địa phương, góp phần vào việc nghiên cứu
vùng lãnh thổ, một cách tiếp cận đang được ưa chuộng hiện nay trong các
khoa học xã hội và nhân văn.
Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực hấp dẫn của ngôn ngữ học. Tuy
nhiên ở nước ta, những nghiên cứu đã có cũng chỉ có thể là những cơng trình
giải quyết những nội dung cụ thể thuộc một vùng lãnh thổ. Vì thế, nghiên cứu
Đặc điểm ngơn ngữ-văn hóa địa danh thành phố Tam Kỳ (Quảng Nam) mà
chúng tôi tiến hành cũng đi theo định hướng ấy, và nhằm góp phần từng bước
hồn thiện lý thuyết nghiên cứu địa danh trên phạm vi cả nước.
3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu địa danh trên thế giới
Vấn đề nghiên cứu địa danh được phát triển từ rất lâu. Tình hình nghiên
cứu địa danh thế giới được Lê Trung Hoa [22] và Trần Văn Sáng [41] tổng
thuật một cách chi tiết. chúng tơi có thể tổng thuật trích lược như sau:
Ở phương Đông, đặc biệt Trung Quốc, một nước liền kề với chúng ta,
địa danh cũng được quan tâm từ rất sớm. Thời Đông Hán, Ban Cố đã ghi chép
hơn 4000 địa danh trong bộ Hán thư, trong đó có một số địa danh đã được
ơng giải thích rất rõ về nguồn gốc và ý nghĩa. Đời Bắc Ngụy (380-535 TCN)
trong Thủy Kinh chú sớ, Lịch Đạo Nguyên đã ghi chép hơn 2 vạn địa danh,
số được giải thích ngữ nguyên là hơn 2300 địa danh.
Ở các nước phương tây, bộ môn Địa danh học chính thức ra đời vào
cuối thế kỷ XIX. Năm 1872, J.J.Eghi (Thụy Sĩ ) công bố chuyên luận Địa
danh học. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Ủy ban địa danh của các
nước Mỹ, Thụy Điển, Anh lần lượt ra đời, góp phần thúc đẩy sự phát triển khá
nhanh chóng của khoa học nghiên cứu về địa danh.
Tiên phong trong lĩnh vực xây dựng hệ thống lí luận về lí thuyết địa
danh là các nhà Địa danh học Xô Viết. Những năm 60 của thế kỉ XX tại Liên
Xơ đã có hàng loạt cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này ra
đời.E.M.Murzaev viết cuốn Những khuynh hướng nghiên cứu địa danh
học (1965) và A.V.Superanskaia đã xuất bản cơng trình Địa danh là gì?
(1985). Năm 1964, tiếp thu thành tựu ngiên cứu của các nhà khoa học tiền
bối, học giả A.I.Popov đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản của công tác
nghiên cứu địa danh, trong đó chú trọng hai ngun tắc chính là phải dựa vào
tư liệu lịch sử của các ngành Ngôn ngữ học, Địa lý học, Sử học và phải thận
trọng khi sử dụng phương pháp thành tố để phân tích cấu tạo của địa danh.
Ngoài ra, I. A. Kapenco (1964) đã phát biểu những ý kiến bàn về Địa danh
4
học đồng đại. Qua các cơng trình cơng bố trên tập san của Viện Hàn Lâm
khoa học Xô Viết, N.V.Podonxkaija đã tập trung phân tích, lí giải nội dung địa
danh đã mang những thơng tin gì. Cơng trình của bà đã góp phần làm cho
việc nghiên cứu địa danh ngày càng đi sâu vào bản chất.Nhà nghiên cứu
A.V.Superanskaia trong cuốn Địa danh là gì?(1985) đã đặt ra những vấn đề
vừa mang tính cụ thể vừa mang tính khái quát cao.Trong cơng trình nghiên
cứu của mình, tác giả đã đi sâu vào những vấn đề thiết thực liên quan đến việc
phân tích địa danh. Ngồi việc trình bày cách hiểu về khái niệm địa danh, bà
còn nêu lên các vấn đề khác như tính liên tục của tên gọi, khơng gian tên
riêng và các loại địa danh (địa danh kí hiệu, địa danh mô tả, địa danh ước
vọng) cũng như tên gọi các đối tượng địa lí theo địa hình. Có thể nói đây là
những cơng trình lớn, có giá trị tổng kết những kết quả nghiên cứu cơ bản, đặt
nền móng vững chắc cho các cơng trình nghiên cứu về Địa danh học về sau.
Bên cạnh những cơng trình của các nhà Địa danh học Xô Viết, các nhà
nghiên cứu địa danh ở một số quốc gia cũng đã có những đóng góp khơng nhỏ
trong lĩnh vực này. Tại Pháp, học giả Ch.Rostaing (1965) trong tác phẩm Les
noms de lieux đã nêu ra hai nguyên tắc nghiên cứu địa danh. Đó là phải tìm
ra các hình thức cổ của các từ cấu tạo địa danh và muốn biết hình thức từ
nguyên của địa danh thì phải dựa trên kiến thức ngữ âm học địa phương.
Chuyên luận này đã bổ sung những vấn đề mang tính lý luận cho vấn đề mà
A.I.Popov đã nêu ra trước đó.
Nhìn chung, điểm qua một số cơng trình cơ bản trên, chúng ta có thể
hình dung lịch sử nghiên cứu địa danh học trên thế giới đã hình thành và phát
triển qua ba giai đoạn. Giai đoạn phôi thai ngay từ những năm đầu công
nguyên với việc tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa cũng như diễn biến của địa danh.
Giai đoạn hình thành bắt đầu từ thế kỷ XIX và đến giữa thế kỷ XX giai đoạn
này coi như chấm dứt chuyển sang giai đoạn phát triển và đạt được những
5
thành cơng đáng kể thì Địa danh học Việt Nam mới bắt đầu dần dần hình
thành.
2.2. Tình hình nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu địa danh cũng được quan tâm từ rất
sớm. Theo Lê Trung Hoa [22] và Trần Văn Sáng [41], các tài liệu cổ thư của
Trung Hoa như Tiền Hán thư, Hậu Hán thư, Tấn thư, trong thời kỳ Bắc
thuộc, được dùng để phục vụ cho việc tìm hiểu các địa danh ở Việt Nam. Sau
thời kỳ Bắc thuộc, trong thời kỳ phong kiến độc lập, đặc biệt từ thế kỷ XV trở
đi, việc nghiên cứu địa danh mới được các nhà nghiên cứu Việt Nam thực
hiện. Trong thời gian này, địa danh mới chỉ được các tác giả thu thập, tìm hiểu
về nguồn gốc và ý nghĩa. Đó là một số trứ tác của các học giả trí thức Nho
học Việt Nam như: Thời Lý có Nam Bắc phiên giới địa đồ (1172), thời Trần
có An Nam chí lược của Lê Tắc, thời thuộc Minh có Giao Châu địa chí của
Trương Phụ (Trung Hoa), thời Lê Sơ có bộ Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi
(1435), đặc biệt ở niên hiệu Hồng Đức, Lê Thánh Tông đã rất chú ý đến vấn
đề cương vực đất nước, ông đã cho biên soạn Thiên hạ bản đồ, đến thời Lê
Trung Hưng thì tăng bổ và đổi tên là Hồng Đức bản đồ, trong đó có phần phụ
chú Giáp Ngọ niên bình Nam đồ, tức là phần chép thêm các địa danh thuộc
vùng Thuận Quảng mới được thu phục và tổ chức lại. Từ thời Lê Trung Hưng
trở về sau, vấn đề nghiên cứu địa danh được các học giả chú trọng, tiêu biểu
như Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An (thế kỷ XVI), Hoan Châu Ký của
Nguyễn Cảnh Thị (thế kỷ XVII), Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn. Năm
1723, nhà Hậu Lê cho biên soạn Tân Định bản đồ, Thiên Nam lộ, cũng
trong thời gian này, các ông Ngô Thời Sĩ, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Tông
Quải đã dựa vào Dư Địa chí của Nguyễn Trãi và biên soạn thêm bộ Nam
Quốc Vũ Cống. Thời kỳ Tây Sơn, một có một số cơng trình khai thác về địa
danh cũng được chú ý như Cảnh Thịnh Tân đồ, Mục Dã Trấn Doanh đồ.
6
Đặc biệt, vào thời kỳ nhà Nguyễn (1802 - 1945), thành tựu nghiên cứu về địa
danh đã phát triển khá mạnh mẽ, các cơng trình địa dư như Hồng Việt nhất
thống địa dư của Lê Quang Định (1806), Hoàng Việt Địa Dư Chí của Phan
Huy Chú (1821), Phương Đình Dư Địa Chí, Đại Việt địa dư tồn biên của
Nguyễn Văn Siêu (1900), Đại Nam thống chí (biên soạn thời Thiệu Trị), Đại
Nam nhất thống chí (biên soạn thời Tự Đức), Đại Nam quốc cương vựng
biên của Hoàng Hữu Xứng (1886), Đồng Khánh địa dư chí (biên soạn thời
Đồng Khánh) và các bộ địa chí địa phương như Bắc Thành địa dư chí của
Lê Chất, Gia Định thành thơng chí của Trịnh Hoài Đức, Nghệ An ký, Nam
Định tỉnh địa dư chí...
Nhìn chung, các cơng trình địa dư được biên soạn trước năm 1945 chủ
yếu tập trung vào phân loại, định hình tên gọi và nghiên cứu nặng về tính
hành chính, lịch sử. Các nhà biên soạn chưa chú tâm vào vấn đề giải thích ý
nghĩa của hệ thống này, vì thế những cơng trình trên là những tư liệu cần thiết,
bổ túc cho các nhà nghiên cứu địa lý lịch sử, ngôn ngữ học lịch sử và địa danh
học lịch sử.
Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam thực sự có bước tiến đáng kể
từ năm 1960 trở đi. Với cơng trình Mối quan hệ về ngơn ngữ cổ đại ở Đông
Nam Á qua một vài tên sông của Hồng Thị Châu (1964) được xem như
cơng trình đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu địa danh từ góc nhìn ngơn
ngữ học. Cùng với cơng trình của Hồng Thị Châu, chuyên luận Vấn đề về
Địa danh học Việt Nam của Nguyễn Văn Âu (1978) là cơng trình mang tính
lý luận đầu tiên dưới góc nhìn Lịch sử - Địa lý - Ngôn ngữ học.
Đặc biệt trong những năm gần đây, việc nghiên cứu địa danh từ góc độ
văn hóa cũng có nhiều khởi sắc tiêu biểu có một số cơng trình như: Một số
vấn đề về Địa danh học Việt Nam của Nguyễn Văn Âu (1988, tái bản 1998),
Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam bộ của Bùi Đức Tịnh (1999), đặc biệt
7
cụm cơng trình khảo cứu về địa danh của Lê Trung Hoa đã chính thức hình
thành một phương pháp mới mang tính liên ngành văn hố, ngơn ngữ trong
lịch sử nghiên cứu địa danh ở Việt Nam như: Địa danh thành phố Hồ Chí
Minh (1998), Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (1999),
Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam bộ và tiếng Việt văn học (2005), Địa
danh học Việt Nam (2006) v.v.
Để góp phần bổ túc tư liệu cho việc nghiên cứu địa danh cụ thể và tài
liệu tham khảo cho các ngành Du lịch, Việt Nam học, Lịch sử, Ngơn ngữ…,
bên cạnh những cơng trình nghiên cứu đã nêu, chúng ta có thể kể đến một số
cơng trình ra đời dưới dạng từ điển địa danh, dư địa chí của một số địa
phương, địa danh lịch sử văn hố, sổ tay địa danh... đã cơng bố dưới hình thức
xuất bản phẩm.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã từng bước đặt nền móng
cho việc xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn cho hệ thống lý luận về Địa
danh học Việt Nam. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của những cơng trình này là
chưa bao quát hết những vấn đề mang tính lý luận khái quát và những thể
nghiệm cụ thể về hệ thống địa danh ở một vùng miền cụ thể.
Cho đến nay, theo khả năng cập nhật của chúng tơi, đã có khá nhiều
luận văn thạc sĩ nghiên cứu về địa danh trên các vùng địa lí khác nhau tại các
cơ sở đào tạo Sau đị học như Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế, Đại học Vinh,
Đại học Quốc gia Hà Nội... Đáng chú ý là các luận án tiến sĩ đã bảo vệ ở Việt
Nam như Địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh của Lê Trung Hoa (1991),
Khảo sát địa danh thành phố Hải Phòng của Nguyễn Kiên Trường (1996),
Nghiên cứu địa danh Quảng Trị của Từ Thu Mai (2004), Nghiên cứu địa
danh Đắc Lắc của Trần Văn Dũng (2004), Khảo sát các địa danh ở Nghệ An
của Phan Xuân Đạm (2005), Địa danh có nguồn gốc ngơn ngữ dân tộc thiểu
số ở tây Thừa Thiên Huế của Trần Văn Sáng (2013), Đặc điểm ngôn ngữ-văn
8
hóa địa danh Thanh Hóa của Nguyễn Thị Thắng (2014), Nghiên cứu địa
danh Quảng Bình của Nguyễn Đình Hùng (2014)... Đây là những cơng trình
nghiên cứu có những đóng góp quan trọng, góp phần xác lập khuynh hướng
nghiên cứu địa danh dưới góc nhìn ngơn ngữ học, góp phần nghiên cứu vùng
địa danh và phương ngữ cụ thể.
2.3. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Quảng Nam và thành phố Tam Kỳ
Nếu kể cả những cơng trình nghiên cứu văn hóa, địa lý, lịch sử có đề
cập đến các địa danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ thì xưa nhất phải kể đến Ô
Châu cận lục của Dương Văn An đời Mạc chép về sơng núi, thành trì, phong
tục của xứ Thuận Quảng, từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Kế đến là Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn tập hợp những tài liệu về địa lý, chính trị, kinh
tế, văn hóa trong thời gian làm đơ đốc xứ Thuận Hóa cuối thế kỷ
XVIII. Ngồi ra, các cơng trình về địa lý, lịch sử như Đại Nam nhất thống
chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngơ Sỹ
Liên... cũng rải rác có đề cập đến các địa danh ở Nam Trung Bộ.
Đầu thế kỷ XX, đặc biệt từ sau 1945 đến nay, đã có nhiều cơng trình, bài
báo liên quan đến các địa danh Quảng Nam - Đà Nẵng. Các cơng trình
Quảng Nam, địa lý, nhân vật, lịch sử (2000) của Lâm Quang Thự, Quảng
Nam, đất nước và nhân vật (2000), Biến đổi địa danh ở vùng Quảng Nam Đà Nẵng (2001) của Võ Hoàng... Đặc biệt, các chuyên khảo Đất nước Việt
Nam qua các đời (1978) của Đào Duy Anh, Đi thăm đất nước (1989) của
Hồng Đạo Thúy... cũng đã rải rác có đề cập đến một số địa danh thuộc các
tỉnh Nam Trung Bộ. Gần đây nhất, cơng trình Sổ tay địa danh du lịch các
tỉnh Trung Bộ do tập thể các tác giả ở Huế biên soạn để giới thiệu trên 70 địa
danh từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi.
9
Nói về Quảng Nam có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu nhưng chủ
yếu nói về vùng đất, con người, văn hóa, ẩm thực xứ Quảng… chứ chưa có
cơng trình nào tìm hiểu về địa danh Tam Kỳ một cách cụ thể và hệ thống.
Những cơng trình đề cập ít nhiều đến địa danh Quảng Nam cũng như
Tam Kỳ chủ yếu là những cơng trình lịch sử Đảng bộ trong tỉnh.
• Tỉnh ủy Quảng Nam – Thành ủy Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng
Nam – Đà Nẵng (1930 – 1975) xuất bản 2006 cũng có sự thay đổi địa danh ở
tỉnh Quảng Nam qua các thời kỳ nhưng chưa thực sự cụ thể.
• Tỉnh ủy Quảng Nam – Thành ủy Đà Nẵng: Địa chí Quảng Nam – Đà
Nẵng xuất bản năm 2010 cũng đã đề cập đến sự thay đổi địa danh
của tỉnh nhưng chưa thật sự cụ thể.
• Sở văn hóa thơng tin Quảng Nam, 100 năm phủ lỵ Tam Kỳ (19062006), kỷ yếu hội thảo khoa học, tháng 12/2006.
• Sở văn hóa thơng tin Quảng Nam, Văn hóa Quảng Nam – những giá
trị đặc trưng, kỷ yếu hội thảo, 2001.
Ngồi những cơng trình đó cịn có các cơng trình lịch sử Đảng bộ của
các huyện như: Duy Xuyên, Đại Lộc, Tiên Phước, Điện Bàn, Trà My… tất cả
các cơng trình đó chỉ đề cập sơ lược, khái qt q trình thay đổi tên, các địa
danh đó mà thơi.
Như vậy, cho đến nay chưa có một tác giả nào đặt vấn đề nghiên cứu về
“Đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa địa danh thành phố Tam Kỳ (Quảng Nam)”
một cách cụ thể, có hệ thống và đầy đủ theo hướng ngơn ngữ học. Vì vậy, đề
tài là hướng nghiên cứu và cách tiếp cận địa danh một vùng lãnh thổ hoàn
toàn mới mẻ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
10
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tên gọi các đối tượng địa lý tồn
tại trên địa bàn toàn thành phố Tam Kỳ. Luận văn sẽ tập trung khảo sát các
địa danh chỉ địa hình thiên nhiên, địa danh các đơn vị cư trú hành chính và địa
danh chỉ các cơng trình xây dựng thuộc địa bàn đã được nêu ở trên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu địa danh ở thành phố Tam
Kỳ trên các mặt: đặc điểm cấu tạo, phương thức định danh, đặc điểm về ý
nghĩa của các yếu tố, một vài đặc điểm về nguồn gốc biến đổi địa danh, một
số đặc trưng văn hóa gắn với địa danh thành phố Tam Kỳ.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
- Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng ta sẽ góp phần bảo tồn, phát
huy văn hóa truyền thống của một vùng lãnh thổ.
- Thơng qua việc miêu tả và phân tích địa danh ở thành phố Tam Kỳ trên
các mặt: đặc điểm cấu tạo, phương thức định danh, đặc điểm ý nghĩa, nguồn
gốc và sự biến đổi địa danh, những nét đặc trong ngôn ngữ - văn hóa gắn với
địa danh ở thành phố Tam Kỳ, đề tài sẽ góp phần nghiên cứu văn hóa xã hội
của vùng đất này, cung cấp những dữ liệu góp phần cho việc nghiên cứu lý
thuyết về địa danh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và cả nước.
4.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có 4 nhiệm vụ cần được giải quyết:
- Trình bày cơ sở lí luận về địa danh học và tổng quan nghiên cứu địa
danh, vấn đề địa danh, địa bàn nghiên cứu, phương pháp, cách tiếp cận đặc
điểm ngôn ngữ - văn hóa các địa danh ở thành phố Tam Kỳ.
- Điền dã, khảo sát địa danh thuộc các loại hình khác nhau được phân bố
và tồn tại theo các đối tượng địa lí trong phạm vi địa bàn thành phố Tam Kỳ.
- Thống kê, miêu tả đặc điểm cấu trúc các địa danh ở thành phốTam Kỳ
trên các phương diện: mô hình phức thể địa danh, các đặc điểm ngữ pháp,
nguồn gốc của thành tố chung và tên riêng địa danh.
11
- Miêu tả đặc điểm định danh các địa danh thành phố Tam Kỳ ở các khía
cạnh phương thức định danh, đặc điểm ngữ nghĩa và giá trị phản ánh hiện
thực của địa danh; đặc trưng văn hóa thể hiện qua thành tố chung và tên riêng
của phức thể địa danh.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
5.1.1. Phương phương miêu tả
Phương pháp chủ đạo của luận văn là phương pháp miêu tả. Trên cơ sở
của tư liệu điền dã, chúng tôi áp dụng các thủ pháp luận giải bên trong: thủ
pháp phân loại, hệ thống hóa tư liệu (phân địa danh thành các nhóm khác
nhau), thủ pháp đối lập để chỉ ra các đặc điểm về hình thái, ngữ nghĩa của các
kiểu loại địa danh, thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp khi miêu tả cấu trúc
và ý nghĩa các thành tố trong địa danh. Mặt khác, chúng tôi tiến hành các thủ
pháp luận giải bên ngồi như: ngơn ngữ học xã hội, tâm lí học, văn hóa - tộc
người... phân tích các sự kiện, hiện tượng ngôn ngữ trong mối quan hệ giữa
ngơn ngữ với những gì ngồi ngơn ngữ để xem xét các khía cạnh về đặc điểm
cấu tạo, sắc thái biểu cảm, các nhân tố chi phối cách gọi tên địa danh trong
các ngơn ngữ khác nhau trên bình diện đồng đại.
5.1.2. Phương pháp ngôn ngữ học điền dã
Bằng phương pháp nghiên cứu điền dã tại địa bàn nghiên cứu, luận văn
thu thập được hệ thống tư liệu địa danh theo các nhóm: nhóm các yếu tố tổng
loại chỉ địa danh, các nhóm địa danh xét theo nguồn gốc ngơn ngữ, các nhóm
địa danh xét theo đối tượng phản ánh… Công việc điều tra điền dã được tiến
hành theo các bước: điều tra theo mẫu phiếu cho trước; gặp gỡ, phỏng vấn
những cộng tác viên là cán bộ văn hóa các cấp thành phố, phường, xã, thôn;
các cán bộ lão thành cách mạng và các trí thức sống trên địa bàn nghiên cứu.
Các cuộc nghiên cứu điền dã này không chỉ giúp cho người viết thu thập
và thống kê được số lượng địa danh một cách đầy đủ hơn mà cịn giúp lí giải
12
nguồn gốc ngơn ngữ đặt địa danh cũng như lí do định danh gắn với các đặc
trưng văn hóa tộc người, một nhiệm vụ tối quan trọng khi nghiên cứu địa danh.
Bên cạnh sử dụng phương pháp nghiên cứu điền dã để thu thập thêm tư
liệu trên hiện trường và phương pháp miêu tả, trong q trình viết chúng tơi
cịn sử dụng một số phương pháp, thủ pháp chung của các ngành khoa học
khác, như: Phương pháp quy nạp, diễn dịch, mơ hình hóa, thủ pháp thống
kê… để làm rõ hơn các đặc điểm của địa danh ở địa bàn nghiên cứu.
Trong một chừng mực nhất định, phương pháp so sánh lịch sử cũng
được áp dụng để chỉ ra những chuyển biến về âm thanh, ngữ nghĩa và lí do
ban đầu của địa danh qua sự tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa trên địa bàn.
5.2. Nguồn tư liệu của luận văn
5.2.1. Tư liệu thành văn
Tư liệu thành văn được tập hợp từ các nguồn quan trọng sau:
(1) Danh mục địa danh khảo sát qua hệ thống bản đồ được soạn thảo vào
các thời kỳ với nhiều tỉ lệ khác nhau. Đặc biệt, chúng tôi chú ý tới cách ghi
địa danh trên bản đồ quân sự. Đây là nguồn cứ liệu góp phần lí giải cách ghi
khác nhau về địa danh, qua đó đặt vấn đề chuẩn hóa chính tả địa danh.
(2) Danh mục địa danh được thu thập từ các loại hình văn bản khác nhau
trong tiếng Việt. Trong đó, nguồn tư liệu địa danh được thu thập từ danh mục
các đơn vị hành chính các cấp ban hành là quan trọng, đây là nguồn tư liệu
thành văn chính thống, phần lớn được dùng cố định, lâu dài; còn danh mục
địa danh thu thập trong các tài liệu văn bản khác như sách, báo, địa chí, từ
điển, cơng báo… thường xuyên có những thay đổi, tồn tại nhiều cách viết
khác nhau không thống nhất.
5.2.2. Tư liệu điền dã
Nguồn thông tin tư liệu về địa danh được điều tra điền dã tại địa bàn là
nguồn thông tin tư liệu hết sức quan trọng. Chúng tơi cho rằng, chỉ có phương
pháp điều tra điền dã, bám sát địa bàn nghiên cứu để thu thập thơng tin dưới
nhiều hình thức khác nhau về địa danh mới có thể lí giải được nguồn gốc và ý
13
nghĩa của địa danh một cách hiệu quả nhất. Mỗi loại tư liệu đều cho chúng ta
những chỉ dẫn về địa danh ở những thời điểm khác nhau, giúp tìm hiểu nguồn
gốc, ý nghĩa, quá trình hình thành, biến đổi và nguyên nhân làm sai lệch địa
danh trong cách viết tiếng Việt.
6. Đóng góp của đề tài
- Nghiên cứu địa danh thành phố Tam Kỳ sẽ là sự phản ánh chung địa
danh của người Việt ở Quảng Nam, vừa là sự phản ánh nét kế thừa của cư dân
đã cư trú ở vùng đất này từ thời xa xưa trong sự giao lưu và tiếp xúc ngơn
ngữ-văn hóa.
- Luận văn sẽ lập được danh mục địa danh thành phố Tam Kỳ và phân
loại địa danh theo các tiêu chí cụ thể. Lần đầu tiên, bức tranh tổng thể về địa
danh thành phố Tam Kỳ được mô tả và khái quát ở các mặt: đặc điểm về cấu
tạo, ý nghĩa, các phương thức định danh. Luận văn cũng chỉ ra một số đặc
điểm về sự hình thành, biến đổi và đặc trưng ngơn ngữ-văn hóa trong địa
danh ở thành phố Tam Kỳ.
- Luận văn, trong chừng mực nhất định, sẽ góp phần thể hiện một vài đặc
điểm riêng của tiếng địa phương Quảng Nam ở thành phố Tam Kỳ và các vấn
đề chung của lịch sử tiếng Việt.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về địa danh và những vấn đề hữu quan về địa
danh thành phố Tam Kỳ
Chương 2: Đặc điểm về cấu tạo và ý nghĩa của địa danh thành phố Tam
Kỳ
Chương 3: Một vài đặc điểm văn hóa của địa danh thành phố Tam Kỳ
14
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ HỮU
QUAN VỀ ĐỊA DANH THÀNH PHỐ TAM KỲ
1.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH
1.1.1. Về khái niệm địa danh
Địa danh (toponym) là tên gọi của địa hình thiên nhiên, các cơng trình
xây dựng, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ nào đó. Thuật ngữ địa
danh trong tiếng Hy Lạp có cấu tạo gồm hai bộ phận: topos (địa điểm) và
onoma/onima (tên gọi chung nhất với ý nghĩa “tên gọi địa lý”). Địa danh,
hiểu theo nghĩa hẹp, là tên gọi của các đối tượng địa lý gắn với từng vùng đất
cụ thể.
Hiện vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về địa danh, vì mỗi định
nghĩa đều có điểm riêng tùy theo cách lập luận và hướng tiếp cận của từng
tác giả. Theo A.V. Superanskaja, địa danh là “tồn bộ những tên gọi địa lý,
đơi khi cịn có những tên gọi khác...” [44, tr.3] và “những địa điểm, mục tiêu
địa lý đó là những vật thể tự nhiên hay nhân tạo với sự định vị, xác định trên
bề mặt trái đất, từ những vật thể lớn nhất (các lục địa và đại dương) cho đến
những vật thể nhỏ nhất (những ngôi nhà, vườn cây đứng riêng rẽ) đều có tên
gọi” [44, tr. 13]. Theo quan niệm của tác giả, địa danh là tên gọi các đối
tượng địa lý khác nhau, địa hình trên bề mặt trái đất. Địa danh đánh dấu các
tên gọi địa lý bằng các từ. Địa danh gần gũi với tên người, tên động vật. Tác
giả Từ Thu Mai cũng đồng ý với quan điểm của Superanskaja: “Địa danh là
những từ ngữ chỉ tên riêng của các đối tượng địa lý có vị trí xác định trên bề
mặt trái đất” [31, tr.21].
Ở Việt Nam, với cách hiểu từ Hán Việt, địa danh có nghĩa là tên đất.
Quan niệm về địa danh nhìn từ góc độ địa lý - văn hóa, Đào Duy Anh cho
rằng: “Địa danh là tên gọi các miền đất” [2, tr.220]. Nguyễn Văn Âu cũng cho
15
rằng: “Địa danh là tên đất, gồm tên sông, núi, làng mạc, hay là tên địa
phương, làng mạc” [4, tr.18].
Tác giả Lê Trung Hoa đã đưa ra quan niệm về địa danh dưới góc độ
ngơn ngữ học: “Địa danh là những từ hoặc ngữ, được dùng làm tên riêng của
các địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ và các
cơng trình xây dựng thiên về khơng gian hai chiều. Trước địa danh ta có thể
đặt một danh từ chung chỉ loại địa danh đó: sơng Sài Gòn, đường Ba Tơ, ấp
Bàu Trăm,...” [22, tr.22]. Nguyễn Kiên Trường thì xác định: “Địa danh là tên
riêng chỉ các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề
mặt trái đất” [56, tr.16].
Từ những quan điểm của các tác giả trong và ngồi nước như đã nêu,
chúng tơi xin trình bày cách hiểu của mình về địa danh như sau để sử dụng
trong luận văn: Địa danh là những từ, cụm từ dùng làm tên riêng cho các đối
tượng địa lý khác nhau, có vị trí xác định thiên về khơng gian hai chiều trên
bề mặt trái đất.
Dù có những quan niệm chưa thống nhất về địa danh, nhưng các nhà
nghiên cứu địa danh học đều nhất trí rằng địa danh, ở một mức độ nào đó,
chính là những vật chứng đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu về dân tộc,
lịch sử, văn hóa và ngơn ngữ. Địa danh được xem là những “di chỉ khảo cổ
học” khơng nằm trong lịng đất, hiện hữu với tư cách là những bằng chứng,
hiện tượng đồng đại nhưng lại chứa nhiều thành tố thuộc về lịch đại. Đó
chính là cơ sở, là xuất phát điểm để chúng tôi khảo sát, mô tả nội dung địa
danh ở thành phố Tam Kỳ trong mối liên hệ với sự phản ánh hiện thực về một
vùng lãnh thổ.
1.1.2. Vấn đề phân loại địa danh
1.1.2.1. Một số cách phân loại địa danh của các tác giả nước ngoài
Hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các nhà ngôn ngữ học có
16
những cách phân loại khác nhau về địa danh. Dưới đây là một số cách phân
loại địa danh của các tác giả nước ngoài.
Tác giả A.V.Superanskaja [44] chia địa danh thành 8 loại: 1. Phương
danh; 2. Thuỷ danh; 3. Sơn danh; 4. Phố danh; 5. Lộ danh; 6. Viên danh; 7.
Đạo danh; 8. Nơi cư dân ít. Theo Lê Trung Hoa [22], tác giả A. Dauzat phân
chia các địa danh cụ thể thành 4 phần: 1. Những vấn đề chung cơ sở ngôn ngữ
tiền Ấn - Âu; 2. Các danh từ tiền La tinh về nước trong thủy danh học; 3. Các
từ nguyên Gôloa - La Mã; 4. Địa danh học Gơloa - La Mã của vùng Auvergne
và Velay. Cịn Ch.Rostaing, thì xem xét các vấn đề trong địa danh như: 1.
Những cơ sở tiền Ấn - Âu; 2. Các lớp tiền Xêtích; 3. Lớp Gơloa; 4. Những
phạm vi Gơloa - La Mã; 5. Những sự hình thành La Mã; 6. Những đóng góp
của tiếng Giécmanh; 7. Các hình thức của thời phong kiến; 8. Những danh từ
có nguồn gốc tơn giáo; 9. Những hình thái hiện tại; 10. Các địa danh và tên
đường phố; 11.Tên sơng núi.
Có thể thấy, các nhà địa danh học phương Tây và Xô Viết trước đây đã
phân loại địa danh dựa theo hai tiêu chí: Nguồn gốc ngơn ngữ cấu thành địa
danh và đối tượng địa lý mà địa danh phản ánh. Trong đó, cách phân chia địa
danh của tác giả A.V.Superanskaja [44] là cụ thể và rõ ràng nhất.
1.1.2.2. Cách phân loại địa danh của các tác giả trong nước
Tác giả Nguyễn Văn Âu [4] tiến hành sắp xếp địa danh thành các kiểu
khác nhau, theo đối tượng địa lý tự nhiên và kinh tế - xã hội. Ông chia địa
danh ra: 2 loại, 7 kiểu và 12 dạng địa danh. Loại địa danh: 1. Địa danh tự
nhiên như sông Hồng, Trường Sơn, Côn Đảo. 2. Địa danh kinh tế - xã hội
như: làng Thượng Cát, huyện Sa Pa. Các kiểu địa danh: 1. sơn danh; 2. lâm
danh; 3. làng; 4. xã; 5. huyện; 6. thị và 7. thành phố và quốc gia. Các dạng địa
danh như: sơng ngịi, hồ, đầm, đồi núi, hải đảo, rừng. Cách phân chia này
chưa đề cập đến tên các vùng lãnh thổ và tên các cơng trình xây dựng thiên về
17
không gian hai chiều, chỉ dựa vào đặc điểm địa lí - xã hội, chưa có tính chất
khái qt để nghiên cứu địa danh dưới góc độ ngơn ngữ học.
Tác giả Lê Trung Hoa [22], với cách trình bày các vấn đề địa danh
dưới góc độ của ngơn ngữ học, hướng đến tính hệ thống, tính lý thuyết, căn
cứ vào tiêu chí tự nhiên và khơng tự nhiên, chia địa danh ra 2 loại: Địa danh
chỉ các đối tượng địa lí tự nhiên và địa danh chỉ đối tượng địa lý nhân tạo.
Trong đó các đối tượng địa lí tự nhiên như: núi, đồi, sông, rạch... Địa danh
chỉ đối tượng địa lý nhân tạo gồm 3 kiểu loại: địa danh chỉ các cơng trình
xây dựng (phố danh, viên danh, đạo danh); địa danh chỉ các đơn vị hành
chính (ấp, xã, phường...); và địa danh chỉ các vùng lãnh thổ không có ranh
giới rõ ràng. Căn cứ vào nguồn gốc ngữ nghĩa, tác giả chia địa danh ở thành
phố Hồ Chí Minh thành 2 nhóm lớn: địa danh thuần Việt và địa danh không
thuần Việt (gốc Hán - Việt, gốc Khơme, gốc Pháp.).
Cách phân loại địa danh của Từ Thu Mai [31] trong Nghiên cứu địa
danh Quảng Trị cũng gần với quan điểm của tác giả Lê Trung Hoa. Dựa vào
tiêu chí tự nhiên - khơng tự nhiên, tác giả chia địa danh ra làm làm 2 loại
hình: a. Địa danh tự nhiên, b. Địa danh không tự nhiên. Địa danh tự nhiên
gồm: sơn danh, thuỷ danh, vùng đất nhỏ. Địa danh khơng tự nhiên gồm 2
nhóm: đơn vị dân cư và các cơng trình nhân tạo. Nhóm địa danh đơn vị dân
cư gồm: địa danh do chính quyền hành chính đặt và địa danh có từ thời
phong kiến. Nhóm địa danh các cơng trình nhân tạo gồm: cơng trình giao
thơng, cơng trình xây dựng. Dựa vào nguồn gốc ngơn ngữ của các yếu tố, tác
giả phân chia địa danh làm 4 loại: a. Địa danh là thuần Việt; b. Địa danh Hán
Việt; c. Địa danh kết hợp các yếu tố thuần Việt và Hán Việt; d. Địa danh
thuộc các ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Trong địa danh thuần Việt tác giả phân
làm 2 loại: địa danh thuần Việt toàn dân và địa danh thuần Việt là tiếng địa
phương Quảng Trị.