Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

báo cáo thực tập luật tại quân thanh khê vấn đề xét xử trộm cắp tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.56 KB, 24 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Là một trong những quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, nơi mà
chất lượng cuộc sống của người dân luôn được quan tâm, tuy nhiên cùng với
sự phát triển của nền kinh tế, quận Thanh Khê đã trở thành một trong các khu
vực trọng yếu về tình hình phạm tội, do đó số lượng án giải quyết chiếm tỉ lệ
rất lớn, đặc biệt là tội “Trộm cắp tài sản” đã ảnh hưởng lớn đến tình hình trật
tự trị an trong khu vực. Do đó, bài báo cáo thực tập này sẽ tập trung khai thác
và làm rõ tình hình trộm cắp cũng như việc áp dụng pháp luật để giải quyết
tội phạm. Ngoài ra cũng nêu ra một số nguyên nhân, hành vi phạm tội của loại
tội phạm này, đồng thời nhận xét việc áp dụng pháp luật, đưa ra các ý kiến
đánh giá, các kiến nghị đề xuất về mặt pháp luật nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật cũng như việc giải quyết các vụ án một cách hiệu quả hơn, giải
quyết các bất cập hạn chế hay các quy định chưa phù hợp với thực tiễn, ảnh
hưởng đến chất lượng giải quyết án. Điều đó đã đặt ra một yêu cầu lớn, cần
phải hoàn thiện pháp luật giải quyết cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn nhằm nâng
cao chất lượng giải quyết án tại Tòa án Nhân dân quận Thanh Khê nói riêng
và hệ thống Tòa án nhân dân nói chung để đạt kết quả cao hơn nữa.
Với việc chọn đề tài “Thực trạng xét xử tội Trộm cắp tài sản tại Tòa án
nhân dân quận Thanh Khê” nhằm phản ánh phần nào tình hình thực tế, đồng
thời đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết. Trong điều
kiện thời gian có hạn, bên cạnh khả năng nhận thức và hiểu biết thực tế còn
hạn chế báo cáo không tránh khỏi những sai sót nhất định. Kính mong nhận
được sự chia sẻ, góp ý của cán bộ phụ trách về lĩnh vực này cũng như các ý
kiến đóng góp, nhận xét của quý thầy, cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


B. PHẦN NỘI DUNG
1. Tóm tắt cơ cấu, tổ chức hoạt động của Tòa án nhân dân quận
Thanh Khê
1.1. Cơ cấu tổ chức


Thanh Khê là một quận nằm ở vị trí gần trung tâm của thành phố Đà
Nẵng, được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1997, là quận có diện tích nhỏ
nhất tại Đà Nẵng. Tuy nhiên, quận Thanh Khê được xem là đầu mối giao
thông liên vùng và quốc tế của thành phố Đà Nẵng. Đây là địa phương có
nhiều lợi thế trong phát triển thương mại, dịch vụ, giao thông vận tải và kinh
tế biển , với chiều dài bờ biển khoảng 4,287 km bao gồm 10 phường: An
Khê, Hòa Khê, Thanh Khê Đông, Thanh Khê Tây, Xuân Hà, Tam Thuận, Tân
Chính, Chính Gián, Thạc Gián, Vĩnh Trung và là một trong những quận trung
tâm tập trung đông dân cư và phát triển nhất thành phố Đà Nẵng do đó số
lượng án giải quyết tại Tòa án nhân dân quận Thanh Khê chiếm tỉ lệ lớn trong
tổng số vụ án giải quyết tại Đà Nẵng và là Tòa án có chỉ tiêu xét xử lưu động
nhiều nhất nhằm tạo tính răn đe cũng như là hồi chuông cảnh tỉnh cho nhiều
đối tượng nếu có ý định phạm tội.
Hiện nay, Luật tổ chức toà án mới đã được Quốc hội thông qua và có
hiệu lực từ ngày 1 tháng 6 năm 2015, tại Điều 45 luật này quy định về cơ cấu,
tổ chức mới của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc Tỉnh và tương
đương. Tuy nhiên, do thời gian còn hạn chế nên vấn đề triển khai cơ cấu theo
Luật tổ chức Toà án 2014 sẽ được TAND quận Thanh Khê thực hiện trong
thời gian sắp tới dưới sự chỉ đạo của Toà án cấp trên và Toà án tối cao. Theo
khoản 1 Điều 32 Luật tổ chức Tòa án năm 2002 quy định: TAND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có chánh án, một hoặc hai phó chánh án,
thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký tòa án. Tòa án nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có bộ máy giúp việc.


Tòa án nhân dân quận Thanh Khê có cơ cấu tổ chức bao gồm: Đứng
đầu là Chánh án tòa án làm Thủ trưởng cơ quan, Phó Chánh án, các Thẩm
phán và các Thư ký (gồm 14 Thẩm phán đó có 01 người giữ chức danh Chánh
án, 02 người giữ chức danh Phó Chánh án và 14 thư ký tòa án). Tất cả các cán
bộ, công chức đã biên chế, trong đó các cán bộ chuyên môn đều có trình độ

cử nhân luật, bên cạnh việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ các cán bộ, công
chức còn được bồi dưỡng về đạo đức lý luận chính trị của mình.
Sau đây là cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, Thành
phố Đà Nẵng:

Danh sách cán bộ, công chức Tòa án nhân dân quận Thanh Khê
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

Cán bộ, công chức
Dương Thị Hồng Minh
Nguyễn Thị Lan Anh
Trần Quốc Cường
Đặng Ngọc Cường
Nguyễn Thị Đông Thanh
Phạm Thị Hồng Loan
Lưu Thị Hằng
Trần Thị Kim Cúc

Chức danh
Chánh án, Thẩm phán
Phó Chánh án, Thẩm phán
Phó Chánh án, Thẩm phán

Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán


9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28

Trần Dân
Tô Thị Thy Tuyết

Phan Vĩnh Chuyễn
Đỗ Thị Thúy Năng
Trần Thị Minh Cúc
Lê Bảo Huyền Trân
Lê Văn Linh
Trịnh Đức Thiện
Nguyễn Hữu Khánh
Võ Thị Nhị Tứ
Lê Thị Ngọc Hà
Nguyễn Thị Thoa
Lương Thị Thanh Dung
Nguyễn Thị Cẩm Anh
Đặng Ngọc Hưng
Nguyễn Thị Hồng
Trịnh Thị Hằng
Phạm Thị Thu Ba
Dương Thị Thái
Lê Thị Ngọc Quyên

Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán
Thư ký
Thư ký
Thư ký
Thư ký
Thư ký

Thư ký
Thư ký
Thư ký
Thư ký
Thư ký
Thư ký
Thư ký
Thư ký
Thư ký

Từ đó có thể nhận xét rằng với đội ngũ cán bộ, công chức như vậy số
lượng án mà Tòa án nhân dân quận Thanh Khê giải quyết là rất lớn. Và trong
quá trình thực tập, cũng đã thấy được cường độ làm việc khẩn trương làm sao
có thể giải quyết kịp thời và đảm bảo trong khoảng thời gian luật định cũng
như tạo điều kiện giải quyết nhanh nhất có thể để hạn chế những tổn thất đối
với đương sự trong quá trình giải quyết án.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ
Với vị trí là một cơ quan thay mặt Nhà nước thực hiện quyền lực chung
– quyền lực nhà nước trong việc quản lý xã hội thông qua chức năng xét xử
thì Tòa án nhân dân quận Thanh Khê có những nhiệm vụ chung sau đây:
Toà án xét xử những vụ án hình sự; những vụ án dân sự (bao gồm
những tranh chấp về dân sự; những tranh chấp về hôn nhân và gia đình;


những tranh chấp về kinh doanh, thương mại; những tranh chấp về lao động);
những vụ án hành chính;
Toà án giải quyết những việc dân sự (bao gồm những yêu cầu về dân
sự; những yêu cầu về hôn nhân và gia đình; những yêu cầu về kinh doanh,
thương mại; những yêu cầu về lao động); xem xét và kết luận cuộc đình công
hợp pháp hay không hợp pháp;

Toà án giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật (quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết tranh
chấp dân sự; ra quyết định thi hành án hình sự; hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù; ra quyết định miễn chấp hành hình phạt hoặc giảm mức
hình phạt đã tuyên;
Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước,
của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân.
Bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần giáo dục công dân trung
thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những
nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, các vi phạm pháp luật khác.
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật tại tòa án nhân dân quận Thanh
Khê
2.1. Khái quát về tội “Trộm cắp tài sản’’
“Trộm cắp tài sản” là một trong các tội xâm phạm sở hữu, được quy
định tại Chương XIV của Bộ luật Hình sự 1999, do người đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm chế độ sở hữu nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân được
cấu thành từ các yếu tố sau:


2.1.1. Chủ thể
Chủ thể của tội “Trộm cắp tài sản” có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16
tuổi trở lên (Khoản 1 và khoản 2 điều 138) hoặc từ 14 tuổi trở lên (Khoản 3
và 4 điều 138) có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ
luật hình sự 1999.
2.1.2. Khách thể
Khách thể của tội “Trộm cắp tài sản” là quyền sở hữu tài sản của Nhà

nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản, bao gồm: vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản khác.
2.1.3. Mặt chủ quan
Về mặt chủ quan, tội trộm cắp tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực
tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là trái pháp luật
và gây nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời thấy trước hậu quả của hành vi đó là
tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái phép và ming muốn hậu quả xãy ra.
Mục đích phạm tội là chiếm đoạt tài sản của người khác.
Ví dụ tại Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, có 1 hồ sơ vụ án đã được ra
Quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong quá trình xét hỏi tại tòa, bị cáo khai
nhận thực hiện hành vi dùng gạch đá ven đường, và lợi dụng những xe hơi
của người dân để ngoài đường nếu có tài sản thì đập bể kính để nhằm mục
đích trộm cắp tài sản có bên trong xe. Theo Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân
dân quận Thanh Khê, Vụ thứ nhất, bị cáo phát hiện 1 giỏ xách bên trong, bị
cáo liền dùng gạch bên đường và đập để lấy trộm tài sản. Cũng trong đêm đó,
bị cáo tiếp tục thực hiện vụ thứ 2, tương tự vụ thứ nhất và ăn trộm được 1 ba
lô trong đó có 1 laptop, đến vụ thứ 3, mặc dù không thấy tài sản nhưng bị cáo
vẫn dùng gạch đập kính ô tô. Vậy trong lần thứ 3 này có thể xác định đây là
tội trộm cắp tài sản hay không?


Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi của mình có dùng đèn pin rọi
vào xem trước, tuy không thấy tài sản, nhưng vẫn đập kính ô tô. Đại diện
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đã không đưa ra cáo buộc về hành vi
này mà cho rằng đó cũng cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, do đó, chủ tọa
phiên tòa đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm tránh bỏ lọt tội phạm, vì căn
cứ vào hành vi phạm tội và các chứng cứ tài liệu thu thập được đã có thể
chứng minh bị cáo phạm tội “Hủy hoại tài sản”.
Từ ví dụ trên cho thấy, việc xác định tội danh cho đúng rất quan trọng

trong việc giải quyết các vụ án hình sự, đảm bảo nguyên tắc đúng nười đúng
tội theo quy định của Bộ luật hình sự.
2.1.4. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội Trộm cắp tài sản bao gồm: Hành vi khách quan,
đối tượng tác động, hậu quả của tội phạm.
Trong đó hành vi khách quan được thực hiện bởi 2 hành vi: Hành vi lén
lút và hành vi chiếm đoạt:
Hành vi lén lút là hành vi che giấu việc thực hiện hành vi phạm tội đối
với người quản lý tài sản mà tính chất của nó là người phạm tội lợi dụng sự sơ
hở hoặc tạo ra sự sơ hở của người quản lý tài sản. Như việc dụng chìa khóa
mở cửa, cạy cửa hoặc đột nhập vào nơi cất giấu tài sản.
Hành vi chiếm đoạt tài sản: Đặc điểm của hành vi chiếm đoạt của tội
trộm cắp tài sản là tại thời điểm thực hiện hành vi chiếm đoạt, ý thức chủ
quan của người phạm tội cho rằng người quản lý tài sản không biết được hành
vi chiếm đoạt.
Về đối tượng tác động của tội phạm là tài sản bị chiếm đoạt và thỏa
mãn 2 điều kiện:
Thứ nhất, tài sản phải là tài sản do người khác quản lý bao gồm những
tài sản đang thuộc sự chiếm hữu về mặt thực tế của người quản lý tài sản. Ví
dụ, ví tiền có 5 triệu đồng bỏ trong ba lô. Ngoài ra, những tài sản tuy thoát ly
khỏi sự chiếm hữu về mặt thực tế của người quản lý tài sản nhưng nằm trong


khu vực quản lý. Ví dụ tài sản bỏ trong phòng. Hay là những tài sản không
nằm trong khu vực quản lý nhưng hình thành khu vực quản lý riêng. Ví dụ,
nguyên vật liệu tập kết tại một địa điểm công cộng.
Thứ hai, tài sản phải có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới
2.000.000 đồng thì phải thỏa mãn một trong các điều kiện. Gây hậu quả
nghiêm trọng tức là hậu quả gián tiếp của hành vi trộm cắp và hậu quả này
thực hiện với hình thức lỗi vô ý, có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài

sản và ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an xã hội. Điều kiện thứ hai đó là đã
bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi chiếm đoạt tài sản. Điều kiện
cuối cùng là đã bị kết án về một trong các tội phạm xâm hại đến khách thể là
quyền sở hữu.
Thứ ba, về hậu quả của tội phạm phải đảm bảo các yêu tố cấu thành
như: can phạm đã cất giữ tài sản nếu tài sản nhỏ gọn, can phạm đã mang ra
khỏi nơi quản lý nếu tài sản cồng kềnh, hoặc đã xê dịch tài sản khỏi vị trí ban
đầu nếu là tài sản hình thành khu vực quản lý riêng.
Do đó, phải xem xét đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, tránh tình
trạng oan sai hay bỏ lọt tội phạm, hay xác định nhầm tội danh.
Ví dụ: Theo một bản án tại Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, A có
quen biết B tại một cửa hàng thực phẩm, sau nhiều lần trò chuyện, A đã thuyết
phục B mua sản phẩm X của A, A đến nhà B, sau khi giới thiệu và trao đổi
thời gian giao hàng, A nói B đặt cọc một khoản tiền. Trong lúc đi lấy tiền A
lợi dụng sơ hở, lấy laptop rồi bỏ trốn. Mặc dù là có hành vi gian dối, tuy
nhiên trong trường này chúng ta không thể áp dụng tội “Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản” mà áp dụng tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại Điểm c
Khoản 2 Điều 138 “dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm” để giải quyết. Vì
vậy chúng ta phải đánh giá khách quan các tình tiết cấu thành tội phạm để xác
định rõ đây là loại tội phạm gì, các hành vi biểu hiện ra sao, đánh giá đúng
bản chất của hành vi.


2.2. Thực tiễn áp dụng
2.2.1 Tình hình áp dụng pháp luật
Qua báo cáo tổng kết và dữ liệu hệ thống lưu trữ qua các năm của Tòa
án nhân dân quận Thanh Khê cho thấy số lượng án giải quyết rất lớn, đặc biệt
là tội “Trộm cắp tài sản” chiếm tỉ lệ rất lớn trông tổng số vụ án giải quyết.

Từ biểu đồ trên chúng ta đã có một cái nhìn tổng quan về số vụ án thụ

lý giải quyết tại Tòa án nhân dân quận Thanh Khê là rất lớn, và thường chiếm
khoảng một phần ba số án giải quyết. Từ đó có thể thấy rằng, “Trộm cắp tài
sản” là tội phạm gây rất nhiều ảnh hưởng đến quyền tài sản của người khác
cũng như tình hình trật tự trị an của quận Thanh Khê. Không những thế, biểu
đồ trên còn biểu thị số vụ án về loại tội phạm này luôn chiếm tỉ lệ lớn qua các
năm. Qua đó, chúng ta có một cái nhìn tổng quan về tình hình tội “Trộm cắp
tài sản” trên địa bàn quận Thanh Khê nói riêng và là các con số đáng báo
động trong địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Và để có cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn, tôi xin đưa ra số liệu thống kê
cụ thể trong những năm gần đây về tội Trộm cắp tài sản tại Tòa án nhân dân


quận thanh Khê mà tôi thu thập được thông qua dữ liệu từ phòng Thư ký
Tổng hợp mảng hình sự:

STT
1
2
3
4

Mốc Thời gian

1.10.2011-30.9.2012
1.10.2012-1.10.2013
1.10.2013-1.10.2014
1.10.2014-31.8.2015

Tổng


Số vụ

Tổng bị

Bị cáo

Bị cáo

số vụ
165
196
172
156

TCTS
52
47
67
57

cáo
61/267
64/270
91/312
77/296

nam
48
50
71

69

nữ
13
14
20
8

Bảng thống kê về tình hình tội phạm “Trộm cắp tài sản” tại địa bàn
quận Thanh Khê từ ngày 1.10.2011 đến ngày 31.8.2015
Từ số liệu của bảng thống kê về tình hình tội phạm “Trộm cắp tài sản”
trên có thể đưa ra nhận xét: Số lượng vụ án về “Trộm cắp tài sản” thường dao
động từ 150 đến dưới 200 vụ mỗi năm, đó là con số không nhỏ tại địa bàn 1
quận. Chẳng hạn như giai đoạn 2011 – 2012 có 52 vụ “Trộm cắp tài sản” trên
tổng số 165 vụ án hình sự, chiếm tỉ lệ 31,51%, giai đoạn 2013 – 2014 có 172
vụ án hình sự, “Trộm cắp tài sản” có 67 vụ, chiếm 38,95%.
Ngoài ra số lượng bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” cũng chiếm tỉ lệ
lớn. Ví dụ, giai đoạn 2011 – 2012 có 61 bị cáo trên tổng số 267 bị cáo chiếm
25,09% đến giai đoạn 2013 – 2014 có 91 bị cáo trên tổng số 312 bị cáo,
chiếm tỉ lệ 29,16%. Và cũng trong bảng số liệu này, chúng ta cũng thấy rằng
số lượng bị cáo nam chiếm tỉ rất cao, khoảng bốn phần năm số lượng bị cáo
phạm tội này. (Vị dụ: giai đoạn 2013-2014, số lượng bị cáo nam là 71, nữ 20,
chiếm 78,02%)
2.2.2. Ưu điểm
Thứ nhất: Các vụ án về tội trộm cắp tài sản khi đưa ra xét xử các vụ án
tại Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đa số tài sản trộm cắp đã được cơ quan
điều tra thu hồi trả lại cho người bị hại hoặc bị cáo tự nguyện giao nộp cho cơ


quan và trực tiếp trả lại cho người bị hại, người có quyền lợi liên quan đến vụ

án.
Thứ hai: Lời khai của bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ được, biên bản thực
nghiệm hiện trường và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoàn toàn phù hợp và
thống nhất để xác định các yếu tố cấu thành tội phạm và xác định các tình tiết
khác của vụ án trộm cắp để đưa ra bản án đúng người đúng tội, đúng pháp
luật.
Thứ ba: Tòa án quyết định bị cáo phạm tội và quyết định hình thức
thẩm vấn và tranh tụng công khai tại phiên tòa. Kết quả cho thấy việc xét xử
các bị cáo về tội trộm cắp tài sản các bị cáo đa số khai báo thành khẩn, vì thế
Tòa án đã xét xử đúng người đúng tội làm tăng cường công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm. Vì nếu bị cáo không thành khẩn khai báo, phản cung
hoặc có thái độ bất hợp tác sẽ gây khó khăn cho công tác xét xử, sẽ làm ảnh
phạt ưởng không nhỏ đến tính khách quan khi quyết định tội danh và hình
phạt đối với bị cáo.
Thứ tư: Sau khi đã thực hiện hành vi trộm cắp và gây thiệt hại, các bị
cáo đều có ý thức bồi thường thiệt hại, giữa bị cáo, người bị hại, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, đã thỏa thuận được với nhau về việc
bồi dưỡng. Vì vậy khi đưa ra xét xử những người bị thiệt hại không yêu cầu
tòa án giải quyết về việc bồi thường thiệt hại nữa, như vậy giúp cho công tác
xét xử được nhanh chóng, chính xác.
Thứ năm: Để công tác giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản đúng người
đúng tội không bị oan và hạn chế sai sót Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã
nâng cao công tác tranh tụng tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả điều tra công
khai tại phiên tòa và kết quả tranh tụng để quyết định định tội danh và hình
phạt cho các bị cáo. Bên cạnh đó đơn vị cũng tăng cường công tác giáo dục
pháp luật bằng hình thức phối hợp với các ngành thường xuyên tổ chức các


phiên tòa lưu động để tuyên truyền pháp luật cho nhân dân, góp phần phục vụ

có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Thứ sáu: Quá trình tham gia phiên tòa xét xử các bị cáo phạm tội trộm
cắp tài sản cho thấy hội đồng xét xử đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hình
phạt khi các bị cáo đã ăn năn hối lỗi và hứa sẽ không tái phạm. Cho thấy Tòa
án áp dụng sự khoan dung của pháp luật đối với các bị cáo.
Thứ bảy: Số lượng án trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Thanh Khê
tăng và ở mức cao nên tỷ lệ giải quyết án về loại hình tội phạm này của Tòa
án nhân dân quận Thanh Khê cũng tăng theo nhưng vẫn đảm bảo việc giải
quyết án một cách hiệu quả và đúng pháp luật.
2.2.3. Những hạn chế, vướng mắc
2.2.3.1. Những hạn chế, vướng mắc chung
Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự,
dân sự, tố tụng dân sự của Nhà nước ta chưa hoàn thiện nên thường xuyên sửa
đổi, bổ sung. Một số văn bản, thông tư của liên ngành cấp trên chưa kịp thời
hoặc có hướng dẫn nhưng một số quy định trong văn bản chưa phù hợp với
thực tiễn hoặc còn chưa rõ ràng khiến các cấp Tòa án và liên ngành Công an –
Viện kiểm sát – Tòa án các cấp hiểu theo nghĩa khác nên gây khó khăn trong
việc áp dụng vào thực tế.
Ví dụ: điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ Luật Hình Sự quy định về việc tịch
thu, sung công quỹ Nhà nước như sau: Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do
mua bán , đổi chác những thứ ấy mà có. Do chưa có áp dụng thống nhất nên
quy định nói trên có những cách hiểu và áp dụng khác nhau trong qua trình
xét xử.
Như vụ án Nguyễn Văn An và đồng bọn trộm 01 xe mô tô bán được 04
triệu đồng chia nhau tiêu xài hết. Số tiền 04 triệu đồng do bán tài sản trộm cắp
các bị cáo đã nộp lại đủ, tòa sơ thẩm tuyên trả lại cho người bị hại. Ngoài ra,
các bị cáo phải liên đới bồi thường số tiền là 08 triệu đồng (được trừ 02 triệu


đồng đã nộp), Tòa án cấp phúc thẩm lại tuyên 04 triệu đồng là tài sản do

phạm tội mà có nên các bị cáo nộp sung công qũy nhà nước, các bị cáo phải
liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại là 08 triệu đồng (không được trừ 04
triệu đồng).
Trường hợp tài sản trộm cắp đã tẩu tán mà không tìm lại được khi tòa
án xét xử hoàn toàn phụ thuộc vào định giá tài sản trong tố tụng hình sự được
quy định ở nghị định 26/2005 ngày 2/3/2005 của chính phủ. Việc định giá tài
sản trong trường hợp này có ý nghĩa quan trong để Tòa án quyết định áp
dụng điều 138 Bộ luật hình sự 1999 để xét xử. Ví dụ: vụ án Huỳnh Ngọc
Phương và Nguyễn Văn Hiếu phạm tội trộm cắp tài sản được đưa ra xét xử tại
Tòa án nhân dân quận Thanh Khê. Tài sản trộm cắp là một chiếc xe máy
ARIBLADE đã bị tẩu tán không tìm ra được. Theo kết quả định giá tài sản
của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Tòa án nhân dân quận
Thanh Khê thì xe máy mất trộm có trị giá 52 triệu đồng, căn cứ vào thời điểm
mất trộm, vì vậy 2 bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê truy tố
theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự. Nhưng luật sư bào chữa cho 2 bị cáo
lại đưa ra những chứng cứ biên lai mua xe và lời khai của người bị hại là mua
xe 1 năm trước khi xảy ra vụ trộm chỉ với giá 49 triệu đồng, vì vậy luật sư bào
chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Nhưng theo quy định của pháp luật hiện hành trong thành phần của hội đồng
định giá tài sản không có thành viên của cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm
sát) để chứng kiến và tham gia vào việc định giá tài sản nên việc xét xử của
Tòa án chỉ căn cứ hoàn toàn vào kết quả định giá của hội đồng định giá tài
sản. Trong ví dụ trên, tòa án đã quyết định áp dụng khoản 2 Điều 138 Bộ luật
hình sự để xét xử 2 bị cáo. Việc quy định như vậy một phần nào đó cũng đã
ảnh hưởng đến tính khách quan trong công tác xét xử của Tòa án.
2.2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc cụ thể


Về chuyên môn vẫn còn những bản án bị hủy, một số trường hợp Tòa
án nhân dân quận Thanh Khê khi xét xử bị cáo bị phạt tù cho hưởng án treo là

chưa nghiêm, vẫn còn hạn chế trong việc giao bản án, quyết định đưa vụ án ra
xét xử cho các bị cáo, những người tham gia tố tụng khác trong vụ án và Viện
kiểm sát cùng cấp có lúc còn chậm. Ngoài ra, khi soạn thảo các văn bản tố
tụng, bản án còn sai lỗi chính tả, có trường hợp họ, tên, ngày tháng năm sinh
của bị cáo, người tham gia tố tụng trong vụ án bị sai là do Thẩm phán, Thư kí
tòa án thường copy nguyên cáo trạng của Viện kiểm sát hoặc sao từ văn bản
khác nhưng không kiểm tra kỹ các văn bản khi ban hành. Thẩm phán, Thư ký
còn chủ quan và làm theo thói quen, không cập nhật văn bản pháp luật mới
ban hành đã có hiệu lực thi hành, tinh thần trách nhiệm chưa cao.
Đa số người bị hại, người có quyền lợi liên quan, người làm chứng,
người có tài sản bị trộm cắp thường vắng mặt taị phiên tòa xét xử theo giấy
triệu tập. Lúc xét xử, chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của những người
này có trong hồ sơ vụ án, việc xét xử người bị hại, người có quyền lợi liên
quan, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác đã gây ra
không ít khó khăn đến công tác xét xử.
Trong số các vụ án về tội trộm cắp tài sản đã xét xử tại Tòa án nhân dân
quận Thanh Khê số bị cáo chưa thành niên chiếm tỷ lệ cao. Việc nhận thức
pháp luật của các bị cáo chưa thành niên còn hạn chế, nhiều bị cáo chưa thành
niên nghĩ trộm cắp đồ cổ, các vật thờ ở nhà thờ họ, đình làng, miếu không
phải là phạm tội. Tòa án vừa xét xử vừa phải giáo dục hành vi phạm tội cho
các đối tượng chưa thành niên này. Công tác giáo dục tuyên truyền tại phiên
tòa đặt ra nhiều vấn đề hơn vì các bị cáo chưa thành niên còn hạn chế về nhận
thức, kiến thức pháp luật.
Kiến thức pháp luật của một số hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử
vẫn còn yếu kém, trong phiên tòa một số hội thẩm nhân dân còn đặt những
câu hỏi không đúng trọng tâm, không làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo,


cũng như giáo dục bị cáo. Trình độ hiểu biết pháp luật, dùng từ địa phương,
năng lực sư phạm còn hạn chế. Một số hội thẩm, Thẩm phán, Thư ký chưa

tích cực học tập, nghiên cứu văn bản hoặc có trường hợp do hiểu sai dẫn đến
sai sót trong quá trình xét xử vụ án.
Công tác phối hợp của một số cơ quan địa phương, cơ quan nhà nước
và của các cơ quan khác với Tòa án chưa cao nên chậm trả lời hoặc chậm
cung cấp các văn bản, tài liệu ban hành. Thực tế là công văn của Tòa án gửi
đến UBND cấp xã để giao giấy cho các bị cáo tại ngoại, nhưng nhiều trường
hợp UBND cấp xã không tống đạt cho bị cáo hoặc có công văn thông báo đã
giao giấy triệu tập đó cho bị cáo hay gây khó khăn cho việc xét xử vụ án
(những người tham gia tố tụng vắng mặt không rõ lý do thì phải hoãn phiên
tòa).
3. Những vấn đề học tập trong quá trình thực tập
Qua quá trình thực tập tại Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, tôi đã
được học hỏi rất nhiều điều có ích, được cọ xát với thực tiễn áp dụng pháp
luật, được quan sát, tiếp thu được rất nhiều kiến thức thực tế để từ đó so sánh,
đối chiếu cũng như ôn tập lại những kiến thức đã học khi ở trường và biết vận
dụng, áp dụng pháp luật vào trong từng vấn đề cụ thể, đối với từng bị cáo
trong từng vụ án cụ thể.
3.1. Về tác phong làm việc
Trong suốt thời gian thực tập tại Tòa án nhân dân quận Thanh Khê điều
đầu tiên mà tôi học được là phong cách làm việc đúng giờ, mang tác phong
công nghiệp, trong khi làm việc có một số nguyên tắc nghiêm chỉnh từ đó
mang lại hiệu quả cao trong công việc. Trang phục chỉnh tề phong cách làm
việc nghiêm túc đạt hiệu quả cao. Thời gian thực tập không nhiều nhưng đã
rèn luyện cho tôi thói quen làm việc đúng giờ và nghiêm túc, đây là yêu cầu
cần thiết để giúp tôi công tác tốt khi ra trường.


3.2. Về kỹ năng
Được sự chỉ dẫn tận tình của các anh chị trong cơ quan tôi đã biết được
các trình tự thủ tục trong quá trình xử lý, giải quyết các hồ sơ vụ án các đơn

kháng cáo cũng như cách nghiên cứu, xử lý hồ sơ đảm bảo xét xử đúng người
đúng tội, đúng pháp luật.
Đến với Tòa án nhân dân quận Thanh Khê các anh chị đã giúp cho tôi
biết phân biệt các loại hồ sơ vụ án, cách phân loại hồ sơ vụ án, từ đó nghiên
cứu tìm những điểm chưa hợp lý cần phải bổ sung, làm rõ hoặc yêu cầu các
cơ quan có liên quan bổ sung thêm. Bước đầu tạo cho tôi tiếp xúc với công
việc thực tế mà sách vở không thể có được, điều quan trọng hơn nữa là cách
sắp xếp một cách bài bản, có chọn lọc, sắp xếp theo thứ tự thời gian, theo
từng loại vụ án… tạo cho tôi một lối làm việc khoa học, nghiêm túc và đòi hỏi
sự tỉ mỉ, độ chính xác cao.
Qua hai tháng thực tập tại Tòa án nhân dân quận Thanh Khê tôi đã biết
sử dụng máy photo, máy scan, nén file dữ liệu, đánh bút lục, thống kê bút
lục… dưới sự chỉ bảo tận tình của của các anh chị nơi đây, tạo tiền đề cho tôi
sau này tiếp cận và làm quen với công việc thuận lợi hơn.
Khi thực tập tại cơ quan tôi biết được các cán bộ của Tòa án tạo rất
nhiều điều kiện để thực hành không những các kỹ năng về luật pháp mà còn
các kỹ năng mềm khác. Các anh chị còn tin tưởng giao cho các nhiệm vụ ghi
chép lại các biên bản hòa giải, biên bản cuộc họp góp phần nâng cao kỹ năng
soạn thảo văn bản, biết được các trình tự thủ tục để các văn bản đó đúng với
các quy định của pháp luật.
3.3. Về kiến thức
Qua thực tiễn thực tập tôi đã nhận biết cụ thể hơn về cơ cấu , tổ chức và
hoạt động của ngành Tòa án nói chung và Tòa án nhân dân quận Thanh Khê
nói riêng. Đó là một hệ thống có cơ cấu tổ chức khoa học và quản lý chặt chẽ
nhằm mục đích thực hiện chức năng xét xử. Những gì đã học trên giảng


đường đại học, trong sách và các văn bản luật về cơ cấu, tổ chức và hoạt động
của Tòa án nói chung trên lý thuyết. Giờ đây tôi đã hiểu biết cụ thể về một
Tòa án nhân dân quận được tổ chức như thế nào, có sự phân công mang tính

chuyên nghiệp trong giải quyết các vụ việc khác nhau, trách nhiệm của Thẩm
phán, Thư ký tòa án, bộ máy giúp việc gồm những bộ phận gì và trách nhiệm
của từng chức danh cụ thể để hoàn thành công việc giải quyết, xét xử từng vụ
án trong các lĩnh vực khác nhau.
Thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, tham gia các phiên tòa xét xử
công khai, thực hành ghi biên bản phiên tòa, bản án cùng nhiều quyết định,
văn bản tố tụng khác, từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử cũng như
xét xử xong vụ án đã giúp tôi hiểu rõ hơn về các giai đoạn tố tụng, giải quyết,
xét xử của tòa án là như thế nào? Thông qua kết quả đi thực tập cùng những
kiến thức được học trên ghế nhà trường đã giúp tôi hiểu hơn về quá trình giải
quyết xét xử tại tòa án. Ngoài ra, tôi còn học được nhiều trong thực tế giao
tiếp và các thuật ngữ pháp luật trong quá trình làm việc, hiểu hơn về hoạt
động của một số cơ quan như Chi cục thi hành án quận Thanh Khê, Viện kiểm
sát nhân dân quận Thanh Khê, Công an quận Thanh Khê. Qua đó biết được
những vấn đề cần thiết trong việc áp dụng các điều luật, các điều khoản và ra
các quyết định khi xét xử các vụ án. Trong quá trình thực tập tại Tòa án nhân
dân quận Thanh Khê tôi đã học được nhiều kiến thức và hiểu được toàn bộ
hoạt động của Tòa án nhân. Bên cạnh đó trong thời gian thục tập tại tòa án
được tham dự các phiên tòa xét xử lưu động, đi tống đạt các quyết định cho
các bị can bị cáo tại các nhà tam giam, tạm giữ cùng cán bộ hướng dẫn, được
nghiên cứu và trích dẫn trong các vụ án. Đó là những trải nghiệm quý báu
trong thực tiễn khi thực tập tại cơ quan. Cũng trong thời gian trên tôi thấy
được sự phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa Tòa án với các cơ
quan khác: Công an, Viện kiểm sát, chính quyền các địa phương, tòa án cấp


trên, các tổ chức đoàn thể đã hợp tác trong công tác điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án và giáo dục pháp luật cho người dân, chính vì thế mà không xảy
ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm, đảm bảo giải quyết đúng quy định của
pháp luật.

4. Những kiến nghị, đề xuất qua quá trình thực tập
Qua thực tế nghiên cứu thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản tại Tòa án
nhân dân quận Thanh Khê cá nhân tôi nhận thấy vẫn còn một số vấn đề và xin
được đề xuất một số kiến nghị tham khảo sau:
4.1. Kiến nghị chung
Quốc hội cần sớm sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản luật đồng
bộ và các hướng dẫn cụ thể để áp dụng thống nhất pháp luật trong phạm vi cả
nước, đối với các quy định liên quan đến cấu thành tội phạm, xử lý tài sản do
phạm tội mà có, các tội khác nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng, đặc
biệt là vai trò hướng dẫn, áp dụng pháp luật của liên ngành Bộ công an – Viện
kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao để đảm bảo công tác điều
tra, truy tố, xét xử được thống nhất xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật (không nên để mỗi cơ quan ra văn bản hướng dẫn riêng cho ngành của
mình như Tòa án nhân dân tối cao ban hành các quyết định như hiện nay).
Theo tôi nên quy định vừa tịch thu, sung công quỹ tiền, tài sản do trộm cắp
mà có, vừa bồi thường thiệt hại, không trừ các khoản tiền đã nộp. Như vậy
người phạm tội mới được răn đe, phòng ngừa tội trộm cắp tài sản.
Việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự nên quy định có Kiểm sát
viên đứng ra tham gia kiểm sát việc định gái tài sản của hội đồng định giá để
chứng kiến việc định giá tài sản theo đúng pháp luật. Điều đó sẽ đảm bảo cho
việc định giá được khách quan, đảm bảo theo quy định của pháp luật, việc xét
xử cuả Tòa án không bị động khi phải căn cứ hoàn toàn vào kết quả định giá


của hội đồng định giá tài sản, góp phần giải quyết vụ án đúng pháp luật và
khách quan hơn.
4.2. Kiến nghị cụ thể
Tăng cường hơn nữa công tác quản lý cán bộ, quản lý nghiệp vụ, kiểm
tra sửa chữa những sai sót trong nghiệp vụ, những biểu hiện mang tính chủ
quan không vô tư. Việc xử lý các sai phạm phải kịp thời đối với các cán bộ vi

phạm, làm tốt công tác rà soát văn bản sẽ hạn chế sai sót có thể xảy ra trong
quá trình thực hiện xét xử.
Quy định rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, nếu
họ không đến tham gia phiên tòa cần có chế tài cụ thể và cứng rắn hơn. Pháp
luật quy định người làm chứng nếu cố tình không đến mà lời khai của họ có
ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án thì có thể bị áp giải, trong khi đó những
người tham gia tố tụng khác (người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan…) nếu cố tình không đến mà lời khai của họ có ảnh hưởng đến việc giải
quyết vụ án thì lại không có chế tài cứng rắn như vậy. Việc áp dụng chế tài
cứng rắn hơn với người tham gia tố tụng là để giúp cho công tác đấu tranh,
phòng chống tội phạm được khách quan hơn khi công bố lời khai của họ khi
họ vắng mặt và có ý nghĩa quan trọng trong vụ án để giải quyết vụ án chính
xác và đúng pháp luật hơn.
Trong hội đồng xét xử sơ thẩm có hai hội thẩm nhân dân, do đó cần
phải tăng cường số hội thẩm nhân dân là cán bộ đoàn, giáo viên những người
có trình độ hiểu biết pháp luật và tâm lý để xét xử các bị cáo chưa thành niên
phạm tội, để tăng cường hơn nữa việc giáo dục các bị cáo chưa thành niên
nhận ra lỗi lầm để từ đó không tái phạm và cũng răn đe những trẻ chưa thành
niên khác tránh xa việc phạm tội.
Tăng cường công tác tập huấn hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn và
kiến thức pháp luật cho hội thẩm nhân dân, bên cạnh đó phải thường xuyên


tổng kết rút kinh nghiệm trong ngành, kịp thời bổ sung số lượng thẩm phán
còn thiếu.
Tòa án nhân dân quận Thanh Khê cần làm tốt hơn công tác phối hợp
chặt chẽ với liên ngành Công an, Viện kiểm sát, Chi cục thi hành án dân sự
ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án dân sự đặc biệt là chú
trọng hơn tới việc phối hợp công tác với chính quyền địa phương trong phạm
vi toàn quận. Có thể ban hành các bản cam kết phối hợp công tác với các

UBND phường, trong quận để tăng cường việc giáo dục pháp luật trên địa
bàn.
Tăng cường tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao tinh thần đấu tranh
của nhân dân bảo vệ tài sản của nhà nước cũng như của nhân dân, phát triển
tổ chức đoàn thanh niên và các đoàn thể khác, phối hợp với chính quyền địa
phương của các phường, xã xây dựng các đội tự quản bảo vệ tài sản, đảo bảo
an ninh trên toàn quận.
Xét xử nghiêm minh và nhanh chóng các vụ án hình sự nói chung và tội
phạm trộm cắp tài sản nói riêng. Khi nhận được hồ sơ vụ án Thẩm phán được
giao hồ sơ có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án thật kỹ và quyết định đưa vụ
án ra xét xử đứng thời hạn luật định. Việc xét xử phải gắn trách nhiệm của
Thẩm phán, Thư ký và hội thẩm nhân dân vào từng vụ án cụ thể để nâng cao
tinh thần trách nhiệm của mình khi thực hiện nhiệm vụ. Có thưởng phạt
nghiêm minh.
Qua tìm hiểu ở trên cho thấy trộm cắp tài sản đang là vấn nạn của xã
hội. Loại tội phạm này có xu hướng gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi, nguy
hiểm. Cùng với tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế đất nước và nhu cầu
cuộc sống nâng cao của người dân. Loại tội phạm này trên địa bàn quận
Thanh Khê tăng lên đáng kể về số lượng vụ án và số bị cáo với những hình
thức tinh vi và mở rộng về quy mô. Việc đấu tranh phòng chống phòng chống


tội trộm cắp tài sản nhằm đạt được mục đích bảo vệ thành quả lao động của
nhà nước, tổ chức và của công dân nên có ý nghĩa rất to lớn.
Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội trộm
cắp tài sản nói riêng. Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã tham dự thường
xuyên các buổi chia sẽ kinh nghiệm giữa Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân
dân quận, huyện về các nghiệp vụ, thực hiện tốt kế hoạch bồi dưỡng chuyên
môn cho Thẩm phán, hội thẩm, Thư ký. Bên cạnh những mặt tòa án đã làm
được thì còn một số hạn chế như đã nêu trên và ra một số đề xuất kiến nghị hy

vọng sẽ hữu ích cho công tác phòng chống tội phạm và công tác xét xử án
trộm cắp tài sản.
Mặc dù có một số hạn chế nhất định, song việc áp dụng pháp luật tài
Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã đạt được nhiều kết quả. Song song với
quá trình áp dụng pháp luật, cũng cần có một số kiến nghị để tháo gở những
vướng mắc, những thiếu sót để hoàn thiện về mặt pháp luật.

C. PHẦN KẾT LUẬN
Trong chuyên đề thực tập này tôi đã sử dụng những kiến thức đã được
tích lũy trong quá trình học tập và tiếp xúc với thực tế trong thời gian thực
tập. Thông qua việc sử dụng các biện pháp nghiên cứu khoa học tôi mong
muốn được góp một phần hiểu biết của mình để làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn của tội trộm cắp tài sản.
Nghiên cứu tội phạm này dưới góc độ pháp lý cũng như thực tiễn một
cách đầy đủ và khoa học sẽ góp phần tích cực trong công tác xét xử cũng như
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài
sản nói riêng. Bên cạnh đó chúng ta phải phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức xã hội và toàn thể bộ phận nhân dân để ngăn ngừa loại


tội phạm này giảm tối mức tối thiểu và góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội của toàn đất nước.
Từ những vấn đề lý luận đến thực tiễn áp dụng pháp luật trên thực tế
trong quá trình thực tập vừa qua, có thể thấy tội phạm nói ngày càng gia tăng
và phức tạp, vì vậy quá trình đấu tranh với các loại tội phạm này là quá trình
đáu tranh lâu dài, cam go và quyết liệt cần sự cố gắng của tất cả mọi người.
Từ nhà nước, chính quyền địa phương và nhân dân cùng đồng lòng, góp sức
để đẩy lùi tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, góp phần đảm bảo an ninh trật tự
an toàn xã hội trong nhân dân và động lực để phát triển kinh tế xây dựng quê
hương ngày càng giàu đẹp.

Do kiến thức và hiểu biết thực tiễn còn hạn chế nên bài báo cáo của tôi
không thể thiếu những sai sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến của thầy
cô và các bạn giúp tôi hoàn thành tốt bài báo cáo này.
Tôi xin chân thành cám ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU SƯU TẦM
(Bản án tội “Trộm cắp tài sản”)
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

BẢN ÁN SỐ
27/2015/HSST
29/2015/HSST
30/2015/HSST
31/2015/HSST
35/2015/HSST
38/2015/HSST
48/2015/HSST
53/2015/HSST
57/2015/HSST
59/2015/HSST

61/2015/HSST

THỜI GIAN
04/03/2015
06/03/2015
06/03/2015
23/03/2015
26/03/2015
27/03/2015
22/04/2015
23/04/2015
10/05/2015
15/05/2015
15/05/2015

12

62/2015/HSST

18/05/2015

TÊN BỊ CÁO
Đinh Ngô Thảo Nguyên
Lê Tấn Trung
Huỳnh Minh Sơn
Ngô Thị Thêm
Đặng Hữu Nghĩa
Lê Thị Thủy Tiên
Trần Duy Khoa
Dương Trung Thành

Nguyễn Văn Nam
Nguyễn Viết Vương
Nguyễn Minh Trung
Phạm Tấn Thành
Huỳnh Công Phúc
Nguyễn Lương Quốc Hưng


13
14
15

68/2015/HSST
71/2015/HSST
74/2015/HSST

09/06/2015
29/06/2015
30/06/2015

16

74/2015/HSST

08/07/2015

17
18
19


80/2015/HSST
82/2015/HSST
93/2015/HSST

15/07/2015
18/07/2015
14/08/2015

Huỳnh Văn Trường
Đào Văn Thiện
Trương Tuấn Khanh
Nguyễn Văn Nghĩa
Huỳnh Ngọc Phương
Nguyễn Văn Hiếu
Nguyễn Ngọc Hiếu
Phạm Thanh Tàu
Nguyễn Văn Hưng
Võ Ngọc Hoàng
Dương Thanh Việt
Nguyễn Quốc Tân
Phạm Văn Tú
Võ Thanh Tân
Dương Văn Thọ
Lê Đức Dũng
Bùi Viết Phước
Phạm Dũng

MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................................1



B. PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................................2
1. Tóm tắt cơ cấu, tổ chức hoạt động của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê....................2
1.1. Cơ cấu tổ chức................................................................................................................2
1.2. Chức năng, nhiệm vụ......................................................................................................4
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật tại tòa án nhân dân quận Thanh Khê..................................5
2.1. Khái quát về tội “Trộm cắp tài sản’’.................................................................................5
2.1.1. Chủ thể.........................................................................................................................6
2.1.2. Khách thể.....................................................................................................................6
2.1.3. Mặt chủ quan...............................................................................................................6
2.1.4. Mặt khách quan............................................................................................................7
2.2. Thực tiễn áp dụng...........................................................................................................9
2.2.1 Tình hình áp dụng pháp luật.........................................................................................9
2.2.2. Ưu điểm......................................................................................................................10
2.2.3. Những hạn chế, vướng mắc......................................................................................12
3. Những vấn đề học tập trong quá trình thực tập..............................................................15
3.1. Về tác phong làm việc...................................................................................................15
3.2. Về kỹ năng....................................................................................................................16
3.3. Về kiến thức..................................................................................................................16
4. Những kiến nghị, đề xuất qua quá trình thực tập............................................................18
4.1. Kiến nghị chung............................................................................................................18
4.2. Kiến nghị cụ thể............................................................................................................19
C. PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU SƯU TẦM........................................................................................22



×