Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân tích bài thơ thu điếu của nguyễn khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (54.07 KB, 4 trang )

Phân tích bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến
Bài 1:

Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Thu thường mang đến cho thi sĩ m ột n ỗi bu ồn man
mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Dường như không ai vô tình mà không nói đ ến cảnh
thu, tình thu khi đã là thi sĩ…Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy đ ược đi ều đó. C ảnh mùa thu trong th ơ ông
không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đ ồng chiêm B ắc B ộ lúc b ấy gi ờ.
Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phất phơ
màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Khi
nhận xét về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng
ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem
thế nào mà “Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?
Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát
ngát, với cặp mát hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để th ấy đ ược: “Tr ời thu xanh ng ắt m ấy
tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu,
rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc đi ểm của vùng đ ồng chiêm trũng, vùng
quê của Nguyễn Khuyến:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Câu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác l ạnh
lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đ ủ cho ta th ấy cảnh tĩnh, nh ưng thêm hai t ừ
này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả lại không bị giới hạn mà m ở r ộng ra nhi ều
chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao ở độ gi ữa thu, cu ối thu nh ư trong tr ẻo h ơn.
Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ: Khung ao không tr ống
vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh thiên nhiên và có d ấu vết của cu ộc s ống con ng ười,
khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu th ơ đ ọc lên, làm
cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết bao!Với hai câu m ở đầu, nhà th ơ s ử d ụng nh ững t ừ ng ữ
gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một n ỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ,
ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”


Càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng vcái động của “lá vàng tr ước gió” đ ể miêu t ả cái
tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh tr ở v ề, khi ến ao
thu không còn “lạnh lẽo”, không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đ ưa vèo”, cảnh v ật d ường
như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” t ưởng nh ư
mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chi ếc lá r ất
nhẹ và thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong không gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Qu ả là phải có m ột
tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thật sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm nh ận đ ược nh ững âm
thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý đến như thế! Như trên đã nói: mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần
“eo” nhưng tác giả không bị giới hạn mà đã mở rộng không gian theo chiều cao, tạo nên s ự khoáng đ ạt, r ộng rãi
cho cảnh vật:
“Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây không trôi n ổi bay khắp b ầu
trời mà “lơ lửng”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:


“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại tr ở về v ới khung cảnh làng
quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh tre truc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co… t ất c ả đ ều thân
thương vè nhuốm màu sắc thôn quê Việt Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới th ấy đ ược nh ững nét
quê tĩnh lặng, êm ả như vậy. Trời sang thu, không khí giá lạnh, đ ường làng cũng vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co”
cũng “vắng teo” không bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt đựơc những
nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Cùng với:
Cành biếc run run chân ý nhi
(Thu)

Thế rồi trong cái không khí se lạnh đó của thôn quê, những tưởng sẽ không có bóng dáng c ủa con ng ười, ấy v ậy
mà thật bất ngờ đối với người đọc:
“Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Hai câu thơ kết thúc đã góp phần bộc lộ đôi nét về chân dung tác giả. Tôi nhớ không lầm dường như đã có tài li ệu
cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ không phải là “buông”. Theo Việt Nam tự điển thì “buông”
hay hơn, phù hợp với tính cách của nhà thơ hơn. Trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú
vui của nhà thơ nơi làng quê để tiêu khiển trong công việc, để hoà mình vào thiên nhiên, mà quên đi nh ững bận
lòng với nước non, cho tâm hồn thanh thản. “Buông”: thả lỏng, đi câu không cốt để kiếm cái ăn (hi ểu theo đúng
nghĩa của nó), mà để giải trí, cho nên “ôm” không phù hợp với hoàn cảnh. Từ “buông” mang đ ến cho câu th ơ hi ệu
quả nghệ thuật cao hơn.
Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với thiên nhiên, đối với cu ộc s ống: ch ỉ có
những ao nhỏ, những “ngõ trúc quanh co”, màu xanh của bầu trời, cũng đã làm say đ ắm lòng ng ười. Thì ra mùa thu
ở thôn quâ chẳng có gì là xa lạ, mùa thu ở thôn quê chính là cái hồn c ủa cu ộc s ống, cái duyên c ủa nông thôn. Câu
cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm giác, vừa biểu hiện đ ựơc cuộc s ống ngây th ơ nhất với s ự việc s ử d ụng
những âm thanh rất trong trẻo có tính chất vang ngân của những cặp vần, đã chiếm được cảm tình c ủa đ ộc gi ả,
đã đọc qua một lần thì khó mà quên được.


Bài 2:
Nguyễn Khuyến là một trong hai đại biểu xuất sắc cuối cùng của nền văn học Trung đại Việt Nam.Ông đ ược coi
là bậc quán quân về thơ tả cảnh mùa thu. Chùm thơ thu ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm của ông được đánh giá
là tam tuyệt của thơ thu Việt Nam. Trong đó, Thu điếu có nét đặc sắc riêng, tả cảnh thu ở một không gian thời
gian cụ thể. Đằng sau cảnh thu tĩnh lặng là nỗi niềm tâm sự thầm kín của thi nhân.
Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca. Thơ viết về mùa thu của văn học Trung đại Vi ệt Nam th ường miêu t ả
cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với nh ững nét chấm phá,
chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy.
Nhưng Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng quê Việt Nam. Gần suốt đời mình, ông gắn bó v ới
thôn quê, hoà hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Thế nên, cảnh vật làng quê trong thơ ông hi ện lên r ất chân
thực, giản dị, tinh tế. Đọc Thu điếu, ta bắt gặp một bức tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc bộ, quê

hương của nhà thơ. Đấy chính là nét mới mẻ của tác phẩm so với thi pháp truy ền th ống của văn h ọc Trung đ ại
Việt Nam.
Thu điếu viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú Đ ường luật. Cảnh thu đ ược miêu t ả trong h ầu h ết 8
câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện trực tiếp ở hai câu cuối bài. Cảnh trong bài vẫn là tr ời n ước, gió, trúc –
những thi liệu quen thuộc nhưng hồn thơ thì đã vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ điển.
Hình ảnh đầu tiên được tác giả miêu tả là “ao thu”. Từ “lạnh lẽo” đặc tả khí lạnh của ao n ước mùa thu, d ường nh ư
cái lạnh ấy thấm sâu vào da thịt con người. Tính từ “trong veo” đã tuyệt đ ối hoá đ ộ trong c ủa n ước, đ ồng th ời còn
gợi ra độ thanh sạch, sự bất động, tĩnh lặng của mặt ao. Hai âm “eo” đ ược gieo trong m ột câu khiến cho c ảm giác
về cái lạnh và sự ngưng đọng của không gian càng trở nên tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra không gian nh ỏ hẹp c ủa
chiếc ao.
Trên nền cảnh thu ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu lẻ loi, đơn chiếc, bé nhỏ. Số t ừ chỉ s ố ít “m ột chi ếc” kết
hợp với từ láy “tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng nhỏ bé hơn, như co lại thành m ột nét ch ấm trên n ền ao cũng
bé xíu và trong trong tận đáy.
Hai câu đề đã vẽ nên cảnh sắc rất riêng biệt, mộc mạc, đơn sơ của mùa thu Bắc bộ với nh ững nét đ ặc tr ưng nhất
của khí thu, chất thu là cái lạnh và sự tĩnh lặng.
Mùa thu tiếp tục hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. Cảnh vận đ ộng một cách khẽ khàng. Tác gi ả đã r ất
nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là s ự chuy ển đ ộng “h ơi gợn tí” c ủa
sóng, là sự đưa nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi n ước m ờ ảo trên mặt ao.
Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gió thổi làm sóng g ợn, làm lá r ơi. Các
tính từ, trạng từ “biếc”, ‘tí’, “vàng”, “khẽ”,”vèo” được sử dụng một cách hợp lí, giàu chất tạo hình, vừa t ạo ra b ức
tranh màu sắc thanh nhã, có xanh có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển, sinh động c ủa tạo vật. C ảnh đ ược miêu
tả trong hai câu thực, mặc dù là động, nhưng vì động khẽ khàng quá nên thực ch ất là l ấy đ ộng đ ể tả cái tĩnh l ặng
của mùa thu trong không gian của một chiếc ao quê nhà.
Không gian cảnh vật trong hai câu luận không chỉ dừng lại ở bề mặt chiếc ao mà còn m ở r ộng thêm chi ều cao,
chiều sâu.


Chiều cao được cụ thể bằng sự “lơ lửng” của tầng mây và độ thăm thẳm của da trời xanh ngắt. Màu da tr ời mùa
thu dường như có ám ảnh sâu đậm trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nên trong các bài th ơ thu, ông th ường nh ắc
tới: “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” (Thu vịnh) hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Thu ẩm). Bởi vậy, màu

xanh ngắt của da trời không chỉ đơn giản là một sắc màu khách quan đặc tr ưng cảu tr ời thu mà có lẽ còn chính là
tâm trạng nhiều ẩn ức, là chiều sâu tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân.
Chiều sâu của không gian được cụ thể bằng độ “quanh co” uốn lượn của bờ trúc. Không gian trong hai câu lu ận
đậm dặc một màu xanh, màu xanh bao trùm cả trên cao và chiều rộng. Cảnh vật thoáng đãng và yên tĩnh. Nguyên
từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng “vắng teo” thì có nghĩa là cảnh vắng tanh vắng ngắt, không chút c ử
động, không chút âm thanh, không một bóng người.
Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong lòng người.
Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế ngồi bó gối, trong trạng thái trầm tư mặc t ưởng. Nhà th ơ ngồi
câu cá mà chẳng chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật mình trước tiếng cá “đ ớp động dưới chân bèo”. Không
gian phải yên tĩnh lắm, tâm hồn nhà thơ phải trong trẻo lắm thì mới nghe rõ âm thanh nhỏ nhẹ như vậy.
Từ “cá đâu” là cách hỏi vừa tạo nên sự mơ hồ trong không gian vừa gợi ra s ự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà th ơ
dường như mất cảm giác về không gian thực tại mà chìm đắm trong không gian suy t ưởng nên không th ể xác
định rõ hướng gây ra tiếng động mặc dù đang ngồi trong một chiếc ao rất nhỏ.
Nhà thơ câu cá mà chẳng phải để bắt cá. Câu chỉ là cái cớ để tìm sự thư thái trong tâm h ồn. Trong lúc câu, thi nhân
đã thâu tóm vào lòng những vẻ đẹp tinh diệu của đường nét, màu sắc, hình khối, sự vận đ ộng tinh tế, trong sáng
của cảnh vật mùa thu. Cảnh thu tuy đẹp mà buồn, buồn vì quá quạnh quẽ, vắng lặng, bu ồn vì ng ười ngắm c ảnh
cũng đang chất chứa nỗi niềm thế sự của kẻ sĩ trước cảnh vong quốc mà thân lại nhàn nhã.
Bài thơ Thu điếu không những thể hiện được cái hồn của cảnh thu mà còn đặc tả đ ược nét đẹp mộc mạc gi ản dị
của nông thôn đồng bằng Bắc bộ xưa. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Khuyến đã khơi gợi trong lòng
người đọc những xúc cảm chân thành, trong sáng, tha thiết về cảnh sắc làng quê. Qua bài th ơ, ta hi ểu thêm v ề
tấm lòng nặng tình non nước và tài thơ Nôm độc đáo của thi nhân.



×