Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tập bài giảng giáo dục học quân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ThS. Trương Hùng Sơn

TẬP BÀI GIẢNG

GIÁO DỤC HỌC QUÂN SỰ

(Lưu hành nội bộ)

HÀ NỘI - 2016


ThS. Trương Hùng Sơn

TẬP BÀI GIẢNG

GIÁO DỤC HỌC QUÂN SỰ
(Tài liệu dùng cho hệ sinh viên
chuyên ngành giáo dục quốc phòng và an ninh)

HÀ NỘI - 2016


LỜI NÓI ĐẦU
Giáo dục học quân sự là một trong những môn học đại cương bắt buộc đối với
sinh viên chuyên ngành giáo dục quốc phòng và an ninh. Môn học giúp cho người học
nghiên cứu, khám phá bản chất của quá trình giáo dục, tìm tòi phát hiện các quy luật
giáo dục, tìm các con đường có hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo


phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước và con người.
Giáo dục học là một môn khoa học nghiên cứu về quá trình giáo dục con người.
Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học chính là quá trình giáo dục, một quá trình hoạt
động đặc biệt trong các hoạt động của xã hội loài người.
Tập bài giảng gồm 7 chương: Chương 1. Quá trình sư phạm quân sự; Chương 2.
Bản chất, quy luật của quá trình dạy học học sinh, sinh viên; Chương 3. Các phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học học sinh, sinh viên; Chương 4. Các đặc trưng và
nguyên tắc giáo dục học sinh, sinh viên; Chương 5. Nội dung và phương pháp giáo dục
học sinh, sinh viên; Chương 6. Văn hóa sư phạm của người giáo viên, giảng viên giáo
dục quốc phòng và an ninh; Chương 7. Quản lý quá trình giáo dục học sinh, sinh viên.
Tập bài giảng giáo dục học quân sự, tác giả đã cố gắng trình bày một cách khái
quát, xuyên suốt, bao quát các nội dung lớn gồm bản chất, quy luật, nội dung, phương
pháp và quá trình quản lý giáo dục. Tuy nhiên giáo dục học là một lĩnh vực rộng lớn,
do đó trong quá trình viết bài giảng tác giả đã thể hiện những cố gắng cao nhất nhằm
trình bày một cách đơn giản, dễ hiểu giúp cho người học có thể dễ dàng nhận thức,
nắm bắt vấn đề một cách nhanh nhất.
Tập bải giảng đã được tác giả cố gắng cao nhất nhưng chắc chắn không tránh
được những sai sót rất mong bạn đọc, học viên và đồng nghiệp góp ý kiến để tác giả
hoàn thiện trong những lần tái bản sau.

1


MỤC LỤC
Trang

Chương 1: QUÁ TRÌNH SƯ PHẠM QUÂN SỰ..........................................................5
1.1. Khái nhiệm quá trình sư phạm quân sự ....................................................................5
1.2. Những đặc trưng cơ bản của quá trình sư phạm quân sự ......................................... 5
1.2.1. Quá trình sư phạm quân sự là quá trình truyền thụ và lĩnh hội những kinh

nghiệm lịch sử - xã hội, kinh nghiệm quân sự ................................................................ 5
1.2.2. Quá trình sư phạm quân sự là quá trình chuẩn bị con người cho các lĩnh vực hoạt
động quân sự .................................................................................................................... 6
1.2.3. Quá trình sư phạm quân sự là quá trình có tổ chức chặt chẽ và chịu tải trọng cao
về trí tuệ và thể lực .......................................................................................................... 7
1.3. Cấu trúc của quá trình sư phạm quân sự .................................................................. 8
1.3.1. Quá trình sư phạm quân sự được hợp thành từ các quá trình bộ phận đó là quá
trình dạy học và quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) .............................................................. 8
1.3.2. Quá trình sư phạm quân sự được xem xét như một hệ thống hoàn chỉnh của các
thành tố cơ bản................................................................................................................. 9
1.4. Tính quy luật của quá trình sự phạm quân sự ........................................................ 10
1.4.1. Sự quy định của xã hội với quá trình sư phạm quân sự ...................................... 11
1.4.2. Sự quy định của thực tiễn hoạt động quân sự đối với quá trình sư phạm
quân sự ...................................................................................................................... 11
1.4.3.Sự thống nhất biện chứng giữa quá trình dạy học và quá trình giáo dục
(nghĩa hẹp) ..................................................................................................................... 11
1.4.4. Sự thống nhất giữa hoạt động truyền thụ và hoạt động lĩnh hội. ........................ 12
1.5. Ý nghĩa đối với người giáo viên, giảng viên, giáo dục quốc phòng và an ninh ..... 12
Chương 2: BẢN CHẤT, QUY LUẬT CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC HỌC SINH,
SINH VIÊN ................................................................................................................... 13
2.1. Bản chất của quá trình dạy học sinh, sinh viên ...................................................... 13
2.1.1. Khái niệm quá trình dạy học sinh, sinh viên ....................................................... 13
2.1.2. Bản chất của quá trình dạy học học sinh, sinh viên ............................................ 13
2.2. Quy luật, đặc điểm của quá trình dạy học học sinh, sinh viên ............................... 15
2.2.1. Quy luật của quá trình dạy học học sinh, sinh viên ............................................. 15
2.2.2. Những đặc điểm cơ bản của quá trình dạy học học sinh, sinh viên .................... 17
2.3. Các nguyên tắc dạy học học sinh, sinh viên ........................................................... 18
2.3.1. Khái niệm nguyên tắc dạy học học sinh, sinh viên ............................................. 18
2.3.2. Hệ thống nguyên tắc dạy học học sinh, sinh viên ............................................... 18
Chương 3: CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC HỌC

SINH, SINH VIÊN ........................................................................................................ 26
3.1. Các phương pháp dạy dạy học học sinh, sinh viên ................................................ 26
3.1.1. Khái niệm và phân loại các phương pháp dạy học học sinh, sinh viên ............... 26
3.1.2. Nội dung, yêu cầu các phương pháp dạy học học sinh, sinh viên ....................... 27
3.2. Hình thức tổ chức dạy học học sinh, sinh viên....................................................... 35
3.2.1. Khái niệm và phân loại hình thức tổ chức dạy học học sinh, sinh viên .............. 35
2


3.2.2. Các hình thức tổ chức dạy học cơ bản................................................................. 36
Chương 4: CÁC ĐẶC TRƯNG VÀ NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC HỌC SINH, SINH
VIÊN .............................................................................................................................. 46
4.1. Những đặc trưng của quá trình giáo dục học sinh, sinh viên ................................. 46
4.1.1. Khái niệm quá trình giáo dục học sinh, sinh viên ............................................... 46
4.1.2. Những đặc trưng cơ bản của quá trình giáo dục học sinh, sinh viên .................. 46
4.2. Các nguyên tắc giáo dục học sinh, sinh viên .......................................................... 49
4.2.1. Khái niệm và phân loại nguyên tắc giáo dục học sinh, sinh viên ....................... 49
4.2.2. Các nguyên tắc giáo dục học sinh, sinh viên ....................................................... 49
Chương 5: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH, SINH VIÊN ... 54
5.1. Nhiệm vụ, nội dung giáo dục học sinh, sinh viên .................................................. 54
5.1.1. Các nhiệm vụ, nội dung giáo dục học sinh, sinh viên ......................................... 54
5.1.2. Con đường tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nội dung giáo dục học sinh, sinh viên ..... 60
5.2. Các phương pháp giáo dục học sinh, sinh viên ...................................................... 62
5.2.1. Khái niệm và phân loại ........................................................................................ 62
5.2.2. Các phương pháp giáo dục học sinh, sinh viên ................................................... 64
5.3. Hình thức tổ chức giáo dục học sinh, sinh viên ..................................................... 69
5.3.1. Khái niệm hình thức tổ chức giáo dục học sinh, sinh viên.................................. 69
5.3.2. Các hình thức tổ chức giáo dục học sinh, sinh viên ............................................ 70
Chương 6: VĂN HÓA SƯ PHẠM CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN, GIẢNG VIÊN GIÁO
DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH ........................................................................... 72

6.1. Quan niệm chung về văn hóa sư phạm của người giáo viên, giảng viên giáo dục
quốc phòng và an ninh ................................................................................................... 72
6.1.1. Khái niệm văn hóa sư phạm ................................................................................ 72
6.1.2. Vai trò của người giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh trong
nhà trường ...................................................................................................................... 73
6.2. Cấu trúc nội dung văn hóa sư phạm của người giáo viên, giảng viên giáo dục quốc
phòng và an ninh............................................................................................................ 73
6.2.1. Xu hướng sư phạm .............................................................................................. 74
6.2.2. Tài nghệ sư phạm ................................................................................................ 75
6.2.3. Phong cách sư phạm ............................................................................................ 77
6.3. Phương hướng, biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện văn hóa sư phạm của người
giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh ................................................. 77
6.3.1. Thông qua quá trình học tập, rèn luyện tại các nhà trường ................................. 77
6.3.2. Thông qua hoạt động có tổ chức, có kế hoạch của khoa, tổ bộ môn ở nhà trường .... 78
6.3.3. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chuyên môn của cá nhân để tự
rèn luyện, phát triển hoàn thiện văn hóa sư phạm ......................................................... 79
Chương 7: QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC HỌC SINH, SINH VIÊN .............. 80
7.1. Quan niệm chung về quản lý quá trình giáo dục học sinh, sinh viên ..................... 80
7.1.1. Khái niệm về quản lý quá trình giáo dục học sinh, sinh viên ............................. 80
7.1.2. Chức năng của quản lý quá trình giáo dục học sinh, sinh viên ........................... 81
3


7.2. Nguyên tắc, phương pháp quản lý quá trình giáo dục học sinh, sinh viên ở
nhà trường ...................................................................................................................... 82
7.2.1. Các nguyên tắc quản lý quá trình giáo dục học sinh, sinh viên .......................... 82
7.2.2. Phương pháp quản lý quá trình giáo dục học sinh, sinh viên .............................. 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 91

4



Chương 1: QUÁ TRÌNH SƯ PHẠM QUÂN SỰ
1.1. Khái nhiệm quá trình sư phạm quân sự
Quá trình sư phạm quân sự là một quá trình tổng thể có mục đích, có tổ chức,
thông qua hoạt động của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục nhằm đào tạo học sinh,
sinh viên có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng với yêu cầu của quân đội và của xã hội.
Quá trình giáo dục tổng thể gồm các quá trình bộ phận là: quá trình dạy học học
sinh, sinh viên, quá trình giáo dục học sinh, sinh viên (nghĩa hẹp), quá trình phát triển
và chuẩn bị tâm lý cho học sinh, sinh viên. Các quá trình bộ phận đó quan hệ chặt chẽ,
tác động thống nhất với nhau, bổ sung, hộ trợ lẫn nhau, cùng thực hiện mục đích của
quá trình sư phạm quân sự.
Quá trình sư phạm quân sự diễn ra trong sự kết hợp chặt chẽ với các hoạt động
chung, đó là hoạt động huấn luyện, dạy học, lao động sản xuất, công tác xã hội và các
hoạt động khác. Quá trình sư phạm quân sự luôn chịu sự tác động của các hoạt động
đó và tác động trở lại bảo đảm cho các hoạt động đó đạt được kết quả cao nhất, thông
qua quá trình dạy học, giáo dục, chuẩn bị tâm lí cho học sinh, sinh viên để tham gia có
chất lượng và có hiệu quả vào các hoạt động khác của nhà trường. Quá trình sư phạm
nhà trường quân sự trước hết được hiểu là một quá trình có mục đích rõ ràng. Mục
được cụ thể hoá trong hệ thống mục tiêu đào tạo. Mục tiêu này được hoạch định, thiết
kế một cách thống nhất theo yêu cầu chung của bậc đại học: Mục tiêu toàn khoá học,
mục tiêu từng môn học, học phần, chủ đề, mục tiêu từng hoạt động…. tất cả các mục
tiêu bộ phận ấy phải dựa trên và nhằm tới mục tiêu đào tạo tổng thể của khoá học với
một đối tượng cụ thể.
Với tư cách là một quá trình, hoạt động sư phạm trong nhà trường quân sự có
khởi đầu, vận hành, phát triển, kết thúc. Diễn ra trong một thời gian, không gian xác
định với tất cả các nhân tố cấu thành và các điều kiện bảo đảm. Hơn thế, với đặc điểm,
tính chất của một nhà trường quân sự, quá trình sư phạm nhà trường quân sự được duy
trì tổ chức hết sức chặt chẽ cả về kế hoạch và tổ chức thực hiện, cả về quy chế và công
tác quản lý giáo dục – đào tạo. Tính chất chặt chẽ còn biểu hiện ở chỗ quá trình sư

phạm nhà trường quân sự không chỉ được duy trì bởi khung pháp lý giáo dục – đào
tạo của Nhà nước và Quân đội, mà còn được duy trì bởi kỷ luật quân sự nghiêm minh
cả về phía tổ chức quân sự (nhà trường) và kỷ luật quân nhân (học viên). Đồng thời
tính tổ chức của quá trình sư phạm nhà trường quân sự còn phải nói tới hệ thống các tổ
chức Đảng, tổ chức chỉ huy, hội đồng quân nhân, với cơ cấu quản lý hệ, lớp, tổ hay
tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn với một đội ngũ cán bộ quản lý chuyên trách hay
kiêm nhiệm với chức năng chuyên môn hóa do quân đội, nhà trường phân công. Tính
đặc thù trên đòi hỏi trong dạy học – giáo dục nhà trường phải xác định chính xác mục
tiêu, chương trình nội dung, các hình thức, phương pháp và tổ chức thực hiện chúng
một cách phù hợp với những yêu cầu của một cơ sở giáo dục – đào tạo đồng thời phù
hợp với tính chất của một tổ chức quân sự.
1.2. Những đặc trưng cơ bản của quá trình sư phạm quân sự
1.2.1. Quá trình sư phạm quân sự là quá trình truyền thụ và lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử - xã hội, kinh nghiệm quân sự
Đây là đặc trưng phản ánh mối quan hệ bản chất, quy định sự vận động, tồn tại,
phát triển của quá trình sư phạm nhà trường quân sự. Chất lượng và hiệu quả của hoạt
động truyền thụ và hoạt động lĩnh hội cũng chính là chất lượng hiệu quả quá trình đào
tạo của nhà trường.
5


Truyền thụ là hoạt động của nhà giáo dục nhằm trang bị cho người học các kiến
thức, kỹ năng và thái độ. Chất lượng hoạt động truyền thụ phụ thuộc vào khả năng, tài
nghệ chuyên môn, tầm rộng của hiểu biết, độ sâu của tri thức chuyên ngành, trình độ tổ
chức phương pháp truyền đạt, giáo dục của người giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Lĩnh hội là hoạt động tiếp thu của học viên, biến những gì tiếp nhận trong nhà
trường thành “tài sản”, năng lực của cá nhân. Chất lượng của hoạt động lĩnh hội phụ
thuộc vào khả năng nhận thức của mỗi người. Bên cạnh đó là yếu tố như phương pháp
học tập rèn luyện, kế hoạch, thời gian cho học tập, động cơ ý chí quyết tâm và thái độ
trách nhiệm trong học tập có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng

hiệu quả học tập, rèn luyện của mỗi người. Người học phải thật sự là chủ thể của quá
trình sư phạm, không ai có thể thay thế được chính họ trong quá trình chiếm lĩnh các
kiến thức, trau dồi các phẩm chất nhân cách cần thiết.
Nội dung truyền thụ là hệ thống tri thức các môn học và các phương pháp sáng
tạo, các chuẩn mực đạo đức….Đó chính là các giá trị văn hóa hay còn gọi là những
kinh nghiệm xã hội - lịch sử do con người sáng tạo ra trên mọi lĩnh vực hoạt động,
được tích lũy, bổ sung, phát triển qua các thế hệ. Các giá trị ấy bao gồm cả các giá trị
của loài người, giá trị dân tộc, các giá trị trong lĩnh vực hoạt động quân sự. Đó là toàn
bộ những tri thức trong lĩnh vực quân sự như đường lối quân sự, khoa học và nghệ
thuật quân sự Việt Nam, các kỹ xảo - kỹ năng hoạt động quân sự, các điều lệnh, điều
lệ của quân đội…
Truyền thụ và lĩnh hội được tiến hành trong quá trình dạy học và quá trình giáo
dục. Mọi nội dung và yêu cầu về kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng cũng như các nội dung và
yêu cầu về giáo dục nhân cách đều được truyền tải đến học viên thông qua cả quá trình
dạy học và quá trình giáo dục mà người truyền thụ, chỉ đạo tiến hành trực tiếp các quá
trình đó chính là giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Kinh nghiệm xã hội, kinh nghiệm quân sự được hiểu đó là toàn bộ kết quả hoạt
động sáng tạo của con người, được xã hội thừa nhận và trở thành văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần của nhân loại, của dân tộc và quân đội. Kinh nghiệm xã hội đó chính
là các giá trị văn hóa của nhân loại sáng tạo nên, là những chuẩn mực, là những
phương thức và phương tiện của các dạng hoạt động và giao lưu của con người trong
xã hội.
Kinh nghiệm quân sự là toàn bộ là tri thức quân sự, những kinh nghiệm tổ chức
xây dựng lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang qua các thời kỳ lịch sử,
những kỹ xảo, kỹ năng hoạt động quân sự, những quy định trong điều lệnh, điều lệ,
những chuẩn mực về đạo đức, về các mối quan hệ xã hội diễn ra trong môi trường
quân sự. Đồng thời, nó còn kết đọng ở trình độ phát triển đa dạng của các loại vũ khí
và phương tiện kỹ thuật chiến đấu.
Truyền thụ và lĩnh hội là hai hoạt động của hai chủ thể của quá trình sư phạm
quân sự; hai hoạt động này luân phối hợp tác động qua lại, gắn bó hữu cơ với nhau,

chế ước nhau cùng tạo nên chất lượng, hiệu quả của quá trình quân sự. Do đó, để nâng
cao hiệu quả của quá trình sư phạm quân sự hiện nay, cần tập trung chú ý nâng cao
chất lượng hiệu quả của cả hai hoạt động: truyền thụ - lĩnh hội.
1.2.2. Quá trình sư phạm quân sự là quá trình chuẩn bị con người cho các lĩnh vực
hoạt động quân sự
Đặc trưng này khẳng định mục tiêu đồng thời cũng nói lên vai trò của quá trình
sư phạm nhà trường quân sự là chuẩn bị nguồn lực con người cho sự nghiệp xây dựng
và chiến đấu của quân đội.
6


Quá trình đào tạo ở các nhà trường quân sự là một quá trình sư phạm tổng thể
hướng vào hình thành cả phẩm chất và năng lực cho người học viên. Để thực hiện
mục tiêu này, trong quá trình đào tạo phải hết sức coi trọng trang bị nâng cao kiến
thức toàn diện, hệ thống cơ bản, hiện đại với các kỹ xảo - kỹ năng tương ứng. Yêu
cầu mới hiện nay của việc trang bị kiến thức trong dạy học đòi hỏi ngày càng chú
trọng hơn, tập trung và ưu tiên hơn các nội dung và cách thức dạy học làm phát triển
năng lực trí tuệ, tư duy sáng tạo cho học viên thích ứng nhanh với hoạt động quân sự
và thực tiễn cuộc sống
Quá trình sự phạm quân sự bao giờ cũng có mục đích rõ ràng đó là quá trình
chuẩn bị con người cho các lĩnh vực hoạt động quân sự. Hoạt động quân sự là hoạt
động đặc biệt, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, nhất là về con người.
Mọi hoạt động của quân đội đều phải hướng tới mục tiêu đó. Mục tiêu nhất quán,
xuyên suốt của quá trình sư phạm quân sự là chuẩn bị cho học sinh, sinh viên, tập thể
học sinh, sinh viên có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng các yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Việc đào tạo các học sinh, sinh viên, tập thể học sinh, sinh viên được tiến hành
thông qua quá trình huấn luyện và quá trình giáo dục (nghĩa hẹp). Cả hai quá trình, bộ
phận đều hướng vào nhằm nâng cao trình độ học vấn (kiến thức, kỹ sảo, kỹ năng hoạt
động quân sự và hoạt động xã hội); phát triển năng lực trí tuệ và năng lực hành động

thực tiễn quân sự sáng tạo; hình thành và phát triển các phẩm chất xã hội như thế giới
quan khoa học, niềm tin lý tưởng, các phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần chiến
đấu, phẩm chất tâm lý và các hành vi thói quen kỷ luật quân sự. Đặc biệt chú ý đào tạo
học sinh, sinh viên có khả năng thích ứng nhanh và phù hợp với những thay đổi của
đời sống xã hội và quân sự, có bản lĩnh và ý thức thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự.
- Đối với đội ngũ cán bộ các cấp trong quân đội với tư cách là các chủ thể giáo
dục ở đơn vị, có trách nhiệm chủ yếu trong việc giáo dục bộ đội, thì trước hết họ phải
được nhà trường quân sự đào tạo có chất lượng toàn diện về các mặt như: trang bị hệ
thống kiến thức cơ bản và hiện đại, thành thạo kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp quân sự và
nghề nghiệp chuyên môn theo từng loại hình cán bộ được đào tạo, đặc biệt chú ý phát
triển ở họ năng lực hành động sáng tạo, vững vàng về chính trị, mẫu mực về đạo đức
và lối sống... Do đó, các nhà trường quân đội cần phải quán triệt, vận dụng đúng đắn
quan điểm tư tưởng chỉ đạo mà Nghị quyết Đảng ủy Quân sự Trung ương đã chỉ ra:
“Đào tạo đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong
sáng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, tập trung đào tạo theo
chức vụ và trình độ học vấn tương ứng, trong đó đào tạo cán bộ cấp phân đội có trình
độ đại học là cơ bản”.
1.2.3. Quá trình sư phạm quân sự là quá trình có tổ chức chặt chẽ và chịu tải trọng
cao về trí tuệ và thể lực
- Với tư cách là một quá trình, quá trình sư phạm quân sự có sự khởi đầu, vận
động, phát triển, kết thúc và bao giờ cũng diễn ra trong một không gian và thời gian
nhất định, bao giờ cũng gắn rất chặt với các điều kiện, gắn với quá trình sống của các
chủ thể thực thi nó.
- Điều đó cho thấy, quá trình sư phạm quân sự không phải là hình thành và phát
triển một cách tự phát mà là quá trình diễn ra một cách tự giác, có tổ chức chặt chẽ, có
chương trình, kế hoạch, nội dung và phương thức hoạt động cụ thể. Tính tổ chức chặt
chẽ của quá trình sư phạm quân sự còn được thể hiện ở sự kế tiếp nhau ở các giai
đoạn. Từ thiết kế, tổ chức thi công, điều chỉnh, kiểm tra, đánh giá, xử lý thông tin, ra
quyết định mới... Toàn bộ quá trình sư phạm quân sự hoặc diễn ra trong hệ thống các
7



nhà trường quân sự hoặc các đơn vị; quy mô rộng hay hẹp, thời gian dài hay ngắn khác
nhau là tùy theo yêu cầu của mục tiêu giáo dục- đào đạo của nghề nghiệp và chức
trách của học sinh và sinh viên và mức độ đầu tư vào quá trình này quy định.
- Trong quá trình sư phạm quân sự, việc thực hiện chương trình, nội dung nhằm đạt
tới mục tiêu hoàn toàn không dễ dàng mà là quá trình chịu tải trọng cao về trí tuệ và thể
lực. Đây là một biểu hiện phản ánh tính chất đặc thù của quá trình sư phạm trong quân
đội. Có sự chịu tải trọng cao đó là do đòi hỏi khách quan của hoạt động sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu, có tính phức tạp, khó khăn mà hoạt động sư phạm luôn đòi hỏi, của
những biến động phát triển của khoa học công nghệ, của xã hội và quân đội.
1.3. Cấu trúc của quá trình sư phạm quân sự
1.3.1. Quá trình sư phạm quân sự được hợp thành từ các quá trình bộ phận đó là
quá trình dạy học và quá trình giáo dục (nghĩa hẹp)
Quá trình sư phạm quân sự là một quá trình tổng thể, toàn vẹn được hợp thành
bởi quá trình dạy học và quá trình giáo dục (nghĩa hẹp). Đây là hai quá trình bộ phận
của một quá trình tổng thể. Chức năng trội của quá trình dạy học nhằm trang bị kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành và phát triển năng lực cho học sinh, sinh viên.
Chức năng trội của quá trình giáo dục nhằm hình thành các phẩm chất nhân cách
cho học sinh, sinh viên theo chuẩn mực giá trị của xã hội. Các quá trình bộ phận có
quan hệ biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau trong một quá trình sư phạm toàn
vẹn. Cả hai quá trình bộ phận đều hướng vào thực hiện mục tiêu và chức năng chung
của quá trình tổng thể là đào tạo học sinh, sinh viên phát triển toàn diện nâng cao trình
độ học vấn; giáo dục phẩm chất nhân cách; phát triển trí tuệ; năng lực hành động, thể
chất; chuẩn bị sự sẵn sàng và sự vững vàng về tâm lý cho học sinh, cho sinh viên trong
hoạt động quân sự, quốc phòng. Cả hai quá trình, bộ phận đó đều có chung đối tượng
tác động là các học sinh, sinh viên và tập thể học sinh, sinh viên, đều tuân theo quy
luật vận động chung của một quá trình tổng thể. Song mỗi quá trình lại có mục đích
trực tiếp cụ thể khác nhau, có chức năng trội của mình, có bản chất, quy luật vận động
riêng, có nguyên tắc, phương pháp, phương tiện và hình thức tiến hành riêng. Từng

quá trình đó lại được phân chia thành các khâu, các bước, các giai đoạn mang tính chất
riêng của nó.
- Hai mặt này quan hệ biện chứng với nhau, song mỗi mặt có tính độc lập tương
đối bởi mục tiêu trực tiếp, nội dung và con đường tiến hành, tính chất tác động sư
phạm không hoàn toàn như nhau, dù cả hai mặt này đều diễn ra trong suốt quá trình
đào tạo. Với ý nghĩa ấy hai mặt cơ bản là dạy học và giáo dục được quan niệm là hai
quá trình bộ phận trong quá trình sư phạm tổng thể (xem sơ đồ)
QTSPNTQS

QTDH

QTGD

8


1.3.2. Quá trình sư phạm quân sự được xem xét như một hệ thống hoàn chỉnh của
các thành tố cơ bản
1.3.2.1. Nhà giáo dục (chủ thể của quá trình sư phạm quân sự)
- Đó là đội ngũ cán bộ chỉ huy, chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật ở nhà trường, là
các tổ chức Đảng, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, tập thể học sinh, sinh viên
cùng các tổ chức quần chúng khác. Đó là những cá nhân và tập thể, giữ vị trí là người
chỉ đạo, tổ chức, điều hành và trực tiếp tiến hành quá trình dạy học - giáo dục học sinh,
sinh viên. Các lực lượng giáo dục đó hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản
lý của hệ thống chỉ huy các cấp, sự chỉ đạo của cơ qua chuyên môn cấp trên.
- Hoạt động của nhà giáo dục là nhân tố năng động giữ vai trò quyết định bảo
đảm chất lượng quá trình sư phạm quân sự, đồng thời chi phối các thành tố khác. Nhà
giáo dục muốn thực hiện được vị trí, vai trò đó phải đặt mình trong mối liên hệ chặt
chẽ và chịu sự tác động của các thành tố khác, phải biết khai thác triệt để và sử dụng
có hiệu quả vai trò của từng thành tố đó. Trong mối liên hệ ấy thì sự thống nhất biện

chứng giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục là điều kiện tất yếu để điều chỉnh một
cách hợp quy luật các thành tố khác của quá trình sư phạm quân sự.
1.3.2.2. Đối tượng giáo dục (vừa là khách thể vừa là chủ thể của quá trình sư phạm
quân sự)
- Đó là học sinh, sinh viên đảm nhận các chức trách và nhiệm vụ khác nhau, là
tập thể học sinh, sinh viên tiếp nhận các tác động sư phạm của nhà giáo dục và các thành
tố khác trong quá trình sư phạm quân sự. Với tư cách là khách thể của quá trình sư phạm
quân sự, hoạt động của đối tượng giáo dục chịu sự điều khiển của nhà giáo dục và chịu
sự chi phối của mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện, kết quả dậy
học - giáo dục. Với tư cách là chủ thể của quá trình sư phạm quân sự, đối tượng giáo dục
lại là nhân tố trung tâm, có vai trò năng động tích cực, độc lập sáng tạo trong việc tiếp
nhận và xử lý những tác động sư phạm, trong việc tạo nên chất lượng, hiệu quả của quá
trình dạy học- giáo dục. Mặt khác, xét theo một ý nghĩa nhất định của quá trình hình
thành và phát triển nhân cách người học sinh, sinh viên thì đối tượng giáo dục là nhân tố
trực tiếp quyết định trình độ biến đổi và phát triển của chính mình.
1.3.2.3. Mục tiêu giáo dục
- Là kiểu nhân cách học sinh, sinh viên mà hoạt động quốc phòng và an ninh yêu
cầu, được mô hình hóa thành một số những đặc trưng cơ bản cùng những chỉ số xác
định về phẩm chất và năng lực mà học sinh, sinh viên cần phải có. Mục tiêu giáo dục
vạch ra hướng đích cho chủ thể giáo dục và khách thể giáo dục, là mục tiêu chung cho
hoạt động của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục và cho tất cả các loại hình hoạt động
ở đơn vị. Mục tiêu giáo dục dù được biểu đạt dưới hình thức nguyện vọng chủ quan,
song nó vẫn là hội tụ của những đòi hỏi nhiều mặt khách quan của nhiệm vụ cách mạng
và quân đội, nhiệm vụ chức trách và đặc điểm nghề nghiệp cụ thể của mỗi học sinh, sinh
viên. Do đó, mục tiêu giáo dục được xác định càng chính xác, rõ ràng, cụ thể bao nhiêu
thì quá trình dạy học - giáo dục học sinh, sinh viên càng tự giáo bấy nhiêu.
- Mục tiêu giáo dục có quan hệ chặt chẽ với các thành tố khác, trong mối liên hệ
ấy thì mục tiêu giáo dục là thành tố giữ vai trò định hướng cho toàn bộ hoạt động dạy
học - giáo dục, vạch ra phương hướng để xác định nội dung, lựa chọn phương pháp,
hình thức tổ chức và phương tiện giáo dục phù hợp, quy định tiêu chuẩn kiểm tra, đánh

gía kết quả của quá trình sư phạm quân sự.
1.3.2.4. Nội dung giáo dục
- Là những kinh nghiệm lịch sử - xã hội, những giá trị văn hóa nhân loại và dân
tộc, những kinh nghiệm quân sự, kinh nghiệm hoạt động quốc phòng và an ninh được
chọn lọc phù hợp với mục tiêu giáo dục.
9


- Nội dung giáo dục là sự cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đào tạo học
sinh, sinh viên. Nó được xem như là những văn kiện cơ bản mang tính pháp lý và trở
thành phương tiện để nhà giáo dục và đối tượng giáo dục sử dụng trong việc truyền thụ
và lĩnh hội. Nội dung giáo dục khoa học phải đáp ứng được các yêu cầu về tính cơ bản,
tính toàn diên, tính hệ thống, tính hiện đại, tính giáo dục, và tính hiệu quả. Như vậy
việc lựa chọn nội dung giáo dục phải căn cứ vào mục tiêu giáo dục, vào đối tượng,
điều kiện, đặc điểm giáo dục, vào trình độ, khả năng của nhà giáo dục, và sự phát triển
của khoa học, công nghệ...đến lượt mình, nội dung giáo dục tác động trở lại các thành
tố khác của quá trình sư phạm quân sự. Nó góp phần cụ thể hóa, hiện thực hóa mục
tiêu giáo dục, nó quy định hoạt động của nhà giáo giục và đối tượng giáo dục, quy
định phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện giáo dục. Lựa chọn đúng đắn
phương pháp hình thức và phương tiện giáo dục lại là điều kiện để truyền thụ và lĩnh
hội sâu sắc nội dung giáo dục.
1.3.2.5. Phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục
- Phương pháp giáo dục là toàn bộ những cách thức, biện pháp truyền đạt và
lĩnh hội của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục sử dụng trong dạy học - giáo dục
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục quốc phòng và an ninh đã xác định.
- Hình thức tổ chức giáo dục là toàn bộ cách thức phối hợp và cách thức tổ chức
các hoạt động của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục nhằm thực hiện nội dung và
mục tiêu giáo dục.
- Phương tiện giáo dục với ý nghĩa trực tiếp là những vật mang thông tin sư
phạm góp phần quan trọng và quá trình tích cực hóa hoạt động nhận thức và quá trình

hình thành nhân cách của học sinh, sinh viên là thành tố nối liền giữa nội dung,
phương pháp, hình thức và kết quả dạy học - giáo dục.
- Lựa chọn phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục phải căn cứ vào mục
tiêu, nội dung giáo dục, đồng thời phải tính đến trình độ của nhà giáo dục, đến quy luật
phát triển tâm sinh lý và trình độ của đối tượng giáo dục.
1.3.2.6. Kết quả giáo dục
- Là trình độ phát triển nhân cách của học sinh, sinh viên và tập thể học sinh,
sinh viên theo thiết kế của mục tiêu giáo dục. Kết quả giáo dục là sự phản ánh sức
mạnh tổng hợp của hệ thống các thành tố tác động lẫn nhau trong quá trình sư phạm
quân sự, là thước đo đánh giá chất lượng hiệu quả của quá trình sư phạm quân sự. Kết
quả giáo dục nếu được kiểm tra đánh giá kịp thời, chính xác và được đối chiếu thường
xuyên với hệ thống mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục sẽ trở thành yếu tố kích thích, điều
chỉnh quá trình dạy học - giáo dục đúng hướng và là xuất phát điểm cho quá trình dạy
học, giáo dục mới đạt hiệu quả.
- Toàn bộ các thành tố của quá trình sư phạm quân sự tồn tại trong một hệ thống
thống nhất, các thành tố đó có quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng, hỗ trợ, chế ước
nhau. Cùng nằm trong những điều kiện xác định cụ thể của thực tiễn xã hội và của mỗi
nhà trường. Mỗi thành tố có vị trí, nội dung cụ thể, có tính độc lập tương đối, tuy nhiên
cần phải được đặt trong tính hệ thống, trong cấu trúc hoàn chỉnh của quá trình sư phạm
quân sự. Như vậy, việc nhận thức khoa học về cấu trúc hoàn chỉnh của quá trình sư
phạm quân sự cho phép các cán bộ chỉ huy, lãnh đạo các cấp nhìn rõ vị trí vai trò, chức
năng cũng như mối liên hệ phổ biến giữa các thành tố cơ bản của quá trình bộ phận,
quy định xu hướng vận động phát triển của quá trình này, nhờ đó có khả năng tổ chức
điều khiển quá trình sư phạm quân sự hợp quy luật và đạt hiệu suất cao.
1.4. Tính quy luật của quá trình sự phạm quân sự
Quá trình sư phạm quân sự là một hiện tượng giáo dục, chịu sự quy định và phụ
thuộc vào các lĩnh vực, các quá trình xã hội trong từng giai đoạn lịch sử xã hội nhất
định. Bản thân nó còn có mối quan hệ chặt chẽ thường xuyên với thực tiễn hoạt động
10



quân sự, với các quá trình, các hoạt động, các yếu tố diễn ra trong quá trình này. Trên
cơ sở tiếp cận những mối liên hệ bên ngoài và mối liên hệ bên trong của quá trình sư
phạm quân sự chúng ta có thể xác định những vấn đề có tính quy luật của quá trình đó.
1.4.1. Sự quy định của xã hội với quá trình sư phạm quân sự
- Tính quy luật này được xác định là xuất phát từ cơ sở phương pháp luận khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục từ thực tiễn của
hoạt động giáo dục - dạy học học sinh, sinh viên.
- Sự quy định của xã hội đối với quá trình sư phạm quân sự biểu hiện ở chỗ: quá
trình này bao giờ cũng chịu sự chi phối bởi quan điểm, tư tưởng, lợi ích và địa vị của
giai cấp thống trị trong xã hội. Với tư cách là một chức năng xã hội, quá trình sư phạm
quân sự luôn phụ thuộc vào quá trình xã hội khác như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội... sự phụ thuộc của quá trình sư phạm quân sự đối với xã hội quy định bản chất xã
hội - gia cấp cùng phương hướng phát triển của nó.
- Tính quy luật nói trên đòi hỏi quá trình dạy học - giáo dục học sinh, sinh viên
phải luôn giữ vững phương hướng chính trị, bám sát những định hướng lớn của Đảng
Cộng sản Việt Nam trên các mặt trận đời sống xã hội của thực tiễn xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, hoạt động huấn luyện - giáo dục học
sinh, sinh viên, phải hướng vào thực hiện mục tiêu giáo dục con người Việt Nam, vào sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cụ thể.
1.4.2. Sự quy định của thực tiễn hoạt động quân sự đối với quá trình sư phạm
quân sự
- Sản phẩm của quá trình sư phạm quân sự được đánh giá về mặt chất lượng và
hiệu quả gắn liền tất yếu với thực tiễn hoạt động giáo dục quốc phòng và an ninh. Tính
quy luật này chỉ rõ: quá trình sư phạm quân sự luôn luôn phụ thuộc và chịu sự chi phối
một cách khách quan của những điều kiện hoạt động quân sự phong phú và đa dạng;
trong đó quá trình xây dựng và sẵn sàng chiến đấu là điều kiện thường xuyên trực tiếp
quy định toàn bộ quá trình dạy học - giáo dục. Tính quy luật này đòi hỏi các quá trình
bộ phận, các thành tố (mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức,
phương tiện, nhà giáo dục và đối tượng giáo dục) của quá trình sư phạm quân sự đều

hướng vào chuẩn bị học sinh, sinh viên và tập thể học sinh, sinh viên cho nhiệm vụ
quốc phòng và an ninh. Tạo tiền đề khách quan để từng cá nhân và tập thể đủ sức vượt
qua những thử thách lớn nhất của chiến tranh hiện đại: “... Bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
độc lập, chủ quyển, thống nhất, toàn vẹn; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và
an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an ninh toàn xã hội; giữ vững ổn định chính
trị của đất nước và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không bị
động, bất ngờ’’. Phương hướng đó chỉ đạt được kết quả khi tất cả các quá trình, các
thành tố nói trên của quá trình sư phạm quân sự quán triệt và thực hiện sâu sắc đường
lối chính trị, kinh tế, văn hóa, quấn sự của Đảng, phù hợp với yêu cầu khoa học quân
sự của Mác - Lênin và sát với đặc điểm của chiến tranh tương lai, phải thấm nhầm
nguyên lý giáo dục: lý luận liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội và đơn vị.
1.4.3. Sự thống nhất biện chứng giữa quá trình dạy học và quá trình giáo dục
(nghĩa hẹp)
- Trong quá trình sư phạm quân sự, việc tổ chức chỉ đạo, kiểm soát sự vận hành
của từng quá trình, bộ phận và tạo ra sự thống nhất giữa dạy học với giáo dục một cách
thường xuyên là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết đối với nhân cách học sinh, sinh viên
trong điều kiện hiện nay. Cơ sở khách quan của sự thống nhất đó xuất phát từ yêu cầu
của mục tiêu giáo dục và tính toàn vẹn của quá trình sư phạm quân sự.
11


- Bản chất của sự thống nhất đó được thể hiện ở những đặc trưng cơ bản, chủ
yếu của quá trình sư phạm quân sự, ở mục đích nhiệm vụ, nội dụng và cách thức tác
động sư phạm. Cả hai quá trình đó tuy có vị trí, vai trò riêng, song đều nhằm nâng cao
trình độ kiến thức kỹ năng, kỹ xảo, xây dựng phẩm chất nhân cách và phát triển trí tuệ,
thể chất, chuẩn bị tâm lý cho các học sinh, sinh viên. Vì vậy, đòi hỏi phải thực hiện
một cách thống nhất các nhiệm vụ trên. Chỉ trong sự tác động thống nhất biện chứng
giữa quá trình huấn luyện với quá trình giáo dục nhân cách học sinh, sinh viên thì mới

bảo đảm cho quá trình sư phạm quân sự vận động và phát triển. Phá vỡ mối liên hệ sẽ
làm triệt tiêu tính tổng thể của nó và làm mất đi cơ sở khách quan để xác định các
nguyên tắc chỉ đạo quá trình dạy học và giáo dục học sinh, sinh viên.
1.4.4. Sự thống nhất giữa hoạt động truyền thụ và hoạt động lĩnh hội.
- Hoạt động truyền thụ gắn liền với chủ thể là nhà giáo dục và hoạt động lĩnh hội
gắn liền với chủ thể là học viên đối tượng giáo dục. Hai hoạt động này phản ánh mối
liên hệ bản chất và sự vận động phát triển của quá trình sư phạm nhà trường quân sự,
quy định chất lượng quá trình sư phạm của nhà trường.
- Sự thống nhất biện chứng giữa hoạt động truyền thụ và hoạt động lĩnh hội thể
hiện ở mối quan hệ của chúng, hai hoạt động này tuy khác nhau tương đối về vị trí,
chức năng, cách thức thực hiện nhưng đó là các hoạt động thể hiện tính hai mặt của
một quá trình thống nhất quá trình sư phạm nhà trường quân sự. Truyền thụ có vai trò
định hướng, tác động, chi phối, hoạt động lĩnh hội, là điều kiện cơ bản đảm bảo chất
lượng lĩnh hội. Ngược lại hoạt động lĩnh hội trên cơ sở truyền thụ, tác động điều chỉnh
trở lại truyền thụ làm cho cả hai hoạt động cùng phát triển.
1.5. Ý nghĩa đối với người giáo viên, giảng viên, giáo dục quốc phòng và an ninh
- Nghiên cứu nắm vững đặc trưng cấu trúc và tính quy luật của quá trình sư
phạm quân sự có ý nghĩa phương pháp luận, là cơ sở khoa học để người giáo viên
quốc phòng an ninh vận dụng trong việc tổ chức điều khiển quá trình giáo dục học
sinh, sinh viên đạt hiệu quả tối ưu đáp ứng tốt nhất những yêu cầu của hoạt động quốc
phòng cũng như sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện
nay. Chất lượng, hiệu quả của quá trình này phụ thuộc phần lớn vào phẩm chất, năng
lực sư phạm của đội ngũ cán bộ giáo viên, giảng viên. Trong đó, cán bộ, giáo viên,
giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh giữ vai trò rất quan trọng. Bởi lẽ đội ngũ
giáo viên, giảng viên quốc phòng và an ninh là những người trực tiếp tổ chức, tiến
hành các hoạt động giáo dục học sinh, sinh viên là những người chịu trách nhiệm trước
hết về vấn đề xây dựng con người và nhà trường vững mạnh về mọi mặt. Sự trưởng
thành về nhân cách, trình độ kỹ chiến thuật quân sự, năng lực thực hành, kỹ xảo, kỹ
năng quân sự, khả năng nắm bắt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ quốc phòng và an ninh... phần lớn có được là do kết quả

của hoạt động giáo dục đem lại. Trong đó, người giáo viên, giảng viên quốc phòng và
an ninh là người cùng với các lực lượng giáo dục khác của nhà trường chịu trách
nhiệm lãnh đạo, tổ chức, điều hành, trực tiếp tiến hành các hoạt động giáo dục học
sinh, sinh viên.
Câu hỏi và bài tập
Câu 1: Trình bày các nhân tố cơ bản của quá trình sư phạm quân sự; ý nghĩa
đối với người giáo viên giáo dục quốc phòng và an ninh hiện nay ?
Câu 2: Làm rõ những đặc trưng cơ bản của quá trình sư phạm quân sự; ý nghĩa
đối với người giáo viên giáo dục quốc phòng và an ninh hiện nay.
Câu 3: Phân tích quy luật của quá trình sư phạm quân sự; ý nghĩa đối với người
giáo viên giáo dục quốc phòng và an ninh hiện nay.
12


Chương 2: BẢN CHẤT, QUY LUẬT CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
HỌC SINH, SINH VIÊN
2.1. Bản chất của quá trình dạy học sinh, sinh viên
2.1.1. Khái niệm quá trình dạy học sinh, sinh viên
- Quá trính dạy học sinh, sinh viên là một bộ phận của quá trình sư phạm quân
sự. Quá trình dạy học học sinh, sinh viên vừa phản ánh những đặc trưng cơ bản của
quá trình sư phạm quân sự tổng thể, vừa mang những dấu hiệu riêng của một quá trình
bộ phận. Với tư cách là một quá trình bộ phận, quá trình dạy học học sinh, sinh viên có
khái niệm, bản chất, quy luật, nguyên tắc và các đặc điểm riêng.
Quá trình dạy học học sinh, sinh viên là hoạt động có mục đích, có tổ chức, phối
hợp thống nhất giữa người dạy và người học nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học đã
đặt ra.
- Khái niệm trên đây đã chỉ ra rằng, dạy học học sinh, sinh viên là một quá trình
có mục đích, có tổ chức, được thực hiện trong một thời gian và không gian xác định.
Quá trình dạy học học sinh, sinh viên bao gồm một hệ thống các thành tố luôn tác
động qua lại lẫn nhau, chi phối lẫn nhau tạo thành chỉnh thể thống nhất, trong đó người

dạy và người học là hai chủ thể có vai trò chi phối các thành tố khác, liên kết các thành
tố khác với nhau. Hoạt động của người dạy và hoạt động của người học phối hợp
thống nhất với nhau tạo thành mối liên hệ chủ yếu quy định sự vận động, phát triển
của quá trình dạy học.
Quá trình dạy học học sinh, sinh viên nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Trang bị kiến thức, rèn luyện kĩ xảo, kĩ năng hoạt động cho học sinh, sinh
viên. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là chức năng trội của quá trình dạy học
học sinh, sinh viên.
- Phát triển trí tuệ, bồi dưỡng năng lực tư duy, sáng tạo cho học sinh, sinh viên.
Đây là nhiệm vụ quan trọng của quá trình dạy học học sinh, sinh viên. Thông qua
trang bị kiến thức, rèn luyện kĩ xảo, kĩ năng mà bồi dưỡng năng lực tư duy sáng tạo,
phát triển các phẩm chất trí tuệ, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong điều kiện mới.
- Giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên. Đây là nhiệm vụ thực hiện chức
năng giáo dục của quá trình dạy học. Thông qua quá trình dạy học mà rèn luyện các
phẩm chất nhân cách cho học sinh, sinh viên theo chuẩn mực giá trị của xã hội. Mọi
quá trình dạy học phải hướng tới thực hiện nhiệm vụ giáo dục nhân cách cho học sinh,
sinh viên.
- Chuẩn bị tâm lý cho học sinh, sinh viên. Đây là nhiệm vụ tạo ra khả năng thích
ứng của các học sinh, sinh viên với thực tiễn hoạt động quốc phòng và an ninh, góp
phần rèn luyện bản lĩnh vững vàng trong các điều kiện khó khăn, căng thẳng của hoạt
động quân sự, quốc phòng. Thông qua quá trình dạy học mà rèn luyện các phẩm chất
tâm lý bền vững và sự sẵn sàng bên trong cho các học sinh, sinh viên.
Các nhiệm vụ trên đây có mối quan hệ nhân quả với nhau, gắn bó chặt chẽ với
nhau, nhiệm vụ này là tiền đề của nhiệm vụ kia và là hệ quả của các nhiệm vụ khác.
Trong đó trang bị kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng là nhiệm vụ cơ bản đầu tiên. Các nhiệm
vụ phát triển, giáo dục, chuẩn bị tâm lý chính là những cái đích quan trọng mà quá
trình dạy học phải đạt đến.
2.1.2. Bản chất của quá trình dạy học học sinh, sinh viên
Khái niệm quá trình dạy học học sinh, sinh viên đã chỉ ra rằng hoạt động cơ bản
trong quá trình dạy học là hoạt động học tập của các học sinh, sinh viên dưới sự chỉ

đạo của người dạy. Theo lý luận nhận thức Mác- xít, học tập không có gì khác chính là
13


hoạt động nhận thức của người học. Đó là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào
trong ý thức người học, là quá trình vận động của người tư duy có mâu thuẫn nội tại và
phát triển biện chứng từ chỗ chưa hiểu biết đến hiểu biết, hiểu biết chưa đầy đủ, chưa
chính xác đến đầy đủ và chính xác hơn, từ chỗ chưa có kĩ năng đến có kĩ năng.
Hoạt động nhận thức của các học sinh, sinh viên với tư cách là người học về cơ
bản tuân theo quy luật nhận thức chung của loài người. Quy luật đó đã được V.I.Lênin
khái quát trong công thức nổi tiến: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân
lý”. Điều đó có nghĩa là quá trình dạy học học sinh, sinh viên có đầy đủ có các nấc
thang nhận thức: cảm tính, lý tính và thực tiễn. Người học thu thập các tài liệu cảm
tính từ những tác động của người dạy và các phương tiện dạy học trực quan. Trên cơ
sở các tài liệu cảm tính đó, người học sử dụng các thao tác tư duy để xử lý, chế biến,
nghiền ngẫm các thông tin học tập, gạt bỏ những cái vụn vặt, ngẫu nhiên bên ngoài,
nắm lấy cái bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, hình thành các khái niệm, biểu
tượng mới trong tư duy. Nhận thức không dừng lại ở tư duy, nấc thang tất yếu trong
quá trình học tập là sự vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng đã tiếp thu vài giải
quyết các nhiệm vụ lý luận và thực tiễn hoạt động quân sự đặt ra. Như vậy, thực tiễn
được xem như một giai đoạn của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn kết thúc của một
chu trình nhận thức, đông thời lại là giai đoạn mở đầu cho một chu trình nhận thức
khác, làm cho quá trình nhận thức trở thành vô cùng, vô tận.
Mặt khác, hoạt động nhận thức của người học không hoàn toàn đồng nhất với
hoạt động nhận thức chung của loài người. Trong quá trình dạy học, người học không
phát hiện ra những chân lý mới cho nhân loại mà chỉ khám phá lại và lĩnh hội các kiến
thức đã được khoa học khám phá ra. Nét nổi bật của quá trình dạy học là hoạt động
nhận thức của người học được diễn ra trong những điều kiện sư phạm thuận lợi. Có sự
chỉ đạo của người dạy, có sách giáo khoa, tài liệu học tập và phương tiện kĩ thuật huấn

luyện hỗ trợ. Đó là những điều kiện sư phạm thuận lợi, giúp cho hoạt động nhận thức
của người học đi theo con đường ngắn và chắc chắn tới đích, tránh được những bước
quanh co, phức tạp mà nhận thức khoa học thường gặp phải. Về lôgíc hoạt động nhận
thức của người dạy học phải trải qua các khâu, các bước đặc trưng của quá trình học
tập như: chuẩn bị tâm lý; tri giác tài liệu; hình thành khái niệm; vận dụng tri thức vào
thực hành, thực tập; ôn luyện, củng cố; kiểm tra, đáng giá kết quả học tập. Những
bước đó không phải là đặc trưng của nhận thức chung của loài người. Ngoài ra, quá
trình nhận thức của người học còn mang tính giáo dục sâu sắc, thể hiện sự thống nhất
biện chứng giữa kiến thức và tư tưởng.
Những luận điểm trên đây đã chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng bản chất của quá
trình dạy học học sinh, sinh viên. Từ những dấu hiệu đó có thể rút ra kết luận rằng:
bản chất của quá trình dạy học học sinh, sinh viên là hoạt động nhận thức, hình thành
kỹ xảo, kỹ năng hoạt động cho người học, diễn ra dưới sự chỉ đạo của người dạy và
được tổ chức trong điều kiện sư phạm nhất định.
Nhận thức đúng bản chất quá trình dạy học học sinh, sinh viên sẽ tạo cơ sở khoa
học định hướng cho hoạt động dạy và học. Theo đó, quá trình dạy học phải phát huy
cao độ tính tích cực, độc lập nhận thức của các học sinh, sinh viên với tư cách là người
học, đồng thời phải đề cao vai trò chỉ đạo, tổ chức của đội ngũ cán bộ các cấp với tư
cách là người dạy, tạo ra những điều kiện sư phạm thuận lợi giúp người học tránh khỏi
những sai lầm, vấp váp trong nhận thức, trong cuộc sống. Quá trình dạy học cần tránh
các khuynh hướng quá nhấn mạnh sự giống nhau hoặc khác nhau giữa hoạt động nhận
thức của người học với hoạt động nhận thức chung của loài người. Bởi vì, các khuynh
14


hướng đó sẽ dẫn đến tình trạng bao biện làm thay, “bày cỗ sẵn” hoặc thả nổi, khoán
trắng cho người học, làm suy giảm chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học.
2.2. Quy luật, đặc điểm của quá trình dạy học học sinh, sinh viên
2.2.1. Quy luật của quá trình dạy học học sinh, sinh viên
Quá trình dạy học học sinh, sinh viên là một quá trình xã hội, tồn tại như một hệ

thống thống nhất biện chứng giữa các thành tố. Sự vận động, phát triển của các thành
tố đó tạo thành mối liên hệ ổn định phổ biến bên trong bên ngoài của quá trình dạy
học. Các mối liên hệ này diễn ra thường xuyên trong mọi khâu, mọi bước của quá trình
dạy học, tạo thành quy luật, quy định khuynh hướng vận động, phát triển của quá trình
dạy học. Từ việc xem xét những mối liên hệ cơ bản, tất yếu quy định sự tồn tại, vận
động phát triển của quá trình dạy học giúp chúng ta phát hiện, xác định những quy luật
của quá trình dạy học học sinh, sinh viên như sau:
- Quy luật về tính quy định của chế độ kinh tế - xã hội đối với quá trình dạy học
học sinh, sinh viên:
Quy luật này phản ánh mối liên hệ tất yếu của quá trình dạy học học sinh, sinh
viên ở các nhà trường với môi trường kinh tế - xã hội xung quanh. Quy luật này chỉ ra
rằng, trình độ phát triển, tính chất, điều kiện kinh tế - xã hội quy định trình độ, tính
chất, hiệu quả dạy học học sinh, sinh viên ở các nhà trường. Mục đích phát triển xã hội
- kinh tế quy định mục đích dạy học, ngược lại mục đích dạy học phải phục vụ cho
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển con người. Chính vì vậy mà quá trình
dạy học, một mặt phản ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế - xã hội, mặt khác tác
động tích cực trở lại đối với xã hội bằng cách đào tạo ra đội ngũ những học sinh, sinh
viên có tài, có đức, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài
cho xã hội.
- Quy luật về tính quy định của thực tiễn hoạt động quốc phòng và an ninh đối
với quá trình dạy học học sinh, sinh viên:
Quy luật này phản ánh mối liên hệ giữa quá trình dạy học học sinh, sinh viên ở
các nhà trường với thực tiễn hoạt động quốc phòng và an ninh, thực tiễn xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Quy luật này chỉ ra rằng, quá trình dạy học học sinh, sinh viên phụ
thuộc vào tính chất, yêu cầu của thực tiễn hoạt động quốc phòng và an ninh, phụ thuộc
vào trình độ phát triển của quân đội. Nói cách khác, sự phát triển của quân đội, thực
tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thường xuyên đặt ra những yêu cầu mới và tạo ra
những điều kiện vật chất, tinh thần thuận lợi cho quá trình dạy học học sinh, sinh viên
phản ánh trình độ chính quy, hiện đại của quân đội. Mặt khác, quá trình dạy học học
sinh, sinh viên có tác động tích cực trong xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho

các học sinh, sinh viên, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân đội.
- Quy luật về sự thống nhất giữa dạy học và giáo dục nhân cách học sinh, sinh viên:
Quy luật này phản ánh mối liên hệ cơ bản của hai quá trình, bộ phận trong quá
trình sư phạm quân sự chung. Quy luật này chỉ ra rằng, dạy học và giáo dục không
tách rời nhau, trong dạy học có giáo dục, để giáo dục có hiệu quả phải thông qua quá
trình dạy học. Quá trình dạy học ở các nhà trường phải thực hiện một nhiệm vụ quan
trọng là tạo cơ sở định hướng cho quá trình hình thành và phát triển các phẩm chất
nhân cách của học sinh, sinh viên, phải hướng hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục
nhân cách. Ngược lại, để giáo dục một phẩm chất nào đó cho các học sinh, sinh viên
thì phải thực hiện chủ yếu bằng con đường dạy học. Dạy học và giáo dục nhân cách
học sinh, sinh viên thống nhất với nhau trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo học sinh,
sinh viên cách mạng có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng với yêu cầu của quân đội
của xã hội.
15


- Quy luật về sự thống nhất giữa mục đích, nội dung, phương pháp dạy học:
Quy luật này phản ánh mối liên hệ giữa các nhân tố cơ bản bên trong của quá
trình dạy học. Nó chỉ ra tính tất yếu của sự thống nhất, tương tác, phụ thuộc lẫn nhau
giữa mục đích, nội dung và phương pháp dạy học. Mục đích dạy học quy định nội
dung, phương pháp dạy học. Song mục đích dạy học chỉ đạt được khi quá trình dạy
học được tổ chức một cách khoa học, có nội dung dạy học hiện đại và với một phương
pháp dạy học mang tính chất tích cực. Hay nói cách khác, tổ chức một quá trình dạy
học học sinh, sinh viên ở các nhà trường về thực chất là xác định chính xác mục đích
cùng với việc hoàn thiện, phát triển không ngừng nội dung và phương pháp dạy học.
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa hoạt đông dạy và hoạt đông học:
Đây chính là quy luật cơ bản của quá trình dạy học học sinh, sinh viên. Quy luật
này đề cập đến mối liên hệ giữa hai nhân tố chủ thể năng động nhất của quá trình dạy
học là người dạy và người học. Quy luật này luôn nổi lên trong suốt quá trình dạy học,
quy định sự tồn tại, phát triển của quá trình dạy học. Mặt khác, quy luật này thống

nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và hoạt động học bao trùm, chi phối các quy luật
khác của quá trình dạy học. Các quy luật khác chỉ phát huy được tác dụng tích cực
của sự tăng cường mối liên hệ biện chứng giữa dạy và học.
Nội dung của quy luật chỉ ra rằng, quá trình dạy học học sinh, sinh viên là quá
trình tương tác hai chiều giữa hoạt động dạy và hoạt động học, trong đó dưới sự chỉ
đạo của người dạy, người học tự chỉ đạo, tự tổ chức hoạt động nhận thức của mình
nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học đặt ra. Quá trình dạy học là quá trình phối hợp
thống nhất giữa hoạt động dạy và hoạt động học, đồng thời cũng là quá trình đòi hỏi
lẫn nhau, đặt ra yêu cầu với nhau từ hai phía, dẫn đến hệ quả là dạy và học phụ thuộc
vào nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển.
Trong mối quan hệ tương tác ấy, vai trò của từng nhân tố không ngang bằng
nhau. Người dạy là chủ thể của hoạt động dạy, và giữ vai trò chủ đạo của quá trình dạy
học. Hoạt động này không đơn thuần chỉ là truyền đạt kiến thức, mà phải tổ chức, điều
kiện điểu khiển quá trình nhận thức của người học. Vai trò đó được thể hiện trong
những hành động sư phạm cơ bản sau:
+ Đề xuất yêu cầu, nhiệm vụ học tập.
+ Chỉ đạo, tổ chức hoạt động lĩnh hội, tìm tòi kiến thức của người học.
+ Nắm thông tin ngược, phát hiện, đánh giá thực trạng dạy học ở từng giai đoạn
học tập.
+ Đề xuất bổ sung các yêu cầu học tập mới.
+ Phân tích, đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu, yêu cầu dạy học.
Người học là chủ thể của hoạt động học tập, đồng thời là khách thể chịu sự tác
động của hoạt động dạy. Vai trò chủ thể nhận thức của người học làm cho họ không
đơn thuần chỉ là khách thể bị động tiếp thu, lĩnh hội kiến thức mà còn đóng vai trò chủ
thể tự chỉ đạo, tự tổ chức quá trình nhận thức của mình. Vai trò đó được thể hiện ở
những hành động học tập cơ bản sau:
+ Tự giác ý thức đầy đủ các yêu cầu, nhiệm vụ học tập.
+ Tự giác giải quyết các mâu thuẫn nhận thức.
+ Nắm những thông tin ngược thường xuyên trong quá trình học tập để tự phát
hiện điểm mạnh, điểm yếu của mình.

+ Tự điều chỉnh, bổ sung yêu cầu học tập, rèn luyện.
+ Tự phân tích, đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu yêu cầu dạy học.
Những hành động sư phạm của người dạy và những hành động học tập của người
học luôn có sự tương tác, gắn bó mật thiết với nhau, phối hợp với nhau, đòi hỏi lẫn
16


nhau. Chính sự tương tác đó đã làm cho người học và người dạy đều trưởng thành.
Dạy học tối ưu là thống nhất giữa sự chỉ đạo và sự được chỉ đạo và sự tự chỉ đạo.
Những biểu hiện dạy nhồi nhét, “dội một chiều ”, bày sẵn và học thụ động, “học gạo,
học vẹt” trong thực tiễn dạy học đều trái với tinh thần của quy luật này. Chất lượng
của quá trình dạy học là kết quả chung của hoạt động dạy và hoạt đông học. Trong đó,
từng người học phải tự quyết định kết quả học tập của chính mình.
2.2.2. Những đặc điểm cơ bản của quá trình dạy học học sinh, sinh viên
- Quá trình dạy học học sinh, sinh viên ở các nhà trường diễn ra trong môi
trường sư phạm, bị chi phối bởi những yêu cầu của thực tiễn hoạt động quốc phòng
và an ninh:
Tổ chức các hoạt động dạy học được tiến hành trong điều kiện vừa dạy học vừa
thực hiện các nhiệm vụ, các mặt công tác khác của mỗi nhà trường. Người dạy và
người học vừa thực hiện nhiệm vụ dạy học, vừa phải rèn luyện và thực hiện chức năng
của người học sinh, sinh viên. Quan hệ giữa người dạy và người học, vừa là quan hệ
thầy trò, vừa là quan hệ “cấp trên, cấp dưới”.
- Đối tượng dạy học là các học sinh, sinh viên được tuyển chọn theo tiêu chuẩn chung,
có sức khỏe tốt, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt:
Tuy nhiên, các học sinh, sinh viên thường có trình độ văn hóa, giáo dục không
đồng đều, có xuất thân từ những vùng miền khác nhau với những phong tục, tập quán,
lối sống khác nhau, có độ tuổi và đặc điểm tâm lý tương đối khác nhau.
- Mục tiêu quá trình dạy học học sinh, sinh viên của nhà trường nhằm chuẩn bị
con người cho lĩnh vực hoạt đông quốc phòng, an ninh và sự phát triển của xã hội:
Muc tiêu của quá trình dạy học bao gồm, chuẩn bị các phẩm chất, năng lực cho

người học sinh, sinh viên tham gia trực tiếp các nhiệm vụ quốc phòng và an ninh.
Đồng thời, quá trình huấn luyện học sinh, sinh viên ở các nhà trường phải hướng
tới mục tiêu xây dựng nhân cách người học sinh, sinh viên theo chuẩn mực giá trị
của xã hội.
- Nội dung dạy học học sinh, sinh viên ở các nhà trường mang tính thực tiễn,
thiết thực, phản ảnh sự thống nhất cao độ giữa lý luận với thực tiễn hoạt động quốc
phòng và an ninh, giữa kinh nghiệm truyền thống với trí thức khoa học hiện đại:
Trong đó các kiến thức được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn và kỹ xảo, kỹ năng
thực hành nhiệm vụ quốc phòng và an ninh được hết sức coi trọng. Đặc điểm này làm
cho quá trình dạy học môn Quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên ở các nhà
trường có những nét riêng khác với quá trình dạy học nói chung.
- Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học học sinh, sinh viên ở các nhà
trường rất đa dạng, phong phú, đỏi hỏi tải trọng cao về tinh thần và thể lực:
Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học học sinh, sinh viên thường gắn với
thực tiễn giáo dục quốc phòng và an ninh ở các nhà trường. Những phương pháp và
hình thức thực hành, thực tập, ngoại khóa có vai trò rất quan trọng và được sử dụng
thường xuyên. Quá trình dạy học không chỉ diễn ra trong trường, lớp, phòng thí
nghiệm mà chủ yếu trên thao trường, bãi tập, trên thực địa, trong những tình huống
gần sát với thực tiễn hoạt động quân sự.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản của quá trình dạy học môn giáo dục quốc
phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên ở các nhà trường. những đặc điểm đó chi
phối toàn bộ quá trình dạy học, làm cho quá trình dạy học mang tính dã ngoại quân sự
sâu sắc.

17


2.3. Các nguyên tắc dạy học học sinh, sinh viên
2.3.1. Khái niệm nguyên tắc dạy học học sinh, sinh viên
Nguyên tắc dạy học học sinh, sinh viên là những điểm sư phạm cơ bản, phản ánh

quy luật của quá trình dạy học, chỉ đạo toàn bộ hoạt động của người dạy và người học
trong quá trình dạy học, nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, yêu cầu giáo dục
đã xác định:
- Nguyên tắc dạy học là những luận điểm sư phạm cơ bản mang tính khái quát
cao. Đó là những luận điểm gốc, có tính tiên đề, được đúc rút từ thực tiễn và lý luận
dạy học, có giá trị định hướng cho toàn bộ quá trình dạy học. Nguyên tắc phản ánh
những quy luật cơ bản của quá trình dạy học.
- Vì vậy, mọi hoạt động dạy học cần phải xem các nguyên tắc dạy học là chỗ
dựa về mặt lý luận để tiến hành có hiệu quả mục đích, nhiệm vụ huấn luyện. Song
nguyên tắc dạy học không phải là những luận điểm bất biến, mà mang tính lịch sử sâu
sắc, luôn phản ánh sự phát triển sâu sắc của quá trình dạy học nói riêng và sự tiến bộ
của công nghệ khoa học giáo dục nói chung. Ph. Ăng-ghen đã viết: “Nguyên tắc không
phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và lịch sử loài người, mà là được rút ra từ trong
giới tự nhiên và lịch sử loài người; không phải là giới tự nhiên và loài người thích ứng
với nguyên tắc mà trái lại, nguyên tắc chỉ đúng nếu nó phù hợp với giới tự nhiên và
lịch sử”. Các nguyên tắc dạy học có vai trò chỉ đạo toàn bộ quá trình dạy học. Nghĩa là
chúng chỉ đạo việc lựa chọn, sử dụng các nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp và
các phương tiện dạy học, chỉ đạo các hoạt động dạy và hoạt động học, làm cho quá
trình dạy học đi đúng quỹ đạo và tính chất của quy luật nhận thức.
- Các nguyên tắc dạy học học sinh, sinh viên được xây dựng trên nền tảng
những tư tưởng cơ bản của các nhà kinh điển Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về giáo
dục. Đó là các luận điểm cơ bản về vai trò của giáo dục đối với sự phát triển về kinh tế
- xã hội, về các nhân tố tác động đến sự hình thành, về xây dựng quân đội cách mạng,
v.v.. Từ cơ sở xuất phát này, các nguyên tắc thể hiện rõ tính khoa học và tinh thần biện
chứng trong chỉ đạo các hoạt động dạy học. Mặt khác, các nguyên tắc dạy học được
xây dựng trên cơ sở phân tích sâu sắc bản chất, quy luật của quá trình dạy học học
sinh, sinh viên. Các nguyên tắc dạy học học sinh, sinh viên được xây dựng trên sự tổng
kết thực tiễn, kinh nghiệm dạy học của các nhà trường, kế thừa, chọn lọc từ lý luận và
thực tiễn dạy học quốc phòng và an ninh của các nước trên thế giới.
2.3.2. Hệ thống nguyên tắc dạy học học sinh, sinh viên

2.3.2.1. Nguyên tắc thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học trong dạy học học
sinh, sinh viên
- Đây là nguyên tắc cơ bản, hàng đầu trong hệ thống các nguyên tắc dạy học, có
vai trò chỉ đạo đối với các nguyên tắc khác và chỉ đạo toàn bộ quá trình dạy học học
sinh, sinh viên. Cơ sở để xác định nguyên tắc này là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính giai cấp của giáo
dục. Nguyên tắc này được xây dựng dựa trên sự phân tích sâu sắc quy luật về tính quy
định của chế độ kinh tế - xã hội đối với thực tiễn quá trình dạy học giáo dục quốc
phòng và an ninh ở các nhà trường. Nguyên tắc này phản ánh những kinh nghiệm thực
tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân của đất nước ta trong nhiều năm qua.
- Tư tưởng chính của nguyên tắc là dạy học phải có quan điểm giai cấp rõ ràng,
phải thể hiện tính đảng của giai cấp vô sản, tính chiến đấu và tính giáo dục sâu sắc,
đồng thời phải đảm bảo tính khách quan, khoa học. Nội dung của nguyên tắc phản ánh
xu hướng chính trị - tư tưởng của quá trình dạy học, thể hiện mối liên hệ có tính quy
luật của mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học với chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
18


Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, nguyên tắc
cũng chỉ rõ, trong quá trình dạy học phải đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa việc
dạy học phát triển trí tuệ với giáo dục đạo đức, lối sống cho các học sinh, sinh viên.
- Tính đảng là tính giai cấp, tính tư tưởng, tính chiến đấu trong quá trình dạy
học. Tính khoa học là tính khách quan, tính quy luật chặt chẽ của quá trình dạy học.
Thống nhất tính đảng và tính khoa học là giải quyết mâu thuẫn giữa chính trị và
chuyên môn, giữa giáo dục và dạy học.
- Để thực hiện nguyên tắc này trong quá trình dạy học cần tuân thủ các yêu cầu sau:
Việc truyền đạt, lĩnh hội các tri thức khoa học trong quá trình dạy học, phải dựa
trên cơ sở phương pháp luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ có dựa trên cơ sở nền tảng của phương pháp luận Mác xít, thì người dạy và người học mới có thể nghiên cứu, phân tích và nhận thức một
cách khoa học, đúng đắn, chính xác các nội dung tri thức khoa học trên tinh thần biện

chứng đồng thời mới có căn cứ cơ sở lý luận để đấu tranh với các quan điểm, những
nhận thức lệch lạc, xa lạ và trái với đường lối quan điểm của Đảng.
Trong quá trình trang bị các tri thức khoa học cho học sinh, sinh viên phải hướng
vào xây dựng, phát triển thế giới quan, niềm tin, lý tưởng và các phẩm chất nhân cách
cho họ phù hợp với chuẩn mực giá trị của xã hội và quân đội. Phải hướng toàn bộ hoạt
động dạy học và giáo dục, rèn luyện các phẩm chất nhân cách của người học sinh, sinh
viên. Yêu cầu này chính là thể hiện sự thống nhất giữa chức năng dạy học và chức
năng giáo dục trong quá trình dạy học. Đồng thời, với việc trang bị kiến thức, kỹ xảo,
kỹ năng hoạt động quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên, quá trình dạy học
phải hướng vào thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục.
Quá trình dạy học học sinh, sinh viên phải được tổ chức và tiến hành trên cơ sở
khoa học nghiêm túc và chặt chẽ. Mục tiêu dạy học phải chính xác, rõ ràng, cụ thể, sát
thực tiễn hoạt động quân sự, vừa nâng cao nhận thức, phát triển tư duy vừa hướng vào
hình thành quan điểm, niềm tin, thế giới quan, phương pháp luận và các phẩm chất
nhân cách cho học sinh, sinh viên. Chương trình, nội dung dạy học phải đảm bảo tính
chân thực khách quan, tính cơ bản, hệ thống, hiện đại và tính thực tiễn cao, phản ánh
kịp thời sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại trên thế
giới. Không cường điệu, bóp méo, không đơn giản hóa, tầm thường hóa các vấn đề
khoa học. Phương pháp dạy học phải phản ánh những thành tựu mới nhất của khoa học
giáo dục phải kết hợp được những kinh nghiệm truyền thống với các phương pháp dạy
học tiên tiến, phương tiện dạy học hiện đại. Hình thức tổ chức dạy học phải chặt chẽ,
nghiêm túc, khoa học, phù hợp với nội dung dạy học và mang tính đặc trưng của lĩnh
vực hoạt động quân sự.
Trong quá trình dạy học cần phải đề phòng các khuynh hướng tách rời tính đảng
với tính khoa học dưới mọi hình thức. Tuyệt đối hóa cái này hay cái kia, tạo ra mâu
thuẫn đối lập giữa tính đảng và tính khoa học đều không đúng tinh thần của nguyên
tắc. Quá trình dạy học hiện nay phải đề phòng quan điểm đổng nhất tính đảng với tính
khoa học, cào bằng, lẫn lộn tính đảng với tính khoa học. Hoặc gắn tính đảng với tính
khoa học, dạy học với giáo dục một các sống sượng, gò ép, “lên gân ”.
- Tóm lại, tính đảng và tính khoa học là hai mặt của quá trình dạy học. Hai mặt này

phải luôn luôn thống nhất với nhau, khi nói đến tính đảng đã hàm chứa trong đó tính khoa
học và khi nói đến tính khoa học đã hàm chứa trong đó tính đảng. Mọi khuynh hướng
quan điểm xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong quá trình dạy học đều dẫn đến nguy cơ mất phương hướng, diễn
biến hòa bình trong lĩnh vực dạy học- giáo dục học sinh, sinh viên.
19


2.3.2.2. Nguyên tắc thống nhất giữa dạy học và thực tiễn hoạt động quốc phòng và an
ninh của học sinh, sinh viên
- Nguyên tắc này có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt, nó giúp cho các học
sinh, sinh viên biết cách nắm vững những nội dung lý luận của môn học và vận dụng
các tri thức đó vào hoạt động thực tiễn quốc phòng và an ninh theo chức trách nhiệm
vụ được phân công, tránh được tình trạng lý thuyết suông hoặc thực tiễn mù quáng.
Giúp các học sinh, sinh viên thích ứng nhanh với thực tiễn hoạt động quân sự, phát
huy cao độ tích cực, độc lập sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ.
- Nguyên tắc này được xây dựng xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nguyên lý
giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam. V.I.Lênin đã viết: “quan điểm về đời sống, về
thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”. Nguyên tắc
phản ánh quy luật về tính quy định của thực tiễn xây dựng nền giáo dục quốc phòng
đối với quá trình dạy học học sinh, sinh viên. Nguyên tắc này phản ánh xu hướng thực
tiễn của quá trình dạy học học sinh, sinh viên, đảm bảo cho quá trình dạy học luôn sát
thực tiễn, gắn liền với thực tiễn, mang tính thực tiễn sâu sắc. Nguyên tắc thống nhất
giữa dạy học và thực tiễn hoạt động quốc phòng và an ninh của học sinh, sinh viên chỉ
rõ: việc truyền thụ và lĩnh hội các nội dung dạy học phải thống nhất với thực tiễn hoạt
động quân sự, phải bám sát và gắn chặt với thực tiễn xây dựng, bảo vệ đất nước. Đó là
sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, lý thuyết với thực hành, biết với làm. Lý luận
và thực tiễn là hai mặt của quá trình nhận thức, cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con
người. Quá trình dạy học học sinh, sinh viên nếu tách rời sự thống nhất giữa hai mặt
đó là vi phạm nguyên tắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “lý luận cốt để áp dụng vào

công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông”.
- Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa dạy học và thực tiễn hoạt động quốc
phòng và an ninh, cần nắm vững và thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Nội dung dạy học phù hợp với trình độ phát triển của thực tiễn, có tác dụng
hướng dẫn thực tiễn. Nội dung dạy học phải phản ánh được tình hình thực tế của đất
nước, của quân đội, của từng quân, binh chủng cụ thể, phải đáp ứng các yêu cầu của
nhiệm vụ quốc phòng và an ninh và hoạt động thực tiễn của các học sinh, sinh viên.
Nội dung dạy học phải phản ánh mối liên hệ hữu cơ giữa lý thuyết của các môn học
với thực tiễn xây dựng và bảo vệ đất nước. Lý thuyết và thực tiễn phải quyện chặt vào
nhau bổ sung cho nhau, thực tiễn không phải là đuôi của lý thuyết, lý thuyết phải trở
thành hiệu quả trong thực tiễn.
Quá trình dạy học phải vạch ra phương hướng ứng dụng các kiến thức lý thuyết
đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn theo chức trách và nghiệp vụ của người học.
Hình thức tổ chức và phương pháp dạy học học sinh, sinh viên phải sát với thực tiễn
hoạt động quốc phòng và an ninh mà học sinh, sinh viên sẽ tham gia. Các hình thức tổ
chức và cách thức dạy học phải giúp các học sinh, sinh viên được rèn luyện về tinh
thần, thể lực và tâm lý, tạo ra sự cân đối hài hòa giữa việc nắm vững nội dung lý
thuyết các môn học với rèn luyện các kĩ năng thực hành, thực tập. Tập dượt cho các
học sinh, sinh viên biết vận dụng lý thuyết để giải quyết các hình thức thực tiễn và
thực hành tay nghề theo chức trách, nhiệm vụ.
Quá trình dạy học học sinh, sinh viên phải thường xuyên thâm nhập thực tiễn,
đúc kết các kinh nghiệm thực tiễn bổ sung cho lý luận. Thông qua kinh nghiệm thực
tiễn, hoạt động quốc phòng và an ninh của các nhà trường mà rút ra những bài học bổ
sung cho lý luận, làm phong phú thêm nội dung dạy học. Mặt khác, phải tổ chức cho
các học sinh, sinh viên thâm nhập thực tiễn, tham gia các hoạt động thực tiễn, thông
20


qua hoạt động thực tiễn góp phần kiểm nghiệm các kiến thức lý thuyết đã lĩnh hội
được trong quá trình học tập.

Quá trình dạy học học sinh, sinh viên cần khắc phục lối dạy học giáo điều, sách
vở; tách rời lý thuyết với cuộc sống xã hội và thực tiễn hoạt động của đơn vị hoặc kinh
nghiệm chủ nghĩa, thực dụng, xem nhẹ lý thuyết, trong quá trình dạy học.
2.3.2.3. Nguyên tắc thống nhất giữa sự chỉ đạo của người dạy và tự chỉ đạo của người
học trong quá trình dạy học học sinh, sinh viên.
- Nguyên tắc này đề cao vai trò của cả người dạy và người học, đồng thời chỉ rõ
phương hướng phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, tự lực của người học trong quá trình
dạy học. Nguyên tắc này phản ánh bản chất và quy luật cơ bản của quá trình dạy học.
- Sự chỉ đạo của người dạy được thể hiện ở vai trò chủ thể tổ chức, điều khiển
hoạt động nhận thức của người học. Phải biết tạo ra những điều kiện sư phạm thuận lợi
để kích thích tính tự giác, tích cực ở người học. Vai trò chỉ đạo của người dạy có ý
nghĩa cực kì quan trọng đối với sự hình thành, phát triển tính tự giác, tích cực, độc lập
nhận thức của người học.
- Vai trò tự chỉ đạo của các học sinh, sinh viên với tư cách là người học được
thể hiện ở tính tự giác, tích cực, độc lập trong quá trình tự tổ chức các hoạt động học
tập của mình. Tính tích cực nhận thức của người học trong học tập đòi hỏi họ phát huy
hoạt động ở mức độ cao các chức năng tâm lý, đặc biệt là chức năng tư duy để chiếm
lĩnh tri thức. Tính tích cực nhận thức phát triển đến mức độ cao sẽ hình thành tính độc
lập nhận thức. Quá trình dạy học học sinh, sinh viên chỉ đạt hiệu quả cao trên cơ sở
thống nhất giữa sự chỉ đạo với được chỉ đạo và tự chỉ đạo. Sự thống nhất ấy được diễn
ra trong tất cả các khâu, các bước của quá trình dạy học.
- Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình dạy học học sinh, sinh viên cần nắm vững và
thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Đối với người dạy, thông qua việc tổ chức, điều khiển quá trình học tập của học
viên mà góp phần làm cho họ nhận thức sâu sắc mục đích, ý nghĩa và giá trị thực tiễn
của việc học tập. Chỉ đạo chặt chẽ các khâu, các bước, các hình thức tổ chức quá trình
học tập để tăng cường các đường liên hệ ngược trong quá trình dạy học. Không ngừng
cải tiến, đổi mới hệ thống phương pháp dạy học, tích cực vận dụng các phương pháp
tiên tiến, hiện đại, tăng cường các phương pháp thực hành, thực tập phù hợp với đặc
điểm hoạt động nhận thức của các học sinh, sinh viên.

Đối với người học, dưới sự chỉ đạo của người dạy phải tự quán triệt và nhận thức
sâu sắc mục đích, nhiệm vụ học tập, từ đó xác định đúng đắn động cơ và thái độ học
tập. Phát huy cao độ vai trò chủ thể trong quá trình học tập, tự giác biến các yêu cầu
đòi hỏi của xã hội, quân đội và của người dạy thành nhu cầu của chính bản thân mình,
tự đòi hỏi đặt ra yêu cầu cao với chính mình. Tự lực tìm tòi giải quyết các mâu thuẫn
nhận thức, tự tích lũy kiến thức bằng cách thức riêng, biến kiến thức nhân loại thành
vốn liếng, tài sản riêng của bản thân; biết tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh việc
học tập của bản thân. Cần khắc phục lối học gạo, học tủ, nhắc lại kiến thức sách vở
một cách giáo điều và khuynh hướng dạy theo kiểu “bày cỗ” hoặc nhồi nhét một chiều
các kiến thức, nặng tính chất thông báo tái hiện.
2.3.2.4. Nguyên tắc thống nhất giữa cái cụ thể và cái trừu tượng trong quá trình dạy
học của học sinh, sinh viên.
- Quá trình nhận thức của học sinh, sinh viên về cơ bản diễn ra theo quy luật
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và tư duy trừu tượng đến thực tiễn”.
Nội dung nguyên tắc về sự thống nhất giữa cái cụ thể và cái trừu tượng chỉ ra rằng,
21


quá trình dạy học phải đảm bảo mối liên hệ tương hỗ giữa tư duy cụ thể với tư duy
trừu tượng, giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính, trong quá trình đó sẽ diễn ra
sự di chuyển từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, từ dấu hiệu và biểu tượng đến khái niệm.
- Sự thống nhất giữa cái cụ thể với cái trừu tượng trong dạy học học sinh, sinh
viên có ý nghĩa rất lớn, nó đảm bảo cho các học sinh, sinh viên có điều kiện thuận lợi
để phát triển tư duy lý luận, lĩnh hội nhanh, vững chắc những lý thuyết trừu tượng,
khái quát và vận dụng linh hoạt, sáng tạo những lý thuyết đó trong thực tiễn hoạt động
quân sự.
- Quán triệt nguyên tắc này vào thực tiễn dạy học học sinh, sinh viên, cần nắm
vững và thực hiện tốt các yêu cầu sau: tiến trình dạy học cần tuân theo logic nhận thức, ở
mỗi giai đoạn nhận thức cần tìm điểm xuất phát từ sự quan sát cái đơn nhất (cái cụ thể trực quan) của những khái niệm khoa học, các nguyên lý. Sau đó xác định quá trình
chuyển từ cái đơn nhất đến cái chung, cái khái quát trừu tượng, hoặc ngược lại.

- Quá trình dạy học phải phối hợp sử dụng nhiều loại hình trực quan với tư cách
là phương tiện nhận thức, tạo điều kiện để chuyển từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, từ
dấu hiệu đến bản chất. Coi trọng đúng mức việc bồi dưỡng lý thuyết trừu tượng, khái
quát kết hợp với việc sử dụng hợp lý các phương tiện trực quan, giúp các học sinh,
sinh viên nắm vững khái niệm, nguyên lý, quy luật... mang tính trừu tượng, từ đó đi
đến cái cụ thể, biết vận dụng lý thuyết vào giải quyết các vấn đề cụ thể trong thực tiễn
hoạt động quân sự theo chức trách nhiệm vụ.
- Phải nhận rõ trực quan chỉ là phương tiện để đưa đến nhận thức đúng bản chất
sự vật, hiện tượng chứ không phải là mục đích nhận thức. Do đó, sử dụng các đồ dùng,
phương tiện trực quan phải đúng liều lượng, đúng lúc, đúng chỗ. Tuyệt đối không lạm
dụng nó, vì điều đó sẽ hạn chế sự phát triển tư duy của người học. Đồng thời, cũng
không lạm dụng lý thuyết trừu tượng, khái quát, mà phải thấy sự thống nhất giữa hai
mặt đó có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình nhận thức và sự phát triển trí tuệ của các
học sinh, sinh viên.
2.3.2.5. Nguyên tắc thống nhất giữa tính vững chắc của kiến thức và tính sáng tạo,
mềm dẻo của tư duy trong quá trình dạy học học sinh, sinh viên
- Nguyên tắc này chỉ ra phương hướng tổ chức dạy học học sinh, sinh viên ở
các nhà trường. Các kiến thức mà người học sinh, sinh viên lĩnh hội được trong quá
trình dạy học phải đảm bảo tính vững chắc và phải được họ vận dụng ứng biến linh
hoạt, sáng tạo trong các tình huống biến động đa dạng, phức tạp của thực tiễn hoạt
động quốc phòng và an ninh.
- Tính vững chắc của kiến thức trong tư duy của người học được thể hiện bằng
mức độ ghi nhớ chắc và bền, nhớ sâu sắc cả số và chất lượng kiến thức, khi cần có thể
tái hiện nhanh, chính xác và vận dụng tốt. Trong quá trình học tập của các học sinh,
sinh viên, những kiến thức tiếp thu trước sẽ trở thành nền tảng cho những kiến thức
tiếp thu sau và những kiến thức tiếp thu sau sẽ bổ sung hoàn thiện vốn kiến thức cũ
của họ. Trên cơ sở nắm vững hệ thống kiến thức của môn học, các học sinh, sinh viên
sẽ hình thành và nắm vững dần dần hệ thống những kĩ xảo, kĩ năng tương ứng.
- Quá trình nắm vững hệ thống kiến thức, kĩ xảo, kĩ năng các môn học có liên
quan mật thiết với hoạt động tư duy của các học sinh, sinh viên. Thông qua hoạt động

tư duy để lĩnh hội kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng và đồng thời quá trình đó lại làm cho
hoạt động tư duy của họ thêm linh hoạt mềm dẻo. Nhờ đó, các học sinh, sinh viên có
thể thích ứng cao trong quá trình lĩnh hội và vận dụng kiến thức không những trong
các tình huống quen thuộc, mà còn vào các tình huống mới của thực tiễn quân sự, nhất
là trong điều kiện chiến tranh hiện đại.
22


- Để kiến thức được bền vững và đạt tới sự linh hoạt, sáng tạo của tư duy, trong
dạy học cần tuân theo một số yêu cầu sau:
Các tài liệu học tập và nội dung các môn học, các khoa mục dạy học phải được
cấu trúc một cách logic, chặt chẽ theo bản chất của nó; mỗi tài liệu cần phải có kết
luận ngắn gọn, khối lượng nhỏ và phải là những kiến thức cốt lõi của bài học, môn
học. Người học phải biết lựa chọn ghi nhớ vững chắc những kiến thức cơ bản đó. Đây
chính là những luận điểm nguyên lý chủ yếu, những tư tưởng chủ đạo của môn học,
chứ không phải là những kiến thức thứ yếu, các chi tiết vụn vặt, tản mạn.
Trong quá trình dạy học, các vấn đề cơ bản của bài học, môn học cần phải được
giới thiệu và được củng cố thường xuyên, đào sâu bằng nhiều hình thức, phương pháp
khác nhau để các học sinh, sinh viên có thể ghi nhớ và vận dụng thành thạo chúng.
Các bài tập, thực hành, luyện tập phải có nội dung rõ ràng, có tác dụng mở rộng
kiến thức, phát triển tư duy và rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng cho người học.
Quá trình dạy học cần quan tâm rèn luyện trí tuệ cho các học sinh, sinh viên,
bằng cách tăng dần tính khó khăn phức tập trong học tập, tổ chức những hoạt động học
tập độc lập giúp họ vận dụng kiến thức lý thyết vào thực tiễn.
2.3.2.6. Nguyên tắc thống nhất giữa yêu cầu cao với khả năng lĩnh hội của người học
trong quá trình dạy học học sinh, sinh viên
- Đây là nguyên tắc đảm bảo “tính vừa sức” trong dạy học. Thống nhất giữa yêu
cầu cao với khả năng lĩnh hội có hạn của người học trong quá trình dạy học là phải
thường xuyên tạo ra trạng thái khó khăn trong việc lĩnh hội kiến thức, làm cho các học
sinh, sinh viên đạt kết quả học tập bằng sự nỗ lực, chủ động sáng tạo của chính mình.

Nguyên tắc này đỏi hỏi khi giảng dạy các môn học cần phải lựa chọn nội dung, phối
hợp sử dụng các hình thức, phương pháp sao cho phù hợp với trình độ phát triển chung
của người học, đảm bảo cho mọi học sinh, sinh viên đều có thể phát triển ở tốc độ tối
đa so với khả năng của mình.
- Thực tiễn dạy học học sinh, sinh viên ở các nhà trường đã chứng tỏ rằng,
việc đặt ra những yêu cầu cao, tạo ra các trạng thái khó khăn trong học tập sẽ giúp
cho người học phát triển mạnh mẽ năng lực và phẩm chất trí tuệ, họ sẽ hứng thú học
tập hơn, có động cơ và thái độ học tập đúng đắn hơn, có niềm tin vào năng lực của
bản thân. Ngược lại, nếu dạy học ở mức độ dễ dãi sẽ dẫn đến thái độ lơ là, coi
thường việc học tập. Song cũng không thể đặt ra những yêu cầu học tập vượt quá
giới hạn trí tuệ và thể lực của người học, sẽ dẫn đến tình trạng “quá tải” kìm hãm sự
phát triển của người học.
- Để đảm bảo sự thống nhất giữa yêu cầu cao với khả năng lĩnh hội của người
học, cần nắm vững và thực hiện tốt các yêu cầu sau: Khi tiến hành dạy học học sinh,
sinh viên, cán bộ dạy học cần nắm vững đặc điểm đối tượng người học, nhất là năng
lực nhận thức, kinh nghiệm thực tiễn hoạt động quốc phòng và an ninh, động cơ, hứng
thú của họ.
- Trong quá trình dạy học học sinh, sinh viên, cán bộ phải dẫn dắt các học sinh,
sinh viên hoạt động nhận thức từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ nắm kiến
thức đến rèn luyện kỹ năng, từ vận dụng kiến thức trong các tình huống quen thuộc
đến vận dụng kiến thức trong những tình huống mới lạ, khó khăn phức tạp hơn.
- Thường xuyên theo dõi tình hình lĩnh hội kiến thức của các học sinh, sinh
viên, kịp thời điều chỉnh hoạt động học và hoạt động dạy, gắn chặt việc đặt ra những
yêu cầu cao trong học tập với những biện pháp, giúp các học sinh, sinh viên vượt qua
khó khăn hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
23


×