Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Thực trạng xóa đói giảm nghèo và các chính sách phúc lợi xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.07 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nghèo đói là một trong những vấn đề nan giải mà mỗi quốc gia trên thế giới đặc biệt là
những quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam đều phải quan tâm và tìm cách giải
quyết. Việc tấn công vào nghèo đói là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, xã hội của nước ta. Đại hội VII của Đảng, đã xác định xóa đói giảm nghèo
và chính sách phúc lợi là một trong những “ Chính sách kinh tế xã hội vừa cấp bách trước mắt
vừa cơ bản lâu dài”. Đồng thời việc xóa đói giảm nghèo đòi hỏi phải có những chính sách
thích hợp thì mới đạt được hiệu quả. Những chính sách mà nhà nước đưa ra không những góp
phần xóa đói giảm nghèo mà còn góp phần phát triển các ngành kinh tế, cải thiện đời sống
người nghèo để giúp họ thoát cảnh nghèo đói.
Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI,các nước trên thế giới cũng như Việt Nam
đang đứng trước những thay đổi lớn lao có ý nghĩa bước ngoặt. Những thay đổi ấy tạo ra
những cơ hội và thách thức đối với đường lối,chính sách phát triển,trong đó có chính sách xóa
đói, giảm nghèo. Xuất phát từ quan điểm vấn đề đói nghèo không được giải quyết thì không có
mục tiêu nào đặt ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân ổn định, bảo đảm các
quyền con người được thực hiện. các chính sách xóa đói, giảm nghèo đã trở thành một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta và là một nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để chủ động ,sáng tạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xóa đói,giảm nghèo
và các chính sách phúc lợi trong giai đoạn mới ,trước hết cần làm rõ những nhân tố ảnh hưởng,
tác động đến các chính sách, có quan hệ trực tiếp đến sự phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, nhất là thực hiện mục tiêu “ Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có
chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lí,thu nhập
trong xã hội. khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững; giảm tình trạng
chênh lệch giàu – nghèo giữa các vùng miền giữa các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an
sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước. Chú trong
cải thiện điều kiện sống,lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ
1



em. Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyến tật, mất sức lao động và trẻ mồ
côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lí, cân bằng giới
tính và chất lượng dân số.
Với một tỷ lệ không nhỏ số dân đang sống trong cảnh cùng cực, Việt Nam sẽ khó thực
hiện được tiến trình Công Nghiệp Hóa –Hiện Đại Hóa đất nước. Vấn đề đặt ra là phải làm sao
đẩy lùi được tình trạng đói nghèo xuống. Nhưng muốn có những chính sách, biện pháp xoá đói
giảm nghèo hiệu quả thì nhất thiết phải hiểu được những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng
nghèo đói của Việt Nam. Nhận thức được yêu cầu bức thiết đó, nghiên cứu này sẽ tập trung đi
sâu vào thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, các nguyên nhân làm cho một số người rời vào cảnh
khối cùng, các mối quan hệ giữa nghèo đói với công bằng xã hội, sự phân hoá giàu nghèo giữa
các vùng khác nhau. Nghiên cứu này còn giúp ta hiểu thêm mức độ, tầm ảnh hưởng của nghèo
đói ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Nó ảnh hưởng như thế nào, tác động ra sao
đến chất lượng cuộc sống của người dân, cũng như sự cải thiện vị thế của quốc gia. Cuối cùng,
nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng để giúp xoá đói giảm nghèo hiệu
quả hơn.Trong những năm qua, Việt Nam được thế giới chú ý bởi những công tác giảm nghèo
và nâng cao mức sống của người dân. Nhưng hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo ở
nước ta như thế nào? Tác động của nó ra sao? Để trả lời những câu hỏi trên, tôi quyết định
chọn và nghiên cứu đề tài: Phân tích thực trạng xóa đói giảm nghèo và các chính sách phúc lợi
xã hội ở Việt Nam hiện nay.

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng xóa đói giảm nghèo và các chính sách phúc

lợi xã hội ở Việt Nam hiện nay.
2. Phương pháp nghiên cứu:
2


2.1 Phương pháp thu thập thông tin

2.2 Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
2.3 Các số liệu thứ cấp được thu thập ở các báo cáo
2.4 Các công trình nghiên cứu đã công bố của các cá nhân, tổ chức liên quan.
3. Phạm vi và thời gian nghiên cứu:
3.1 Phạm vi nghiên cứu: Ở Việt Nam.
3.2 Thời gian nghiên cứu: 1năm.

MỤC LỤC

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG…………………………………………….. 5
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU………………………9
Chương 3: CÁC CHÍNH SÁCH…………………………………………………... 14

3


Chương 4: KIẾN NGHỊ..............................................................................................22
NGUỒN TÀI LIỆU TRÍCH DẪN………………………………………………... 24

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
I)

Giới thiệu về đề tài

Thế giới đang đứng trước thời khắc trọng đại của lịch sử là đã tiến vào thập niên đầu của
thế kỷ XXI với một nền văn minh rực rỡ nhưng cũng ngổn ngang những vấn đề gay gắt mang
tính toàn cầu. Nó chứa đựng trong mình cả niềm vui và sự bất hạnh, cả nụ cười và nước mắt,

4



cả hạnh phúc và lo toan. Một trong những nỗi lo toàn cầu, nỗi đau nhân loại là sự đói nghèo
trầm trọng trên một phạm vi vô cùng rộng lớn.
Khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, công tác
giảm nghèo là một nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết và những chính sách của nhà nước càng
có ý nghĩa nhiều hơn nữa đối với công tác giảm nghèo. Mấy năm gần đây,nền kinh tế hết sức
khó khăn,nhiều chính sách giảm nguồn vốn thực hiện nhưng riêng nguồn lực cho giảm nghèo
không giảm mà còn tăng. Nếu bình quân trong giai đoạn 2008 – 2012,chúng ta dành khoảng
90.000 tỷ đồng/năm cho giảm nghèo thì giai đoạn 2011 – 2013 nguồn lực dành cho hộ nghèo
là 364.000 tỷ đồng,tương đương 120.000 đồng/năm. Điều này thể hiện quyết tâm của
Đảng,Nhà nước trong việc dành nguồn lực đáng kể để giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo ở nước
ta,phấn đấu đạt được các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Cho đến hôm nay, đói nghèo vẫn là nỗi ám ảnh thường trực đối với mọi người.Trước sự
chứng kiến những thảm họa của chiến tranh, thảm họa của thiên tai, dịch bệnh với bao nỗi
kinh hoàng. Thế nhưng hậu quả do những nạn đói gây ra cũng vô cùng khủng khiếp. Điều
đáng sợ hơn nữa là: Nếu như các cuộc chiến tranh dù khốc liệt vô cùng nhưng rồi trước sau
cũng được giải quyết, nếu như những thảm họa do thiên tai, dịch bệnh gây ra từng bước cũng
sẽ được khắc phục thì vấn đề nghèo đói của nhân loại lại là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức
tạp lại như một căn bệnh kinh niên khó bề chạy chữa.
Đói nghèo là nỗi bất hạnh và là một phi lý lớn. Trong khi nền văn minh nước ta đã đạt
được những thành tựu hiển nhiên về tiến bộ khoa học - công nghệ, làm tăng đáng kể của cải
vật chất xã hội, tăng thêm vượt bậc sự giàu có cho con người, thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên
lưng người dân lại vẫn là sự nghèo đói.
Trên các thành phố ở nước ta, khi ra đi trên đường,sẽ không khó gì để thấy những trẻ em
và người lớn tuổi còn sống trong cảnh vô gia cư chỉ sống nhờ của bố thí hoặc sống dựa vào sự
lao động quá sức : xin ăn, bán vé số,bán báo dạo, chà giày,….., kể cả bằng các nghề đặc biệt là

5



móc túi, mại dâm; làm việc trong những ngành có hại; nhiều trẻ em tuổi không được cắp sách
đến trường.
Như thế đủ thấy đói nghèo và giải quyết vấn đề nghèo đói mang tính phổ biến,tuy nhiên,
để hiểu về chương trình xóa đói giảm nghèo ở nước ta một cách đầy đủ, cần thiết phải có cách
nhìn tổng quan, cần “biết người biết ta” để rút ra những bài học và tìm ra những phương pháp
hữu hiệu.
II)

Các khái niệm cơ bản.
Phúc lợi xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối

thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi
trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Phúc lợi xã hội có nghĩa là mang lại lợi ích cho xã hội. Những chương trình phúc lợi xã hội là
những chương trình của chính phủ được thực hiện để trợ giúp những người cần giúp đỡ.
Chúng gồm trợ cấp hưu trí, trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp cho người không có khả năng lao
động, phụ cấp gia đình (phụ cấp tiền ăn học cho con em các gia đình công chức chưa đến 18
tuổi. Nhưng ở các nước Cộng Sản hình như không có chương trình này), trợ cấp tử tuất cho
thân nhân của quân nhân đã chết, và bảo hiểm y tế quốc gia.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thõa mãn những nhu cầu cơ
bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình đọ phát triển kinh tế và phong tục
tập quán của địa phương. Nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân,
nghèo không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn thiếu thốn trong việc tiếp cận dịch vụ,
như giáo dục, văn hóa, thuốc men, không chỉ thiếu tiền mặt.
Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo
và phát triển kinh tế.
III)

Vai trò đối với phát triển kinh tế.


Hơn một thập niên qua, mô hình tăng trưởng số lượng là dựa trên khai thác tài nguyên và
lao động gia công, dựa trên thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã tới giới hạn và đang phát sinh
nhiều tiêu cực cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Do đó, nhu cầu cấp bách về kinh tế và
6


chính trị là chuyển sang mô hình phát triển bền vững, như các Đại hội của Đảng đã nêu là:
"Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường". Như vậy, vấn đề chính
sách xóa đói, giảm nghèo phải đặt trong tiến trình chuyển sang mô hình phát triển bền vững.
Vấn đề đói nghèo được giải quyết từ ba hướng gắn bó với nhau: Tăng trưởng kinh tế bền
vững, tự nó đã hạn chế phát sinh đói nghèo; tiến bộ xã hội (thể hiện ở trình độ giáo dục, dân
trí) là điều kiện trực tiếp để giải quyết đói nghèo; bảo vệ môi trường đang trở thành vấn đề
quan trọng tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội.
Sự chuyển đổi mô hình kinh tế không chỉ là nhu cầu của nước ta mà là xu thế của thời đại
hiện nay, đang thách thức cả các nước phát triển. Nhìn từ sự nghiệp đổi mới, thì chuyển đổi
mô hình kinh tế là lần đổi mới thứ hai, sau lần đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường (từ năm
1986). Đây là cơ hội lớn và thách thức lớn.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện giúp cho việc xóa đói giảm nghèo được nhanh chống
được cải thiện tốt hơn, đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối và không phải là một.
Tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề nghèo đói, bởi vì nguyên
nhân chính yếu của đói nghèo nói chung là do kinh tế chưa phát triển. Tuy nhiên, đói nghèo lại
do nhiều nguyên nhân khác mang tính đặc thù. Vả lại trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay,
chúng ta chấp nhận kinh tế nhiều thành phần cùng vận động, phát triển cũng là phải chấp nhận
tình trạng phân hóa giàu nghèo tương đối. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo không những là công
việc cần thiết mà là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng. Chúng ta xác định sự phân hóa giàu
nghèo không thể tránh khỏi, nên cũng quyết tâm không để xảy ra tình trạng làm giàu vô tội vạ
trên lưng người khác, cũng như tình trạng “kẻ ăn không hết, người lần không ra”, không thể để
người nghèo bị bỏ rơi trước con mắt của cộng đồng.
Nếu đặt công bằng xã hội lên trên hết và tách rời với phát triển kinh tế thì trước hết dẫn tới
sự triệt tiêu các động lực phát triển. Tuy nhiên nếu đặt hiệu quả kinh tế là mục tiêu duy nhất thì

sẽ làm tăng tình trạng phân hóa hai cực, làm tăng sự khốn khó đối với không ít quần chúng
nhân dân. Bởi vậy, trong khi thực hiện bài toán phát triển đất nước, làm sao phải tạo mọi điều
7


kiện và tăng nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời,hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặt vấn đề
xóa đói giảm nghèo thành công việc thường xuyên, liên tục.

Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
I)

Thực trạng:
8


Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có công tác
xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và phương pháp xác định đường nghèo khổ của
WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và hiện
nay còn khoảng 30%. Theo tiêu chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước ta giảm từ 30,01%
năm 1992 xuống 11% năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực
trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình
quân hàng năm khoảng 50.000 hộ (riêng năm 1996 và 1997 mỗi năm khoảng gần 100.000 hộ
tái nghèo do bão và lũ lụt. Nếu so sánh tình trạng đói nghèo của nước ta với các nước trên thế
giới thì tính bức xúc của nó là rất lớn, ngưỡng nghèo của Việt Nam vẫn xa với ngưỡng nghèo
của thế giới.
Tuy nhiên, xét trên tổng thể, Việt Nam có sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, thành
thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư, ngày càng có xu hướng gia tăng và gay gắt. Trong
báo cáo chính trị tại đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ: “Đến nay nước ta
vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao
động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều,

việc làm là vấn đề đặt ra hết sức gay gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị
và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở
một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn”
theo Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Tỷ lệ nghèo đói ở các vùng cũng có sự khác biệt đáng kể như sau: Vùng Bắc Trung Bộ
(24,62%) và vùng Tây Nguyên (25,65%) là hai vùng có tỷ lệ nghèo đói cao nhất, vùng Đông
Nam Bộ có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất 4,75%. Ở đây có sự chênh lệch giữa các vùng có tỷ lệ
nghèo đói cao với vùng có tỷ lệ nghèo đói thấp gần 5 lần.
Đồng thời cũng dễ dàng nhận thấy người nghèo tập trung nhiều nhất ở vùng trung du và
miền núi phía Bắc có 570.145 hộ chiếm 23,9%, tiếp đến vùng Bắc Trung Bộ có 500.225 hộ
chiếm 20,9%, Đồng bằng sông Cửu Long có 489.050 hộ chiếm 20,51%, cả bốn vùng còn lại
chỉ chiếm 34,7%.
Xét trong từng vùng, giữa các tỉnh tỷ lệ nghèo đói cũng khác biệt. Tại vùng Tây
Nguyên,thì tỷ lệ nghèo đói của Lâm Đồng là 15,89%; Đắc Lắc là 26,44%; nhưng Gia Lai là

9


44,85% và Kon Tum là 54,4%. Tỷ lệ này chênh lệch tới 3,4 lần giữa tỉnh có tỷ lệ nghèo đói
cao nhất so với tỉnh có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất.
Nếu lấy chuẩn mực tối thiểu để so sánh thì một số tỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu có tỷ lệ nghèo đói đều dưới 5% trong khi đó một số tỉnh có tỷ lê
nghèo đói cao như Hoà Bình 55,7%; Kon Tum 54,5%; Quảng Bình 46%; Gia Lai 44,85%; Lai
Châu 42,4%; Sơn La 40%. Tỷ lệ nghèo đói chênh lệch giữa các thành phố gần 10 lần.
Theo báo cáo của địa phương, hiện nay mới có 10 tỉnh, thành phố (chiếm 16%) có tỷ lệ
nghèo đói dưới 10% phân bố ở đồng bằng Sông Hồng 5 tỉnh, Đông Nam Bộ 4 tỉnh, Đồng bằng
Sông Cửu Long 1 tỉnh. Trong khi đó có 11 tỉnh có tỷ lệ nghèo đói từ 50% trở lên (chiếm 18%)
tập trung ở miền núi phía Bắc 5 tỉnh, Bắc Trung bộ 3 tỉnh, Duyên Hải miền Trung 1 tỉnh, Tây
Nguyên 9 tỉnh. Một số huyện thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên có
tỷ lệ hộ nghèo đói rất cao từ 60-70%.

Theo đánh giá cả nhóm công tác các chuyên gia chính phủ cho thấy 40% người nghèo của
Việt Nam sống tập trung tại ba khu vực: miền núi phía Bắc 28%; Đồng bằng sông Cửu Long là
21% và Bắc Trung Bộ là 18%. Như vậy sự khác nhau về tỷ lệ nghèo ở các vùng, các tỉnh,
thành phố cho thấy khả năng bứt phá, vươn lên của các vùng, tỉnh, thành phố là khác nhau.
Nơi nào có điều kiện phát triển nhanh, nơi đó có tỷ lệ giảm nghèo nhanh.
Đông Nam bộ là vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất đồng thời cũng có
tỷ lệ số hộ nghèo thấp nhất và tỷ lệ số hộ giàu cao nhất. Tuy nhiên, không phải lúc nào thu
nhập cũng tỷ lệ thuận với mức giảm nghèo.
Ở đồng bằng sông Hồng, thu nhập đứng thứ 4 trong 7 vùng nhưng lại có tỷ lệ nghèo rất
thấp, đứng thứ 2.
Trong khi đó, Tây Nguyên có mức thu nhập bình quân đứng thứ 2 nhưng lại có tỷ lệ
nghèo đói cao nhất trong 7 vùng.
Như vậy, có sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư trong 1 vùng. Chênh lệch
thu nhập giữa các vùng và các nhóm dân cư.
Cho đến hiện nay, nước ta có hơn 1,4 triệu người có công với nước đang hưởng chính sách
trợ cấp ưu đãi và hơn 1,6 triệu người đang hưởng chính sách trợ cấp xã hội thường xuyên hàng
tháng. Ngoài ra, nhu cầu trợ giúp đột xuất còn rất lớn do tỷ lệ người nghèo, hộ nghèo, cận
nghèo còn cao, đa số người già chưa được hưởng chế độ hưu trí, tác động của kinh tế thị
trường, dịch bệnh, thiên tai gây thiệt hại ngày càng lớn .
10


II)
Đánh giá ưu, nhược điểm của thực trạng.
2.1 Ưu điểm:

Trong 10 năm qua, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, công tác
bảo đảm phúc lợi xã hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống các chính sách phúc
lợi xã hội ngày càng đồng bộ và hoàn thiện trên các lĩnh vực: xoá đói giảm nghèo, giải quyết
việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm, ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội, mở

rộng các dịch vụ xã hội công cộng, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về
văn hoá, y tế và giáo dục.
Cùng với nguồn lực không ngừng tăng lên và những nỗ lực trong tổ chức thực hiện, phúc
lợi xã hội ngày càng được bảo đảm tốt hơn, góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.2 Nhược điểm:

Phúc lợi xã hội vẫn còn bất cập và yếu kém: Giảm nghèo chưa bền vững, số hộ cận nghèo
còn nhiều, tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm còn cao. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở
vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, khoảng cách thu nhập của các tầng lớp dân
cư còn lớn. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hoá và thất nghiệp ở thành thị
còn nhiều.
Nguồn lực cho phúc lợi xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với
diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa
dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, vẫn còn không ít tiêu cực,
phiền hà.
Những yếu kém, bất cập trên đây trước hết là do công tác lãnh đạo, quản lý còn nhiều yếu
hiệu lực hiệu quả chưa cao, nhận thức về bảo đảm phúc lợi xã hội chưa đầy đủ.Đây là một
nhân tố không nhỏ tác động đến mức độ đối nghèo, nhưng thường bỏ qua và chậm đổi mới.
xét trên toàn cảnh, tác động của nhân tố tổ chức ,quản lí của các cấp đói nghèo có mức độ khác
nhau, được thể hiện tập trung ỡ những mặt sau:
11


Tính chất và mức độ “ hành chính quan liêu” trong các cấp đã ảnh hưỡng đến giải quyết
vấn đề đói nghèo và các chính sách phúc lợi, chưa hình thành được hệ thống phúc lợi xã hội
rộng khắp với những cơ chế chủ động tích cực, bền vững, làm chỗ dựa vững chắc cho người
nghèo, hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo. Chưa huy động được mạnh mẽ sự tham gia của toàn
xã hội vào công tác bảo đảm phúc lợi xã hội. việc xác định diện hộ nghèo theo qui định có
những lệch lạc, dựa vào quan hệ thân quen đưa vào diện nghèo chứ không nằm trong tiêu chí

nghèo,thậm chí bớt xén tiền bạc mà đáng lẻ hộ nghèo được. những sai phạm này thường ở cấp
chính quyền cơ sở và huyện.
Chất lượng xây dựng các luật kinh tế, xã hội còn thấp so với thực tiễn, nên “ dễ thông qua
nhưng khó thi hành” ở cấp vĩ mô. Qui trình làm luật hiện nay chỉ coi trọng mặt chính sách, giải
trình nội dung chính sách hay luật mà không đòi hỏi giải trình về mặt kĩ thuật tổ chức thực
hiện, nhất là về mặt thanh tra , kiểm soát vỉ vậy mà đã có những trường hợp bất khả thi, hoặc
dễ "lách luật" và lạm dụng. Tính chất hành chính quan liêu trong quản lý vĩ mô gây lãng phí ở
tầm quốc gia còn do nôn nóng muốn làm tất cả, không có ưu tiên và bước đi phù hợp. Cách
làm nặng về số lượng (người ta nói do bệnh thành tích theo tư duy nhiệm kỳ) không chỉ gây
lãng phí lớn, mà còn để lại nhiều vấn nạn cả về kinh tế và xã hội.
Tình trạng tham nhũng tác động không chỉ đến chất lượng và hiệu quả phát triển, mà còn
trực tiếp đến đời sống nhân dân. Hiện tượng tham nhũng xuất hiện cả trong lĩnh vực giáo dục,
lĩnh vực y tế, thậm chí cả trong dự án xóa đói, giảm nghèo, cùng với những tác động tiêu cực
của các dự án xây dựng, nhất là các dự án sử dụng nhiều đất đai, làm cho vấn đề đói nghèo và
ổn định xã hội khó giải quyết. Nguy cơ và hậu quả nghiêm trọng của tệ nạn tham nhũng là
những người này đang trở thành lực lượng "nội xâm", coi thường luật pháp và vô trách nhiệm.
Đây là hạn chế của cấp vĩ mô.
Tình trạng lãng phí ngày càng tăng trong quá trình triển khai các dự án kinh tế - xã hội, do
chất lượng thấp trong xây dựng và thực hiện dự án, nên các dự án không có khả năng hoàn
vốn, rủi ro cao, thời gian thực hiện kéo dài. Hiện nay, chỉ số ICOR quá cao, tiềm ẩn nhiều
nguy cơ về tăng trưởng và đói nghèo.
12


Trong thời gian qua, thực hiện Chương trình 135, Chương trình 30a, cũng như hỗ trợ giải
quyết đói nghèo ở đồng bằng sông Cửu Long đã góp phần giảm tỷ lệ nghèo, nhưng con số
nghèo ở nông thôn và đô thị vẫn còn cao. Nếu về mặt tổ chức, quản lý nhà nước không khắc
phục tình trạng hành chính quan liêu, lãng phí, tham nhũng thì các mục tiêu giảm nghèo giai
đoạn 2011 - 2020 khó có triển vọng.
Công cuộc xoá đói giảm nghèo phải tập trung vào các vùng, các đối tượng khó khăn nhất;

một bộ phận không nhỏ lao động của cả nước chưa có nghề hoặc thiếu kỹ năng lao động, đang
làm những công việc chưa thật ổn định với tiền lương, tiền công và bảo trợ xã hội thấp; những
rủi ro về kinh tế, xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng tăng lên

Chương 3: CÁC CHÍNH SÁCH.
Xóa đói giảm nghèo vừa có tính cơ bản và cần thực hiện liên tục, lâu dài, lại là một công
việc cần kíp, trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới luôn đặt ra nhiệm
vụ: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước cải thiện đời sống của nhân dân; bởi vì
đây không chỉ là việc thực hiện truyền thống, đạo lý của dân tộc “thương người như thể
thương thân”, mà còn là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc . Cần khẳng định một cách mạnh mẽ rằng,xóa đói giảm nghèo,phúc lợi xã hội không dừng
lại ở việc thực hiện chính sách xã hội,không phải là việc riêng của ngành lao động - xã hội
13


hay một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị kinh tế văn hóa, là nhiệm vụ chung của toàn
Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm nghèo, phúc lợi xã hội là tất cả
mọi cán bộ Đảng, chính quyền đều phải quan tâm giải quyết, thực hiện các giải pháp một cách
đồng bộ và phải có sự tham gia của toàn thể cộng đổng. Đại Hội Đảng cộng Sản Việt Nam lần
thứ XI, Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tổ chức tại Hà Nội từ 12-19/1/2011. Trong phát
biểu mở đầu Đại Hội, đồng chí Trương Tấn Sang, ủy viên bộ chính trị Thường Trực Ban Bí
Thư nêu rõ, Đại Hội lần này sẽ thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên Chủ Nghĩa Xã Hội: quyết định chiến lược phát triển-xã hội 2011 – 2020; kiểm điểm việc
thực hiện Nghị Quyết Đại Hội X của Đảng; bàn nhiệm vụ, phương hướng , mục tiêu phát triển
kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015;kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp Hành TƯ Đảng khóa X;
bổ sung , sửa đổi Điều Lệ Đảng và bầu Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XI. Mục tiêu về vấn đề
xóa đói giảm nghèo, chính sách phức lợi. Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1.5- 2%/năm; phúc
lợi xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. thu nhập thực tế của dân cư gấp
khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng nhóm dân cư.

Xóa nhà ở đơn sơ , tỉ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng nhà ở tính trên
một người dân.
Trong thời gian tới, việc bảo đảm phúc lợi xã hội gắn với đẩy mạnh phát triển các dịch vụ
xã hội phải vừa trợ giúp mọi người dân được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu
về khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, điện, nước sinh hoạt, văn hoá, thông tin và truyền thông,
bảo đảm vệ sinh môi trường, đi lại…, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của nhân
dân đối với các dịch vụ này.
Cần đẩy mạnh phát triển các quỹ phúc lợi xã hội ở cả 3 cấp độ: Quỹ tập trung của Nhà
nước; Quỹ của các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh; Quỹ của các tập thể và cộng đồng.
Phát triển hệ thống dịch vụ ngày càng đa dạng, đồng bộ, mở rộng độ bao phủ, với chất
lượng ngày càng nâng lên.

14


Quy định rõ công khai, minh bạch mức thụ hưởng các phúc lợi xã hội và dịch vụ cơ bản
tối thiểu của người dân; đồng thời phải khắc phục các tiêu cực, phiền hà, tạo điều kiện thuận
lợi cho mọi người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ này; có chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối
tượng khó khăn.
Xây dựng và triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phát triển giáo dục, y tế,
văn hoá, thông tin, thể thao, dân số, gia đình và trẻ em.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhất là ở các vùng nghèo, đặc
biệt khó khăn.
Đồng thời hoàn thiện các chính sách về miễn giảm học phí, học bổng, tín dụng ưu đãi cho
người học, phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi.
Chính sách khám, chữa bệnh, thụ hưởng văn hoá, thông tin, trợ giúp pháp lý; chính sách
nhà ở… cho các đối tượng chính sách, đối tượng khó khăn.
Đặc biệt, phải quan tâm làm tốt hơn công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em để con
em chúng ta phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần và nhân cách. Đẩy mạnh cuộc
vận động xây dựng gia đình văn hoá, ấm no, hạnh phúc.

Đặt trọng tâm vào công tác xoá đói, giảm nghèo, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh
tế, xã hội để nâng cao mức sống chung của nhân dân.
Đảng và Nhà nước đã ban hành và tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách, chương
trình, dự án và huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo vượt
qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo.
Xóa đói giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt.
Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương
diện:
15


(1) Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo
dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt.
(2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất, tín dụng
ưu đãi, khuyến nông - lâm - ngư, phát triển ngành nghề.
(3) Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Đối với sản xuất: mức giao đất sản xuất một hộ là 0,5 ha đất nương rẫy hoặc 0,25 ha đất
ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước hai vụ. Căn cứ quỹ đất cụ thể của từng
địa phương, Ủy Ban nhân dân cấp tỉnh có thể xem xét, quyết định giao đất sản xuất cho họ
đồng bào dân tộc Khơme nghèo do đặc thù của Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nhà nước sẽ có
chính sách riêng.
Về nhà ở: đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo tại chỗ ( kể cả đồng bào dân tộc
Khơme) hiện chưa có nhà ở hoặc nhà ở quá tạm bợ và đã hư hỏng, dột nát thì thực hiện
phương châm: Nhân dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ và cộng đồng giúp đỡ.Ngân sách Trung
Ương hỗ trợ với mức 5 triệu đồng/hộ để làm nhà ở. Căn cứ tình hình và khả năng ngân sách,
các địa phương hỗ trợ thêm và huy động sự giúp đỡ của cộng đồng.Đối với các địa phương có
rừng, có huy hoạch, kế hoạch khai thác gỗ theo quy định để hỗ trợ đồng bào làm nhà ở. Mức
gỗ hỗ trợ cụ thể cho mỗi hộ làm nhà ở do Ủy ban cấp tỉnh quyết định. Nghiêm cấm việc lợi
dụng khai thác gỗ hỗ trợ làm nhà để chặt phá rừng.
Về hỗ trợ giải quyết nước sinh hoạt: đối với các hộ đồng bào dân tộc ở phân tán vùng cao,

núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt ngân sách Trung ương hỗ trợ 0,5 tấn xi
măng/hộ để xây dựng bể chứa nước mưa hoặc hỗ trợ 300.000 đồng/hộ để đào giếng hoặc tạo
nguồn nước sinh hoat. Đối với công trình cấp nước sinh hoạt tập trung: Ngân sách Trung
ương hỗ trợ 100% cho các thôn, bản có từ 50% số hộ là đồng bào dân tộc thiểu số trở lên; hỗ
trợ 50% đối với các thôn, bản có từ 20% đến dưới 50% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Các địa phương khi xây dựng các công trình cấp thoát nước sinh hoạt tập trung cho các
đồng bào phải bảo đảm tính bền vững và hiệu quả.
16


Các chính sách phúc lợi xã hội gồm có:
Tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm với nhiều
chính sách trợ giúp thiết thực, hàng năm giải quyết được hơn 1,6 triệu việc làm mới cho người
lao động, giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị ,tăng thời gian sử dụng lao động ở nông
thôn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân.
Hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế được quan tâm phát triển với nội dung và
hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người
tham gia. Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc, bảo
hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
Đặc biệt, đã thực hiện chính sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối
tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo.
Các chính sách ưu đãi đối với người có công phải được hoàn thiện. sử dụng ngân sách
trung ương để thực hiện chính sách ưu đãi thường xuyên cho người có công,nhằm giúp cho gia
đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.
Hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giáo dục và
đào tạo, văn hoá, thông tin, cung cấp điện, nước sinh hoạt, bảo đảm điều kiện đi lại… đã được
quan tâm phát triển, nhất là ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo
và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Chất lượng các dịch vụ nhiều mặt phải được cải thiện và khả năng tiếp cận của nhân dân
ngày càng được nâng cao.Tăng cường xây dựng làm cho các xã, phường đều có trạm y tế, có

bác sỹ.
Tạo điều kiện cho nhiều hộ nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh,hộ được sử dụng điện
lưới;hộ sử dụng máy thu hình; các xã có đường ô tô đi tới trung tâm xã; xã có trạm bưu điện
văn hoá…
17


Đồng thời đề ra mục tiêu đến năm 2020, trong đó GDP bình quân đầu người theo giá thực
tế đạt khoảng 3000 - 3200 USD; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao
của thế giới; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% - 3%/năm;
phúc lợi, an sinh xã hội và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được bảo đảm; thu nhập thực tế của
dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và
nhóm dân cư... Xoá nhà tạm đơn sơ, tỷ lệ nhà kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây
dựng/người.
Cải thiện chất lượng môi trường, hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động ứng phó có hiệu
quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng.Xác định chiến lược của năm 2014 là năm
có bảo hiểm y tế toàn dân.
Để hiện thực hoá các mục tiêu về phúc lợi xã hội trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011 - 2020, có các nhiệm vụ và giải pháp sau:
Đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với giải quyết việc
làm. Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh
sản xuất kinh doanh để tạo nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ người dân có việc làm, tăng thu
nhập là giải pháp xoá đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội tích cực, hiệu quả, bền vững.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, một mặt phải hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư,
chính sách ưu đãi đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động, nhất là ở địa
bàn nông thôn; mặt khác phải tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm
gắn với thực hiện đề án Đổi Mới và Phát Triển dạy nghề đến năm 2020, chương trình dạy nghề
cho lao động nông thôn với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và có hiệu quả; phát triển mạnh
thị trường lao động.
Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho cả người học và cơ sở dạy nghề, như cho vay ưu

đãi học nghề, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh
niên… đẩy mạnh việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

18


Phấn đấu hàng năm tuyển mới dạy nghề cho khoảng 1,8 triệu người, trong đó có 1 triệu
lao động nông thôn; đến năm 2015 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 4%; năm 2020
lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% trong tổng lao động xã hội. Tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm; chú trọng xây dựng quan hệ lao động
hài hoà, điều kiện và môi trường lao động an toàn.
Phát triển đồng bộ, đa dạng và nâng cao chất lượng hệ thống bảo hiểm. Nhà nước có sự hỗ
trợ phù hợp cho các đối tượng tham gia, nhất là người nghèo, cận nghèo, trẻ em, các đối tượng
chính sách và bảo trợ xã hội… Phát triển mạnh cả bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.
Có chính sách hỗ trợ người lao động có thu nhập thấp, lao động ở nông thôn tham gia các
loại hình bảo hiểm xã hội. Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các chính sách về bảo hiểm y tế, viện phí và khám chữa bệnh.
Đặc biệt chú trọng chính sách đối với bà mẹ, trẻ em, người nghèo, người dân ở vùng khó khăn,
người lao động trong các khu vực phi chính thức. Phấn đấu thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân
vào năm 2014.
Khẩn trương nghiên cứu, thí điểm để mở rộng các hình thức bảo hiểm khác thích ứng với
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trong đó có chính sách hỗ trợ nông dân tham
gia bảo hiểm sản xuất nông nghiệp nhằm duy trì sản xuất và bảo đảm đời sống.
Các chính sách phải bảo đảm tính công bằng, bình đẳng.Tổ chức lồng ghép xóa đói , giảm
nghèo với các chương trình khác, trong đó lấy chương trình quốc gia về giải quyết việc làm và
về phủ xanh đất trống đồi trọc làm nòng cốt. bổ sung các chính sách giúp cho người nghèo, hộ
nghèo , xã nghèo tổ chức sản xuất,bảo đảm cuộc sống và nâng lên khá giả, trước mắt tập trung
vào các chính sách sau đây: Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện rà soát lại toàn bộ diện tích
đất đai trên địa bàn lãnh thổ, thu hồi đất đai đã cấp không đúng đối tượng, không đúng chính
sách, thu hồi đất đã cấp cho các doanh nghiệp,các cơ quan sử dụng không đúng mục đích để

giao cho cac hộ nông dân nghèo chưa được giao đất hoặc giao chưa đủ mức.

19


Vận động và giúp đỡ hộ nông dân nghèo đến các vùng kinh tế mới mau chóng ổn định sản
xuất và đời sống. mở rộng các quỹ tín dụng cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất ,với lãi suất ưu
đãi. Các hộ nghèo được Ủy ban nhân dân xã, phường chứng nhận được vay vốn không thể
chấp nhận. thông qua ngân hàng phục vụ người nghèo và các quỹ hỗ trợ của các tổ chức đoàn
thể bảo đảm 90 – 95% số hộ nghèo được vay vốn sản xuất, trong đó các hộ thuộc đối tượng
chính sách, các hộ nghèo nhất được ưu tiên vay trước. nguồn vốn để thực hiện mục tiêu này
bao gồm vốn tự có của ngân hàng, vốn của các chương trình,vốn của quỹ xóa đói, giảm nghèo,
vốn tài trợ quốc tế kể cả vốn vay, vốn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước… các cơ sở đào tạo và
các trung tâm dạy nghề của Nhà nước thực hiện việc đào tạo nghề miễn phí đối với con em các
hộ nghèo đồng thời hỗ trợ kinh phí cho doanh nghiệp nhận tuyển con em các hộ nghèo vào
đào tạo và làm việc.
Xây dựng đội ngũ những người tình nguyện, bao gồm các cán bộ kỹ thuật,sinh viên mới
tốt nghiệp và những nông dân làm ăn giỏi trong vùng, để hướng dẫn cách làm ăn và phổ biến
các biện pháp kĩ thuật giúp đỡ người nghèo sản xuất kinh doanh . đối với các vùng cao, vùng
sâu, vùng xa sản phẩm tiêu thụ khó khăn, giá thấp, Nhà nước thông qua các doanh nghiệp Nhà
nước bao tiêu và trợ giá. Xây dựng chính sách tài trợ đầu tư 6 loại công trình xã hội thiết yếu
cho 1.300 xã nghèo nhất (đường ôtô và đường dây điện đến trung tâm xã; nước sạch cho dân
cư; phòng học cho học sinh cấp I,II, xóa lớp ca 3;trạm y tế ; chợ tại xã hoặc liên xã).
Con em các hộ nghèo đi học các trường phổ thông đều được miễn học phí ( hoặc được cấp
học bỗng miễn phí ;ở bậc tiểu học được mượn sách giáo khoa, cấp không vở viết và được miễn
mọi khoản dóng góp khác. Đối với các hộ khó khăn có thể nhận thêm học bổng. Tổ chức các
lớp học tình thương cho con em người nghèo do những giáo viên tình nguyện giảng dạy. các
học sinh giỏi là con em các hộ nghèo,nhất là con em đồng bào các dân tộc ít người, được ưu
tiên xét chọn vào các trường dân tộc nội trú các trường đại học , cao đẳng và ưu tiên xét học
bổng hằng năm. Cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo theo số người trong gia

đình.

20


Các tỉnh, thành phố có điều kiện, có thể thành lập cơ sở khám chữa bệnh nhân đạo cho
người nghèo. Phối hợp các chương trình xã hội khác như: dân số, kế hoạch hóa gia đình,
chống sốt rét, bướu cổ, tiêm chủng mở rộng, phòng chống tệ nạn xã hội và chưng trình hành
động quốc gia vì trẻ em.
Tổ chức điều tra xác định số hộ nghèo đói do mất khả năng lao động và xây dựng tiêu
chuẩn chính sách trợ cấp cụ thể theo chính sách cứu tế xã hội nhằm ổn định đời sống lâu dài
cho họ.

Chương 4: KIẾN NGHỊ
Các cơ quan lãnh đạo,chuyên trách cần quan tâm,và đặt nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo và
thực hiện các chính sách phúc lợi cho nhân dân là vấn đề quan trọng hàng đầu.
Cần bám sát thực trạng cuộc sống của người dân tại địa phương để có giúp đỡ họ như
những chính sách phúc lợi của nhà nước ban hành.

21


Các cơ quan,tổ chức cần tuyên truyền,huy động mọi người thực hiện theo các chính sách
để đảm bảo việc thực hiện các chính sách phúc lợi và xóa đói giảm nghèo được hiệu
quả,nhanh chóng. Đảm bảo cho đời sống của người dân,người lao động được tốt hơn.
Về mặt quản lý nhà nước, cần có quy định về tư vấn, phản biện và giám định xã hội của
các dự án sản xuất, xây dựng các dự án xóa đói, giảm nghèo trước khi thực hiện, nhằm thể
hiện được định hướng phát triển bền vững.
Nhà nước chỉ phê duyệt các dự án đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài bảo đảm thực hiện mô
hình phát triển bền vững. Đồng thời phải rà soát, thanh tra các khu công nghiệp, các dự án đã

và đang sản xuất và xây dựng, quy định thời gian chuyển đổi sang mô hình mới. Bởi vì, càng
kéo dài kiểu sản xuất kinh doanh cũ thì càng tạo ra nguy cơ về đói nghèo.
Phát triển các hình thức giáo dục miễn phí phổ cập về nghề nghiệp cho những người trong
diện đói nghèo. Nên dựa vào các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ
(NGO) nước ngoài thực hiện các dự án về giáo dục, y tế, xã hội. Hướng hoạt động là nâng cao
năng lực, ý thức chủ động vượt đói nghèo của người dân nông thôn, miền núi. Cách làm này
hoàn toàn khác với cách làm phong trào để ban ơn, lấy thành tích.
Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo phải thiết thực, đồng bộ cả về hỗ trợ phát
triển sản xuất và đời sống, tạo việc làm, tiếp cận thị trường; nâng cao khả năng tự vươn lên
thoát nghèo bền vững của người dân. Phải bảo đảm lồng ghép có hiệu quả các chương trình,
dự án và nguồn lực trên từng địa bàn; sự tham gia chủ động của người dân, cộng đồng và cơ
sở.
Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công và chính sách trợ giúp xã hội cho
các đối tượng bảo trợ xã hội.Việc làm này không những có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo
đảm an sinh, ổn định xã hội, mà còn thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, dân tộc ta.
Đẩy mạnh việc chủ động phòng chống và ứng phó kịp thời có hiệu quả thiên tai, tác động
của biến đổi khí hậu nhằm hạn chế thiệt hại về người và của, nhất là những vùng thường xuyên
22


xảy ra bão lũ; nghiên cứu hình thành các quỹ dự phòng và cơ chế trợ giúp tại các địa phương
để hỗ trợ kịp thời cho nhân dân khi có rủi ro đột xuất.
Cần khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không dừng lại ở việc thực
hiện chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành lao động - xã hội hay một số ngành
khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân.
Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả mọi cán bộ đảng, chính quyền đều
phải quan tâm cùng giải quyết, thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ và phải có sự tham
gia của toàn thể cộng đồng.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế, lãnh thổ trọng điểm tạo động lực cho nền
kinh tế. tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng

sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức tác động tiêu cực đến đời
sống và an sinh xã hội của nhân dân. Chính vì vậy, cần có nhận thức mới, đầy đủ hơn về an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội, phát huy thành quả và những kinh nghiệm tốt đã đạt được, khắc
phục những yếu kém bất cập để xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đồng
bộ, hiệu quả cao.

NGUỒN TÀI LIỆU TRÍCH DẪN.
1. Nguồn: “Tác động kinh tế của Nhà nước nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo trong quá

trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ”. Đề tài cấp Bộ Khoa học
quản lý kinh tế, Học viện CTQG HCM, Hà Nội 1997, trang 43.
2. Tạp chí cộng sản
3. Luanvan.CO
23



×