Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Một số văn hóa và tín ngưỡng của người dân tộc h’mông ở tỉnh hà giang TIỂU LUẬN CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.19 KB, 55 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua lịch sử mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, cộng
đồng các dân tộc Việt Nam đã hun đúc truyền thống văn hoá tốt đẹp, làm nên
sức sống trường tồn đưa đất nước vượt qua bao thăng trầm của lịch sử, bảo vệ
nền độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Trong quá trình đó, văn
hoá dân tộc thiểu số nói chung và văn hoá dân tộc H’Mông nói riêng có vị trí
rất quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần tạo nên sự cố kết cộng đồng
bền vững của 54 dân tộc, góp phần tạo nên một nền văn hoá Việt Nam thống
nhất trong đa dạng.
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập ngày nay chúng ta xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó văn hoá có vai trò là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế
- xã hội. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số được
khẳng định là một trong mười nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng, hiện đại hoá
nền văn hoá Việt Nam, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương
(khoá VIII) đã khẳng định: Coi trọng, bảo tồn và phát huy những giá trị
truyền thống, xây dựng và phát triển những giá trị mới về văn hoá, văn học,
nghệ thuật của các dân tộc thiểu số, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình
văn hoá, mở rộng mạng lưới thông tin, thực hiện tốt chính sách phát triển kinh
tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số…
Xây dựng tốt đời sống văn hoá ở cơ sở là bước đi ban đầu, nhằm phát
triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, thực hiện phát triển văn hoá gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Chính vì vậy mà việc phát huy vai trò của văn hoá đối với sự phát
1


triển của các tỉnh miền núi, biên giới và những vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, được hết sức coi trọng, vì vấn đề đó có ý nghĩa chiến lược cơ bản lâu dài


trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội Chủ nghĩa.
Hà Giang là một tỉnh vùng cao biên giới và là một trong những địa bàn
cư trú lớn nhất của đồng bào người H’Mông ở Việt Nam. Người H’Mông
được các nhà khoa học coi như một cộng đồng “đặc biệt”, có nhiều nét đặc
thù trong lịch sử và lối sống được thể hiện trong văn hóa mưu sinh và ứng xử,
ý thức cộng đồng, tâm lý tộc người… Đặc biệt, tín ngưỡng của người
H’Mông chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống văn hóa – xã hội của
cộng đồng này. Tín ngưỡng của người H’Mông không chỉ đơn thuần là những
sinh hoạt văn hoá tâm linh, mà còn là một thành tố cốt lõi tạo nên sự cố kết
bền vững của dân tộc, nó giúp cho người H’Mông luôn gắn bó với văn hóa
cội nguồn và tạo nên bản sắc văn hóa đặc thù của người H’Mông.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một bộ phận người H’Mông ở Hà
Giang có xu hướng từ bỏ các giá trị tín ngưỡng truyền thống và những phong
tục văn hóa, lối sống cổ truyền của dân tộc mình. Cùng với việc từ bỏ giá trị
văn hoá truyền thống của dân tộc là làn sóng di dân tự do, rời bỏ quê hương
làng quán, gây xáo trộn trong nhận thức cũng như trong đời sống của nhân
dân nói chung, của người H’Mông Hà Giang nói riêng. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu lợi dụng niềm
tin, tín ngưỡng, gắn vấn đề niềm tin, tín ngưỡng với vấn đề dân tộc để chống
phá, nhằm gây bạo loạn, lật đổ chính quyền. Người H’Mông nói chung và
những tín ngưỡng truyền thống của tộc người này đang là mục tiêu của các
thế lực thù địch nhắm tới với mục đích trên.
Do đó xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn, để đảm bảo được an ninh - chính
trị, gìn giữ được các giá trị văn hóa tín ngưỡng truyền thống cũng như tránh
được sự lợi dụng của các thế lực thù địch nhằm gây rối loạn, lật đổ… trước hết
2


đòi hỏi chúng ta phải đi sâu nghiên cứu, tìm ra những đặc thù trong sinh hoạt
tín ngưỡng của người H’Mông, cũng như nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh –

tín ngưỡng của họ trong thời kỳ mới, từ đó mới có thể có được những quyết
sách cho phù hợp vừa đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của đồng bào,
vừa đảm bảo ổn định khu vực và an ninh quốc gia.
Vì những lý do trên em chọn đề tài “Một số tín ngưỡng của người
H’Mông ở tỉnh Hà Giang” làm hướng nghiên cứu cho môn học Văn hóa Tín
ngưỡng – Tôn giáo, nhằm làm sáng tỏ hơn về hoạt động tín ngưỡng của cộng
đồng người H’Mông ở Hà Giang, qua đó giúp hiểu biết rõ nét hơn và nhận
thức được những sự thay đổi trong hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng của cộng
đồng này trong thời buổi toàn cầu hóa – hội nhập.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tín ngưỡng là một thành tố văn hóa trong đời sống tâm linh của con
người và nhận được sự quan tâm của nhiều người, đặc biệt là tín ngưỡng
truyền thống của các dân tộc thiểu số, trong đó người H’Mông cũng là một
điển hình. Trong những năm gần đây, do sự tác động của xu thế toàn cầu hóa,
hội nhập nên trong hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng của người H’Mông nói
chung và người H’Mông ở Hà Giang nói riêng có những biến đổi đã nhận
được sự quan tâm của nhiều người với những công trình, tác phẩm như sau:
Văn hoá tâm linh của người H’Mông ở Việt Nam - Truyền thống và
hiện đại, Nxb Văn hoá Thông tin - 2006, của Vương Duy Quang.
Văn hóa người H’Mông ở Simacai, Nxb Chính trị - Hành chính của
PGS.TS Phạm Ngọc Trung là chủ biên.
Bài viết Vài nét về văn hóa người H’Mông ở Việt Nam, trên trang báo
điện tử Biên Phòng Việt Nam.

3


Giải quyết vấn đề dân tộc qua việc thực hiện tự do tín ngưỡng tôn giáo
ở vùng dân tộc H’Mông hiện nay, Luận án tiến sỹ của Nông Văn Lưu - Viện
nghiên cứu Chủ nghĩa Mác- Lênin, 1994.

Vấn đề đạo Tin lành trong dân tộc H’Mông các tỉnh miền núi phía Bắc
nước ta hiện nay - Luận án tiến sĩ của Phan Viết Phong - Học viện chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết về văn hoá của dân tộc H’Mông đăng
trên các báo, tạp chí, báo điện tử cũng tìm hiểu khá rõ nét về vấn đề văn hóa –
tín ngưỡng của người H’Mông ở Hà Giang.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một số tín ngưỡng của người H’Mông ở
tỉnh Hà Giang và một số vấn đề đặt ra trong hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng
của người H’Mông ở tỉnh Hà Giang.
Ngoài ra đề tài còn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động
sinh hoạt tín ngưỡng của đồng bào người H’Mông ở tỉnh Hà Giang.
4. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu một số tín ngưỡng của người H’Mông ở tỉnh Hà
Giang. Tập trung phân tích: cơ sở hình thành, nguồn gốc, bản chất, hình thức
biểu hiện, nghi lễ của các tín ngưỡng truyền thống của của người H’Mông,
nêu lên vai trò, ý nghĩa của các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng đối với đời
sống văn hóa – xã hội của của người H’Mông. Đề tài còn nghiên cứu đến một
số vần đề còn tồn tại trong hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng của của người
H’Mông ở tỉnh Hà Giang. Thông qua đó bày tỏ quan điểm của em về vấn đề
gìn giữ giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống mà biểu hiện thông qua các tín
ngưỡng truyền thống của người H’Mông.
5. Phương pháp nghiên cứu

4


Với đối tượng và mục đích nghiên cứu đã nêu trên, đề tài sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu sau: Thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau
như từ sách giáo trình, vở ghi, các tác phẩm, công trình có liên quan đến vấn

đề tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng của người H’Mông nói riêng. Sau đó
sử dụng các phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp tổng hợp liên
ngành, phương pháp hệ thống, phương pháp duy vật biện chứng, phương
pháp so sánh…
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3
chương chính như sau:
Chương 1: Một số nét chung về người H’Mông ở Việt Nam và người
H’Mông ở tỉnh Hà Giang
Chương 2: Một số tín ngưỡng của người H’Mông ở tỉnh Hà Giang
Chương 3: Một số giải pháp để nâng cao hoạt động sinh hoạt tín
ngưỡng của người H’Mông ở tỉnh Hà Giang

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ NÉT CHUNG VỀ NGƯỜI H’MÔNG Ở VIỆT NAM VÀ
NGƯỜI H’MÔNG TỈNH HÀ GIANG
1.1.

Người H’Mông ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc khác nhau, trong
đó người Kinh (Việt) có số lượng đông nhất, chiếm tới 87% dân số của cả
nước.
Người H’Mông là một trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tập
trung đông nhất ở các vùng núi cao từ 800 đến 1500 m thuộc khu vực trung
du và miền núi Bắc bộ. Cùng với 53 dân tộc khác, H’Mông luôn luôn là một
phần trong sự thống nhất của khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm
phong phú thêm cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Người H’Mông ở Việt Nam ngày nay chủ yếu có nguồn gốc từ phương
Bắc di cư xuống từ khoảng hơn 300 năm trước. Theo nghiên cứu của các nhà
dân tộc học Việt nam người H’Mông đến Việt Nam bằng nhiều con đường
khác nhau và trải qua nhiều đợt khác nhau.
Đợt thứ nhất có khoảng hơn 600 người di cư đến các khu vực Đồng
Văn, Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang, thời gian vào khoảng cuối thời nhà Minh ở
Trung Quốc. Từ đây, họ bắt đầu tiếp tục di cư vào sâu hơn đến các tỉnh thuộc
Đông Bắc Việt Nam.
Đợt thứ hai, khoảng trên 500 người, trong đó có những hộ thuộc họ
Vàng, họ Lý cũng vào khu vực Đồng Văn. Còn một nhóm khác số người ít
hơn, thuộc các họ Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai,
Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Sau đó có khoảng 30 hộ gồm các họ Vừ, Sùng chuyển
sang phía Tây Bắc Việt Nam. Thời gian của đợt di chuyển này cách đây trên

6


200 năm. Một số hộ người H’Mông này sau đó tiếp tục di cư rải rác đến các
tỉnh của Tây Bắc Việt Nam
Đợt thứ ba, số người H”Mông di cư vào Việt Nam đông nhất, gồm
khoảng trên 10 ngàn người. Phần lớn họ từ Quý Châu, có một số từ Quảng
Tây và Vân Nam sang, chủ yếu vào các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái…
Thời gian của đợt di cư này tương đương với thời kỳ của phong trào “Thái
Bình Thiên Quốc”, trong đó có người Miêu tham gia, chống lại nhà Mãn
Thanh từ năm 1840 đến 1868. Về sau, họ tiếp tục di cư đến các huyện của các
tỉnh thuộc Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam.
Về sau hàng năm vẫn có người H’Mông di cư lẻ tẻ sang Việt Nam. Các
con đường di chuyển của đồng bào là vào Đồng Văn rồi xuống Tuyên Quang.
Riêng các nhóm H’Mông cư trú ở hai tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An và các
huyện giáp biên giới Lào của Sơn La như Mai Sơn, Mộc Châu, Sốp Cộp,

Sông Mã cũng từ Lào và các tỉnh miền núi miền Bắc vào trên dưới 100 năm
trở lại đây.
Từ sau ngày đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới (1986), tình hình di
chuyển của người H’Mông luôn gia tăng, theo hai hướng Bắc – Nam và Đông –
Tây. Vì vậy, số địa phương có người H’Mông sinh sống ngày càng tăng lên đáng
kể và cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam.
Theo số liệu Tổng điều tra dân số ngày 1 – 4 – 2009 người H’Mông có
số dân là 1 068 189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc
ở Việt Nam.
Trong những năm qua, thời gian và nhịp điệu phát triển của cuộc sống
cùng sự tác động của các yếu tố văn hóa bên ngoài dần ảnh hưởng đến cộng
7


đồng người H’Mông ở Việt Nam. Cuộc sống của người H’Mông vừa chịu sự
chi phối của mối quan hệ truyền thống, vừa chịu tác động mạnh mẽ của mối
quan hệ xã hội mới theo cơ chế pháp luật của nhà nước. Từ đó, mối quan hệ
xã hội ở dân tộc này đã có sự tự điều chỉnh và thay đổi để có thể thích nghi,
tồn tại với hoàn cảnh mới. Tuy nhiên, dù có sự điều chỉnh hay thay đổi thậm
chí còn tiếp nhận thêm những yếu tố văn hoá mới, cấu trúc xã hội cơ bản của
dân tộc này vẫn tồn tại và là một trong những yếu tố biểu hiện cho bản sắc
dân tộc của cộng đồng này.
1.2.

Người H’Mông ở Hà Giang
Hà Giang là một tỉnh biên giới thuộc vùng núi phía Bắc Việt Nam. Có
22 dân tộc anh em cùng sinh sống. Là một trong những tỉnh có nhiều thế
mạnh về tự nhiên cũng như xã hội, đặc biệt là thế mạnh về đa dạng văn hoá.
Từ xa xưa, đây là địa bàn sinh sống của nhiều lớp cư dân cổ đại, với một hệ
giá trị văn hoá liên tục mà cho đến nay đã phát hiện được nhiều hiện vật từ

tiền sử, có hệ thống các di sản văn hoá phong phú và đa dạng về cả di sản văn
hoá vật thể và văn hoá phi vật thể
Hà Giang là một trong những địa bàn cư trú lớn nhất của người
H’Mông ở Việt Nam. Hiện nay trên toàn tỉnh Hà Giang số lượng người
H’Mông là 231.464 người, chiếm 31,9% dân số toàn tỉnh và 21,7% tổng số
người H’Mông tại Việt Nam, cùng với các dân tộc anh em khác trong tỉnh,
văn hóa của người người H’Mông góp phần làm phong phú thêm cho bản sắc
văn các dân tộc trong tỉnh.
Người H’Mông ở Việt Nam nói chung và người H’Mông ở Hà Giang
nói riêng được các nhà nghiên cứu khoa học gọi là “cộng đồng đặc biệt”, có
nhiều nét đặc thù trong lịch sử và lối sống được thể hiện trong văn hóa mưu
sinh và ứng xử, ý thức cộng đồng, tâm lý tộc người… Đặc biệt, tín ngưỡng
của người H’Mông chiếm một vị trí rất quan trọng trong sinh hoạt văn hoá
8


tinh thần của cộng đồng này. Tín ngưỡng, tôn giáo của người H’Mông không
chỉ đơn thuần là những sinh hoạt văn hoá tâm linh, mà còn là một thành tố cốt
lõi tạo nên sự cố kết bền vững của dân tộc, nó giúp cho người H’Mông luôn
gắn bó với văn hóa cội nguồn và tạo nên bản sắc văn hóa đặc thù của người
H’Mông.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI H’MÔNG Ở TỈNH HÀ GIANG
2.1.

Khái niệm tín ngưỡng
Tín ngưỡng là một niềm tin có hệ thống mà con người tin vào để giải
thích thế giới và để mang lại sự bình yên cho bản thân và cộng đồng. Tín
ngưỡng còn là thể hiện giá trị của cuộc sống, ý nghĩa của cuộc sống bền vững,
đôi khi được hiểu là tôn giáo. Theo nhiều cách tiếp cận khác nhau thì tín

ngưỡng được hiểu ở nhiều góc độ khác nhau.
Quan điểm triết học Macxit về tín ngưỡng:
Trên cơ sở phương pháp tiếp cận khoa học, phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử với hệ thống các quan điểm thực tiễn, lịch sử cụ thể,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã đưa ra những luận điểm,
quan niệm về tín ngưỡng. C.Mác cho rằng: “Đời sống xã hội về thực chất là
có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa
thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con người và
sự hiểu biết thực tiễn ấy”. Tín ngưỡng về bản chất là một hiện tượng xã hội,
mang bản chất xã hội, không phải là sản phẩm của thần thánh, không phải là
của các đấng siêu nhân thần bí. Tín ngưỡng cũng là một hiện tượng thuộc đời
sống tinh thần, chịu sự quy định của đời sống vật chất. C.Mác chỉ ra mối quan
hệ giữa tồn xã hội và ý thức xã hội mà trực tiếp ở đây là mối quan hệ giữa
hoạt động thực tiễn của con người và tín ngưỡng. “Xuất phát từ những người
đang hành động thực hiện và chính cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện
9


thực của họ mà chúng mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và
tiếng vang tư tưởng của quá trình sống ấy”.
Tín ngưỡng và tôn giáo có nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn, trong tiến
trình phát triển của lịch sử và toàn bộ văn minh nhân loại của hoạt động thực
tiễn, tính thần bí của tín ngưỡng dần được làm rõ.
C.Mác và Ph.Ăngghen trong các tác phẩm của hai ông đã xem sản xuất
vật chất là cơ sở của sự hình thành và phát triển của các hoạt động mang tính
lịch sử, trong đó có tín ngưỡng. Như vậy có thể nói tín ngưỡng là một hiện
tượng lịch sử, một sản phẩm của thời đại lịch sử nhất định. Tín ngưỡng là một
bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, là
hệ quả của các quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình lịch sử văn
hóa, là sự hiểu biết của niềm tin dưới dạng tâm lý xã hội và cái thiêng liêng

thông qua hệ thống nghi lễ thờ cúng của con người và cộng đồng người trong
xã hội.
PGS.TS. Trần Đăng Sinh trong sách “Những khía cạnh triết học trong
tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên của người Việt ở Đồng Bằng Bắc bộ hiện nay” đã
đưa ra nhận định như sau về tín ngưỡng: “khác hẳn với các nhà triết học duy
tâm lấy ý thức, tín ngưỡng, tôn giáo để giải thích lịch sử, coi tín ngưỡng tôn
giáo là phạm trù vượt lịch sử, là cái thần bí, vĩnh hằng, họ lấy sự biến thiên
của tín ngưỡng, tôn giáo để phân định lịch sử”. Các nhà triết học Macxit để
giải thích tín ngưỡng và đi đến nhận định chung mang tính khách quan và
khoa học là tín ngưỡng cũng là một hiện tượng lịch sử và cũng đồng thời là
một bộ phận của ý thức xã hội có quy luật hình thành và phát triển riêng.
Nghiên cứu tín ngưỡng không thể tách rời các lĩnh vực của đời sống tinh thần,
phải đặt trong mối quan hệ qua lại với các hình thái ý thức xã hội, đồng thời
cần phản ánh tính đa dạng của các loại tín ngưỡng, mỗi loại hình tín ngưỡng
là sự phản ánh các mối quan hệ vốn có của một kiểu xã hội, mỗi loại hình tín
10


ngưỡng do đó mang tính địa phương. Yếu tố bên trong của tín ngưỡng thường
quy định nội dung của tín ngưỡng đó là ý thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin
của chủ thể. Yếu tố bên ngoài cuả tín ngưỡng thường được quy định bởi hình
thức biểu hiện, đó là hệ thống nghi lễ thông qua các tập tục, thói quen, truyền
thống.
2.2.

Một số nhận định chung về tín ngưỡng của người H’Mông ở Hà Giang
Tín ngưỡng của người H’Mông chủ yếu là các hình thức sơ khai vào thời
đại tiền giai cấp mà vắng bóng các hình thức tôn giáo của thời đại có giai cấp.
Tín ngưỡng truyền thống của người H’Mông có rất nhiều loại hình đặc
sắc và phong phú. Ngày nay trong cộng đồng người H’Mông nói chung và

người H’Mông ở Hà Giang nói riêng vẫn tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng
sơ khai vốn xuất hiện từ thời kỳ nguyên thủy.
Tín ngưỡng truyền thống của người Hmông là tín ngưỡng đa thần.
Đa thần giáo là trình độ ban đầu của quá trình ra đời, vận động phát
triển của tín ngưỡng, tôn giáo nói chung. Mặc dù thờ đa thần, người H’Mông
ở Việt Nam không lập đền thờ mang tính cộng đồng, nhưng các nghi lễ cho
nhiều thần tỏ ra quá phiền toái, tốn kém tiền của, sức lực và thời gian. Trong
đó nhiều nội dung đã trở nên cổ hủ, kìm hãm sự phát triển.
Cụ thể là các hình thức:
+Thờ cúng “Xử ca”
Xử ca là loại ma cai quản tiền của, phù hộ cho gia đình làm ăn phát đạt,
giữ các linh hồn trong gia đình không đi lang thang, được người Hmông coi
trọng nhất.
+ Thờ cúng tổ tiên
Người H’Mông thường thờ cúng tổ tiên trong ba đời trở lại, bàn thờ
được đặt cạnh bàn thờ “Xử ca” nhưng có mặt ván để ba bát hương. Trong lễ
cúng chủ nhà gọi tên tuổi của ba thế hệ đã khuất, mời về ăn tết với con cháu,
cầu xin tổ tiên phù hộ cho con cháu sức khỏe, làm ăn phát đạt.
11


Lễ cúng tổ tiên thường diễn ra vào đêm 30 tết, hoặc váo những lúc
trong nhà có người ốm đau để xin tổ tiên phù hộ. Ma tổ tiên là ma lành, nhưng
người H’Mông quan niệm, nếu không thờ cúng chu đáo thì ma này cũng bắt
phạt họ phải ốm đau, đòi phải có bò, lợn làm lễ cúng.
+ Thờ cúng ma buồng (Đá trùng)
Ma buồng là ma chăm sóc, bảo vệ sức khỏe trẻ con, phát triển gia súc.
Người H’Mông quan niệm, khi đôi vợ chồng khó sinh để, hoặc đẻ ra không
nuôi được, hoặc trong nhà, lợn con đẻ ra hay bị chết là do ma buồng mất
thiêng. Khi đôi vợ chồng có con đầu lòng, người chồng được đặt tên mới thì

tiến hành lập ma buồng. Cách thức lập ma buồng là người ta lấy một quả bầu
nho nhỏ, bỏ hết ruột bên trong và cùng với một cái chén làm bằng ống nứa bỏ
vào cái hộp đan bằng tre, hoặc mây. Hộp này được gác ở mái nhà phía đầu
giường của ông chủ gia đình. Người Hmông không cho phụ nữ, trẻ em sờ đến
cái hộp này. Gia đình có trẻ con thì cúng ma buồng ít nhất một lần trong năm.
Khi trong nhà có lợn đẻ cũng tiến hành cúng, như vậy hàng năm lễ cúng ma
buồng có thể tiến hành hai đến ba lần.
+ Thờ cúng ma bếp
Ma bếp là ma bảo vệ mùa màng, sản xuất nông nghiệp phát triển, nhiều
lúa, ngô, khoai, sắn. Một số dòng họ có quan niệm ma bếp cũng có liên quan
đến sức khỏe và chăn nuôi, là người trong coi tài sảnkhi gia đình đi vắng.
+ Thờ cúng ma cửa
Ma cửa giống như người gác cửa, không cho điều xấu xâm nhập vào
gia đình, của cải, gia súc, giữ các hồn gia đình không bỏ đi. Người H’Mông
quan niệm khi trong nhà có chuyện không hay như ốm đau, gia súc bị chết là
do ma cửa bị ngã, không giữ vững được bản mệnh. Người phụ nữ có thai ở
gia đình khác bước qua cửa nhà mình thì cũng làm cho ma cửa bị ngã, khi đó,
phải làm lễ cúng nâng ma cửa dậy.
12


+ Thờ cúng ma cột cái
Cột cài là một cột giữa cửa vì kèo thứ hai, tiếp giáp giữa đầu bên
phải và gian giữa. Theo quan niệm của người H’Mông, cột cái là nơi tập
trung các hồn người, tượng trưng cho sự vững chãi của gia đình. Ma cột cái
làm nhiệm vụ bảo vệ nhà cửa, chống chọi bão gió, giữ gìn hồn các thành
viên trong gia đình.
Trong hệ thống tín ngưỡng đa thần của người H’Mông thì tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên giữ vị trí quan trọng. Luật tục của người H’Mông quy định
rõ, đã là một gia đình H’Mông thì dưới mái nhà của họ phải có nơi thờ cúng

tổ tiên. Theo truyền thống, chỗ thờ tổ tiên của đồng bào luân ở vách tường
thuộc gian giữa của ngôi nhà – gian dành cho các hoạt động tín ngưỡng, lễ tục
diễn ra.
Theo quan niệm của người H’Mông, việc thờ cúng tổ tiên không chỉ thể
hiện lòng biết ơn đối với cha ông, với người đã khuất hay phải thực hiện lễ
thức theo tục lệ tang ma, mà nhiều khi còn là sự cầu mong, sự tạ lỗi, xin tha
thứ... với tổ tiên, bởi tổ tiên luôn có sự chi phối đến số phận của con cháu (sức
khỏe, hiệu quả công việc...). Tổt iên luôn phù hộ cho con cháu hoặc có thể nổi
giận phạt con cháu ốm đau...Nghi lễ cúng tổ tiên thường được tiến hành đơn
giản nhưng rất trang nghiêm, đặc biệt là vào dịp tết nguyên đán.
2.3. Một số tín ngưỡng của người H’Mông ở Hà Giang
2.3.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam nói chung đã có từ ngàn xưa và
đây là một nét phong tục đẹp, một tín ngưỡng linh thiêng đã trở thành đạo lý
xã hội, thành một trong những giá trị cốt lõi trong đời sống văn hóa tâm linh
của người Việt. Cơ sở xuất phát của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ
đạo lý uống nước nhớ nguồn, từ lòng tri ân, hiếu thảo của con cháu đối với
ông bà, cha mẹ.

13


Niềm tin được linh thiêng là cốt lõi của văn hóa tâm linh, chứa đựng cả
niềm thành kính tôn trọng và niềm tin ấy làm nên sức mạnh của tụ thờ cúng tổ
tiên trong văn hóa dân tộc. Khi nhận thức về sự tiếp nối của dòng đời, người
Việt thờ cúng tổ tiên là để tri ân ông bà cha mẹ, để thấy trách nhiệm của mình
với con cháu, để nuôi dượng dòng đời bất tận bằng đạo lý linh thiêng của dân
tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một mỹ tục, manh tính nhân văn sâu sắc,
mang tâm lý đền ơn đáp nghĩa, xuất phát từ chính cội nguồn của cuộc sống
người dân Việt Nam.

Cũng như mọi dân tộc trong cộng đồng văn hóa các dân tộc Việt Nam,
người H’Mông cũng có những phong tục đẹp, tiêu biểu cho sự sống và bản
sắc văn hóa của dân tộc mình. Người H’Mông có một hệ thống tín ngưỡng
riêng, trong hệ thống tín ngưỡng của người H’Mông thì tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên là tín ngưỡng quang trọng nhất, phát triển nhất và đây cũng chính là tín
ngưỡng đóng vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của người H’Mông nói
chung và người H’Mông ở Hà Giang nói riêng.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người H’Mông chứa đựng những nét
văn hóa đặc trưng của một dân tộc cư trú trên những sườn núi quanh năm
sương mù bao phủ và khi đến với mảnh đất Hà Giang địa đầu tổ quốc chắc
hẳn nhiều người sẽ ngạc nhiên về sức sống mãnh liệt của những tín ngưỡng
bản địa của người H’Mông bởi trong hệ thống tín ngưỡng của họ vừa bảo vệ
được sắc thái truyền thống văn hóa đậm đà vừa có sự giao lưu và tiếp thu với
những gái trị văn hóa mới từ các dân tộc khác trên địa bàn họ cư trú.
Quan niệm về tổ tiên của người H’Mông:
+ Là tất cả những người đã khuất thuộc các thế hệ mà chủ yếu từ thế
hệ cha ông trở về trước. Đó là những người đã làm nên sự nghiệp để lại cho
con cháu, giám sát con cháu trong cộng đồng. Tổ tiên cũng là người luôn phù

14


hộ cho con cháu làm ăn thuận lợi... Bởi vậy, bất cứ người H’Mông nào cũng
phải nghi nhớ công lao của tổ tiên và lập nơi thờ cúng tổ tiên.
+ Là những vị thần đã giúp đỡ họ, dạy họ cách làm ăn, cách ứng xử
trong cộng đồng, cách dệt vải, cách chữa khỏi bệnh khi đau ốm, định ra các
luật tục trong cưới xin, tang ma… Tất cả những vị thần đó được người
H’Mông cho là những ông tổ đã có công xây dựng nền móng cho văn hóa
mưu sinh và ứng xử của mình, đồng thời giúp họ có thể chống lại sức mạnh từ
thiên nhiên, bảo vệ cuộc sống được bình an.

Người H’Mông quan niệm rằng trong vũ trụ có hai thế giới chính, đó là
thế giới trên mặt đất nơi con người sinh sống và thế giới trên trời nơi có các vị
thần và tổ tiên của họ sinh sống. Những người già H’Mông kể lại rằng, bầu
trời và mặt đất là do ông Chày bà Chày tạo ra, con người H’Mông được sinh
ra từ lòng đất. Xưa kia họ vốn là dân tộc sống hạnh phúc vĩnh viễn ở trên đời,
chẳng bao giờ biết đến cái chết. Cuộc sống vĩnh hằng của người người
H’Mông đã làm cho ông trời tức giận bởi ông ta không thể chấp nhận con
người có thể tồn tại ngang cùng trời đất. Ông trời quyết định mang cái chết
đến với người người H’Mông, từ đó người người H’Mông mới phải chết.
Cũng như quan niệm của nhiều dân tộc khác, người H’Mông cho rằng
khi một người trút hơi thở cuối cùng có nghĩa là đã hoàn thành nhiệm vụ ở thế
giới mặt đất để trở về với tổ tiên ở trên trời. Để người chết có thể đến được
với tổ tiên ở trên trời người H’Mông làm lễ chỉ đường đi qua những địa danh
đã cư trú đến tận vùng đất Quý Châu (Trung Quốc), rồi từ đó mới về với tổ
tiên. Thầy cúng phải lấy con gà trống “dẫn đường” cho người chết và dặn
người chết trả lời khi gặp thần nhà trời và nhờ nhà trời chỉ đường tới nơi ở
của tổ tiên trên trời. Khi về với thế giới tổ tiên mới là thế giới vĩnh hằng đối
với người H’Mông.
Bàn thờ của người H’Mông:
15


Bàn thờ tổ tiên của người H’Mông (còn gọi là bàn thờ sinh phụ) gồm
ba thế hệ đã khuất, thường thể hiện sự tụ nhiên, dung dị, không cầu kì, hoa
mỹ. Bàn thờ làm bằng ván, gắn vào tường, để mộc, không trạm trổ hay sơn
phết và được đặt ở nơi cao nhất tại gian giữa hướng ra cửa chính. Trên bàn
thờ người H’Mông dung giấy bản loại to, có đính kim trang và đục lỗ trang trí
nhữn hoa văn như tia sáng của mặt trời, dán lên tường. Trên bàn thờ đặt hai
cây đèn dầu, ống cắm hương làm từ ống tre hay ống nứa, phía trước mỗi ống
là một chén nước nhỏ, xung quanh bàn thờ thường dán năm bản giấy màu đỏ,

biểu tượng cho sức khỏe.
Bàn thờ thường có hai tầng, tầng trên thờ các cụ ông, trong các dịp lễ
tết, người ta đặt lên bàn thờ lễ vật cúng quan trọng nhất là gà trống, loại gà tơ,
mới bắt đầu tập gáy. Tầng dưới thờ các cụ bà, lễ vật dâng cúng ở đây là gà
mái, loại gà tập đẻ, hai tầng có hai loại giấy bản trang trí khác nhau, ban của
cụ ông, giấy bản đục thêm đường viền rang cưa mùa bạc. Theo phong tục, khi
cúng gà người H’Mông sẽ chọn vài túm long trên cổ và lưng con gà, quệt vào
tiết rồi gắn lên giấy bản trên bàn thờ tượng trưng cho tổ tiên và thần mặt trời.
Họ quan niệm làm như thế mới linh ứng, tổ tiên nhận được những lễ vật của
con cháu sẽ phù trợ cho gia đình mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, mưa thuận gió
hòa, bản làng no đủ và bình an. Giấy bản gắn lông gà sẽ được thay vào lễ
cúng năm mới.
Tang lễ cũng là một biểu hiện trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người H’Mông.
Khi trong gia đình có ông bà, bố mẹ mất người H’Mông đặt những dấu
hiệu kiêng kỵ để thông báo với mọi người bằng cách buộc một chum lá xanh
trên cột sao ở bên đường và giắt một túm lông gà vào phên của nhà và chọn ra
người trưởng lễ để trông coi việc tang ma. Trưởng lễ trong tang ma của người

16


H’Mông là một thầy mo, đây là người biết các lễ nghi và các bước tiến hành
trong tang ma.
Xưa kia người H’Mông tiến hành tang ma rất phức tạp, xác người chết
phải để trong nhà tới hàng tháng để con cháu thể hiện long kính hiếu, xót
thương và để chắc chắn rằng người đó thực sự đã chết, linh hồn người đó đã
bỏ đi xa, xác người nằm lại chỉ là thân xác vô hồn. Khi đã tin chắc điều đó
người ta sẽ làm lễ phục hồn cho người chết với mục đích là gọi hồn về hưởng
lễ, chứng giám cho lòng thành kính và nỗi xót thương của con cháu. Bàn thờ

của người mới chết đặt bên dưới bàn thờ tổ tiên, thực ra đó chỉ là cái ghế phủ
tấm vải đỏ có đặt một bát hương, một con gà và một bát cơm.
Khi gia đình chưa có điều kiện làm mà khô cho người chết thì trong
bữa cơm ở phía gần bàn thờ lúc nào cũng phải để chỗ trống, người H’Mông
quan niệm rằng đó là nơi để cho linh hồn ông bà, bố mẹ ăn cơm và gia chủ sẽ
tiến hành nghi lễ mời ông bà, bố mẹ về ăn cơm.
Như vậy có thể thấy trong quan niệm của người H’Mông thì thờ cúng
tổ tiên là một nghi lễ quang trọng nhất đối với mỗi gia, đó không chỉ là hoạt
động nhằm thể hiện lòng kính trọng biết ơn của con cháu đối với ông bà cha
mẹ mà còn là để giáo dục cho thế hệ sau lòng tự tôn, tự hào qua đó tạo được
sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ.
2.3.2. Tín ngưỡng vạn vật hữu linh
Trong quan niệm truyền thống của người H’Mông trong thế giới kể cả
động vật, thực vật và con người đều có hai phần là phần xác và phần hồn,
phần xác là phần tồn tại mà con người có thể nhìn thấy được, phần hồn là
phần rất quan trọng và là yếu tố chi phối phần xác nhưng không thể nhìn thấy
được. Tuy nhiên không phải loài sinh vật nào cũng có hồn, những sinh vật
nhỏ bé như muỗi, ruồi là không có linh hồn. Tuy nhiên những loài sinh vật
như con sâu, con kiến, con bướm theo quan niệm của người H’Mông có thể là
17


những linh hồn đang chuyển động và trong thế giới thực vật các loại cây như
gỗ, lúa, lanh, thuốc phiện, các loại gỗ quý làm nhà (cây làm cột chính, Pơ Mu
lớp mái...), hoặc những cây to um tùm ở trong rừng, những hang đá, vách đá
cũng đều có hồn. Như vậy, bên cạnh con người chỉ có những cây, con có liên
quan hoặc gần gũi với con người mới có linh hồn và loài vật càng đặc biệt thì
hồn càng đáng sợ.
Hồn của con hổ là “phù dông” có sức mạnh phi phàm và hay quấy
nhiễu đời sống người dân.

Những gốc cây to, mục, hình thù kỳ dị đều có tinh, luôn bày những trò
ma quái trêu chọc con người, chòng ghẹo phụ nữ.
Hòn đá to, mỏm đá lạ đều là các vật có hồn đặc biệt, có khả năng chi
phối đời sống cộng đồng, dễ gây tai nạn cho người dân làm nương rẫy hoặc
săn bắn gần đó.
Người H’Mông quan niệm người có ba hồn:
+ Một hồn chính ở đầu (trong thóp đỉnh đầu). Ở trẻ em hồn rất yếu do
đó không được xoa đầu trẻ em, nếu ai mà lỡ xoa đầu có thể làm cho hồn
hoảng sợ bỏ đi và phải nộp gà làm lễ gọi hồn.
+ Hồn thứ hai ở rốn có nhiệm vụ cai quản thân thể và bảo vệ nội tạng,
nếu hồn này rời khỏi xác sẽ gây ra những cơn đau bụng ghê gớm, ở phụ nữ
hồn này yếu hơn nam giới nên phụ nữ thường hay đau bụng hơn nam giới.
+ Hồn thứ ba ở ngực hồn này rất ít khi rời khỏi thân thể, đặc biệt là ở
trẻ con, nếu hồn này rời khỏi thân thể, nhưng khi hồn này bỏ đi nó sẽ gây
bệnh nặng. Vì vậy ở trẻ em người H’Mông thường đeo vòng hộ mệnh, vòng
này tượng trưng chiếc khóa được thầy cúng phù phép ngăn cản hồn bỏ đi
chơi. Đứa bé mới sinh ra chưa có hồn. Ba ngày sau gia đình phải tổ chức lễ
gọi hồn “húp plì”. Lễ vật là một con gà trống (nếu đẻ con gái) hoặc một con
gà mái (nếu là con trai) và hai quả trứng. Người làm lễ phải nhóm lửa ở cửa
18


để gọi hồn về. Hồn đã nhập vào đứa trẻ, lúc đó đứa trẻ mới được cộng đồng
thừa nhận và được đặt tên.
Hồn liên quan đến sức khỏe và sinh mệnh con người. Nếu một trong ba
hồn lìa xa cơ thể sẽ gây ốm đau, những sự đau ốm này ít trầm trọng là do hồn
thứ nhất và hồn thứ hai đi xa, nếu hồn thứ hai và hồn thứ bar a khỏi cơ thể sẽ
làm cho sức khỏe con người trở nên trầm trọng them nhiều và khi đó cân phải
làm lễ gọi hồn để hồn trở về với cơ thể thì người đó mới khỏe trở lại được. Lễ
gọi hồn không diễn ra phức tạp mà thường giản đơn, những người lớn tuổi

trong gia đình cũng có thể làm được lễ này. Tuy nhiên bệnh có thể trở nên
trầm trọng hơn nếu cả hồn thứ hai và hồn thứ ba cùng bỏ đi vì nếu cả hai hồn
này bỏ đi sẽ kéo theo cả hồn thứ nhất bỏ đi và như vậy thì phải gọi thầy cúng
về mới làm được lễ gọi hồn cho người bệnh thì mới có thể khỏi được bệnh.
Trong trường hợp một trong ba hồn bỏ đi mà làm lễ gọi hồn rồi hồn vẫn
không về sẽ gây chết người, khi con người ta đã tắt thở, hồn thứ nhất sẽ bay
lên trời cao và trở về với tổ tiên, hồn thứ hai gác mộ và có thể quấy nhiễu
người khác, do đó người chết đến ngày thứ 13 thì gia đình phải làm lễ đuổi
hồn không cho hồn quay về quấy nhiễu người trong gia đình và mọi người
xung quanh, còn hồn thứ ba sẽ đầu thai làm kiếp người khác hoặc kiếp vật tùy
thuộc vào phúc đức mà người đó làm khi còn sống.
Với các quan niệm về linh hồn như vậy đã có ảnh hưởng đến nhiều mặt
trong đời sống của người H’Mông và đây cũng là một trong những yếu tố có
ảnh hưởng lớn nhất đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người H’Mông nói
chung và người H’Mông ở Việt Nam nói riêng.
2.3.3. Thờ cúng các loại ma nhà của người H’Mông
Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người H’Mông còn thờ cúng các loại
ma nhà với những nghi thức cúng bái riêng biệt, hệ thống các loại ma nhà của
người H’Mông được thể hiện như sau:
19


Cúng Xử Ca:
Xử Ca là ma có vị trí quan trọng trong hệ thống các ma nhà người
Hmông, gắn liền với sự giàu có, nhất là tiền bạc. Nơi thờ "Xử Cả" ở tấm ván
hậu gian giữa nhà. Chỗ thờ được dán hai miếng giấy bản màu vàng và bạc
cắm 3 hoặc 9 lông gà, bôi ít máu gà. Mỗi năm cúng xử cả một lần vào đêm 30
tết, đồ cúng là một con gà trống màu đỏ.
Nghi lễ cúng Xử Ca được tiến hành như sau: Ông chủ nhà cắt tiết gà cho
đến khi con gà gần chết rồi thả gà trong nhà, sau đó quan sát gà quay đầu về

hướng nào khi chết để định đoán chuyệ làm ăn trong năm tới có phát đạt hay
không. Nếu khi gà chết mà quay đầu về phía bức tường nơi thờ Xử Ca hoặc
phía gian nhà gia chủ nằm thì năm đó gia đình làm ăn phát đạt, còn nếu con gà
quay đầu ra phía cửa thì năm đó gia đình gặp khó khan, hao tốn tiền của.
Cúng ma cột chính (còn gọi là Bùa Đáng hay Ma lợn):
Cột chính là cột giữa của vì kèo thứ hai ngăn gian đầu hồi bên phải với
gian giữa, là cột tượng trưng cho sự hưng thịnh của gia đình, liên quan đến
sức khỏe và vận mệnh của gia đình. Ở một số dòng họ Ly và Lầu cột chính
còn là nơi để thờ phụng tổ tiên.
Vì hồn tổ tiên khi về với con cháu thường trú ngụ ở nơi giao nhau giữa
xà ngang với cột chính. Cột chính là nơi linh thiêng của ngôi nhà, kiêng dựa
cột, không được treo quần áo, đồ dùng vào cột chính. Khi gia chủ sinh con
trai, nhau thai nhi sẽ chôn ở chân cột chính. Khi chết thầy cúng phải chỉ
đường cho hồn về nhận lại áo “nhau” ở chân cột chính mang về cho tổ tiên.
Có dòng họ, khi buộc người chết lên cáng “ngựa” phải đặt người chết dựa đầu
vào cột chính một ngày, một đêm sau đó mới đặt ở nơi khác.
Ma cột chính chỉ có chủ gia đình mới được cúng, vật cúng là lợn nái đã
đẻ một lứa. Trong đời một người con trai phải làm lễ cúng cột chính một hoặc
hai lần, nhằm tưởng nhớ và làm tròn đạo hiếu giữa người còn sống đối với
20


người đã chết. Cúng ma cột chính, theo quan niệm của người H’Mông còn
nhằm tạ ơn những người xưa kia đã giúp người H’Mông qua hoạn nạn, để tìm
chữ viết đã mất.
Cúng ma Buồng (hay còn gọi là Đá Trùng):
Theo quan niệm của người H’Mông ma Buồng có liên quan đến việc
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe trẻ em và phát triển đàn gia súc, khi vợ chồng ra
ở riêng có con đầu lòng và làm lễ đổi tên lót cho người bố, gia đình đó mới đủ
điều kiện thờ ma buồng.

Gia đình có trẻ nhỏ phải làm lễ cúng ma Buồng mỗi năm ít nhất một
lần. Đồ cúng là một con lợn cái nặng từ 6 đến 10 kg. Cúng ma buồng thường
diễn ra vào tối hoặc nửa đêm, gà gáy lần thứ nhất hay thứ hai tùy theo dòng
họ, khi cúng phải đóng cửa chặt, lợn mổ ngay trong nhà, trong buổi cúng
không cho người lạ đến dự. Ông chủ nhà mổ lợn, làm thịt rồi chia thành nhiều
bát, mỗi bát có đầy đủ các bộ phận của con lợn như đầ, tim, gan, lưỡi, chân…
Nước luộc thịt cho vào quả bầu khô có cuống cong hình dấu hỏi. Sau đó ông
chủ gia đình kính cẩn đọc bài cúng với nộ dung yêu cầu ma buồng bảo vệ hồn
cho trẻ nhỏ trong gia đình, cầu cho trẻ nhỏ hay ăn chóng lớn và gia đình chăn
nuôi được nhiều trâu, lợn… Cúng xong ông chủ nhà giót nước thịt từ trong
quả bầu vào bát bằng ống nứa cho trẻ nhỏ trong gia đình uống với niềm tin trẻ
nhỏ sẽ được mạnh khỏe, sáng mắt…Số thịt tròn gia đình cũng được chia cho
các thành viên trong gia đình ăn trong nhà, không được mang ra khỏi nhà. Sau
khi cúng xong quả bầu khô và các ống nứa được cất trên mái nhà phía đầu
phòng ngủ của chủ nhà.
Cúng ma Cửa:
Theo quan niệm của người H’Mông ma cửa hay còn gọi là Xìa mềnh
thường ngự ở miếng vải đỏ dán trước cửa chính, có vai trò như một người

21


lính gác cửa, ngăn không cho ma ác vào nhà, bảo vệ gia súc, bảo vệ các hồn,
ngăn không cho các hồn trong gia đình bỏ đi.
Khi nào gia súc chết vì bệnh hay bị hổ vồ là do ma cửa bị ngã. Cũng có
khi phụ nữ ở gia đình khác bước qua ngưỡng cửa cũng làm cho ma cửa bị
ngã. Do đó cần phải làm lễ để nâng ma của dậy.
Ma Cửa thường được cúng vào dịp tết, hay khi trong gia đình có người
ốm đau hoặc mất tài sản. Lễ cúng là một con gà trống luộc. Có một số dòng
họ như họ Và, họ Vừ thường nuôi một con gà ma (gà trống màu đỏ), gà ma

được nhốt trong lồng treo sát vách buồng ông chủ. Khi cần báo mộng cho ông
chủ, ma cửa sẽ nhập vào gà này để báo. Khi có điều xấu chủ nhà phải tổ chức
lễ cúng ma cửa bằng lợn - gọi là lễ cúng lớn. Lễ vật là con lợn nái (khi lợn
này còn bé đã cắt một nhúm lông đuôi đặt lên phía trên cửa ra vào). Cách
cúng tương tự như cúng ma lợn. Khi cúng đóng chặt cửa và chỉ có nam giới
được cúng.
Cúng ma Bếp hay còn gọi là Hú Sinh:
Ma Bếp có liên quan đến việc sinh nở của phụ nữ và phù hộ cho việc
chăn nuôi gia súc. Do đó kiêng giẫm chân lên bếp lò, kiêng làm hư hại lòng lò
bằng đất, không được gõ và đánh vào bếp cám lợn, lúc lợn chửa kiêng không
lấy tro trong bếp lò. Muốn nhấc chảo cám ra phải để một hòn đá vào giữa bếp,
nếu không làm như vậy, gia súc dễ bị dịch bệnh chết, phụ nữ khó đẻ hoặc đẻ
ra quái thai, dị hình.
Do đó với mong muốn để ma bếp phù hộ cho những người phụ nữ
trong gia đình được mạnh khỏe, an bình trong thai kỳ cũng như gia súc trong
gia đình không bị chết dịch thì hàng năm mỗi gia đình phải làm lễ cúng ma
bếp thường là cúng vào dịp tết.
Cúng ma bảo vệ hồn lúa, hồn ngô:

22


Ma bảo vệ hồn lúa, hồn ngô hay còn gọi là ma lúa là, đây là quan niệm
có liên quan đến nghi lễ của cư dân nông nghiệp. Ma lúa thường ngự trên gác
bếp nơi để lúa ngô và các loại nông sản khác.
Ma lúa có nhiệm vụ phù hộ cho được mùa, tuy nhiên nếu thái độ của
gia chủ không được tốt hay làm những điều phạm đến ma lúa thì ma lúa cũng
có thể làm mất mùa. Con dâu và phụ nữ khác dòng họ kiêng lên gác. Khi
chuẩn bị thu hoạch, phải cúng ma bảo vệ hồn lúa để cho hồn lúa ở lại với gia
đình và để cho mùa vụ sau được bội thu.

Cúng ma Trâu (thực chất là lễ cúng báo hiếu cha mẹ):
Trong đời người con trai phải cúng báo hiếu bố mẹ, một lần. Vì vậy
cúng ma trâu có ý nghĩa thể hiện lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ.
Vật cúng là trâu to, lớn, khoẻ mạnh. Lễ cúng tùy từng gia đình, dòng họ
quy định, cúng ở trong nhà hay ở vị trí nào đó ngoài trời. Người cúng phải
hiểu lai lịch dòng họ.
2.3.4. Tín ngưỡng thờ cúng thần thổ địa
Thần thổ địa thường được cúng ở gốc cây to hoặc hòn đá có hình dáng
kỳ lạ trong khu rừng cấm mà người H’Mông gọi là “lùng sán”.
Người H’Mông quan niệm rằng mọi người trong bản của mình được
khỏe mạnh, làm ăn phát đạt, chăn nuôi trồng trọt được mùa là do thần thổ địa
phù hộ. Vì thần trú ngụ trong rừng già nên mọi người không được chặt cây ở
khu vực rừng cấm, không được phá phách nơi thần ở hay có các hành động vô
lễ với thần. Còn nếu trong làng có nhu cầu cần phải lấy cây trong rừng câm
thì phải làm lễ xin phép thần xong mới được lấy cây.
Hàng năm vào đầu năm mới trong mỗi bản người H’Mông chọn một
ngày lành thường là ngày mồng 2 tháng 2, mỗi gia đình cử đại diện đến nơi
thần ở làm lễ cúng và lễ ăn ước. Đồ cúng có thể là gà, lợn, dê và rượu. Trong
lễ cúng cả bản cử ra một người làm trưởng lễ, thường phải là già làng, người
23


đã có nhiều kinh nghiệm đọc bài văn khấn thần phủ hộ cho cả bản. Sau khi
khấn là tổ chức ăn uống và bàn bạc lại các quy ước trong bản. Do đó lễ cúng
thần thổ địa có ý nghĩa và tác dụng cố kết cộng đồng.
Quan hệ người dân với thần thổ địa trong bản là bình đẳng, thân ái,
giúp đỡ lẫn nhau. Ở đây, thần cũng bình đẳng như một thành viên của cộng
đồng. Thần chưa có sức mạnh siêu phàm tuyệt đối, chưa đứng trên cộng đồng.
Do đó, cộng đồng dâng lễ vật cho thần thì thần phải có nghĩa vụ phù hộ, bảo
vệ cộng đồng. Người H’Mông không có vị thần của toàn dân tộc. Ông Chày,

Bà Chày, Gầu á, Dầu Âu... trong thần thoại đều là anh hùng văn hóa. Tục thờ
thần bản mệnh của cả cộng đồng trời đất tồn tại ở vùng người Việt, người Tày
nhưng lại vắng bóng trong đời sống tín ngưỡng của người H’Mông.
Ở người H’Mông, việc thờ cúng tổ tiên hay thần thổ địa là hình thức tín
ngưỡng cơ bản. Nhưng sự thờ cúng này rất ít chịu ảnh hưởng của Tam giáo,
không có những quy định phức tạp, chặt chẽ. Các quan niệm, lễ thức thờ cúng
vẫn còn đơn giản, giữ nhiều nét cổ sơ, nguyên thủy. Tổ tiên và thổ địa thần có
chi phối đến đời sống tinh thần của người H’Mông. Tổ tiên gần như hòa đồng
với các ma nhà, nhiều khi tổ tiên không được đề cao bằng “Xử ca” hoặc ma
cửa “Xìa mềnh”. Còn thổ địa thần lại có vai trò khá mờ nhạt, người H’Mông
chỉ nhớ tới thần khi phải cầu xin che chở hoặc cúng thần ngày đầu năm. Khác
với người Việt, người Tày, các thần bản mệnh cộng đồng làng của người
H’Mông chưa thực sự đóng vai trò trong đời sống tâm linh.
2.3.5. Tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp
Là cư dân nông nghiệp thành thạo việc canh tác trên nương rẫy, vì vậy
các tín ngưỡng, nghi lễ liên quan đến sản xuất nông nghiệp rất được coi trọng.
Chủ yếu biểu hiện như sau:
Hàng năm vào tháng giêng thường là từ ngày 13 đến ngày 15, dân bản
chọn ngày tốt để lên nương, vào ngày này mọi người mời nhau ăn uống và
cùng lên nương. Mỗi gia đình chọn ngày lên nương riêng, đó là ngày mà khồn
24


trùng với ngày gia đình có người chết. Gia chủ mang rượu, thịt, hương lên
nương để khấn cho mưa thuận gió hòa, ngô lúa được mùa.
Trong quá trình canh tác nếu trời hạn thì phải làm lễ cúng thần mưa, lễ
cúng rất đơn giản thường chỉ là rượu, hương và gà, gia chủ tự đọc lời khấn
thần mưa.
Trước khi thu hoạch phải làm lễ cúng thần hồn lúa xin phép mới được
thu hoạch nếu không sẽ làm cho thần hồn lúa, ngô bị đau và bỏ đi. Như vậy

thì năm sau có thể sẽ bị mất mùa.
Sau khi thu hoạch xong thì phải làm lễ cúng cơm mới. Lễ cúng cơm
mới thường rất đơn giản, người ta luộc ba bắp ngô non sau đó để ra một cái
bát để lên chiếc ghế giữa nhà rồi tiến hành khấn bái, tay cầm từng bắp ngô lên
tẽ từng hột, mỗi hột ngô tương ứng với một lời mời gọi ông bà, cha mẹ, cụ kỵ
về ăn cơm mới.
2.3.6. Tín ngưỡng liên quan đến dòng họ
Cũng như những dân tộc anh em khác trong vùng, người H’Mông cũng
có quan niệm về dòng họ, đó là những người có cùng tổ tiên, cùng dòng máu và
người H’Mông giải thích ý niệm đó qua câu chuyện “địa hồng thủy” mà khi nói
đến người H’Mông già nào cũng biết. Chuyện kể rằng xưa kia nạn đại hồng thủy
làm cho con người bị chết hết duy nhất chỉ có hai an hem sống sót được nhờ chui
vào quả bầu, thấy vậy ông trời thương xót và cho phép hai an hem lấy nhau. Sau
đó hai người sinh ra cục thịt không chân không tay không đầu, ông trời lại bảo
họ chặt cục thịt đó ra làm nhiều mảnh treo ở những chỗ khác nhau. Sáng hôm
sau khi thức dậy đã thấy có người ở khắp nơi nhưng hai người không biết đặt tên
thế nào cả sau khi bàn bạc họ quyết định người nào được treo ở đâu thì sẽ lấy
chỗ đó làm họ. Người treo ở cây đào thì mang họ Thào, người treo ở cây mận thì
mang họ Ly, người treo ở chuồng dê thì mang họ Giàng, chuồng ngựa thì mang

25


×