Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Nghiên cứu tác động của người dân địa phương trong bảo tồn và phát triển một số loài cây chịu hạn trên đất cát ven biển tại xã xuân hòa thị xã sông cầu tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 84 trang )

ĐẶNG THỊ THỦY * LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP * NĂM 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

ĐẶNG THỊ THỦY

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI DÂN ĐỊA
PHƯƠNG TRONG BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
MỘT SỐ LOÀI CÂY CHỊU HẠN TRÊN ĐẤT CÁT
VEN BIỂN TẠI XÃ XUÂN HÒA,
THỊ XÃ SÔNG CẦU, TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2012



1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nước ta có bờ biển dài 3.260 km kéo dài từ Bắc xuống Nam, trong đó
có hơn 500.000 ha đất cát ven biển và rất nhiều cồn cát di động. Phần đất này
có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và đặc biệt là chức
năng phòng hộ môi trường vùng ven biển. Tuy nhiên, đây là loại đất rất dễ bị
thoái hóa, thảm thực vật tự nhiên trên cát luôn bị mất dần vì khí hậu khô hạn
và khắc nghiệt. Hiện nay, vùng cát ven biển luôn được sự quan tâm và tạo
điều kiện của nhiều ngành để nghiên cứu, đánh giá về giá trị khoa học, kinh


tế, xã hội và môi trường để có những chiến lược lâu dài cho việc bảo tồn và
định hướng phát triển.
Thị xã Sông Cầu thuộc tỉnh Phú Yên có diện tích vùng cát lớn nhất, so
với các huyện, thị trong tỉnh. Vùng đất cát này có sinh thái khắc nghiệt và rất
nhạy cảm với điều kiện khí hậu, thời tiết. Hàng năm vào mùa khô nguồn nước
ngầm có lưu lượng nhỏ và mùa mưa phải gánh chịu hậu quả nặng nề, ảnh
hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc mang hơi mặn. Chính vì thế điều kiện
sống của các loài thực vật sống trên vùng này rất đặc trưng.
Vùng đất cát là nơi sinh sống của cư dân nghèo, luôn chịu áp lực của
sóng gió, sạt lở bờ nghiêm trọng hàng năm. Nhiều khu dân cư phải di dời do
mất đất sống, nhiều bãi du lịch vốn nổi tiếng cũng đã mất đi. Thực trạng này
ngày càng trầm trọng hơn bởi nguyên nhân lại do chính con người đã hủy
hoại các hệ sinh thái ven bờ một cách trực tiếp hay gián tiếp, làm suy thoái đa
dạng sinh học, phá vỡ chức năng phòng hộ khiến cho thực trạng ngày càng
một xấu đi. Trước tình hình biến đổi khí hậu, nhiều dự báo mực nước biển sẽ
dâng cao và xâm thực mảnh liệt thì vùng sinh thái và hệ thực vật ven biển thị
xã Sông Cầu càng là điểm nóng cần được quan tâm.


2

Mặc dù sự tàn phá hệ sinh thái đã xảy ra triền miên trong cả thập kỷ
qua do nhiều tác động, nhưng may thay vẫn còn những quần hợp thực vật sót
lại, như một minh chứng khoa học và thực tiễn cho những ai quan tâm đến
môi trường và diễn thế sinh thái, đồng thời cũng là một ngân hàng gen thiên
nhiên quý giá cung cấp cho chúng ta tiếp tục nghiên cứu và bảo tồn để phát
triển hệ sinh thái ven biển theo hướng phòng hộ bền vững.
Xuất phát từ thực tế đó thì việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu tác động
của người dân địa phương trong bảo tồn và phát triển một số loài cây chịu
hạn trên đất cát ven biển tại xã Xuân Hòa, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên”

là cần thiết, góp phần bổ sung những thông tin làm cơ sở cho việc bảo tồn,
khôi phục và phát triển thảm thực vật trên đất cát ven biển tại địa bàn thị xã
Sông Cầu theo hướng đa dạng sinh học và tận dụng các loài cây chịu hạn bản
địa.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những nghiên cứu về quản lý rừng cộng đồng và quản lý rừng bền
vững
1.1.1. Trên thế giới
Trên thế giới khái niệm quản lý rừng cộng đồng lần đầu tiên được tổ
chức FAO đưa ra vào năm 1978 trong hội nghị lâm nghiệp thế giới đó là “tất
cả các hoạt động lâm nghiệp mà cộng đồng người dân tham gia, bao gồm
những hoạt động nhỏ lẻ ở các khu vườn, đến thu hái các sản phẩm lâm
nghiệp cho nhu cầu cuộc sống của người dân và đến việc trồng cây ở các
trang trại cây hàng hoá, sản xuất chế biến các sản phẩm lâm nghiệp ở quy
mô hộ gia đình, hợp tác xã để tăng thu nhập cho những cộng đồng sống trong
rừng”. Tổ chức Fern (2005) lại đưa ra một khái niệm cô đọng và đơn giản
hơn đó là “tiến trình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng dựa vào những kiến
thức bản địa, cấu trúc truyền thống, những lễ hội và luật tục của cộng đồng”.
Hoạt động quản lý rừng cộng đồng bao gồm cả các hoạt động của cá nhân và
cộng đồng liên quan đến rừng, đến quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Về phương diện khoa học, quản lý rừng cộng đồng chỉ mới được nhận
diện vào những năm đầu của thập kỷ 70, khi mà hạn hán ở châu Phi và lũ lụt
ở châu Á đã làm cho tài nguyên rừng bị suy giảm một cách nghiêm trọng.
Nhiên liệu và chất đốt cho các cộng đồng nông thôn trở nên ngày càng khó

khăn. Chính tại thời điểm này các kinh nghiệm về quản lý rừng cộng đồng ở
Ấn Độ (mô hình lâm nghiệp xã hội), Hàn Quốc (mô hình vườn cây cấp bản),
Thái Lan (mô hình rừng cấp bản) và ở Tanzania (trồng rừng cấp bản) đã được


4

các nhà khoa học trên thế giới đặc biệt chú ý và chúng được coi như là một
giải pháp nhằm phát triển rừng và giải quyết vấn đề chất đốt ở nông thôn. Đến
những năm cuối thập kỷ 70 thì khái niệm về quản lý rừng cộng đồng đã được
thừa nhận một cách rộng rãi trên toàn thế giới. Năm 1978 đại hội thế giới về
lâm nghiệp đã lấy tiêu đề là “rừng cho cộng đồng” nhằm tôn vinh và thúc đẩy
các hoạt động rừng cộng đồng (Arnold, 1992) [53].
Trong thập kỷ 80 các dự án phát triển rừng cộng đồng được mở rộng ra
khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Ấn Độ và Nepal. Tên gọi về rừng cộng
đồng cũng có những thay đổi như “cùng quản lý rừng - Join Forest
Management”; “lâm nghiệp xã hội - Social Forestry”, “quản lý rừng dựa vào
cộng đồng - Community Based Forest Management”… Tuy nhiên, về bản
chất của các hoạt động quản lý rừng cộng đồng vẫn không thay đổi, đó là quá
trình lấy người dân làm trung tâm trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Cuối những năm 80 và thập kỷ 90, các nhà khoa học tập trung nhiều hơn về
nghiên cứu thể chế trong quản lý rừng cộng đồng, kể cả những thể chế truyền
thống và thể chế của nhà nước, nhằm tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển
rừng cộng đồng. Trong giai đoạn này các khái niệm về quyền sở hữu được
đưa ra để thảo luận một cách rộng rãi, bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tư
nhân, sở hữu cộng đồng và sử dụng tự do. Đã có lúc khái niệm rừng cộng
đồng bị phê phán một cách kịch liệt theo cách nhìn nhận của Hardin trong “Bi
kịch của sở hữu chung” (1968) [58] rằng phương thức sở hữu cộng đồng về
rừng là đồng nghĩa với sử dụng tự do. Đó là hình thức sử dụng mà mọi thành
viên đều muốn lợi dụng của chung để tối đa hoá lợi ích cho mình, vì thế rừng

bị khai thác một cách kiệt quệ.
Trái ngược với Hardin, Arnold (1978) [53] lại cho rằng rừng cộng đồng
mang lại hiệu quả lớn trong phát triển rừng và phát triển cộng đồng. Ông nhấn
mạnh rằng rừng cộng đồng phải là một hợp phần không thể thiếu trong phát


5

triển nông thôn, mà mục tiêu chủ yếu là nhằm giúp đỡ những cộng đồng
nghèo tự duy trì và phát triển cuộc sống của họ … Vì thế, rừng cho phát triển
cộng đồng phải là rừng của người dân, cho người dân và phải có sự tham gia
của người dân trong quản lý và phát triển. Với cách như như vậy thì Arnold
đã chỉ ra 3 mục tiêu cơ bản của rừng cộng đồng là (1) cung cấp nhiên liệu và
những nhu yếu phẩm khác nhằm phục vụ cho những nhu cầu cơ bản của cộng
đồng, (2) cung cấp bền vững nguồn lương thực và môi trường sống cho một
quá trình sản xuất lương thực liên tục, và (3) tạo nguồn thu nhập, giải quyết
công ăn việc làm cho người dân địa phương. Burda (1997) [54] cũng đã nhìn
nhận về quản lý rừng cộng đồng rằng: “Những người dân sống lâu ở trong
rừng có những kiến thức đặc biệt về sinh thái bản địa và những ảnh hưởng
dài hạn về mặt xã hội, môi trường của rừng đến cuộc sống của họ. Sự tập
trung hoá trong hệ thống quản lý quan liêu thiếu đi sự linh động và khả năng
thích ứng với những điều kiện thực tiễn của các địa phương khác nhau. Trong
khi đó quản lý rừng cộng đồng giúp cho con người sống gần gũi hơn với thiên
nhiên và từ đó lập ra những thiết chế, kế hoạch nhằm quản lý và sử dụng
rừng một cách hiệu quả hơn. Quản lý rừng cộng đồng đã tạo ra một hệ thống
nhạy bén để nhanh chóng đưa ra những quyết định và hành động nhằm thích
ứng với những thay đổi của điều kiện cụ thể. Các quyết định này nhằm đáp
ứng lợi ích của toàn thể cộng đồng, những người chịu trách nhiệm trực tiếp
trong việc đưa ra những quyết định đó”.
Herb (1991) [57] cũng đã đưa ra những lập luận nhằm ủng hộ quản lý

rừng cộng đồng rằng “quản lý rừng bởi cộng đồng tạo ra những cơ hội để tìm
kiếm các giải pháp mà ở hệ thống tập trung quyền lực không có được. Cộng
đồng là nơi mà các hoạt động được thực tế diễn ra, và kế hoạch được xác lập
hàng ngày. Quá trình lập kế hoạch và hành động được lồng ghép một cách có


6

trách nhiệm bởi vì chúng được thực hiện ở tại một nơi và bởi cùng một cộng
đồng”.
Theo ITTO (tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế) [19], QLRBV là quá trình
quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều hơn những
mục tiêu quản lý rừng đã đề ra một cách rõ ràng, như đảm bảo sản xuất liên
tục những sản phẩm và dịch vụ mong muốn mà không làm giảm đáng kể
những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng và không gây ra những
tác động không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam cả trên phương diện về lý thuyết và thực tế thì các hoạt
động quản lý rừng cộng đồng đã và đang được công nhận. Luật Bảo vệ và
phát triển rừng năm 2004 đã xác nhận quyền sở hữu của cộng đồng đối với
rừng và từ đó đã có những quy định về giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn
bản. Ở các vùng cao, đặc biệt là các vùng dân tộc thiểu số đều có các hoạt
động quản lý rừng cộng đồng thông qua các khu “rừng thiêng”, “rừng ma”,
“rừng nhóm hộ”... Các khu rừng này được người dân quản lý, bảo vệ một
cách khá chặt chẽ và có hiệu quả. Có 4 loại hình quản lý rừng cộng đồng được
nhận dạng ở Việt Nam bao gồm: rừng truyền thống, rừng thôn bản, rừng
nhóm hộ, rừng cộng đồng được xã giao.
Quản lý rừng bền vững có thể tóm lược là quản lý rừng ổn định bằng
các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra (sản xuất gỗ nguyên liệu,
gỗ gia dụng, lâm sản ngoài gỗ...; phòng hộ môi trường, bảo vệ đầu nguồn, bảo

vệ chống cát bay, chống sạt lở đất...; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn loài,
bảo tồn các hệ sinh thái...). Bảo đảm sự bền vững về kinh tế, xã hội và môi
trường, cụ thể: Bền vững về kinh tế là bảo đảm kinh doanh rừng lâu dài liên
tục với năng suất, hiệu quả ngày càng cao (không khai thác lạm vào vốn rừng;


7

duy trì và phát triển diện tích, trữ lượng rừng; áp dụng các biện pháp kỹ thuật
làm tăng năng suất rừng); Bền vững về mặt xã hội là bảo đảm kinh doanh
rừng phải tuân thủ các luật pháp, thực hiện tốt các nghĩa vụ đóng góp với xã
hội, bảo đảm quyền hạn và quyền lợi cũng như mối quan hệ tốt với nhân dân,
với cộng đồng địa phương; Bền vững về môi trường là bảo đảm kinh doanh
rừng duy trì được khả năng phòng hộ môi trường và duy trì được tính đa dạng
sinh học của rừng, đồng thời không gây tác hại đối với các hệ sinh thái khác.
1.2. Vai trò và tác động của cộng đồng đối với rừng
Theo nghĩa chung, quản lý tài nguyên được hiểu là tập hợp những hoạt
động nhằm bảo vệ, sử dụng và phát triển tài nguyên. Một nguồn tài nguyên
được quản lý tốt là nó được bảo vệ tốt, phát triển thêm về số lượng, nâng cao
về chất lượng và sử dụng hiệu quả. Tài nguyên rừng là một bộ phận của tài
nguyên nói chung. Vì vậy, quản lý tài nguyên rừng thực chất là những hoạt
động bảo vệ, sử dụng và phát triển chúng vì lợi ích của con người và môi
trường. Để tài nguyên rừng được quản lý một cách bền vững, đòi hỏi phải có
sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành, các cá nhân trực tiếp và gián tiếp
tham gia vào quá trình này. Phân tích vai trò của các bên liên quan trong quản
lý tài nguyên rừng nhằm tìm ra điểm thống nhất chung giữa các bên, góp phần
đề xuất các giải pháp giải quyết những mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với tài nguyên rừng nhằm bảo vệ, sử dụng và phát triển
chúng một cách có hiệu quả (Hoàng Mạnh Quân và ctv, 2005) [15].
Theo Nguyễn Hồng Quân, Phạm Xuân Phương và Vũ Long (2006)

[20], ở Việt Nam, khái niệm “cộng đồng” được dùng trong lĩnh vực quản lý
tài nguyên rừng có thể khái quát thành 2 loại quan điểm chính sau đây:
Thứ nhất, “cộng đồng” là một tập hợp những người sống gắn bó với
nhau thành một xã hội nhỏ có những điểm tương đồng về mặt văn hoá, kinh


8

tế, xã hội truyền thống, phong tục tập quán, có các quan hệ trong sản xuất và
đời sống gắn bó với nhau và thường có ranh giới không gian trong một thôn
bản. Theo quan niệm này,“cộng đồng” chính là “cộng đồng dân cư thôn bản”.
Thứ hai, “cộng đồng” được dùng trong quản lý rừng chính là nói đến
các nhóm người có mối quan hệ gắn bó với nhau trong sản xuất và đời sống.
Như vậy, theo quan niệm này, “cộng đồng” không phải chỉ là cộng đồng dân
cư toàn thôn mà còn bao gồm cả cộng đồng sắc tộc trong thôn; cộng đồng các
dòng họ hoặc các nhóm hộ trong thôn.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cộng đồng, nhưng phần lớn
các ý kiến đều cho rằng “cộng đồng” được dùng trong quản lý rừng chính là
nói đến cộng đồng dân cư thôn. Tại Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng
năm 2004 đã định nghĩa “Cộng đồng dân cư thôn là toàn bộ các hộ gia đình,
cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc đơn vị
tương đương” [35].
Theo Bùi Việt Hải (2005) [13], nghiên cứu về quản lý tài nguyên rừng
dựa vào cộng đồng đòi hỏi phải phân tích sự tham gia của các thành viên hay
các bên liên quan. Những ai tham gia? Họ tham gia vào công tác quản lý và
phát triển rừng như thế nào? Các động cơ nào chi phối đến sự tham gia của họ?
Câu trả lời phụ thuộc vào bối cảnh tự nhiên và xã hội của cộng đồng. Do đó,
không có một mô hình chung cho việc quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng
đồng, mặc dù có nhiều nguyên tắc có thể rút ra nhằm thúc đẩy sự tham gia.
Theo Hoàng Hữu Cải (2006) [5], động cơ thúc đẩy sự tham gia của

người dân trong công tác quản lý tài nguyên chính là động cơ kinh tế. Điều
này có nghĩa là các chiến lược thúc đẩy sự tham gia phải giúp tạo ra những
tình huống quản lý mà tất cả các bên liên quan đều cảm thấy cùng có lợi. Giải
quyết các vấn đề về quyền lợi chính đáng của các bên liên quan trong quản lý


9

và phát triển tài nguyên rừng trở thành một yếu tố quan trọng. Tuy nhiên, lợi
ích mà các bên liên quan nhận được không phải chỉ là lợi ích kinh tế trực tiếp,
các cộng đồng muốn bảo vệ rừng vì muốn tạo ra một cơ sở tài nguyên, một
môi trường tự nhiên đảm bảo cho các sinh kế của họ và một bối cảnh văn hóa,
gắn liền môi trường sống với các giá trị văn hóa mà các cộng đồng đã gắn bó
lâu dài. Hơn thế nữa, việc hưởng dụng các lợi ích này có thể liên quan đến
công bằng xã hội.
Sự tham gia trong quản lý rừng không đơn thuần là một thuật ngữ mà
đã và đang trở thành một khái niệm, một thực tiễn. Tuy nhiên, có nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm sự tham gia. Theo Ngân hàng thế giới, sự tham
gia được định nghĩa như là một quá trình, thông qua đó các chủ thể hay các
bên liên qua cùng tác động và chia sẻ những sáng kiến phát triển và cùng ra
quyết định. Năm 1994, Hoskin đưa ra một định nghĩa rõ ràng hơn về sự tham
gia trong lâm nghiệp, đó là “Sự tham gia là sự thực hiện trồng và quản lý rừng
của nam và nữ trong cộng đồng (những người bên trong cộng đồng) với sự hỗ
trợ của những người bên ngoài cộng đồng”. Năm 1996, Hosley đưa ra các
mức độ từ thấp đến cao của sự tham gia, đó là: tham gia có tính chất vận
động; tham gia bị động; tham gia qua hình thức tư vấn; tham gia vì mục tiêu
được hưởng các hỗ trợ vật tư từ bên ngoài; tham gia theo chức năng; tham gia
hỗ trợ; tự huy động và tổ chức. Fisher (1984) cho rằng, không có vai trò trong
quá trình quyết định thì sự tham gia chỉ là vô nghĩa. Câu hỏi quan trọng nhất
ở đây không phải “ai thực hiện” mà “ai quyết định” trong quản lý rừng (dẫn

theo Nguyễn Bá Ngãi và Trần Ngọc Thể, 2009) [37].
Khi chúng ta tạo điều kiện cho người dân địa phương, đặc biệt là người
nghèo tham gia vào quản lý bảo vệ và phát triển rừng nhằm thỏa mãn nhu cầu
đa dạng của họ như chất đốt, lương thực… và khi nhu cầu, nguyện vọng của


10

người dân được đáp ứng thì người dân sẽ tham gia tích cực hơn vào quản lý
bảo vệ và phát triển rừng một cách bền vững (Võ Văn Thoan, 2002) [41].
1.3. Những nghiên cứu về thảm thực vật, hệ thực vật, thành phần loài,
thành phần dạng sống và cấu trúc
1.3.1. Trên thế giới
H.G. Champion (1936) khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến
Điện đã phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: nhiệt đới, á
nhiệt đới, ôn đới và núi cao.
J. Beard (1938) đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần
hệ và loạt quần hệ). Ông cho rằng rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ: loạt quần
hệ rừng xanh từng mùa, loạt quần hệ khô thường xanh, loạt quần hệ miền núi,
loạt quần hệ ngập từng mùa và loạt quần hệ ngập quanh năm.
Maurand (1943) [61] nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia
thảm thực vật Đông Dương thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông
Dương và vùng trung gian. Đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong các
vùng đó.
Tổng số loài thực vật hiện nay trên thế giới có nhiều biến động và chưa
cụ thể, tuỳ từng tác giả do chưa có sự nghiên cứu và điều tra đầy đủ. Các nhà
thực vật học dự đoán số loài thực vật bậc cao hiện có trên thế giới vào khoảng
500.000 - 600.000 loài.
Năm 1965, Al. A. Phêđôrốp đã dự đoán trên thế giới có khoảng:
300.000 loài thực vật hạt kín; 5.000 - 7.000 loài thực vật hạt trần; 6.000 10.000 loài quyết thực vật; 14.000 - 18.000 loài rêu; 19.000 - 40.000 loài tảo;

15.000 - 20.000 loài địa y; 85.000 - 100.000 loài nấm và các loài thực vật bậc
thấp khác. Năm 1962, G. N. Slucop đã đưa ra số lượng các loài thực vật hạt


11

kín phân bố ở các châu lục như sau: Châu Mỹ có khoảng 97.000 loài, Châu
Âu có khoảng 15.000 loài, Châu Phi có khoảng 40.500 loài, Châu Á có
khoảng 125.000 loài và Châu Úc có khoảng 21.000 loài.
Lecointre và Guyader (2001) đã đưa ra bảng đánh giá số loài thực vật
bậc cao được mô tả trên toàn thế giới như sau: Nấm 100.800 loài (5,80%),
Ngành Rêu 15.000 loài (0,90%), Ngành Thông đất 1.275 loài (0,07%), Ngành
Dương xỉ 9.500 loài (0,50%), Ngành Thông 601 loài (0,03%), Ngành Ngọc
lan 233.885 loài (13,40%).
Những nghiên cứu về thành phần loài là một trong những nghiên cứu
được tiến hành từ lâu trên thế giới. Ở Liên Xô (cũ) có nhiều công trình nghiên
cứu của Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp (1933),
Creepva (1978)… Nói chung theo các tác giả thì mỗi vùng sinh thái sẽ hình
thành thảm thực vật đặc trưng, sự khác biệt của thảm này so với thảm khác
biểu thị bởi thành phần loài, thành phần dạng sống, cấu trúc và động thái của
nó. Vì vậy, việc nghiên cứu thành phần loài, thành phần dạng sống là chỉ tiêu
quan trọng trong phân loại loại hình thảm thực vật.
Ramakrishman (1981 - 1992) nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy
ở vùng Tây bắc Ấn Độ đã khẳng định: chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài
ưu thế đạt cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời
gian bỏ hoá.
Dạng sống của thực vật là sự biểu hiện về hình thái cấu trúc cơ thể thực
vật thích nghi với điều kiện môi trường của nó, nên đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm.
I. K. Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật thường

xanh; thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên
mặt đất trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có


12

thời kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát
triển lâu năm. G. N. Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp
cây nhiều năm và lớp cây hàng năm.
Braun - Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính
liên tục hay đơn độc của loài đã chia thành 5 thang: mọc lẻ; mọc thành vạt;
mọc thành dải nhỏ; mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn. Cho đến nay,
khi phân tích bản chất sinh thái của mỗi hệ thực vật, nhất là hệ thực vật của
các vùng ôn đới, người ta vẫn dùng hệ thống của Raunkiaer (1934) để sắp xếp
các loài của hệ thực vật nghiên cứu vào một trong các dạng sống đó. Cơ sở
phân chia dạng sống của ông là sự khác nhau về khả năng thích nghi của thực
vật qua thời gian bất lợi trong năm. Từ tổ hợp các dấu hiệu thích nghi,
Raunkiaer chỉ chọn một dấu hiệu là vị trí của chồi nằm ở đâu trên mặt đất
trong suốt thời gian bất lợi trong năm.
Raunkiaer đã chia 5 nhóm dạng sống cơ bản: (1) Phanerophytes (Ph):
nhóm cây có chồi trên mặt đất; (2) Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi
sát mặt đất; (3) Hemicryptophytes (He): nhóm cây có chồi nửa ẩn; (4)
Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn; (5) Therophytes (Th): nhóm cây
sống 1 năm. Ông đã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng khác
nhau trên trái đất (SB): SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th. Hệ thống
phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo tính khoa
học, dễ áp dụng. Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa trên những đặc điểm
cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo, phương thức sống của
thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếu tố môi trường tạo nên.
Thuộc về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của thực vật, đặc điểm qua

đông, sinh sản…


13

Xêrêbriacốp (1964) đưa ra bảng phân loại dạng sống mang tính chất
sinh thái học hơn của Raunkiaer. Trong bảng phân loại này, ngoài những dấu
hiệu hình thái sinh thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu như ra quả
nhiều lần hay một lần trong cả đời của cá thể bao gồm: ngành, kiểu, lớp và
lớp phụ. Trong bảng phân loại này không bao gồm những cây thuỷ sinh.
Trong bảng phân loại này ông còn chia ra các đơn vị nhỏ hơn là nhóm, nhóm
phụ, tổ và các dạng đặc thù.
Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thảo đã được lập ra lần đầu tiên
bởi Canon (1911), sau đó hàng loạt bảng đã được đưa ra. Với cây thảo, đặc
điểm phần dưới đất đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó
biểu thị mức độ khắc nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu
năm của cây. Vì thế việc sử dụng phần dưới đất để làm tiêu chuẩn phân chia
dạng sống sẽ giúp cho ta đánh giá đúng hơn kiểu thảm, những đặc điểm đặc
trưng của môi trường.
1.3.2. Ở Việt Nam
Bảng phân loại đầu tiên của ngành Lâm nghiệp Việt Nam về thảm thực
vật rừng ở Việt Nam là bảng phân loại của Cục điều tra và quy hoạch rừng
(1960). Theo bảng phân loại này rừng trên toàn lãnh thổ Việt Nam được chia
làm 4 loại hình lớn: Loại I: đất đai hoang trọc, những trảng cỏ và cây bụi.
Loại II: gồm những rừng non mới mọc. Loại III: gồm tất cả các loại hình rừng
bị khai thác mạnh trở nên nghèo kiệt. Loại IV: gồm những rừng già nguyên
sinh chưa bị phá hoại hoặc khai thác hợp lý.
Trần Ngũ Phương (1970) [32] đưa ra bảng phân loại rừng ở Miền Bắc
Việt Nam, chia thành 3 đai lớn theo độ cao: đai rừng nhiệt đới mưa mùa; đai
rừng á nhiệt đới mưa mùa; đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao.



14

Thái Văn Trừng (1978) [46] đã đưa ra 5 kiểu quần lạc lớn (quần lạc thân
gỗ kín tán; quần lạc thân gỗ thưa; quần lạc thân cỏ kín rậm; quần lạc thân cỏ
thưa và những kiểu hoang mạc) và nguyên tắc đặt tên cho các thảm thực vật.
Thái Văn Trừng (1998) [47] khi nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt đới
Việt Nam đã kết hợp 2 hệ thống phân loại (hệ thống phân loại lấy đặc điểm
cấu trúc ngoại mạo làm tiêu chuẩn và hệ thống phân loại thực vật dựa trên yếu
tố hệ thực vật làm tiêu chuẩn) để phân chia thảm thực vật Việt Nam thành 5
kiểu thảm (5 nhóm quần hệ) với 14 kiểu quần hệ (14 quần hệ). Bảng phân loại
này của ông từ bậc quần hệ trở lên gần phù hợp với hệ thống phân loại của
UNESCO (1973).
Vũ Tự Lập và cộng sự (1995) [20] cho rằng khí hậu ảnh hưởng đến sự
hình thành và phân bố các kiểu thực bì thông qua nhiệt độ và độ ẩm. Dựa vào
mối quan hệ giữa hình thái thực bì và khí hậu chia ra 15 kiểu thực bì khác
nhau: kiểu rừng rậm nhiệt đới gió mùa rụng lá; kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm
thường xanh; kiểu rừng rậm nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá; kiểu rừng khô
nhiệt đới gió mùa khô rụng lá; kiểu rừng thưa nhiệt đới khô lá kim; kiểu sa
van nhiệt đới khô; kiểu truông nhiệt đới khô; kiểu rừng nhiệt đới trên đất đá
vôi; kiểu rừng nhiệt đới trên đất mặn; kiểu rừng nhiệt đới trên đất phèn; kiểu
rừng rậm á nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh; kiểu rừng rậm á nhiệt đới ẩm
hỗn giao; kiểu rừng thưa á nhiệt đới hơi ẩm lá kín; kiểu rừng rêu á nhiệt đới
mưa mùa; kiểu rừng lùn đỉnh cao.
Trong thực vật chí Đại cương Đông Dương và các tập bổ sung tiếp theo
đã mô tả và ghi nhận có khoảng 240 họ với khoảng 7.000 loài thực vật bậc
cao có mạch. Những năm gần đây, nhiều nhà thực vật dự đoán con số đó có
thể lên tới 10.000 đến 12.000 loài. Trên cơ sở những thông tin mới nhất và
những căn cứ chắc chắn, năm 1997, Nguyễn Tiến Bân đã giới thiệu khái quát



15

những đặc điểm cơ bản của 265 họ và khoảng 2.300 chi thuộc ngành hạt kín ở
nước ta [4]. Gần đây, Phan Kế Lộc (1985) [23] đã kiểm kê và ghi nhận đến
nay trong hệ thực vật Việt Nam đã biết được 9.653 loài thực vật bậc cao có
mạch mọc tự nhiên, thuộc 2.011 chi và 291 họ. Nếu kể cả khoảng 733 loài
cây trồng đã được nhập nội thì tổng số loài thực vật bậc cao có mạch biết
được ở Việt Nam đã lên tới 10.386 loài, thuộc 2.257 chi và 305 họ, chiếm
khoảng 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 57% tổng số họ của toàn thế giới.
Cũng do điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng, đặc thù nên hệ thực vật
nước ta có thành phần loài khá phong phú mang cả yếu tố của thực vật nhiệt
đới ẩm Indonesia - Malaisia, yếu tố của thực vật nhiệt đới gió mùa, thực vật ôn
đới nam Trung Hoa và các yếu tố của thực vật Ấn Độ - Trung và Nam Tiểu Á.
Ở Việt Nam, Phan Kế Lộc (1970) đã xác định hệ thực vật miền bắc
Việt Nam có 5609 loài thuộc 1660 chi và 240 họ. Nguyễn Đăng Khôi (1971)
đã bổ sung thêm 26 loài không được F. Gagnepain ghi nhận ở Miền bắc Việt
Nam trong “Thực vật chí đại cương Đông Dương”. Nguyễn Đăng Khôi và
Nguyễn Văn Phú (1975) đã thống kê 39 loài cây bộ Đậu thân bò và thân leo
làm thức ăn giàu protein cho gia súc Miền Bắc Việt Nam. Thái Văn Trừng
(1970) thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7.004 loài thực vật bậc cao có mạch
thuộc 1850 chi, 289 họ [46]. Phan Kế Lộc (1978) điều tra phát hiện 20 loài
cây có tannin thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae) và giới thiệu 4 loài khác mọc
ở Việt Nam có tannin [22]. Hoàng Chung (1980) [6] khi nghiên cứu đồng cỏ
vùng núi Bắc Việt Nam đã công bố thành phần loài thu được gồm 233 loài
thuộc 54 họ và 44 bộ. Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1983) khi nghiên cứu hệ
thực vật Tây Nguyên đã thống kê được 3210 loài, chiếm gần 1/2 số loài đã
biết của toàn Đông Dương [3].



16

Phạm Hoàng Hộ (1991 - 1993) trong “Cây cỏ Việt Nam” đã thống kê
số loài hiện có của hệ thực vật là 10.500 loài [14]. Đỗ Tất Lợi (1995) khi
nghiên cứu các loài cây thuốc đã công bố 798 loài thuộc 164 họ có ở hầu hết
các tỉnh nước ta [24].
Thái Văn Trừng (1998) khi nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam đã có
nhận xét về tổ thành loài thực vật của tầng cây bụi như sau: trong các trạng
thái thảm khác nhau của rừng nhiệt đới Việt Nam, tổ thành loài của tầng cây
bụi chủ yếu có sự đóng góp của các chi Psychotria, Prismatomeris, Pavetta
(họ Cà phê - Rubiaceae); chi Tabermontana (họ Trúc đào - Apocynaceae); chi
Ardisia, Maesa (họ Đơn nem - Myrsinaceae) [47].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) khi tổng kết các công trình nghiên cứu về
khu hệ thực vật ở Việt Nam đã ghi nhận có 2393 loài thực vật bậc thấp và
1373 loài thực vật bậc cao thuộc 2524 chi, 378 họ [38, 39].
Một số công trình nghiên cứu về dạng sống ở Việt Nam như: Doãn
Ngọc Chất (1969) nghiên cứu dạng sống của một số loài thực vật thuộc họ
Hoà thảo. Hoàng Chung (1980) thống kê thành phần dạng sống cho loại hình
đồng cỏ Bắc Việt Nam, đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại
kiểu đồng cỏ sa van, thảo nguyên [6].
Hoàng Chung (2008) khi nghiên cứu thực vật trong đồng cỏ vùng núi
bắc Việt Nam, đã phân chia 8 kiểu dạng sống chính là: kiểu cây gỗ, kiểu cây
bụi, kiểu cây bụi thân bò, kiểu cây bụi nhỏ, kiểu cây bụi nhỏ bò, kiểu nửa bụi,
kiểu thực vật có khả năng tạo chồi mới từ rễ, kiểu cây thảo có hệ rễ cái sống
lâu năm [7].
Phan Nguyên Hồng (1991) [16] khi nghiên cứu hình thái thảm thực vật
rừng ngập mặn Việt Nam đã chia thành 7 dạng sống cơ bản: cây gỗ (G), cây



17

bụi (B), cây thân thảo (T), dây leo (L), cây gỗ thấp hoặc dạng cây bụi (G/B),
ký sinh (K), bì sinh (B).
Nguyễn Thế Hưng (2003) khi nghiên cứu dạng sống thực vật trong các
trạng thái thảm thực vật tại Hoành Bồ (Quảng Ninh) đã kết luận: nhóm cây
chồi trên đất có 196 loài chiếm 60,49% tổng số loài của toàn hệ thực vật;
nhóm cây chồi sát đất có 26 loài chiếm 8,02%; nhóm cây chồi nửa ẩn có 43
loài chiếm 13,27%; nhóm cây chồi ẩn có 24 loài chiếm 7,47%; nhóm cây 1
năm có 35 loài chiếm 10,80% [18].
Lê Ngọc Công (2004) [11] khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng
bằng khoanh nuôi trên một số thảm thực vật ở Thái Nguyên đã phân chia thực
vật thành các nhóm dạng sống sau: cây gỗ; cây bụi; cây cỏ và dây leo.
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp tổ chức nội bộ của các thành phần sinh vật
trọng hệ sinh thái rừng mà qua đó các loài có đặc điểm sinh thái khác nhau có
thể chung sống hài hoà và đạt tới sự ổn định tương đối trong một giai đoạn
phát triển nhất định của tự nhiên. Cấu trúc của rừng vừa là kết quả, vừa là sự
thể hiện quan hệ đấu tranh và thích ứng lẫn nhau giữa các sinh vật rừng với
môi trường sinh thái và giữa các sinh vật với nhau. Các nhân tố trong cấu trúc
rừng là: cấu trúc tổ thành, cấu trúc tầng (trên mặt đất và dưới mặt đất), cấu
trúc tuổi…
Phạm Minh Nguyệt (1994) [31] đưa ra những tiêu chuẩn về một cấu
trúc rừng cần được quan tâm khi tiến hành chặt tu bổ. Cấu trúc thích hợp tức
là mọi tầng cây đều phát triển tốt. Tầng cây trên cung cấp nguyên vật liệu cho
kinh doanh nhưng cũng tạo ra các điều kiện khác cho cây rừng phát triển cân
đối nhịp nhàng. Tầng trung bình bổ sung độ tàn che tạo điều kiện sinh thái
thuận lợi cho cây rừng và cung cấp một số nguyên liệu. Tầng cây tái sinh mọc


18


xen giữa thảm tươi cây bụi, dây leo là tiềm lực của rừng tạo điều kiện tái sinh
lâu dài.
Nguyễn Văn Trương (1982) [48] đưa ra một số cấu trúc tiêu chuẩn cần
được đảm bảo điều chế rừng theo phương pháp chặt chọn. Ông cho rằng nếu
áp dụng chặt chọn như hiện nay thì không thể tạo lại vốn rừng như trước khi
chặt nên dùng thuật ngữ khai thác nuôi dưỡng rừng.
Vũ Đình Phương (1987) trong vấn đề thâm canh rừng tự nhiên ở nước
ta, ông cho rằng muốn xác định được hướng kỹ thuật thâm canh rừng tự nhiên
cần phải hiểu biết về rừng, nắm bắt được quy luật tự nhiên của rừng. Những
quy luật tự nhiên của rừng có liên quan đến cấu trúc rừng, nghiên cứu về cấu
trúc rừng hỗn loài thường xanh (cấu trúc tổ thành, cấu trúc tầng, cấu trúc theo
thời gian…) là cơ sở cho việc đề xuất biện pháp thâm canh rừng [33]. Nguyễn
Hải Tuất (1991), nghiên cứu quy luật cấu trúc quần thể cây rừng (Ba Vì) cho
rằng, điều kiện sinh thái ở đây đảm bảo tính ổn định của một hệ sinh thái núi
cao thể hiện qua các quy luật cấu trúc rừng [50].
1.4. Những nghiên cứu về các loài thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt
chủng
1.4.1. Trên thế giới
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, do những nguyên nhân khác
nhau, nhiều loài thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc bị đe doạ tuyệt chủng, các
nguồn tài nguyên sinh học không ngừng bị suy giảm. Để nâng cao nhận thức
trong xã hội và toàn cộng đồng về tính cấp thiết của việc bảo tồn đa dạng sinh
học và tạo cứ liệu quan cho công tác bảo tồn, từ năm 1964, hiệp hội bảo tồn
thiên nhiên thế giới (IUCN) đã cho xuất bản các Bộ sách đỏ nhằm cung cấp
một cách khoa học và có hệ thống danh sách về tình trạng bảo tồn và đa dạng
của các loài động vật và thực vật đang có nguy cơ tuyệt chủng trên thế giới.


19


Năm 1994, IUCN đã đề xuất những thứ hạng và tiêu chuẩn mới cho
việc phân hạng tình trạng các loài động vật, thực vật bị đe dọa trên thế giới
[59]. Các thứ hạng và tiêu chuẩn của IUCN được cụ thể hoá như sau: loài
tuyệt chủng (EX), loài rất nguy cấp (CR), loài nguy cấp (EN), loài sẽ nguy
cấp (VU)…
1.4.2. Ở Việt Nam
Tuyển tập “Sách đỏ Việt Nam (phần thực vật)” của tập thể tác giả thuộc
Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, nay là Viện Khoa học
và công nghệ Việt Nam là tài liệu duy nhất công bố một cách đầy đủ các loài
thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam. Cuốn sách được xuất
bản vào các năm 1992, 1996 và mới nhất là năm 2007. Trong cuốn “sách đỏ
Việt Nam (phần thực vật)” năm 2007 đã công bố 847 loài (thuộc 201 họ) quý
hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo vệ.
Theo Nghị định số 32/2006/NĐ-CP [27] về quản lý thực vật, động vật
rừng nguy cấp, quý, hiếm đã chia thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý,
hiếm thành 2 nhóm:
- Nhóm I: nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại, gồm
những loài thực vật rừng, động vật rừng có giá trị đặc biệt về khoa học, môi
trường hoặc có giá trị cao về kinh tế, số lượng quần thể còn rất ít trong tự
nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt chủng cao. Thực vật rừng, động vật rừng nhóm I
được phân thành: nhóm IA gồm các loài thực vật rừng thuộc 2 ngành là:
ngành Thông với 7 loài và ngành Mộc lan với 8 loài, nhóm IB gồm các loài
động vật rừng.
- Nhóm II: hạn chế khai thác sử dụng vì mục đích thương mại, gồm
những loài thực vật rừng, động vật rừng có giá trị khoa học, môi trường hoặc
có giá trị cao về kinh tế, số lượng quần thể còn ít trong tự nhiên hoặc có nguy


20


cơ tuyệt chủng. Thực vật rừng, động vật rừng nhóm II cũng được chia thành:
nhóm IIA gồm các loài thực vật rừng thuộc 2 ngành: ngành Thông với 10 loài
và ngành Mộc lan với 27 loài, nhóm IIB gồm các loài động vật rừng [33].
Nguyễn Thị Yến (2008) [52] khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính
đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc ở một số kiểu thảm thực vật tại xã Xuân
Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, đã thống kê được 20 loài thực vật quý
hiếm, trong đó có 15 loài ở mức sẽ nguy cấp (VU) và 5 loài ở mức nguy cấp
dựa theo những thứ hạng và tiêu chuẩn của Sách đỏ Việt Nam (2007) và
IUCN.
Phân viện Điều tra quy hoạch rừng Tây Bắc Bộ (2009) khi nghiên cứu
hiện trạng hệ thực vật ở khu Bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng đã
thống kê và lập danh mục số loài thực vật quý hiếm ở khu bảo tồn thiên nhiên
Thần Sa - Phượng Hoàng gồm có 44 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam và
22 loài có tên trong Nghị định số 32/2006/NĐ-CP [27].
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà số lượng loài thực vật
có giá trị đang bị giảm sút, bị đe dọa và có nguy cơ tuyệt chủng. Tuỳ từng
thời điểm, một loài có thể đang ở cấp này có thể chuyển sang cấp khác (do
nhiều nguyên nhân). Vì vậy, cần có nhiều nghiên cứu đầy đủ hơn để đánh giá
số loài thực vật có nguy cơ tuyệt chủng ở từng vùng cụ thể và phải đánh giá
thường xuyên nhằm có thể bảo tồn các loài thực vật quý hiếm có giá trị ở
nước ta.
1.5. Những nghiên cứu về thảm thực vật tự nhiên vùng cát ven biển ở
Việt Nam
Vùng cát ven biển ở Việt Nam là một trong những vùng sinh thái khắc
nghiệt và rất nhạy cảm với điều kiện khí hậu, thời tiết. Điều kiện môi trường
của vùng đất này trong vài thập niên vừa qua có sự biến động khá mạnh do


21


tác động của thiên nhiên và con người. Bão lụt hàng năm thường xuyên đe
dọa đời sống của cư dân địa phương. Nguy cơ sạt lở bờ biển và hiện tượng cát
bay, cát trôi, cát chuồi là những mối đe dọa thường xuyên. Ngay cả việc phát
triển sản xuất nâng cao đời sống trong mấy năm gần đây như đào hồ nuôi
trồng thủy sản cũng đã làm xáo trộn không ít cảnh quan, môi trường; cộng với
việc khai khoáng đại trà đã làm cho những vùng đất nơi đây vốn đã khốn khó
lại càng khốn khó hơn. Thực trạng nhiễm mặn đất trồng, sa mạc hóa cảnh
quan, gia tăng hạn hán, ngập úng do lún sụt địa tầng... do hậu quả của khai
khoáng và đào hồ nuôi trồng thủy sản thiếu kiểm soát gây ra, đã và đang là
vấn nạn của đời sống cư dân tại chỗ.
Một trong những phương thức phát triển bền vững là phải là xây dựng hệ
thống nông lâm kết hợp lấy nguồn gen bản địa làm gốc, bảo tồn, phát triển
thảm thực vật tự nhiên đã có trên cơ sở hiểu biết tường tận tiềm năng đất đai
và đa dạng sinh học.
Năm 2000, tác giả Đỗ Xuân Cẩm, Đặng Thái Dương và cộng tác viên của
Trường Đại học Nông Lâm Huế đã nghiên cứu trồng thử nghiệm một số loài
cây trồng bản địa thân gỗ trên vùng đất cát nội đồng huyện Phong Điền tỉnh
Thừa Thiên Huế [2].
Năm 2005, Trường Đại học Nông Lâm Huế đã có nghiên cứu về tiềm
năng sử dụng cây bản địa ở vùng cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế, qua bước
đầu điều tra đã xác định được 372 loài, thuộc 268 chi và 112 họ thực vật khác
nhau. Trong đó có họ Myrtaceae có giá trị nhất về phục hồi rừng tự nhiên và
khai thác gỗ củi. Trong số 7 chi hiện hữu của họ này ở vùng nghiên cứu, chi
Syzygium có đến 6 loài, trong đó có 5 loài cây gỗ có ý nghĩa sinh thái và sử
dụng vào đời sống… Từ đó đã đề xuất một số nhóm cây gỗ, cây bụi sử dụng


22


để trồng rừng, xúc tiến tái sinh tự nhiên góp phần tạo ra những dải rừng hỗn
loài phòng hộ bền vững cho bờ biển.
1.6. Những nghiên cứu về thảm thực vật tự nhiên vùng cát ven biển tại
tỉnh Phú Yên và khu vực nghiên cứu
Vùng đất cát ven biển của tỉnh có diện tích trên 10 nghìn hécta, phân bố
dọc ven biển của 4 huyện thị, tập trung nhiều ở huyện Tuy Hòa và thị xã Sông
Cầu. Đây là loại đất tích tụ do một quá trình lâu dài của gió biển, trong đó
phần lớn là ổn định, một số lượng lớn diện tích đã được đưa vào canh tác.
Thảm thực vật tự nhiên chủ yếu là cỏ gồm các loại chính sau đây: ở
vùng gió nhiều có Từ bi, Ma dương, Cỏ lông chồn, vùng kín gió có một số
cây gỗ lớn: Cóc, mù u, Chai lá cong là loài cây họ dầu quí hiếm, có kích
thước lớn mọc trên cát. Loài này mới được phát hiện ở bãi cát Từ Nham
(Sông Cầu), bán đảo Cam Ranh.
Những công trình nghiên cứu về thảm thực vật và đa dạng thực vật ở
Phú Yên còn rất ít. Cuối năm 1996, Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên đã
có điều tra khảo sát về các loài thực vật quí hiếm có nguy cơ tuyệt chủng trên
địa bàn tỉnh. Loài bị đe dọa: Gáo vàng, Xúng đáo (Sến); loài nguy cấp: Gõ đỏ,
Trầm hương (gió); loài hiếm: Bàng vuông, Vù hương (Xá xị), Dầu đọt tím,
Cam thảo đá bia, Gai ma vương, Ổ kiến; loài rất hiếm: Mun; …
Ở khu vực nghiên cứu (xã Xuân Hòa), các công trình nghiên cứu về
thảm thực vật và hệ thực vật ở đây chưa có công trình nào nghiên cứu, đặc
biệt là về vai trò của người dân địa phương trong quản lý bảo vệ và phát triển
TTV vùng cát. Do vậy cần phải có những nghiên cứu sâu hơn để làm cơ sở
cho công tác quản lý, bảo tồn và phát triển thảm thực vật bền vững tại địa
phương. Đề tài luận văn này của tác giả góp phần nghiên cứu giải quyết các
yêu cầu đó.


23


Chương 2
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
2.1.1. Vị trí địa lý
- Thị xã Sông Cầu nằm ở phía Bắc của tỉnh Phú Yên, cách Thành phố
Tuy Hòa khoảng 60 km (dọc theo quốc lộ 1A) và cách Thành phố Quy Nhơn
42 km (theo quốc lộ 1D). Toàn thị xã gồm có 10 xã và 04 phường.
- Tọa độ đạ lý:
Từ 13021’ - 13042’ vĩ độ Bắc
Từ 109006’ - 109020’ kinh độ Đông
- Ranh giới:
+ Bắc giáp tỉnh Bình Định
+ Nam giáp huyện Tuy An
+ Đông giáp biển Đông
+ Tây giáp huyện Đồng Xuân
- Tổng diện tích tự nhiên toàn thị xã là 48.928,48 ha, chiếm 9,7% diện
tích tự nhiên toàn tỉnh Phú Yên. Sông Cầu có quốc lộ 1A đi xuyên qua suốt
chiều dài của thị xã, hầu hết các khu dân cư và các vùng kinh tế trọng điểm
đều nằm trãi dài theo dọc tuyến quốc lộ 1A và 1D. Tập trung nhiều nhất nằm
ở phía Bắc thị xã Sông Cầu dọc theo tuyến quốc lộ 1D.
- Địa danh khu vực nghiên cứu: xã Xuân Hòa - thị xã Sông Cầu, tỉnh
Phú Yên.


×