Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Bài giảng Bài giảng: Giáo dục học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.32 KB, 72 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
_____________
NGUYỄN ĐỨC THANH
BÀI GIẢNG:
GIÁO DỤC HỌC


PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC
Chương I
GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1.1. Đối tượng – Nhiệm vụ – Phương pháp nghiên cứu GDH
1.1.1. Đối tượng của giáo dục học
Đối tượng nghiên cứa của giáo dục học là một quá trình sư phạm toàn vẹn hay là quá trình giáo dục
tổng thể, cụ thể: nghiên cứu bản chất và các quy luật của quá trình giáo dục con người và trên cơ sở
đó thiết kế mục tiêu, nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức quá trình đó nhằm đạt tới kết
quả tối ưu trong những điều kiện xã hội nhất định. Quá trình giáo dục giáo dục chính là: quá trình
toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, thông qua các
hoạt động và quan hệ giữa người với người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và
chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Quá trình giáo dục tổng thể này bao gồm nhiều quá trình bộ phận hợp thành như quá trình giáo dục
(hẹp), dạy học, giáo dưỡng…
1.1.2. Nhiệm vụ: ( HD SV tự học)
Giáo dục học là một khoa học cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Giải thích nguồn gốc phát sinh, phát triển và bản chất của hiện tượng giáo dục, phân biệt, các mối
quan hệ có tính quy luật và tính ngẫu nhiên. Tìm ra các quy luật có chi phối quá trình giáo dục để tổ
chức chúng đạt hiệu quả tối ưu.
- GDH nghiên cứu, dự báo tương lai gần và tương lai xa của GD, nghiên cứu xu thế phát triển và
mục tiêu chiến lược của giáo dục trong mỗi giai đoạn phát triển của XH để xây dựng chương trình
giáo dục và đào tạo.
- Nghiên cứu xây dựng lý thuyết GD mới, hoàn thiện các mô hình giáo dục, dạy học, phân tích kinh
nghiệm giáo dục, tìm ra con đường ngắn nhất và các phương tiện để áp dụng chúng vào thực tiễn


giáo dục.
- Trên cơ sở các thành tựu của khoa học và công nghệ, GDH còn nghiên cứu tìm tòi các phương
pháp và phương tiện GD mới nhằm nâng cao hiệu quả GD.
- Ngoài ra còn một số nhiệm vụ khác như: kích thích tính tích cực học tập của học sinh, nguyên nhân
của việc kém nhận thức, các yếu tố lựa chọn nghề nghiệp của học sinh, tiêu chuẩn giáo viên..v..v.)
1.1.3. Phương pháp
1.1.3.1.. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục.
* Khái niệm về PPNC KHGD
- Phương pháp nghiên cứu khoa học là những con đường, cách thức để giải quyết các nhiệm vụ
nghiên cứu, đồng thời được coi là công cụ để nhận thức khoa học.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học là tổ hợp các thao tác, biện pháp thực tiễn hoặc lý thuyết mà
nhà khoa học sử dụng để nhận thức, khám phá đối tượng tạo ra những kiến thức về đối tượng.
* Mục đích: Nhận thức và cải tạo thế giới
* Chức năng:
- Mô tả: thực trạng các sự vật hiện tượng
- Giải thích: nguồn gốc phát sinh, phát triển, hủy diệt của svht, nguyên nhân, cấu trúc, so sánh, mâu
thuẩn…
- Dự báo: đưa ra tiên đoán, dự kiến về một sự vật, hiện tượng trong tương lai.
- Giải pháp: đưa ra các giải pháp phù hợp.
1.1.3.2. Các giai đoạn cơ bản của một quá trình nghiên cứu.
* Giai đoạn chuẩn bị:
- Xác định tên đề tài
- Xây dựng đề cương nghiên cứu
- Lựa chọn các phương pháp nghiên cứu.
- Chuẩn bị những cơ sở vật chất và kỹ thuật cho quá trình nghiên cứu
* Giai đoạn thực hiện công trình
- Thu thập số liệu thông qua nghiên cứu lý luận
- Điều tra khảo sát thực tiễn
- Xử lý thông tin
- Tổ chức thực nghiệm khoa học ( nếu có)

- Viết công trình nghiên cứu
+ Lời mở đầu
+ Nội dung
+ Kết luận
+ Danh mục tài liệu tham khảo
+ Phụ lục.
* Giai đoạn nghiệm thu bảo vệ công trình
- Viết tóm tắt công trình
- Trình bày kết quả nghiên cứu trước hội đồng.
1.1.3.3. Các phương pháp nghiên cứu khoa học Giáo dục
Quan sát sư phạm, Thực nghiệm khoa học, Tổng kết kinh nghiệm, Trò chuyện, phỏng vấn, Nghiên
cứu sản phẩm hoạt động của đối tượng, Điều tra, trắc nghiệm.
Sau đây chúng ta nghiên cứu sơ lược một số phương pháp nêu trên.
1.1.3.3.1- Phương pháp quan sát.
* Quan sát là phương pháp tri giác có mục đích các hiện tượng sư phạm hoặc quá trình giáo dục để
thu lượm số liệu, sự kiện cụ thể đặc trưng cho quá trình diễn biến của hiện tượng đó.
* Dựa vào quan hệ giữa người quan sát và đối tượng quan sát mà có các loại quan sát sau: Quan sát
trực tiếp, Quan sát gián tiếp, Quan sát tự nhiên, Quan sát kín đáo.
* Dựa vào thời gian và không gian, có các loại sau: Quan sát liên tục, Quan sát gián đoạn, Quan sát
theo đề tài tổng hợp, Quan sát theo chuyên đề.
* Khi quan sát thì cần chú ý các yêu cầu sau :
- Có mục đích rõ ràng khi tiến hành quan sát.
- Khéo léo, kín đáo.
- Thu thập tài liệu phải trung thục, chính xác.
- Kết hợp các phương tiện kỹ thuật khi quan sát ....
1.1.3.3.2. Phương pháp trò chuyện.
* Trò chuyện là phương pháp dùng lời để tìm hiểu, khai thác đối tượng nghiên cứu.
Phỏng vấn cũng là một kiểu trò chuyện, song có sự định hướng trong trao đổi ý kiến, nhà nghiên
cứu đặt câu hỏi, đối tượng trả lời.
* Khi sử dụng phương pháp này cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Nắm được đặc điểm tâm lý đối tượng.
- Xắc định mục đích buổi trò chuyện.
- Trước khi trò chuyện cần tạo ra không khí vui vẻ cởi mở..
1.1.3.3.3 . Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
* Tổng kết kinh nghiệm giáo dục là phương pháp đem lý luận phân tích thực tiễn giáo dục, rồi từ
phân tích thực tiễn giáo dục mà rút ra lý luận giáo dục mới.
* Kinh nghiệm giáo dục có thể là :
- Kinh nghiệm giảng dạy.
- Kinh nghiệm giáo dục
- Kinh nghiệm tổ chức sinh hoạt tập thể.
- Kinh nghiệm tổ chức lao động sản xuất.
- Kịnh nghiệm quản lý nhà trường...
* Tổng kết kinh nghiệm thường trải qua các bước sau:
- Xác định đối tượng : Đối tượng tổng kết kinh nghiệm giáo dục là những kinh nghiệm thành công,
những công việc đã đạt kết quả tốt.
- Dựng lại quá trình phát triển của đối tượng được tổng kết theo trình tự lôgic lịch sử.
Trong bước này cần nêu rõ:
+ Hoàn cảnh nảy sinh kinh nghiệm và thực trạng chất lượng ban đầu.
+ Yêu cầu khách quan về những động lực thúc đẩy sự phát triển.
+ Những chuyển biến căn bản của đối tượng, những biện pháp tạo ra những chuyển biến đó.
+ Tình trạng thực tế hiện nay của đối tượng.
- Xử lý và rút ra kết luận .
Khám phá mối liên hệ giữa các biện pháp và hiệu quả giáo dục của nó. Đây là cơ sở để rút ra lý luận
khái quát.
- Kiểm nghiệm lý luận trong thực tiễn.
1.1.33.4 .Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động : Là phương pháp khai thác đối tượng
một cách gián tiếp thông qua các sản phẩm do chính họ tạo ra.
Phương pháp này giúp ta thu thập được những số liệu và dữ kiện phản ánh nhiều mặt và khá sâu về
đối tượng nghên cứu.
Sản phẩm hoạt động có thể là : Hồ sơ sổ sách, Bài làm, Sản phẩm lao động, Giáo án, Các đồ dùng

dạy học, Sổ chủ nhiệm, Nhật ký ...
1.1.3.3.5. Phương pháp đọc sách và tài liệu.
Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các khâu của quá trình nghiên cứu đối tượng.
Đối với đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục, người ta thường sử dụng các tài liệu sau:
- Tác phẩm của Mác - Ăng ghen - Lê nin.
- Tác phẩm của Hồ Chí Minh.
- Tác phẩm của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
- Văn kiện đại hội Đảng và Nhà nước.
- Sách báo, tạp chí có liên quan.
1.1.3.3.6. Phương pháp thực nghiệm.
Thực nghiệm là phương pháp chủ động gây ra hiện tượng nghiên cứu trong điều kiện khống chế
nhằm xác định mối quan hệ giữa từng nhân tố với hiện tượng.
Có hai loại thực nghiệm:
- Thực nghiệm tự nhiên : Được tiến hành trong điều kiện nhân tố thực nghiệm, được lồng vào hoạt
động bình thường của đối tượng.
- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm : Được tiến hành qua những tác động có tính chất sư phạm
rõ rệt.
1.1.3..4. Đánh giá một công trình nghiên cứu khoa học giáo dục.
Đánh giá công trình nghiên cứu khoa học giáo dục sự so sánh thực trạng của đối tượng đánh giá với
chuẩn được quy định.
* Để đánh giá chính xác, công tác đánh giá cần thỏa mãn các yêu cầu:
- Có chuẩn rõ ràng
- Hiểu chuẩn và vận dụng được chuẩn vào điều kiện cụ thể
- Cán bộ đánh giá trong sạch, đảm bảo tính khách quan khi đánh giá.
- Việc kiểm tra công tác đánh giá phải được tổ chức chặt chẽ và khoa học.
* Nội dung đánh giá một công trình khoa học bao gồm:
- Tính cấp thiết của đề tài
- Tính sáng tạo, đóng góp của đề tài
- Tính chính xác, độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu
- Khả năng vận dụng và phát triển của vấn đề.

- Hiệu quả kinh tế xã hội.
1.2. Những khái niệm (phạm trù) cơ bản của giáo dục học
1.2.1. Giáo dục ( theo nghĩa rộng )
Quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, thông
qua các hoạt động và quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và
chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
1.2.2. Giáo dục ( theo nghĩa hẹp )
Là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể (QTSP; QTGDTT)- là quá trình hình thành niềm tin,
lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn
trong xã hội, thuộc các lĩnh vực đạo đức, lao động, tư tưởng chính trị, thẩm mỹ, vệ sinh…
Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa hẹp) là hình thành phẩm chất đạo đức của con người.
1.2.3. Giáo dưỡng
Người ta cho rằng, giáo dưỡng là quá trình con người tiếp thu một cách có hệ thống tri thức nhất
định để nâng cao trình độ học vấn cho bản thân. Con đường nâng cao học vấn chủ yếu là học tập,
trong đó tự học, tự bồi dưỡng giữ vai trò chủ yếu.
Theo UNESCO thì giáo dưỡng chủ yếu nói về quá trình chăm sóc, giáo dục nhưng nhấn mạnh hơn
về sự nuôi nấng, giáo dục cả về thể chất lẫn tinh thần, tạo cho con người phát triển cân đối, hài hòa.
1.2.4. Dạy học.
Dạy học là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, là quá trình tác động giữa giáo viên và học
sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người ( kiến thức, kn, kx…)
để phát triển những năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích giáo dục.
Như vậy thế mạnh của dạy học là nhằm hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng kỹ xảo chung và
riêng làm cơ sở cho việc hình thành năng lực chung, năng lực chuyên biệt.
Ngoài ra, trong giáo dục học chúng ta còn đề cập đến vấn đề:
- Giáo dục lại: là hoạt động có hệ thống nhằm làm lại, sửa lại nhân cách đã hình thành sai lầm do
giáo dục sai hoặc do môi trường ảnh hưởng tới.
- Tự giáo dục: là hoạt động điều chỉnh bản thân một cách có hệ thống và tự giác nhằm trau dồi,
hoàn thiện mặt tốt và khắc phục cái xấu của mỗi con người.
1.2.5. Công nghệ giáo dục:
Công nghệ giáo dục (hẹp) là việc sử dụng vào việc dạy học và giáo dục các phát minh, các sản phẩm

của công nghệ thông tin và các phương tiện kỹ thuật dạy học.
Công nghệ giáo dục (rộng): theo Unesco thì đây là một tập hợp gắn bó chặt chẽ những phương pháp,
phương tiện kĩ thuật học tập và đánh giá được nhận thức và sử dụng tùy theo những mục tiêu đang
đeo đuổi, có liên hệ với nội dung giảng dạy và lợi ích của người học.
1.3. Giáo dục học là một hiện tượng xã hội đặc biệt
1.3.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội
- Từ khi xã hội loài người xuất hiện, các thế hệ luôn gắn bó với nhau trong nhiều lĩnh vực hoạt
động: lao động, giao lưu, chính trị, văn hóa, khoa học, kĩ thuật…Trong đó, giáo dục là hiện tượng
nảy sinh, tồn tại và phát triển mãi với xã hội loài người. Hiện tượng này biểu hiện ở chỗ, thế hệ
trước truyền lại những kinh nghiệm xã hội cho thế hệ sau nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển mọi mặt
của đời sống xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, thế hệ sau lĩnh hội có chọn lọc những kinh nghiệm
xã hội đó để tham gia vào mọi hoạt động xã hội, qua đó nhân cách được hình thành và phát triển.
Kinh nghiệm xã hội bao gồm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, niềm tin, thái độ…của con người trong hoạt
động.
- Giáo dục là hoạt động có mục đích, có tổ chức, có ý thức và phát triển cao chĩ riêng biệt có
trong xã hội loài người, nhờ đó giúp cho con người , nhờ đó giúp cho con người trở thành chủ thể
nhận thức, cải tạo, sáng tạo cả thế giới, đồng thời nhận thức, cải tạo và sáng tạo chính bản thân
mình.
- Giáo dục chỉ có ở xã hội loài người.
- Giáo dục nảy sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự phát sinh, tồn tại và phát triển của xã hội loài
người.
- Giáo dục là một hiện tượng vĩnh hằng, giáo dục chỉ biến mất khi con người không còn.
1.3.2. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục
1.3.2.1. Tính lịch sử
Giáo dục chịu sự quy định của lịch sử - xã hội, mỗi một giai đoạn lịch sử có nền giáo dục riêng,
mỗi một xã hội có nền giáo dục riêng. Chẳng hạn: trong giai đoạn cộng sản nguyên thủy, giáo dục
chủ yếu là sự truyền thụ kinh nghiệm hoạt động săn bắt, hái lượm từ thế hệ trước cho thế hệ sau.
Trong xã hội phong kiến, do sự quan niệm phụ nữ là kẻ tiểu nhân (nho giáo), chính vì lẽ đó phụ nữ,
con nhà nghèo khổ ( cũng được xem là kẻ tiểu nhân) đều không được đến trường. Điều này hoàn
toàn trái ngược với quan niệm của chúng ta ngày nay, giáo dục cho tất cả mọi người, và ai cũng có

quyền được học hành, mọi người đều có quyền bình đẳng như nhau trong giáo dục.
1.3.2.2. Tính giai cấp
Giáo dục là một thiết chế xã hội, nó chịu sự điều phối của nhà nước, điều phối của giai cấp thống trị.
Mỗi một giai đoạn lịch sử, giáo dục đều nhằm phục vụ cho giai cấp thống trị. Do đó giáo dục mang
tính giai cấp. Chẳng hạn: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giáo dục chỉ phục vụ cho giai cấp chủ nô,
con em chủ nô, tầng lớp trên mới được đi học, nô lệ không được học, không được xem là công dân.
Mục đích giáo dục là đào tạo những con người phục vụ cho giai cấp chủ nô. Từ đó sinh ra nội dung
giáo dục cũng thế: dạy cho con em chủ nô cách cai quản nô lệ, cách bóc lột, luật pháp nhà nước, dạy
cách bắn cung, đàn áp nô lệ, cưỡi ngựa, bơi lội…còn trong xã hội phong kiến cũng vậy, chỉ có con
em tầng lớp phong kiến mới được đi học, còn em tầng lớp nông dân… không được đi học. Mục
đích giáo dục là đào tạo con em họ trở thành những “kỵ sĩ”, người “phong nhã”, nội dung giáo dục
là: 7 tuổi sống với gia đình, 7 – 14 tuổi sống trong cung điện một lãnh chúa, làm thị đồng học phong
thái của của lối sống thượng lưu. Từ 14 – 21 tuổi làm tong sĩ học tập cách giao tiếp, đối nhân xử thế,
học các môn cưỡi ngựa, bơi lội, ném lao, đánh kiếm, săn bắn, đánh cờ, làm thơ. 21 tuổi được thi sát
hạch về quân sự và các vấn đề: đạo đức, nguyên tắc cơ bản về hôn nhân – gia đình, chiến tranh, tôn
giáo, ..được trao chức kỵ sĩ ở trong buổi lễ quan trọng. Trong xã hội XHCN chúng ta, nền giáo dục
mang tính giai cấp công nhân, quyền lợi của các giai cấp khác đều thống nhất với quyền lợi của giai
cấp công nhân.
Như vậy, giáo dục luôn luôn chịu sự quy định của xã hội, giáo dục không thể vượt ra khỏi sự quy
định của xã hội, xã hội là vòng kim cô của giáo dục.
1.3.3. Chức năng xã hội của giáo dục
1.3.3.1. Chức năng kinh tế - sản xuất.
- Đây là chức năng quan trọng nhất mà xã hội đặt ra cho giáo dục, giáo dục không thể trực tiếp thực
hiện chức năng này mà phải thông qua con người, thông qua hệ thống nguồn nhân lực mà giáo dục
tạo nên. Qua giáo dục sẽ cung cấp cho xã hội đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành
nghề, có trình độ cao, thông minh hơn, khéo léo, làm việc hiệu quả hơn, và đào tạo được đội ngũ lao
động trong các lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau.
- Để thực hiện chức năng này yêu cầu:
+ Giáo dục phải gắn bó với sự phát triển kinh tế - xã hội.
+ Xây dựng một hệ thống ngành nghề đào tạo cân đối, đa dạng phù hợp với sự phát triển kinh tế -

sản xuất đất nước.
+ Đào tạo các loại hình cán bộ đa dạng, tránh thừa thầy thiếu thợ.
+ Có trình độ chuyên môn – kỹ thuật, có phẩm chất cao, thỏa mãn yêu cầu thời đại.
1.3.3.2. Chức năng chính trị - xã hội.
- Giáo dục nhằm phục vụ cho nền chính trị - xã hội của một quốc gia. Thông qua quá trình giáo dục
này để hình thành cho học sinh những đường lối chính trị mà đất nước đã lựa chọn. Để thực hiện
chức năng này, chúng ta cần quan tâm đến những vấn đề sau:
+ Giáo dục cho các thế hệ con người Việt Nam phấn đấu vì một nước đất nước: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Thực hiện tốt mục đích giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, phát triển nhân tài, tạo ra sự
bình đẳng trong tầng lớp dân cư.
+ Đào tạo đội ngũ cán bộ do dân, vì dân để phục vụ.
1.3.3.3. Chức năng văn hóa – tư tưởng.
+ Giáo dục có tác dụng to lớn trong vấn đề hình thành và phát triển ở thế hệ trẻ bản sắc văn hóa
truyền thống của dân tộc như: tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, hiếu học, cần kiệm…
+ Góp phần hình thành hệ thống giá trị xã hội, xây dựng lối sống, đạo đức, thế giới quan, ý thức hệ
và chuẩn mực xã hội.
Tóm lại, để thực hiện chức năng của mình đối với xã hội, giáo dục không thực hiện trực tiếp mà
chủ yếu thông qua con người do hệ thống giáo dục quốc dân đào tạo ra.
Thông qua con người tác động đến toàn xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Vì vậy
giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, là chìa khóa mở cửa tiến vào tương lai.
1.3.4. Vị trí xã hội của giáo dục
Từ xa xưa, cha ông ta đã xem vai trò, vị trí của giáo dục luôn được đưa lên hàng đầu:
“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”
Hay
“Không thầy đố mày làm nên”,
“ Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”…
Ngày nay vai trò đó của giáo dục cũng luôn luôn được gìn giữ và phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta luôn luôn xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “đầu tư

cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”, “giáo dục là chìa khóa mở cửa tiến vào tương lai”…Từ
việc xác định vị trí của giáo dục trong xã hội như vậy cho thấy giáo dục đóng vai trò quan trọng
trong xã hội, là yếu tố quan trong quyết định sự tồn tại, phát triển của một đất nước, một quốc gia.
Chính vì xác định vị trí đó của giáo dục mà Đảng và nhà nước ta luôn luôn quan tâm và đầu tư
cho giáo dục, tỷ lệ % ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng cao hàng năm. Thực tế cho thấy
những quốc gia, đất nước nào đầu tư cho giáo dục nhiều thì quốc gia đó có sự phát triển về kinh tế,
xã hội.
Trong xã hội hiện nay vị trí vai trò của giáo dục càng được coi trong. Khi loài người đang còn
tồn tại thì giáo dục luôn là yếu tố để thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người, vị trí của giáo dục
luôn luôn được xem trọng và mãi mãi chiếm vị trí hàng đầu trong xã hội.Như vậy: Giáo dục luôn
luôn chịu sự chế ước của xã hội, và ngược lại giáo dục cũng luôn là yếu tố thúc đẩy sự phát triển
của xã hội, đóng vị trí quan trọng trong xã hội.
1.4. Cấu trúc của Giáo dục học
- Lịch sử giáo dục học : Muốn phát triển đúng hướng, giáo dục học luôn phải vận dụng “nguyên tắc
lịch sử trong nội dung và phương pháp nghiên cứu”. Như vậy, lịch sử giáo dục học có vai trò quan
trọng trong hệ thống các khoa học giáo dục trước hết đối với giáo dục học. Nhờ quán triệt quan
điểm đối với các hiện tượng giáo dục (của các thời đại khác nhau) nhà nghiên cứu sẽ phát hiện đúng
đắn bản chất xã hội của giáo dục ở từng thời đại và hiểu được tiến trình phát triển và đổi mới liên
tục của giáo dục.
Lịch sử giáo dục cung cấp cho giáo dục học các tư tưởng giáo dục tiên tiến, kiệt xuất, dựa trên sự kế
thừa có chọn lọc có phê phán các thành tựu và lí luận giáo dục có giá trị trong nước và trên thế giới,
giúp cho giáo dục học luôn phát triển, luôn đổi mới, bắt kịp xu thế của thời đại.
- Giáo dục học nằm trong hệ thống của khoa học giáo dục nhưng bản thân nó cũng bao gồm nhiều
phân môn khác nhau như: giáo dục học vườn trẻ, mẫu giáo, giáo dục học cho lứa tuổi đi học.
Trong thực tế giáo dục học còn được nghiên cứu và giảng dạy ở từng ngành chuyên môn – nghề
nghiệp (giáo dục học y học, giáo dục học quân sự, giáo dục học kĩ thuật…). Tuy đối tượng phục vụ
có khác nhau, nhưng các phân môn giáo dục học kể trên đều có cơ sở chung là lí luận giáo dục học
đại cương, từ những kiến thức và kĩ năng này mà vận dụng, đáp ứng cho việc giáo dục ở những lĩnh
vực khác nhau.
- Ngành giáo dục học chuyên biệt (đặc biệt) cũng là một bộ phận của giáo dục học có nhiệm vụ

chuyên nghiên cứu những vấn đề dạy học và giáo dục những trẻ có tật nguyền về thị giác, thính giác
hoặc chậm phát triển về ngôn ngữ, trí tuệ.
- Đối với thực tiễn hoạt động ở nhà trường các bộ môn phương pháp dạy học bộ môn có vai trò
quan trọng như : Bộ môn phương pháp dạy học toán, văn, sử, địa, sinh, kĩ thuật, v.v..còn gọi là “lí
luận dạy học bộ môn"
1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục học với các khoa học khác
Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Giáo dục học là một khoa học xã hội, nó có liên quan mật thiết
với các khoa học, trước hết là với các khoa học xã hội.
Giáo dục học có liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa học như đạo đức học, mỹ học, kinh tế
học, văn học…
1.5.1. Triết học Mác - Lê nin : Triết học Mác - Lê nin là nền tảng khoa học cho sự phát triển của
khoa học giáo dục.
Đồng thời có một số vấn đề mà cả hai ngành khoa học này cùng quan tâm nghiên cứu. Đó là các
vấn đề :
- Sự hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa và mục đích giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Mối liên hệ giữa quá trình giáo dục với các quá trình xã hội khác.
- Mối liên hệ giữa tập thể và cá nhân ...
1.5.2. Với đạo đức học.
Đạo đức học giúp cho giáo dục học giải quyết những vấn đề về công tác giáo dục đạo đức, thế giới
quan, tư tưởng chính trị cho học sinh.
1.5.3. Với sinh lý học.
Sinh lý học là cơ sở khoa học tự nhiên của giáo dục học. Việc nghiên cứu giáo dục học phải dựa vào
những thành tựu của sinh lý học đặc biệt là sinh lý học thần kinh cấp cao, về hoạt động của hai hệ
thống tín hiệu, về sự phát triển và vận hành của các giác quan và hoạt động của chúng ...
1.5.4. Với tâm lý học.
Tâm lý học cung cấp cho giáo dục học những tri thức khoa học về các cơ chế diễn biến và điều kiện
tổ chức các quá trình bên trong của sự hình thành nhân cách con người theo lứa tuổi trong từng hoạt
động, làm cơ sở đáng tin cậy cho việc tổ chức quá trình sư phạm.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều ngành khoa học khác như điều khiển học, tin học đang thâm nhập
và được ứng dụng trong nghiên cứu về lí luận và thực tiễn giáo dục, tạo ra những cách thức tổ chức

mới, phương pháp và phương tiện mới trong lĩnh vực giáo dục và dạy học.

Thực hành xu thế phát triển của giáo dục Việt Nam hiện nay ( đọc thêm)
Trong quá trình đổi mới hiện nay, đất nước ta có những biến chuyển sâu rộng, tích cực trên nhiều
lĩnh vực, trong đó có khoa học giáo dục. Để đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn, hướng phát
triển của khoa học giáo dục là “đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, nghiên
cứu những vấn đề khoa học giáo dục phục vụ cho mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục”. Từ định
hướng này có các vấn đề cần được tập trung nghiên cứu trong khoa học giáo dục :
1. Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề trong phạm trù phương pháp luận khoa học giáo dục, đảm
bảo tiếp cận với xu thế phát triển mới mẻ, đa dạng của giáo dục và khoa học giáo dục trong thời kì
mới.
2. Về việc thay đổi cách nhìn nhận, xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học giáo dục nói chung
và giáo dục học nói riêng.
3. Trong nội dung của giáo dục học, nhiều lĩnh vực mới hình thành và nhiều phạm trù vốn có đang
trở nên quá đơn giản, không bao hàm đầy đủ các nội dung khoa học mới, thành tựu lí luận mới.
4. Trong giai đoạn giao lưu quốc tế mở rộng và phát triển như hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học kĩ thuật, nhiều thành tựu khoa học kĩ thuật được áp dụng vào các công trình nghiên
cứu khoa học xã hội nói chung và giáo dục học nói riêng. Do đó nhiều phương tiện kĩ thật mới,
phương pháp nghiên cứu cũng được dùng trong nghiên cứu giáo dục học. Điều này đòi hỏi chúng ta
phải tự rút kinh nghiệm, cải tiến bổ sung và hoàn thiện các phương pháp nghiên cứu giáo dục…
5. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn nổi bật cần được nghiên cứu :
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về vai trò, vị trí, tác dụng của giáo dục trong giai đoạn mới,
trong đó xác định mối tương quan biện chứng giữa giáo dục với phát triển kinh te á– xã hội.
- Vấn đề phương thức tổ chức giáo dục.
- Vấn đề giáo dục nhân cách của con người, mối liên quan giữa những chuẩn mực – giá trị đang
hình thành trong điều kiện kinh tế thị trường với những khuôn mẫu mà nhà trường đang giáo dục
cho học sinh.
- Việc kết hợp giữa giáo dục văn hóa với giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề…
Giáo dục phát triển theo xu hướng trên sẽ đảm bảo được sự thích ứng với các yêu cầu phát triển,
đảm bảo các tính chất nhân văn, dân tộc, đại chúng, thiết thực.

Chương II: Giáo dục và sự phát triển
nhân cách
1. Khái niệm về sự phát triển nhân cách

Khái niệm về con người:
- Theo Từ điển Tiếng Việt, con người được hiểu :
+ Là động vật tiến hóa nhất
+ Có khả năng nói, tư duy, sáng tạo
+ Sử dụng công cụ trong quá trình lao động sáng tạo.
Trong Luận cương về Phơ bách, K. Mác đã khẳng định về bản chất con nguời : “bản chất con
người không phải là cái trừu tượng, vốn có của mỗi cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”.
Qua sự khẳng định của của Mác, chúng ta thấy có ba điều cần lưu ý :
+ Con người tồn tại trong rầt nhiều mối quan hệ xà hội mà ngời đó tham gia.
+ Bản chất con ngưòi không phải là cái trưù tượng, vốn có của mỗi cá nhân. Bản chất con người
bao giờ cũng được thể hiện trong cuộc sống, trong lao động, nói một cách khác là trong hoạt
động thực tiển.
+ Nhấn mạnh tính xã hội trong con người không có nghĩa là phủ nhận phần thể xác, phần tự
nhiên của con người.
Trong một con người, bao giờ cũng bao gồm hai bộ phận : Phần tự nhiên và phần xã hội.
Chính K. Mác đã chỉ ra : ”Con người là một thực thể tự nhiên trực tiếp, với tư cách là thực thể
tự nhiên sống, con người được phú cho những sức mạnh tự nhiên, những sức sống đã trở thành
thực thể tự nhiên hoạt động.”
- Trái với quan điểm của K. Mác về bản chất con người, có một số quan niệm phiến diện về con
người sau :
+ Con người như một tồn tại thần bí. Quan điểm này cho rằng trong con người ta có một con
người nhỏ xíu tồn tại và nó điều khiển con người thể xác mà ta thấy.
+ Con người tồn tại như một sinh vật. Họ cho rằng cuộc sống của con người đều do bản năng
quyết định. Đó là các bản năng sống, chết, duy trì nòi giống…
+ Con người tồn tại như một cái máy.

+ Con người chính trị.
+ Con ngưòi xã hội.
+ Con người là cái máy biết suy nghĩ biết yêu đương…
• Khái niệm về cá nhân
Cá nhân là một con người cụ thể, là một thành viên của một xã hội nhất định, sinh sống và hoạt
động trong những điều kiện xã hội nhất định.
Cá nhân bao gồm hai phần:
- Về mặt thể chất.
+ Cá nhân là một cơ thể sống, có đặc điểm chung về mặt hình thái và sinh lí của loài người.
+ Cá nhân có những đặc trưng cho riêng mình.
- Về mặt tâm lí.
+ Mỗi cá nhân đều có một đời sống tâm lí nhất định. Tâm lí người khác về chất so với tâm lí
động vật. Đó là đời sống tâm lí có ý thức.
+ Tâm lí người là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là não bộ – các giác quan (hệ
thần kinh)
+ Thực chất tâm lí người là sự phản ánh thế giới khách quan vào não bộ bằng hoạt độnh của bản
thân mỗi người.
+ Năng lực phản ánh tâm lí của con người được thể hiện:
o Các quá trình tâm lí ;
o Các trạng thái tâm lí;
o Các thuộc tính tâm lí.
Các thuộc tính tâm lí của con người được hình thành thông qua các quá trình, trạng thái tâm lí.
Hệ thống những thuộc tính tâm lí của con người là bộ phận quan trọng nhất trong đời sống tâm
lí của mỗi cá nhân con người.

Khái niệm về nhân cách
- Con người sống, hoạt động trong các mối quan hệ đa dạng.
+Khi con người được nhìn nhận là một đại diện cho loài người thì đó là một cá nhân.
+ Khi con người tham gia vào các hoạt động có mục đích có ý thức thì con người được xem như
một chủ thể.

+ Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của xã hội, tham gia tích cực vào các
mối quan hệ xã hội thì con người được xem như là nhân cách.
- Như vậy, khi nói tới khái niệm nhân cách, phải xem xét:
- Nó bao gồm tất cả các nét, các mặt, các phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người.
- Những thuộc tính này được hình thành trong quá trình tác động qua lại giữ con người và con
người trong xã hội…
Khi nói tới nhân cách, cần nhấn mạnh đến một trong những yếu tố quan trọng nhất của nó, đó là
các giá trị, bao gồm:
• Các giá trị tư tưởng.
• Các giá trị đạo đức.
• Các giá trị nhân văn.
Hệ thống các giá trị này được hình thành và cũng cố bởi năng lực nhận thức kinh nghiệm sống
của mỗi cá nhân trong quá trình thể nghiệm lâu dài. Nội dung của định hướng giá trị là niềm tin,
thế giới quan đạo đức, nguyên tắc sống… của con người.
- Khi nói tới nhân cách con người Việt Nam, ta thấy có sự thống nhất biện chứng giữa các
mặt phẩm chất (đức) và năng lực (tài) .
- Đức : Hệ thống thái độ của con người.
- Tài : Hiệu quả tác động của nhân cách tới các đối tượng xung quanh.
Đức bao gồm các mặt:
• Các phẩm chất xã hội : Các quan điểm niềm tin tư tưởng – chính trị, thế giới quan khoa học,
thái độ đới với các hoạt động.
• Các phẩm chất cá nhân: Nếp sống, thói quen, những ham muốn…
• Các phẩm chất ý chí: Tính kỉ luật, tính tự giác, tính tự chủ, tính mục đích…
Tài bao gồm các mặt:
• Khả năng thích ứng, năng lực sáng taọ, linh hoạt, mềm dẽo trong cuộc sống, hoạt động.
• Khả năng biểu hiện tính độc đáo, biểu hiện cái riêng cái bản lĩnh của cá nhân.
• Khả năng hành động
Hành động có mục đích, có điều khiển, chủ động, tích cực, sáng tạo, đạt kết quả tốt…
+ Khả năng giao tiếp
Xây dựng, duy trì được các mối quan hệ tốt đẹp vời mọi người xung quanh.

- Như vậy, chúng ta có thể hiểu nhân cách là bộ mặt xã hội – tâm lí của mỗi người, là tổng thể
những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá trị tinh thần của mỗi người.
- Khái niệm về sự phát triển nhân cách
Con người sinh ra chưa có nhân cách. Chính trong quá trình sống, hoạt động, giao lưu … mà
con người tự hình thành và phát triển nhân cách của mình bằng con đường xã hội : Lĩnh hội các
di sản văn hóa vật chất và tinh thần của loài người.
+ Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự phát triển được hiểu là:
• Là sự tích lũy về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
• Sự phủ định cái cũ và xuất hiện cái mới.
• Động lực của sự phát triển là giải quyết các mâu thuẩn bên trong của sự vật hiện tượng.
+ Cần chú ý, sự phát triển nhân cách và sự phát triển cá nhân không phải là một.
- Sự phát triển cá nhân bao gồm các mặt phát triển sau:
 Sự phát triển về mặt thể chất.
 Sự phát triển về mặt tâm lí.
 Sự phát triển về mặt xã hội.
Sự phát triển cá nhân là quá trình cải biến toàn bộ các sức mạnh thể chất và tinh thần, các sức
mạnh bản chất của con người.
- Vì nhân cách là bộ mặt xã hội – tâm lí của mỗi người nên sự phát triển nhân cách phải được
hiểu sự phát triển mặt tâm lí xã hội của con người.
Trong các sách giáo dục học trước đây, một số tác giả có sự hiểu biết lẫn lộn giữa sự phát triển
nhân cách và sự phát triển cá nhân. Nếu quan niệm như vậy thì có thể hiểu khái niệm cá nhân là
khái niệm nhân cách. Nhưng trong thực tế, hai khái niệm này không phải là một!
Sự phát triển nhân cách là quá trình biến đổi không chỉ về lượng mà cả những biến đổi về chất
trong mỗi nhân cách. Đó là quá trình nảy sinh cái mới và hủy diệt cái cũ.
+ Sự hình thành và phát triển nhân cách chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có hai
nhân tố cơ bản sau:
- Nhân tố sinh học
- Nhân tố xã hội
Các nhân tố này tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách không phải có giá trị song
song hoặc bằng nhau hoặc độc lập đối với nhau. Vì vậy, khi xem xét mối quan hệ giữa các yếu

tố thúc đẩy đến sự hình thành và phát triển nhân cách cần phải thật sự khách quan, đúng đắn và
khoa học.
2. Những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách
2.1. Bẩm sinh – di truyền
• Bẩm sinh là những đặc điểm, thuộc tính của cá nhân khi sinh ra đã có.
• Di truyền là thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những đặc điểm giống chúng (sự tái tạo ở
trẻ em những thuộc tính sinh học của cha mẹ, thế hệ trước).
Vai trò của bẩm sinh – di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách:
• Vấn đề di truyền những tư chất và nhất là các năng lực (nghệ thuật, khoa học, kiến trúc…) ở
trẻ em là một vấn đề quan trọng đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục.
o Di truyền tạo sức sống trong bản chất tự nhiên của con người, tạo khả năng cho người
đó hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định.
o Nhà giáo dục cầøn quan tâm đúng mức để phát huy hết bản chất tự nhiên đó của con
người ; cần phát hiện sớm, có kế hoạch chăm sóc, bồi dưỡng kịp thời nhằm phát triển tài năng
cho trẻ em.
• Di truyền không quyết định những giới hạn tiến bộ của xã hội loài người.
o Di truyền tạo ra tiền đề cho sự phát triển nhân cách.
o Trên cơ sở tiền đề ấy, phải có môi trường sống thích hợp, hoạt động tích cức và được
sự giáo dục đúng đắn thì bẩm sinh di truyền mới trở thành hiện thực.
• Quá trình phát triển con người xét về mặt sinh lí cũng là một quá trìnhphức tạp.
• Cần chú ý :
o Chú ý đúng mức đến vai trò của di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
o Nếu xem nhẹ yếu tố bẩm sinh di truyền thì chúng ta đã bỏ qua một tiền đề quan trọng
cho sự hình thành và phát triển tâm lí.
o Nếu đánh giá quá cao yếu tố bẩm sinh di truyền sẽ dẫn tới sai lầm về mặt nhận thức,
phủ nhận khả năng biến đổi bản chất của con người, phủ nhận vai trò của giáo dục và tự giáo
dục.
2.2. Môi trường
• Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội xung
quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người.

• Môi trường sống được chia thành 2 loại :
o Môi trường tự nhiên : bao gồm các điều kiện tự nhiên – sinh thái phục vụ cho hoạt
động của con người.
o Môi trường xã hội, bao gồm :
Môi trường chính trị : chế độ chính trị, giai cấp…
Môi trường kinh tế sản xuất : chế độ kinh tế, quan hệ sản xuất, cơ sở sản xuất – kinh doanh …
Môi trường sinh hoạt xã hội: gia đình, các tổ chức phục vụ sinh hoạt cộng đồng.
Môi trường văn hóa: hệ tư tưởng, nhà trường, cơ quan văn hóa - giáo dục, phương tiện thông tin
đại chúng…
Môi trường xã hội được chia thành 2 loại :
• Môi trường lớn : đặc trưng chủ yếu bởi tính chất của Nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, hệ thống các quan hệ sản xuất…
• Môi trường nhỏ : là một bộ phận của môi trường lớn trực tiếp bao quanh trẻ, đó là : gia đình,
nhà trường, bạn bè, đoàn - đội, người lớn thân thuộc, cơ sở sản xuất mà trẻ tham gia, cơ sở văn
hóa địa phương…
Vai trò môi trường trong sự hình thành và phát triển nhân cách
• Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một môi trường nhất định.
Môi trường góp phần tạo nên động cơ, mục đích, cung cấp phương tiện, điều kiện cho hoạt động
giao lưu của cá nhân, nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh các kinh nghiệm xã hội, các giá trị văn hóa để
hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình.
• Tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách tùy thuộc :
o Lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó (tiếp thu, chấp
nhận hay phủ định phản đối)
o Xu hướng, năng lực của cá nhân tham gia vào cải biéân môi trường (tích cực hay tiêu
cực, mạnh hay yếu)
• Trong sự tác động qua lại giữa môi trường và nhân cách, cần chú ý đến hai mặt của vấn đề :
o Tính chất tác động của hoàn cảnh sống đã phản ánh vào nhân cách.
o Tính tích cực của nhân cách tác động đếùn hoàn cảnh nhằm mục đích làm cho hoàn
cảnh phục vụ nhu cầu và lợi ích của cá nhân.

(Quan hệ giữa môi trường sống và nhân cách là mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau, quan hệ hai
chiều)
Khi bàn về mối quan hệ giữa môi trường sống và con người, K.Mác đã khẳng định : “Hoàn cảnh
sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh”.
Khi bàn về việc xây dựng con người mới XHCN Việt Nam, Đảng CS Việt Nam cũng đã khẳng
định : Con người mới vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể có ý thức của xã hội. Con người mới Việt
Nam là kết quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng, đặc biệt việc xây dựng cơ sở vật chất của chủ
nghĩa xã hội có ý nghĩa to lớn và quyết định đối với sự hình thành con người mới. Song con
người mới là chủ thể có ý thức của xã hội. Phải bằng kết quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng,
phải thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua lao động và đấu tranh thì những thành viên của xã
hội mới cải tạo được mình và dần dần trở thành con người mới.
• Trong quá trình giáo dục con người, cần gắn chặt từng bước việc học tập và giáo dục với
thực tiễn cải tạo và xây dựng xã hội và đấu tranh cách mạng.
• Trong quá trình giáo dục học sinh, cần lưu ý một số điểm sau :
o Từng bước gắn việc giáo dục và học tập của học sinh với việc cải tạo và xây dựng xã
hội.
o Xây dựng cho học sinh có các giá trị đúng đắn.
o Giúp học sinh chiễm lĩnh những ảnh hưởng tích cực của môi trường sống, phê phán
những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến học sinh.
o Tổ chức cho học sinh tích cực tham gia vào việc cải tạo và xây dựng môi trường có
tác dụng giáo dục.
o Xã hội kết hợp với nhà trường có kế hoạch “sư phạm hóa” từng bước môi trường,
quan tâm đến việc bảo vệ học sinh trước ảnh hưởng xấu…
o Cần đánh giá đúng đắn vai trò của môi trường sống trong sự phát triển nhân cách.
o Tuyệt đối hóa vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách là sai lầm về mặt
nhận thức, cho rằng mọi cái đều do hoàn cảnh, rơi vào thuyết “Định mệnh do hoàn cảnh”.
Thuyết này hạ thấp, thủ tiêu vai trò của giáo dục…
o Hạ thấp, phủ nhận vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách dẫn đễn
“thuyết giáo dục là vạn năng”, giáo dục con người theo xu hướng cải lương…
2.3. Hoạt động của cá nhân

Công tác giáo dục sẽ thành công khi người được giáo dục ý thức được, chấp nhận các yêu cầu
của nhà giáo dục, biến chúng thành của bản thân, làm cho họ tự đề ra mục đích phấn đấu, rèn
luyện… Điều đó có nghĩa là người được giáo dục phải tích cực hoạt động.
Hoạt động cá nhân giữ vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tự thân vận động, về động lực của sự phát triển nhân
cách.
Trong quá trình giáo dục, nhà trường cần tổ chức được các hoạt động phong phú, đa dạng để
cuốn hút học sinh tham gia.
3. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
3.1.Khái niệm về giáo dục
Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục đích, có kế hoạch,
thông qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh
kinh nghiệm xã hội của loài người.
Theo nghĩa hẹp : giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi …
nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong
xã hội.
3.2. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách :
Giáo dục định hướng, dẫn dắt đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Tính định hướng và
dẫn dắt của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách được thể hiện ở các điểm
sau :
• Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục tổ chức,
dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó.
• Điều này được thể hiện qua : mục đích giáo dục, mục tiêu cấp học.
• Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố di truyền, môi trường sống không thể
có được.
• Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật. Nhờ có giáo dục mà nó
có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người.
• Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lí xấu và làm cho nó phát triển theo chiều
hướng mong muốn của xã hội.

• Giáo dục không chỉ thích ứng, mà còn đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển.
• Sự phát triển tâm lí trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong điều kiện của dạy học và
giáo dục.
Khi bàn về vai trò yếu tố giáo dục trong sự phát triển tâm lí con người, Bác Hồ đã viết trong bài
thơ “Nửa đêm” :
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
(Nhật kí trong tù)
3.2. Những điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách
- Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục
Giáo dục không chỉ là sự tác động một chiều của những người làm công tác giáo dục tới thế hệ
trẻ mà nó còn bao gồm cả hoạt động tích cực, đa dạng của người được giáo dục trong mối quan
hệ hai chiều giữa nhà giáo dục và học sinh.
- Giáo dục chỉ có thể đảm bảo sự phát triển nhân cách nếu có được chõ dựa là :
• Tư chất vốn có ở mồi người.
• Hoạt động tích cực (tự vận động) của mỗi người trước khi tác động bên ngoài.
Ở đây ta thấy có sự thống nhất giữa tác động bên ngoài (giáo dục) và điều kiện bên trong (tư
chất - hoạt động tích cực cá nhân).
- Dạy học và giáo dục phải được xây dựng theo nguyên tắc phát triển và đón trước được sự phát
triển tâm lí.
- Giáo dục không phải là vạn năng, nó cũng không hạ thấp, thủ tiêu các yếu tố khác.
3.3. Mối quan hệ giữa giáo dục và tính tích cực cá nhân trong sự phát triển nhân cách
Giáo dục tác động, thúc đẩy làm cho cá nhân tích cực hoạt động để phát triển nhân cách của
mình. Chẳng hạn, thông qua các hoạt động giáo dục của thầy cô, sự dạy bảo của gia đình làm
cho ý chí, tính tích cực của học sinh tăng lên rõ rệt.
Mặt khác, chính do sự tích cực của cá nhân nên quá trình giáo dục cũng tiến hành thuận lợi hơn,
giáo dục nhanh chóng đạt được mục đích hơn.
3.4. Những quan điểm sai lầm về vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách

- Quan điểm tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, coi giáo dục là vạn năng, là yếu tố quyết định
đến sự phát triển nhân cách “ trẻ em như tấm bảng sạch mà nhà giáo dục muốn viết vẽ gì lên đó
cũng được”
- Quan điểm xem giáo dục không có vai trò, ý nghĩa gì đối với sự phát triển nhân cách.
Chương III
MỤC ĐÍCH, NGUYÊN LÝ GIÁO DỤC VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN.
1. Mục đích giáo dục
1.1. Khái niệm
Mục đích giáo dục là một phạm trù cơ bản của giáo dục học có tác dụng định hướng cho mọi
hoạt động giáo dục (công tác nghiên cứu lí luận và thực tiễn). Đối với hoạt động giáo dục, mục
đích giáo dục là điểm xuất phát, là căn cứ để đánh giá hiệu quả chất lượng giáo dục.
Đối với các quá trình giáo dục, mục đích giáo dục quy định tính chất và phương hướng phát
triển của chúng, quy định nội dung và phương pháp tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục.
Mục đích giáo dục phản ánh quy luật khách quan, xu thế tất yếu trong mọi lĩnh vực giáo dục.
Mục đích giáo dục chính là các phẩm chất, các yêu cầu về mô hình của ”con người thời đại”,
phản ánh tính quy định của xã hội đối với giáo dục được thể hiện qua thiết kế giáo dục và được
thực thi thông qua hoạt động cụ thể sinh động của hệ thống giáo dục.
Trong thực tế cần hiểu mục đích giáo dục ở các cấp độ sau :
• Cấp độ vĩ mô: Phù hợp với yêu cầu toàn xã hội, phù hợp với xu thế phát triển chung của thời
đại.
• Cấp độ trung gian: Cho một cấp học, một ngành học, một trường học.
• Cấp độï cá nhân : Cá nhân trong quá trình tiếp thu sự giáo dục (xã hội hóa) luôn luôn hiểu rõ
mục tiêu mình cần đạt tới. Bởi vì, trong khi xác định mục đích giáo dục thì điều quan trọng nhất
là nhận thức cho được cái mà bản thân người ta vốn coi là mục đích của đời mình. Mục đích
giáo dục phải trùng hợp với mục đích bao quát hơn của người thụ giáo.
Ngoài thuật ngữ mục đích giáo dục thường dùng trong các giáo trình giáo dục học, trong các đề
án, kế hoạch giáo dục ta thường gặp thuật ngữ mục tiêu giáo dục cũng chỉ những dự kiến về kết
quả đạt được của quá trình giáo dục trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, có thể phân biệt
hai thuật ngữ này qua một số dấu hiệu sau :
Mục đích Mục tiêu

1.Có tính định hướng tính lý tưởng
2.Thời gian thực hiện dài
3.Tính rộng lớn khái quát của vấn đề
4.Không thể đo được kết quả
5.Cấu trúc phức tạp, được tạo thành do nhiều mục
tiêu kết hợp lại
1.Có tính cụ thể với hành động và phương
tiện xác định
2. Thời gian thực hiện ngắn xác định
3. Tính xác định của vấn đề
4. Kết quả đo được.
5. Là một bộ phận của mục đích
Có thể nói mục tiêu là một bộ phận của mục đích, là mục đích gần, phải thực hiện nhiều mục
tiêu mới đạt được mục đích. Mục đích giáo dục có cấu trúc phức tạp do nhiều mục tiêu tạo
thành. Tuy nhiên, mục đích không phải là tổng số các mục tiêu, không phải là phép cộng giản
đơn mà là một sự kết hợp có quy luật giữa các mục tiêu.
- Mục đích giáo dục mang tính lịch sử và tính giai cấp
• Mục đích giáo dục phản ánh sự phát triển sức sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phát triển của
khoa học kỹ thuật và văn hóa, hệ tư tưởng mới và lối sống xã hội (nó phản ánh hình thái kinh tế
- xã hội)
• Mục đích giáo dục phản ánh những quan điểm của giai cấp thống trị xã hội, thể hiện ở các
điểm sau:
o Đào tạo con người như thế nào?
o Đào tạo con người theo lý tưởng triết học và xã hội học nào ?
o Đào tạo con người phục vụ cho ai ? Cho lợi ích của giai cấp hoặc tầng lớp nào trong
xã hội?
Để xây dựng mục đích giáo dục hiện nay ở Việt Nam, không thể không nghiên cứu, kế thừa và
phát triển những mục đích giáo dục Việt Nam đã có truyền thống lâu đời và trở thành giá trị tinh
thần của nhân dân ta.
Dưới chế độ phong kiến, mục đích giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều của nho giáo. Mục

đích giáo dục thời kỳ này chủ yếu hình thành phẩm chất người quân tử với nhiững nét đáng chú
ý sau đây :
• Coi đạo đức là giá trị hàng đầu, sống theo lý tưởng nhân nghĩa yêu thương người khác ;
• Có trách nhiệm đối với gia đình, họ hàng, làng nước, trung với vua, với nước; có hiếu với
cha mẹ, nhân dân.
• Sống thiết thực chăm chỉ học hành, thường xuyên nâng cao trình độ học vấn.
• Coi trọng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tài năng. Nho giáo cho rằng : “Con người sống chết
có mệnh, giàu sang tại trời”. Đó là điều con người không tự quyết định được. Nhưng chỗ không
phải tại trời, mà con người có thể tự quyết định và chịu trách nhiệm trước bản thân, gia đình và
xã hội là trí và ngu do học mà không học, có đạo đức mà không có đạo đức, do chịu tu dưỡng và
không chịu tu dưỡng. Đó là hai chỗ không có tiền định của trời. Vì vậy, nho giáo cho rằng : “Từ
thiên tử cho đến thứ dân ai cũng phải lấy tu thân làm gốc”.
• Không màng phú quý, không ham danh lợi.
• Khiêm tốn, nhường nhịn : An mệnh, an phận, bằng lòng với những cái mình có, không đòi
hỏi, không đấu tranh cho bản thân.
• Không quan tâm tới lợi ích, hạnh phúc, cái vui cho bản thân.
• Thờ trời và thờ cúng tổ tiên và bách thần.
• Một mặt có sự dung hòa thỏa hiệp theo tinh thần trung dung, học theo những chỗ thấy mình
yếu kém, mặt khác, rất ngoan cường, kiên trì,…
Từ việc nghiên cứu mục đích giáo dục phong kiến có thể rút ra một số vấn đề đáng lưu ý sau:
• Nhân nghĩa, trách nhiệm, tu thân là những bài học rất quý giá đối với con người Việt Nam
hiện đại.
• Nho giáo không coi trọng tự do, hạnh phúc cá nhân, mà coi trọng giá trị của mỗi người trong
gia đình, dòng họ, cộng đồng, thế nhưng lại đào tạo được những nhân cách cao thựơng, bất
khuất, có lòng nhân ái cao, biết hy sinh vì đạo nghĩa.
• Nho giáo coi trọng việc giáo dục và nhà nước nho giáo đặt việc giáo hóa còn cao hơn cả việc
cai trị, nhưng trong thực tế việc tổ chức giáo dục lại rất sơ sài. Từ nội dung đến tổ chức, trang bị
đều có nhiều thiếu sót. Con người chủ yếu được đào tạo trong gia đình với sự chăm sóc của các
thầy giáo có trách nhiệm và nhà nước chỉ tổ chức thi cử để đánh giá tuyển chọn nhân tài. Thế
nhưng xã hội lại có nhiều người biết chữ, có tâm lý hiếu học, say mê học tập suốt đời …Như

vậy giáo dục gia đình và chất lượng thầy giáo phải chăng là hai nhân tố cực kỳ quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục.
• Quan niệm cấu trúc cha – con trong gia đình nho giáo đã mở rộng ra xã hội dưới các hình
thức:
Gia đình : Cha – con
Nước : Vua – tôi, vua là cha của dân
Thiên hạ : Thiên tử – thứ dân
Thế giới : Trời – người
Trời được xem như cha, có khó khăn gì cũng gọi “Trời”. Điều đó dẫn đến hai khả năng : Tìm
cách hòa đồng với tự nhiên, tạo ra đời sống tâm linh nhẹ nhõm; Không đặt ra vấn đề đấu tranh,
cải tạo tự nhiên dẫn đến sự chậm phát triển trong khoa học và triết học.
Khi nghiên cứu mục đích giáo dục phong kiến Việt Nam, bên cạnh những bài học thành công,
cũng có những nhược điểm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển quốc gia, dân tộc. Đó là mối quan
hệ giữa đức và tài, giữa phẩm chất và năng lực.
Nhà trường phong kiến Việt Nam hầu như chỉ chú ý đến dạy đạo lý, thơ phú… mà không dạy
các môn khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, kinh tế, là những môn học có ảnh hưởng lớn đến
năng lực, tay nghề của thế hệ trẻ. Kết quả là đất nước không phát triển, khoa học kỹ thuật, kinh
tế, quân sự rất lạc hậu. Điều đó là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm cho nhân
dân ta rơi vào vòng nô lệ và làm cho đất nước lạc hậu đến ngày nay. Vì vậy, mối quan hệ giữa
phẩm chất và năng lực, giữa khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội nhân văn
là vấn đề rất quan trọng trong khi xây dựng mục tiêu và nội dung giáo dục trong giai đoạn hiện
nay.
1.2. Ý nghĩa của việc xác định mục đích giáo dục
• Việc xác định mục đích giáo dục sẽ giúp cho người làm công tác giáo dục quán triệt quan
điểm giai cấp, quan điểm lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong vịêc đào tạo con
người.
• Xác định mục đích giáo dục là cở sở giúp xác định nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức giáo dục.
• Giáo dục là một quá trình lâu dài, phức tạp đòi hỏi xác định mục đích rõ ràng, cụ thể để hoạt
động giáo dục có phương hướng, hoạt động có kế hoạch.

2. Mục đích giáo dục của nước ta trong giai đoạn hiện nay
2.1. Mục đích tổng quát đối với sự phát triển xã hội
: “Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nên
những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp lao động tự chủ, sáng
tạo và có kỉ luật, giàu lòng nhân ái, yêu CNXH , sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất
nước những năm 1990 và chuẩn bị cho tương lai” (Văn kiện Hội nghị lần thứ IV BCHTW khóa
VII ĐCS Việt Nam)
Nâng cao dân trí :
Trình độ dân trí của mỗi nước là kết quả tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục và được thể hiện
ra trình độ văn hóa - đạo đức – thẩm mĩ của con người trong từng thời kì lịch sử nhất định.
Hiện nay ở nước ta, điều kiện kinh tế - xã hội mới cho phép chúng ta thực hiện việc phổ cập
giáo dục tiểu học ; trong thời gian tới để đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa chúng ta phải thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Chỉ có trên mặt bằng dân trí
như vậy, chúng ta mới tiếp cận được xu thế phát triển chung của thế giới, tiếp thu được các tri
thức khoa học và công nghệ cần thiết…
Để có được trình độ dân trí ngày càng cao, giáo dục cần được liên tục đổi mới và phát triển,
“phải có quyết tâm cao và có chính sách đầu tư hữu hiệu để sớm nâng cả mặt bằng lẫn đỉnh cao
dân trí nước ta lên trình độ một quốc gia phát triển”
Đào tạo nhân lực :
Chất lượng và hiệu quả lao động phụ thuộc vào trình độ được đào tạo nhân lực.
Việc đào tạo nhân lực trước hết thông qua hệ thống giáo dục quốc dân và trực tiếp là các ngành
giáo dục chuyên nghiệp và đại học. Trong quá trình đào tạo và bồi dưỡng phải gắn việc đào tạo
với việc phân phối sử dụng lao động trong thị trường lao động phù hợp với luật pháp và quy luật
phát triển kinh tế xã hội.
Bồi dưỡng nhân tài :
Chỉ có thể phát hiện và bồi dưỡng nhân tài trên cơ sở một nền kinh tế - xã hội phát triển ổn định
và vững chắc. Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài phải dựa trên sự phổ cập rộng rãi, phải
hướng vào thế hệ trẻ…
2.2. Mục đích giáo dục tổng quát đối với sự phát triển cá nhân.
“ … Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ

và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” ( Luật Giáo dục).
Mục tiêu giáo dục của trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đưa ra trong nghị
quyết TW2 khóa VIII có mấy điểm cần chú ý:
- Nhấn mạnh đến việc đào tạo con người đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Điều đó rất quan
trọng trong điều kiện bước vào thế giới hòa bình như hiện nay, thể hiện quan điểm hòa nhập
nhưng không hòa tan.
- Có tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, phản ánh được đặc điểm quan trọng của thời đại,
khi loài người bước vào nền văn minh mới, văn minh tin học.
2.3. Mục đích giáo dục chuyên biệt ( Sinh viên tìm hiều luật giáo dục Việt Nam 2005)
2.3.1. Mục tiêu giáo dục ở từng bậc học.
2.3.2. Mục tiêu giáo dục ở từng cấp học.
3. Các nhiệm vụ giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân thông qua các hoạt động của mình nhằm “hình thành, phát
triển các phẩm chất và năng lực của công dân Việt Nam : tự chủ, năng động, sáng tạo, có kiến
thức văn hóa, khoa học, công nghệ, có kỹ năng nghề nghiệp ; có sức khỏe ; có niềm tự hào dân
tộc và ý thức vươn lên ; có năng lực tự học và thói quen học tập suốt đời ; có năng lực đi vào
thực tiễn kinh tế – xã hội, góp phần hiệu quả làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”.
Nhiệm vụ giáo dục là những bộ phận hợp thành của giáo dục XHCN, bao gồm giáo dục trí tuệ,
đức dục, giáo dục lao động, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất.
3.1. Giáo dục đạo đức
• Đức dục là quá trình hoạt động giáo dục chuyên biệt ở nhà trường. Đó là hoạt động có mục
đích, có kế hoạch nhằm xây dựng, bồi dưỡng cho học sinh những phẩm chất nhân cách, những
nét tính cách nhất định, những tiêu chuẩn và quy tắc hành vi giữa chúng với nhau, với gia đình,
với xã hội…
• Ngày nay, đức dục còn bao gồm cả việc giáo dục về những vấn đề chung có tính chất toàn
cầu như giáo dục nhân văn, giáo dục môi trường, giáo dục giá trị…
• Đức dục có nhiệm vụ :

o Giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan cách mạng, hệ tư tưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có lí tưởng đạo đức trong sáng, niềm tin sâu sắc
vào chủ nghĩa xã hội.
o Giáo dục cho học sinh nắm vững các nguyên tắc và những chuẩn mực đạo đức
XHCN, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính, lòng nhân ái, lòng yêu lao động,
tinh thần kỷ luật tự giác, lòng tự hào dân tộc, ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân
tộc.
Giáo dục cho học sinh về văn hóa chung,về bảo vệ môi trường, tinh thần hợp
3.2. Giáo dục trí tuệ
Trí dục được hiểu theo nghĩa tổng quát là hoạt động của nhà giáo dục nhằm phát triển các năng
lực trí tuệ và tư duy của học sinh, nhằm hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh, góp
phần phát triển nhân cách học sinh.
Trí dục có các nhiệm vụ sau:
• Cung cấp cho học sinh tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại phù hợp với thời đại và đất nước .
• Phát triển năng lực trí tuệ, năng lực nhân thức, bồi dưỡng cho các em những phẩm chất tư
duy mền dẻo, sâu sắc, độc lập, rộng rãi , ...
• Hình thành cho các em cơ sở thế giới quan khoa học, duy vật biện chứng
• Rèn luyện một số kỹ năng vận dụng và thói quen thực hành những tri thức đã học để giải
quyết những nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn .
• Phát triễn nhu cầu học vấn, nhu cầu thường xuyên bổ sung kiến thức, mở rộng sự hiểu biết.
Trong nhà trường, trí dục được thực hiện chủ yếu thông qua dạy học.

×