Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

khủng hoảng tài chính đông á 1997 1998 nguyên nhân, diễn biến và bài học kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.71 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH
MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
------------------------

BÀI TIỂU

LUẬN

ĐỀ TÀI:
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG Á 1997-1998
NGUYÊN NHÂN, DIỄN BIẾN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Giảng viên cố vấn: NGUYỄN THỊ HỒNG VINH
Nhóm thực hiện: Nhóm 6

Mục lục


1

MỞ ĐẦU

Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, châu Á thu hút gần một nửa tổng số vốn nước
ngoài dành cho những nước đang phát triển. Trong đó các nền kinh tế Đông Nam Á có
tỷ lệ lợi tức cao đặc biệt có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm tỷ
lệ hoàn vốn cao. Kết quả là nhiều nền kinh tế trong khu vực thu nhận được một lượng
lớn "tiền nóng" (hot money) và kinh qua một thời kỳ giá tài sản tăng vọt mạnh mẽ.
Cùng lúc, nhiều nền kinh tế khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines,
Singapore và Hàn Quốc có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng, đạt mức 8–12%
tổng sản lượng quốc nội (GDP) liên tục trong khoảng thời gian cuối thập niên 80 và
đầu thập niên 90 thế kỷ XX, và được xem là những “Con hổ Đông Á” lúc bấy giờ.


Đây là những thành quả hết sức ấn tượng đã được nhiều viện nghiên cứu kinh tế trên
thế giới hoan nghênh bao gồm cả Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới
(World Bank), nó đuợc biết đến như một phép lạ của kinh tế Đông Nam Á. Tuy nhiên
chỉ trong vòng 2 năm từ 1997 đến 1998, cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á (bắt đầu
từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan) đã ảnh hưởng xấu đến các nền kinh tế ở Châu Á bao
gồm các thị trường chứng khoán, các trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản
khác. Nạn nhân của cuộc khủng hoảng này không ai khác chính là những “Con hổ
Đông Á”. Vậy điểu gì đã tạo nên thương tích trên những “Con hổ Đông Á” ấy?
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997 – 1998

P a g e 2 | 21


2
2.1
2.1.1

DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG:

Tình hình tại Thái Lan:
Những năm 80 của thế kỉ XX:
Giai đoạn này Thái Lan nổi lên như một nền kinh tế năng động nhất Châu Á. Từ
1985 đến 1995, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan đạt 8,5% hàng năm, mức độ
lạm phát trung bình hàng năm 5% (so sánh trong cùng thời kì kinh tế Mỹ tăng trưởng
1,3% và lạm phát 3,2%). Tăng trưởng kinh tế rất nóng do sự bùng nổ đầu tư vào kinh
doanh nhà xưởng, bất động sản, cơ sở hạ tầng du lịch. Nhu cầu về bất động sản tăng
rất nhanh tại Bangkok, văn phòng làm việc và các tòa nhà chọc trời mọc lên khắp nơi
trên thành phố. Các tổ chức tài chính tiếp tục cho các công ty kinh doanh bất động sản
vay vốn vì giá bất động sản liên tục tăng.
Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền

kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được
lâu. Cũng trong thời gian này, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều
chỉnh, cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Đầu năm 1997:
Sự bùng nổ về xây dựng nhà ở và văn phòng kinh doanh đã lên tới đỉnh điểm khi
lượng cung vượt quá cầu. Ước tính 365.000 căn hộ bỏ trống ở Bankok vào cuối năm
1996, cùng với 100.000 căn hộ khác sẽ được đưa vào sử dụng năm 1997 đã làm cho
cung vượt xa cầu trên thị trường bất động sản.
Trong thời gian đó, bùng nổ đầu tư của Thái Lan vào cơ sở hạ tầng, khu công
nghiệp, khu thương mại… làm tăng lượng hàng nhập khẩu với tỷ lệ cao chưa từng
thấy. Để xây dựng Thái Lan phải nhập các thiết bị đắc tiền, vật liệu từ Mỹ, Châu Âu,
Nhật. Kết quả tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán thâm hụt mạnh trong suốt
giữa những năm 90. Trong giai đoạn này xuất khẩu tăng nhưng nhập khẩu càng tăng
nhanh hơn.
Trong năm 1995 thâm hụt cán cân thanh toán là 8.1% so với GDP. Lúc này, chính
phủ quyết định thực hiện việc tăng lãi suất. Cũng trong thời gian đó các công ty cho
vay tài chính cũng lần lượt tuyên bố phá sản vì không có khả năng trả nợ nước ngoài,
nợ xấu trên thị trường bất động sản vì thế ngày càng tăng lên và tăng hơn 30 tỷ trong
thời gian này. Trên đây là những chuyển biến từ nên kinh tế Thái Lan, điều tương tự
cũng đã xảy ra với các nền kinh tế khác như Singapore, Malaysia, Indonesia, Hàn
Quốc, HongKong … Như vậy vấn đề của nền kinh tế Thái Lan lúc này là: Cán cân
thanh toán thâm hụt dẫn đến việc các nhà đâu tư dự kiến rằng tình trạng phá giá đồng
nội tệ sẽ diễn ra. Tức là, tỉ giá cố định sẽ không được giữ nữa (đồng Baht sẽ giảm giá
mạnh) vì vậy nhiều công ty mua Dollar vào để trả nợ khi đáo hạn còn các nhà đầu cơ
thì vay Baht để mua USD nhằm thu lại lợi nhuận. Điều này khiến cho đồng Baht bị
tấn công đầu cơ quy mô lớn vào ngày 14/05/1997. Sự tăng lãi suất của ngân hàng làm
nhiều công ty tài chính bị sụp đổ Trước những sức ép trên, Chính phủ Thái Lan tuyên
bố ko phá giá đồng nội tệ, và ban đầu dùng dự trữ ngoại tệ để bảo vệ tỷ giá nhưng chỉ
P a g e 3 | 21



có thể duy trì trong vòng 1 tháng. Sau đó đồng Baht được thả nổi vào ngày
02/07/1997 và ngay lập tức mất giá 10%, rồi giá trị tiếp tục giảm xuống sau đó (lên tới
hơn 50%). Vào đầu năm 1997, tỷ giá giữa đồng Baht và USD là 25 Baht đổi 1 USD,
nhưng đến tháng 1 năm 1998, tỷ giá này đã giảm xuống tới mức 56 Baht mới đổi được
1 USD. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995
xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141.5
tỷ USD xuống còn 23.5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan
bị phá sản. Cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra khiến kinh tế Thái Lan suy sụp, nguy
cơ lan ra các nước khác cùng khu vực là rất cao. IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói
cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan vào ngày 11/8. Đến ngày 20/8, IMF thông
qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3.9 tỷ dollar. Tuy nhiên, khủng hoảng vẫn nhanh chóng
lan ra Hàn Quốc, Malaysia và Indonesia. Đồng Ringgit (Malaysia) và Rupiah
(Indonesia) đều chịu sức ép và sau cùng đều bị phá giá. Đồng won Hàn Quốc, do cơ
chế tỷ giá linh hoạt, nên đã mất giá từ năm 1996. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa chính
thức (nội tệ/USD) Hàn Quốc (Won) Thái Lan (Baht) Indonesia (Rupiah) Malaysia
(Ringgit) Philippines (Peso) Singapore (S-dollar) Nguồn: NHTG, “World
Development Indicators”, 2002. Chỉ số tỷ giá hối đoái với USD Dòng vốn ngắn hạn
đã chảy vào các nước Đông Á, giờ ồ ạt chảy ra. Cả các nhà đầu tư đều muốn chuyển
vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từ chối đảo nợ và ngưng cho vay mới. Các nhà
đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài.
Riêng trong năm 1997, hơn 20 tỷ USD ròng được đưa ra khỏi 5 nước Đông Á chịu
khủng hoảng, trong khi trong năm 1996 vẫn còn nhận được gần 66 tỷ USD. Thị
trường bất động sản tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia ...sụp đổ. Hình 8: Chỉ số giá
cao ốc văn phòng tại Thái Lan và Indonesia Nguồn: Marcus Miller và Pongsak
Luangaram (1998) Chỉ số chứng khoán tụt giảm mạnh ở hầu hết các nước Đông Á.
Chỉ số giá chứng khoán Nguồn: IMF, “World Economic Outllook”, 12/1997.
2.2
2.2.1


Diễn biến cụ thể tại các nước:
HongKong:
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn
được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7.8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong
Kong lại cao hơn ở Mỹ, vì vậy đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công Nhờ có dự trữ
ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung
tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi
hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng
trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm
23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8%
lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong
Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp
lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài
chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hong Kong, đã công khai tuyên
chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong
(tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính
quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong
(khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ). Cuộc khủng hoảng này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998
P a g e 4 | 21


chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài
của chính phủ HongKong và bởi sự sụp đổ của các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar
Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ
giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7.8:1.
2.2.2

Hàn Quốc:
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng
nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty, tập đoàn lớn nợ ngân hàng trong nước, còn ngân

hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị
trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán
của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng
Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12
lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc
thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%.
Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7.2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các
chính sách thắt chặc tiền tệ. Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700
KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.

2.2.3

Malaysia:
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng
Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm
giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3.75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4.20
Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền
này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài
khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sự
giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia
giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới
mức 24.6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.

2.2.4

Indonesia:
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia
đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên
12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá
hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah

liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên
tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng
cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường
chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử. Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân
đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước
ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua
Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát
tăng vọt. Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính thắt chặt theo yêu cầu của
IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng
này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở
Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động.
P a g e 5 | 21


Theo thống kê, trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào
khoảng 2000:1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức
18.000:1. Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ
của Indonesia đã giảm đi.
SO SÁNH MỨC TNBQ/NGƯỜI NĂM 1996 VÀ NĂM 2002
Sự rút vốn ồ ạt của các nhà đầu tư, người cho vay trong và ngoài nước khiến
nguồn vốn tín dụng cạn kiệt, thị trường chứng khoán trầm lắng xảy ra ở hầu hết các
nước Đông Á. Khủng hoảng tiền tệ dẫn đến khủng hoảng xã hội và khủng hoảng
chính trị. Điều này dẫn đến việc ông Suharto buộc phải từ chức tổng thống Indonesia
vào giữa năm 1998.

P a g e 6 | 21


3


NGUYÊN NHÂN CUỘC KHỦNG HOẢNG:

3.1 Mất cân đối vĩ mô
Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Á bắt đầu chững lại.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các nước Đông Á ở mức 19-21% trong
năm 1994-1995 giảm xuống 4% trong năm 1996. Nguyên nhân làm chững lại xuất
khẩu bao gồm: (i) tăng trưởng thương mại toàn cầu suy giảm; (ii) đồng yên mất giá;
(iii) tỷ giá hối đoái thực hiệu dụng của các nước Đông Á lên giá; (iv) lượng cầu và giá
của các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là điện tử, suy giảm.
Bảng 1: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%)

Dấu hiệu rõ nhất là ở Thái Lan. Việc đồng baht được gắn cố định với đồng đô la
Mỹ đã làm cho tỷ giá hối đoái thực lên giá (khi đồng đô la lên giá liên tục so với đồng
yên). Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan vào năm 1996 lên tới 8% GDP, trong
khi con số của bốn nước còn lại ở trong khoảng 3.4-4.8%. Mực thâm hụt này tiếp tục
được tài trợ bởi dòng vốn vay ngắn hạn nước ngoài chảy vào (theo NHTG 1998).

P a g e 7 | 21


Để bảo vệ tỷ giá cố định trước sức ép tăng giá, các ngân hàng trung ương Thái
Lan phải bảo vệ tỷ giá bằng cách thực hiện chính sách tiền tệ sau đây:

P a g e 8 | 21


Trong cơ chế tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá do CP quy định. Khi tỷ giá quy định là
E1 cao hơn tỷ giá cân bằng E0 thì CP sẽ mua ngoại tệ vào đề E1 trở thành điểm cân
bằng mới. (Hình 1)
Ngược lại, nếu tỷ giá quy định là E2 thấp hơn tỷ giá cân bằng trên thì trường E0

thì CP phải bán ngoại tệ ra để giữ tỷ giá vẫn là E2 (Hình 2) Đi liền với khủng hoảng
tiền tệ là khủng hoảng ngân hàng. Lãi suất cao trong thời gian chính phủ bảo vệ tỷ giá
buộc cả các tổ chức tài chính và các đối tượng vay vốn lâm vào tình thế khó khăn.
Hàng loạt công ty tài chính của Thái Lan phá sản trước cả khi phá giá đồng baht. Và
khi đồng baht bị phá giá, trách nhiệm nợ phải trả tính ra đồng nội tệ của các khoản nợ
nước ngoài tăng vọt, kéo theo sự phá sản của nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính
nữa

3.2 Dòng vốn nước ngoài chảy vào
Những yếu tố dẫn đến khủng hoảng ở Đông Nam Á không chỉ bó hẹp trong phạm
vi nội địa mà còn cả từ bên ngoài. Từ năm 1990 đến 1997, lượng vốn tư nhân chảy
vào các nước đang phát triển tăng 5 lần từ 42 tỷ USD lên 256 tỷ USD. Đông Á là nơi
thu hút một lượng lớn dòng vốn này, chiếm tới 60% trong nửa đầu thập niên 90 (theo
NHTG 1998). Tỷ suất sinh lợi thấp ở các nền kinh tế phát triển và sự thần kỳ trong
tăng trưởng của Đông Nam Á là những động lực thúc đẩy dòng vốn dịch chuyển từ
Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU tới các nền kinh tế Đông Nam Á. Chênh lệch lãi suất giữa
các nền kinh tế Đông Nam Á và các trung tâm tiền tệ quốc tế luôn ở mức dương.
Dòng vốn tư nhân càng được thúc đẩy vào giữa thập niên 90 với chính sách tiền tệ mở
rộng ở Hoa Kỳ, nới lỏng kiểm soát tài chính ở châu Âu và tình trạng bong bóng đồng
P a g e 9 | 21


yên ở Nhật Bản. Thêm vào đó, một số chính phủ các nước Đông Nam Á đã tự do hóa
tài khoản vốn theo hướng khuyến khích dòng vốn nước ngoài ngắn hạn. Cụ thể, chính
sách của Thái Lan là hạn chế đầu tư nước ngoài dài hạn dưới dạng FDI hay đầu tư
chứng khoán, trong khi chỉ cho phép các ngân hàng được vay ngắn hạn nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái cố định mà nhiều chính phủ Đông Nam Á duy trì cũng là yếu tố
khuyến khích dòng vốn nước ngoài do rủi ro tỷ giá được loại bỏ. Lãi suất nước ngoài
thấp hơn lãi suất nội địa trong khi tỷ giá được cố định rõ ràng là một khuyến khích
cho các tổ chức kinh doanh và tài chính nội địa đi vay vốn nước ngoài.


Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện đối với dòng vốn nước ngoài. Các nhà đầu tư nước
ngoài khi cho các tổ chức tài chính trong nước vay cũng ngầm giả định rằng khoản
cho vay của mình sẽ được chính phủ nước sở tại bảo lãnh khi nhìn thấy quan hệ gần
gũi giữa chính phủ với các ngân hàng nội địa. Khi kinh tế tăng trưởng khá, lượng vốn
nước ngoài chảy vào nhiều thì không ai nghĩ rằng lại có thể không đảo được nợ hay
vay mới khi các
P a g e 10 | 21


Khoản vay trước đây đến kỳ đáo hạn. Dòng vốn chảy vào đã tạo nên sự bùng nổ
tín dụng trong khu vực. Trong thập niên 1990, tín dụng ngân hàng cấp cho khu vực tư
nhân tăng lên nhanh chóng. Tới cuối năm 1996, tổng giá trị nợ tài chính của khu vực
tư nhân trên GDP lên tới hơn 140% ở Hàn Quốc và Thái Lan (bảng 5). Mức cung tiền
M2 ở Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Indonesia tăng gần 20%/năm
trong năm 1996 và 1997.

Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay nước ngoài ngắn hạn được
đầu tư dài hạn. Thái Lan vay nước ngoài chủ yếu thông qua các ngân hàng và công ty
tài chính. Trong trường hợp của Indonesia, các doanh nghiệp vay nước ngoài trực tiếp
trên thị trường vốn “hải ngoại” (NHTG 1998). Bảng 6 trình bày tình hình nợ ngắn hạn
nước ngoài so với dự trữ ngoại tệ của các nước Đông Nam Á vào thời điểm trước khi
xảy ra khủng hoảng. Chỉ có hai nước Malaysia và Philippines trong số năm nước chịu
khủng hoảng là có dự trữ ngoại tệ cao hơn nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn nước ngoài cao
hơn dự trữ ngoại tệ có nghĩa là trong thời gian ngắn nền kinh tế sẽ không có khả năng
chi trả.

Một tỷ trọng lớn vốn cho vay của ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân
hàng được tập trung vào khu vực bất động sản. Ở Indonesia, các khoản cho vay khu
vực bất động sản tăng 37%/năm trong giai đoạn 1992- 95 (trong khi tổng tín dụng

ngân hàng chỉ tăng 22%/năm). Ở Thái Lan, các khoản cho vay bất động sản của
P a g e 11 | 21


những công ty tài chính tăng 41%/năm trong giai đoạn 1990-95 (trong khi tổng tín
dụng chỉ tăng 33%/năm).

3.3 Thị trường tài sản bong bóng
Thông qua sự bảo lãnh ngầm của Chính phủ, các ngân hàng vay vốn nước ngoài
sau đó tiến hành cho các nhà đầu tư trong nước vay lại với lãi suất cao, nhưng mức lãi
suất này vẫn tỏ ra hấp dẫn vì hiện tượng bong bóng của thị trường tài sản và lợi nhuận
cao của các dư án đầu tư bất động sản. Các nhà đầu tư kỳ vọng thị trường tài sản vẫn
còn tăng cao hơn nũa trong thời gian sắp tới. Nhưng chính sự đầu tư vào tài sản ồ ạt
làm cung vượt cầu, kéo theo giá trị tài sản bắt đầu giảm xuống các nhà đầu tư bắt đầu
bị lỗ, mất khả năng chi trả cho ngân hàng. Đến lượt mình Ngân hàng cũng mất khả
năng chi trả nợ vay nước ngoài, trong đó có nhiều khoản vay ngắn hạn bằng ngoại tệ
khiến các ngân hàng phải tranh nhau mua ngoại tệ để trả nợ. Các chính phủ ĐNÁ
không phản ứng kịp thời với những thay đổi trên thị trường tiền tệ cộng với chính sách
lỏng lẻo đã làm cho các nhà đầu tư bán tháo tài sản để chuyển sang đồng dollar, các
nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi thị trường ĐNÁ để đầu tư vào những thị trường khác
hấp dẫn hơn và cuộc khủng hoảng bắt đầu diễn ra.
3.4 Rút vốn ồ ạt
Radelet và Sachs (1998) đưa ra ý tưởng rằng trục trặc ở Đông Nam Á nảy sinh do
nhà đầu tư mất niềm tin và khủng hoảng xảy ra là một cuộc khủng hoảng mất tính
thanh khoản. “Sự thất bại trong phối hợp” đã làm cho các nhà đầu tư đồng loạt rút
vốn. Một ngân hàng đang hoạt động tốt nhưng bị người gửi tiền đến rút tiền ồ ạt cũng
lâm vào tình trạng khó khăn. Mặc dù, giá trị tài sản có vẫn lớn hơn giá trị tài sản nợ
(tức là xét về tiêu chuẩn tài chính thì ngân hàng vẫn đứng vững), nhưng ngay tại thời
điểm bị rút tiền đồng loạt thì không có khả năng trả tiền cho tất cả những ai muốn rút
tiền. Như vậy, ngân hàng rơi vào tình trạng không còn khả năng thanh toán (hay mất

tính thanh khoản). Đông Nam Á rơi vào tình trạng các nhà đầu tư không còn tin rằng
dự trữ ngoại tệ đủ để trả nợ ngắn hạn. Cả các nhà đầu tự nước ngoài lẫn trong nước
đều muốn chuyển vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từ chối đảo nợ và ngưng cho
vay mới; còn các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và
P a g e 12 | 21


chuyển ra ngoài. Riêng trong năm 1997, hơn 20 tỷ USD ròng được đưa ra khỏi 5 nước
Đông Á chịu khủng hoảng, trong khi trong năm 1996 vẫn còn nhận được gần 66 tỷ
USD Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á
bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ
năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so
với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ
đang được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ
Liên bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ
lên để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu
tư hơn so với các nước ở Đông Nam Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư
ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng
tiền của các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước
này trở nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của
Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của
họ.

3.5 Tấn công của các nhà đầu cơ lớn
Các nhà đầu tư lớn rút vốn có thể gây tác động lớn đến nền kinh tế mà họ đã đầu
tư. Tương tự như vậy, họ cũng có thể đầu cơ và đánh cược vào tình hình tài chính của
một nền kinh tế. Theo như lời buộc tội của Thủ tướng Malaysia Mahatir, cuộc khủng
hoảng 1997/98 là do hành động của các nhà đầu cơ lớn, các quỹ đầu tư chứng khoán
chênh lệch giá (mà nhân vật được nêu tên là George Soros). Thực tế của nhiều cuộc
khủng hoảng tiền tệ trước cho thấy khi tỷ giá kỳ hạn được định dựa trên tỷ giá cố định

thì các nhà đầu cơ có thể kiềm lời bằng cách bán khống đồng nội tệ (hay mua ngoại tệ
theo hợp đồng kỳ hạn, tương lai) và rút ngoại tệ khi đồng nội tệ sụt giá.

P a g e 13 | 21


P a g e 14 | 21


4

Hậu quả
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá
tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều
doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo
trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia và
Thái Lan. Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của
Suharto ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây
gia tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc
tế. Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền
trung ương của nước này suy yếu. Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP
và GNP bình quân đầu người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi.
Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact
Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD
năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD
xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD.

P a g e 15 | 21



5

Việt Nam bị tác động
a) Theo các số liệu ước tính thì khoảng 70% kim ngạch mậu dịch của Việt Nam
là với các nước Đông Á, và chủ yếu được thanh toán bằng USD hoặc vàng. Nhưng khi
đồng tiền ở Đông Á bị phá giá mạnh sẽ tác động xấu tới các doanh nghiệp có quan hệ
làm ăn với các nước Đông Á. Ngoại trừ đồng đô la Singapore và đồng Yên Nhật mới
bị mất giá trên dưới 20%, còn các đồng tiền khác trong khu vực đã bị phá giá từ 80%
đến 250% so với đồng USD. Trong khi đó đồng tiền Việt Nam mới chỉ mất giá chút ít,
khoảng trên 10% so với đồng USD. Điều đó sẽ làm cho hàng nhập khẩu từ các nước
Đông Á vào Việt Nam với mức rẻ gần như tương ứng với mức phá giá của đồng tiền
các nước. Do đó hàng nhập từ Đông Á sẽ lấn át hàng nội của chúng ta ngay tại thị
trường Việt Nam. Chính điều này đã khuyến khích các nhà xuất khẩu của Đông Á
tăng lượng hàng bán sang Việt Nam, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp Việt
Nam nhập hàng từ Đông Á do giá rẻ hơn bằng cả hai con đường chính ngạch và tiểu
ngạch (buôn lậu qua biên giới). Hiện nay, các doanh nghiệp trong cả nước ta còn tồn
kho nhiều hàng của Đông Á sẽ bị lỗ nặng vì giá các hàng hoá này giảm nghiêm trọng.
b) Do các đồng tiền Đông Á bị phá giá với tỉ lệ lớn, nên đã tạo ra tình trạng đầu
cơ, găm giữ ngoại tệ ở nước ta. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại luôn
muốn vượt trần gây sức ép phá giá đồng tiền Việt Nam. Tình trạng mua bán USD
chuyển khoản theo tỷ giá vượt trần đã xảy ra. Đồng thời, khủng hoảng đã làm cho
lượng tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng chậm, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh kể
cả tiền gửi tiết kiệm của dân chúng. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị
trường ngoại hối nói chung cầu luôn luôn cao hơn cung, do đó có lúc thị trường gần
như đóng băng, doanh số mua bán ngoại tệ giảm mạnh. Ngoại tệ có nguy cơ tăng giá
bất ngờ đã làm tăng nhu cầu vay vốn bằng đồng Việt Nam để tránh rủi ro về tỷ giá và
do vậy làm tăng lãi suất đồng Việt Nam. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm cho nhiều
doanh nghiệp không mua được USD hoặc phải mua với giá cao chịu lỗ nặng.
c) Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70% so với năm

1996. Đó là do 70% FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông Á, là
những nước đang bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng.
d) Sự giảm sút của FDI cùng với nguy cơ phá sản đối với các công ty của Việt
Nam do khả năng xuất khẩu giảm hoặc do chi phí đầu vào tăng vì lãi suất vay vốn
tăng và do giá hàng nhập tăng đã tạo ra nguy cơ thất nghiệp tăng ở nước ta. Chỉ tính
trong 3 tháng cuối năm 1997, riêng các xí nghiệp liên doanh ở thành phố Hồ Chí Minh
đã sa thải 4000 công nhân vì họ phải thu hẹp các hoạt động hoặc bị giải thể do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng. Năm 1997, cả nước có 47 dự án với nước ngoài bị giải
thể, tăng 162% so với năm 1996.
P a g e 16 | 21


6

Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng
Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế
Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải
tổ cách thức quản lý trong khu vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội
nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả phương thức
tăng trưởng kinh tế. Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô Thái Lan và
Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ chế ổn định
giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu
lạm phát. Đồng thời, các nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của
mình. Từ 1997 đến 2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng
lượng dự trữ ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD. Cải cách khu vực tài
chính Các nước Đông Nam Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách
khu vực tài chính:
(1) Xóa và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính;
(2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ,
(3) Tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với

các tổ chức tín dụng và tài chính khác;
(4) Đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính;
(5) Tăng cường giám sát và điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với nâng cao
kỷ luật thị trường. Các ngân hàng Malaysia đã thay đổi tập quán cho vay của mình.
Giờ đây, họ cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn. Cải tổ cách thức quản lý của
khu vực xí nghiệp Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực
tái cơ cấu nợ của các xí nghiệp, củng cố các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo
vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm của
ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế, tăng
cường mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và
sáp nhập kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài.
Cải cách các thị trường Các nước Đông Nam Á đã và đang phát triển thị trường trái
phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng thời, cải cách thị trường lao động đã cho
phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng hơn, giúp xí nghiệp của các
nước Đông Nam Á trở nên linh hoạt hơn.

P a g e 17 | 21


7

Một số bài học cần lưu ý cho Việt Nam:
Thực chất cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á là khủng hoảng nợ nước ngoài, đặc
biệt là vốn vay tư nhân và ngắn hạn, dẫn tới cầu về USD tăng cao, vượt quá cung và
đồng nội tệ mất giá nhanh chónh dẫn đến mất khả năng trả nợ. Vì vậy, bài học đầu tiên
là Việt Nam phải có chiến lược, qui hoạch và biện pháp để quản lý và sử dụng vốn vay
nước ngoài (ODA, vốn vay ngắn hạn và dài hạn) một cách hiệu quả nhất, cũng đảm
bảo hoàn trả vốn vay đúng thời hạn. Việt Nam cần có khung luật pháp nghiêm minh
và hệ thống quản lý của Nhà nước chặt chẽ nhằm kiểm soát những khoản vay nước
ngoài ngày càng gia tăng. Chính sách vay vốn nước ngoài cần khuyến khích hướng

vào vay vốn dài hạn, hạn chế và quản lý chẽ vốn ngắn hạn; cần phải thận trọng vớI
những luồng chu chuyển vốn ngắn hạn ồ ạt.
♣ Trong chiến lược phát triển kinh tế cũng như điều hành vĩ mô, cần duy trì một
thế cân bằng tương đối giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: lạm phát, tăng trưởng, tỷ
giá hối đoái, lãi suất, ngân sách, cán cân thương mạI và cán cân thanh toán. Các chính
sách kinh tế vĩ mô cần được điều hành một cách linh hoạt, đồng bộ và phói hợp chặt
chẽ và bổ sung cho nhau.
♣ Lựa chọn một cách tập trung và phù hợp với các mục tiêu ưu tiên trong quá
trình phát triển (lựa chọn vùng, ngành, sản phẩm, thị trường, qui mô các dự án và nhịp
độ tăng trưởng). Nhà nước phải có định hướng đầu tư của toàn xã hội theo một cơ cấu
hợp lý.
♣ Tiếp tục đổi mới và mở cửa nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường hiện
đạI, quốc tế hoá nền kinh tế và phát huy cao độ nội lực để tăng trưởng nhanh và phá
triển bền vững, đối phó tốt với các “cú sốc” từ bên ngoài.
♣ Sự thâm hụt của cán cân vãng lai là một vấn đề cần được quan tâm thường
xuyên và có biện pháp điều chỉnh thích hợp.Kinh nghiệm của các nước: Malaysia,
Indonesia cho thấy, mặc dù tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai so với GDP thấp hơn của
Thái Lan; mặc dù có dự trữ ngoại tệ tương đối lớn, song cũng không ngăn cản được
phản ứng dây chuyề của khủng hoảng tài chính ở Thái Lan
♣ Sự phát triển của kinh tế thị trường phải đi liền với xây dựng một hệ thống ngân
hang đủ mạnh, có kinh nghiệm trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ trong nền knih
tế thị trường.
♣ Trong nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hòa nhập với thị trường tài chính
quốc tế, việc mở rộng thị trường vốn của mỗi nước là điều hết sức cần thiết. Song,
việc mở rộng cánh cửa thị trường vốn không có nghĩa là hoàn toàn buông lỏng. Mỗi
một quốc gia phải duy trì một tỷ lệ hợp lí: Quan hệ tỷ lệ giữa vốn trong nước và vốn
vay nước ngoài.
Quan hệ tỷ lệ giữa vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong khi gọi vốn từ nước
ngoài. Nếu tỷ lệ vốn ngắn hạn lớn không ổn định và mong manh sẽ là một vấn đề có
tác động rất nhạy cảm khi thị trường tiền tệ trong nước có diễn biến xấu. Sự rút vốn

đồng loạt và ồ ạt sẽ là yếu tố gây rối loạn thị trường vốn trong nước.
Quan hệ giữa thời hạn vay và đối tượng được đầu tư. Nếu thời hạn vay ngắn,
nhưng lại dược đầu tư vào bất động sản, một khi thị trường bất động sản bế tắc thì khả
năng trả nợ sẽ khó và nợ quá hạn sẽ lớn, gấy mất ổn định trong hệ thống tài chính.
P a g e 18 | 21


P a g e 19 | 21


8

Tài liệu tham khảo
Fulbright Economics Teaching Program - Nguyễn Xuân Thành
Giáo trình Tài chính Quốc tế - PGS. TS. Nguyễn Văn Tiến
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Nguyễn Thái Thảo Vy
Giáo trình Tài chính – Tiền tệ - PGS. TS. Vũ Đình Thành - TS. Vũ Thị Minh Hằng

P a g e 20 | 21


P a g e 21 | 21



×