Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.44 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………....1
NỘI DUNG………………………………………………………...…………….……....1
I. Khái niệm giám sát……………………………………………………….…….......….1
II. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế
trong quản lý hành chính nhà nước………………………...…………………..…..…….2
1. Hoạt động giám sát của Quốc hội………………………………...…………....……...2
2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân………………….……………........….…4
III. Thực trạng của hoạt động giám sát…………………………………..………….…...6
1. Ưu điểm…………………………………………………….……….………..….…….6
2. Hạn chế……………………………………………………….………………………..7
IV. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối
với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước……………….……......7
1. Đối với Quốc hội………………………………………………………………..….....8
2. Đối với Hội đồng nhân dân………………………………………………………...…9
KẾT LUẬN………………………………………………………………………......…10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….....11
CHÚ THÍCH MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT

-

Hội đồng nhân dân (HĐND).

-

Ủy ban nhân dân (UBND).

-

Thủ tướng chính phủ (TTCP).


-

Tịa án nhân dân tối cao (TANDTC).

-

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (CATANDTC).

-

Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao (VTVKSNDTC).

-

Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH).

-

Ủy ban Quốc hội (UBQH).

-

Đại biểu Quốc hội (ĐBQH).

1


MỞ ĐẦU
Đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước nghĩa là bằng những cơ
chế và hoạt động pháp lý làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực tế và

hoạt động của bộ máy Nhà nước mà trước hết là bộ máy hành chính Nhà nước. Các cơ
quan quyền lực nhà nước là những cơ quan có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy
nhà nước, đó là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao
động; hoạt động của những cơ quan này tác động tích cực và chi phối rất lớn hoạt động
của các cơ quan nhà nước. Trong đó, giám sát là một hoạt động rất quan trọng của các
cơ quan quyền lực Nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính
Nhà nước. Để hiểu hiểu rõ hơn về vấn đề này em đã lựa chọn đề tài:“Phân tích vai trò
hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế
trong quản lý hành chính nhà nước”.
NỘI DUNG
I.

Khái niệm giám sát.
Giám sát (theo từ điển luật học) “là sự theo dõi, giám sát mang tính chủ động

thường xuyên của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đối với hoạt động của các đối
tượng chịu sự giám sát hoặc sự tác động bằng các biện pháp tích cực để hướng các hoạt
động đó đi vào quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ
trước, đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh”. Với quan
niệm trên ta có thể thấy hoạt động giám sát đề cập tới nội dung cơ bản sau:
Là việc theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định một chủ thể nào đó về một việc
làm đã được thực hiện đúng hay sai những điều luật đã quy định để từ đó có biện pháp
điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai nhằm đạt được mục đích hiệu quả xác định từ
trước, đảm bảo cho các quyết định được thực hiện đúng và đầy đủ. Từ đây ta có thể đưa
ra những đặc trưng cơ bản của hoạt động giám sát như sau:
Giám sát dùng để chỉ hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra và đánh giá về một
việc đã thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.

2



Luôn gắn với một chủ thể nhất định và gắn với đối tượng cụ thể, (tức là trả lời cho
câu hỏi giám sát ai? Giám sát vào việc gì?) Giám sát phải thể hiện mối quan hệ giữa chủ
thể thực hiện hoạt động giám sát với đối tượng chịu sự giám sát.
Giám sát ln thể hiện tính chủ động trong hoạt động có mục đích được xác định
trước của chủ thể thực hiện hành động giám sát. Chính vì vậy, giám sát là một hoạt động
có mục đích của một hay nhiều chủ thể nhất định - là một nội dung của hoạt động quản
lý nhà nước và cũng là một hình thức kiềm chế đối trọng trong việc thực thi quyền lực
nhà nước hiện nay.
II.

Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo

pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
Ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND các
cấp, vì vậy hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong đời sống chính trị - xã hội, quyền lực nhà nước trực tiếp từ nhân dân nên hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp là sự giám sát của chính quyền nhân dân.
1.

Hoạt động giám sát của Quốc Hội.
Bộ máy nhà nước của nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về toàn dân, nhân dân thực hiện quyền lực của mình thơng
qua cơ quan đại diện do nhân dân cả nước bầu ra - đó là Quốc hội. Tại điều 83 Hiến
pháp 1992 có nêu lên vị trí đặc biệt quan trọng của Quốc hội trong bộ máy nhà nước
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...Quốc hôi thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”, quy định của hiến pháp như
trên đã thể hiện rất rõ tính chất của Quốc hội nước ta là cơ quan đại biểu cao nhất cho

toàn dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và quyền giám sát là quyền mà Quốc hội được theo dõi, kiểm tra việc tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật của các đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội.Hoạt động
giám sát của Quốc hội được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể định kỳ tại
các kỳ họp của Quốc hội nhưng cũng có thể thơng qua UBTVQH, các UBQH, các hội
đồng Quốc hội cũng như các ĐBQH.

3


Theo đó, đối tượng giám sát tối cao chỉ có thể là các cơ quan và cá nhân do Quốc
hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn như Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, TANDTC,VKSNDTC, những người đứng đầu của cơ quan này và các thành
viên của Chính phủ. Hoạt động giám sát của Quốc hội vừa là chức năng, vừa là nhiệm
vụ và quyền hạn của Quốc Hội, quyền đó được khẳng định cụ thể tại khoản 2 Điều 84
hiến pháp năm 1992: ”Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến
pháp, luật và các Nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước,
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện
kiểm sát nhân dân tối cao”, quy định này khẳng định chủ thể thực hiện quyền giám sát
tối cao là Quốc hội. Tính tối cao của hoạt động giám sát của Quốc hội thể hiện ở một số
dấu hiệu sau: Quyền giám sát là quyền chủ thể của Quốc hội, quyền giám sát của các cơ
quan khác có tính phái sinh từ quyền của Quốc hội.
Hoạt động giám sát của Quốc hội bao trùm toàn bộ hoạt động của Nhà nước từ
hành pháp, kiểm sát đến xét xử. Một số lĩnh vực chỉ chịu sự giám sát duy nhất của Quốc
hội (thí dụ chỉ có Quốc hội mới có quyền xem xét kết luận một luật cụ thể nào đó có trái
Hiến pháp hay khơng) cịn hoạt động giám sát của các chủ thể khác chỉ giới hạn trong
những phạm vi nhất định.
Quốc hội có quyền áp dụng những biện pháp chế tài cao nhất như hủy bỏ các văn
bản của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, TTCP, VKSNDTC,TANDTC nếu trái
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

Quốc hội với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước có thể ủy quyền cho các bộ
phận cấu thành trong hệ thống của Quốc hội thực hiện một số nhiệm vụ giám sát nhất
định và theo dõi các cơ quan đó thực hiện sự ủy quyền của mình, các cơ quan này thực
hiện hoạt động giám sát trong những lĩnh vực nhất định theo sự phân công ủy quyền của
Quốc hội. Thí dụ Quốc hội có thể giao cho một số cơ quan nhà nước khác như Chính
phủ, VKSND, TAND... thực hiện hoạt động giám sát. Cụ thể, Quốc hội thành lập
VKSND và giao cho nó quyền kiểm sát và tuân thủ hiến pháp, pháp luật trong hoạt động
tư pháp và Quốc hội giám sát hoạt động của Viện kiểm sát trong lĩnh vực được phân
công thông qua các hình thức như nghe báo cáo của Viện trưởng VKSND, chất vấn

4


Viện trưởng VKSNDTC...Các hoạt động giám sát của Quốc hội: Xem xét, báo cáo công
tác của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC.
Xem xét báo cáo của UBTVQH về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, Nghị quyết
của Quốc hội.
Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ,
TANDTC, Viện KSNDTC có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc
hội. Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, TTCP, TANDTC,
VKSNDTC có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì UBTVQH
xem xét, đình chỉ việc thi hành và trình Quốc hội xem xét, quyết định việc bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất. Khi phát hiện văn bản quy phạm
pháp luật của UBTVQH, Chủ tịch nước có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội thì ĐBQH đề nghị UBTVQH, Chủ tịch nước sửa đổi hoặc hủy bỏ một
phần hoặc toàn bộ văn bản đó; UBTVQH, Chủ tịch nước có trách nhiệm xem xét, trả lời
đại biểu Quốc hội. Trong trường hợp đại biểu Quốc hội không đồng ý với trả lời của
UBTVQH, Chủ tịch nước thì yêu cầu UBTVQH trình Quốc hội xem xét, quyết định tại
kỳ họp gần nhất.
Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, CTQH, TTCP, Bộ trưởng và các

thành viên của Chính phủ, CATANDTC, Viện trưởng VKSNDTC. Sau khi nghe trả lời
chất vấn, nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị
Quốc hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận phiên họp khác của Quốc
hội hoặc kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với người bị chất vấn. Thành lập
Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xét báo cáo kết quả điều tra của
Ủy ban.
Như vậy, ở nước ta giám sát tối cao là năng lực đặc biệt riêng có của Quốc hội,
quyền giám sát tối cao là quyền mang tính quyền lực cao nhất do Quốc hội thực hiện, đó
cũng là một chức năng cơ bản, đặc biệt của Quốc hội, Quốc hội có thể tiến hành giám
sát ở mức cao nhất của hoạt động bộ máy nhà nước ở bất cứ phương diện nào, lĩnh vực
nào trong hoạt động quản lý nhà nước.
2.

Hoạt động giám sát của HĐND

5


Theo quy định tại điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND :’Hội đồng nhân dân là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của
Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị
quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân và của công dân địa phương”. Như vậy, HĐND là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương. HĐND đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân địa phương; cơ cấu HĐND được hợp thành từ những đại biểu ưu tú đại
diện cho giai cấp cơng nhân, nơng dân, tầng lớp trí thức, các dân tộc, thành phần trong
phạm vi của địa phương.
Hoạt động giám sát của HĐND địa phương là chức năng chủ yếu của cơ quan

quyền lực nhà nước ở địa phương được thực hiện trước hết ở các kì họp của HĐND,
hoạt động giám sát của HĐND tại các kỳ họp của HĐND là sự giám sát tập trung nhất
và trong các kỳ họp của HĐND có sự tham gia tập trung của tất cả các đại biểu HĐND
và quyết định những vấn đề quan trọng.
Hoạt động giám sát được thực hiện thông qua việc nghe và thảo luận báo cáo của
ủy ban nhân dân. Thông qua việc chất vấn các đại biểu là lãnh đạo cơ quan kiểm sát và
cơ quan xét xử ở địa phương. Đại biểu HĐND tham gia trực tiếp vào các hoạt động
giám sát của HĐND tại các kỳ họp hoặc hoạt động giám sát của Thường trực HĐND và
các ban của HĐND. Trong các hình thức giám sát chung của HĐND thì đại biểu HĐND
chú trọng các hoạt động giám sát độc lập thông qua việc tiếp xúc cử tri, theo dõi việc
giải quyết các đơn khiếu kiện, tố cáo cử tri và giám sát qua những thông tin trên các
phương tiện thông tin đại chúng như báo hình, báo tiếng ở địa phương và qua các kênh
thơng tin khác trong q trình thực hiện nhiệm vu đại biểu.
Hoạt động của HĐND đặt dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra của các cơ
quan nhà nước cấp trên, trong đó có Chính phủ, nhiệm vụ của HĐND do hiến pháp và
Luật tổ chức HĐND và UBND quy định, vì thế hoạt động của HĐND không chỉ là
nghĩa vụ chấp hành Hiến Pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản pháp luật của cấp trên mà

6


cịn phải chủ động cụ thể hóa những quy định này cho phù hợp với đặc điểm cụ thể của
địa phương mình, đây khơng chỉ là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần khẳng định quyền
hạn của chính quyền địa phương mà văn bản pháp luật này còn nhấn mạnh tính chủ
động và yêu cầu HĐND phải chủ động tăng cường quyền giám sát đối với mọi hoạt
động thực thi pháp luật ở địa phương mình. Có như vậy, những quy định đó mới thực sự
mới thực sự thúc đẩy sự năng động và sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động, mới
đánh giá thực khả năng thực thi pháp luật của địa phương mình.
Khiếu nại, tố cáo của cơng dân là một hình thức đặc biệt quan trọng để nhân dân
trực tiếp tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trên thực tế, luật pháp không

chỉ tạo cơ sở pháp lý để công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo mà còn quy định cơ
quan nhà nước và cán bộ nhà nước có thẩm quyền phải tự kiểm tra, xem xét lại các
quyết định hành chính và hành vi hành chính, nếu xét thấy trái pháp luật phải kịp thời
sửa chữa, khắc phục để tránh phát sinh khiếu kiện.
Hoạt động giám sát góp phần tích cực vào việc phát hiện sai trái của cơ quan, tổ
chức cơ sở trong việc chấp hành pháp luật, trên cơ sở đó kiến nghị với cấp có thẩm
quyền giải quyết, xử lý kịp thời những sai phạm đó, đơn đốc các cơ quan, tổ chức hữu
quan thực hiện nghị quyết của HĐND và của các cấp trên cũng như giải quyết các vấn
đề bức xúc ở địa phương, đảm bảo thi hành có hiệu quả các quy định của pháp luật và
các nghị quyết của HĐND địa phương; góp phần ngăn chặn, phịng ngừa, phát hiện và
xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với các hành vi vi phạm pháp luật đảm bảo pháp chế
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có hiệu lực, hiệu quả.
III.

Thực trạng của hoạt động giám sát.

1. Ưu điểm: Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp
thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như
kiểm tra mọi mặt công tác của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
Thơng qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước có thể phát hiện
những yếu kém, những khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện nhiệm vụ mà pháp
luật đã quy định đối với các cơ quan hành chính nhà nước; trên cơ sở đó cơ quan quyền

7


lực nhà nước kịp thời đề ra những thời gian cụ thể và biện pháp thích hợp khắc phục
những khó khăn và tồn tại ấy.
Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và HĐND các cấp có dịp kiểm tra tính

hợp lý và hợp pháp của các văn bản pháp luật do chính mình ban hành. Giám sát tính
hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản pháp luật thể hiện theo nguyên tắc sau:
Hiến pháp là Luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Văn bản pháp luật khác khi ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, đúng thứ bậc
hiệu lực pháp lý trong hệ thống pháp luật. Văn bản pháp luật do các cơ quan cấp dưới
ban hành phù hợp với văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên.
Nếu phát hiện thấy khiếm khuyết về hình thức hay nội dung thì cơ quan quyền lực
nhà nước nói trên phải đưa ra những biện pháp, giải pháp khắc phục; từ đó cơ quan này
đưa ra những yêu cầu và những biện pháp cải tiến chế độ, quy trình lập pháp, lập quy
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và HĐND các cấp phát hiện ra những vi
phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự và lợi ích nhà nước, xã hội và cơng dân của cán bộ
nhà nước, từ đó mà kịp thời xử lý hoặc yêu cầu các cấp, các ngành và xử lý nghiêm
minh những vi phạm đó để củng cố pháp chế.
2. Hạn chế: Trên thực tế, hoạt động giám sát của các cơ quan quyền lực nói chung tuy
có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng vẫn cịn nhiều lúng túng, bất cập, chưa mang lại
hiệu quả cao, bộc lộ một số hạn chế: Công tác giám sát chưa đều; việc giám sát của các
đại biểu ở cả Quốc hội và HĐND còn hạn chế, chủ yếu mới chỉ giám sát tại các kỳ họp,
và đơi khi chỉ mang tính hình thức nội dung giám sát chưa sâu, chưa tập trung vào các
vấn đề mang tính bức xúc ở địa phương, những vấn đề mà nhiều cử tri quan tâm. Ngoài
ra, trong thực hiện giám sát vẫn cịn có sự né tránh, nể nang, ngại va chạm… nên hiệu
lực và hiệu quả giám sát của cả Quốc hội và HĐND chưa cao.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do có sự hạn chế trong nhận thức (chưa
nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, chức năng, vai trị, trách nhiệm của Quốc hội, HĐND);
là sự thiếu tự tin và chưa quyết liệt của một bộ phận đại biểu (còn nể nang, ngại va

8


chạm...), có thể cịn là sự hạn chế về năng lực, trình độ; thiếu thơng tin lẫn thời gian

dành ch hoạt động thực hiện nhiệm vụ của các đại biểu.
IV. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước.
1. Đối với Quốc hội: Cùng với sự đổi mới của đất nước, hoạt động của các cơ quan nhà
nước ta nói chung và của Quốc hội nói riêng đã và đang đạt hiệu quả trong thực tế. Tuy
nhiên, trước đòi hỏi của đất nước, yêu cầu của xã hội và để phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội là yêu cầu bức xúc, đòi hỏi
các biện pháp khả thi sau đây:
Một là: Phải nâng cao chất lượng các văn bản luật để pháp luật thực sự là phương tiện
quản lý đất nước, để người dân lao động làm chủ vận mệnh đất nước, phát huy trí tuệ để
xây dựng đất nước. Những quy định xa rời thực tế, chậm phát huy dân chủ, không theo
kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và cải cách hành chính cũng như cải cách tư pháp
phải huỷ bỏ và nhanh chóng được thay thế. Đặc biệt, phải tổ chức nghiên cứu lại những
quy định của Hiến pháp về các quy chế quyền hạn (trong đó có quyền giám sát) của
Quốc hội, từ đó bổ sung các quy định về phương thức thực hiện quyền giám sát của
Quốc hội. Trên cơ sở đó, chúng ta mới có cơ sở pháp lý đầy đủ để đổi mới tổ chức hoạt
động giám sát của Quốc hội.
Hai là: Phải hoàn thiện bộ máy hoạt động của Quốc hội, nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động đáp ứng yêu cầu của hoạt động giám sát, ở đây địi hỏi tinh gọn bộ máy
nhưng đủ để hồn thành nhiệm vụ với hiệu suất cao nhất. Muốn vậy, việc chuyển từ chế
độ làm việc kiêm nhiệm sang chế độ làm việc chun trách phải được tính tốn kỹ
lưỡng, nhưng khẩn trương và mạnh dạn. Đồng thời, tăng thêm thẩm quyền cho các cơ
quan của Quốc hội trong việc thực thi quyền giám sát. Hơn nữa, tinh gọn bộ máy phải
kết hợp với việc xác định rõ ràng, chuẩn xác chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
từng Uỷ ban của Quốc hội và giới hạn cụ thể cũng như tiêu chuẩn hố trình độ và năng
lực của đại biểu của các Uỷ ban trong Quốc hội.
Ba là: Mục tiêu giám sát và thời gian giám sát ở từng nơi, từng thời kỳ, từng địa phương
và cơ sở phải được xác định rõ ràng. Có thể tăng cường số lần họp trong một năm của

9



Quốc hội. Những kết quả của hoạt động giám sát phải công khai và được bảo đảm thực
hiện trong thực tế.
Bốn là: Tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức pháp luật, kiến
thức quản lý nhà nước cho các đại biểu Quốc hội để họ khơng chỉ là người vững vàng về
chính trị, chí cơng vơ tư mà cịn là những người có đủ trình độ để xây dựng luật pháp,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp và quyết đáp những vấn đề quan trọng của
đất nước.
Năm là: Đổi mới chế độ và tạo điều kiện làm việc tốt hơn cho các đại biểu Quốc hội để
họ có điều kiện cần và đủ hồn thành nhiệm vụ mà nhân dân giao phó, đưa ra những ý
kiến xác thực, những kiến nghị hợp pháp, hợp lý và kịp thời. Biện pháp này đòi hỏi sự
quan tâm của Nhà nước về vật chất và tiền lương phù hợp cho các đại biểu Quốc hội động lực tích cực thúc đẩy hoạt động có hiệu quả của các đại biểu.
Sáu là: Việc ban hành Luật giám sát của Quốc hội tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của
Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội chính là khẳng định Quốc hội
chúng ta là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân.
2.

Đối với Hội đồng nhân dân: Để bảo đảm việc giám sát của HĐND có chất lượng,

hiệu quả, thì cần phải chú ý đến các vấn đề sau:
Thứ nhất: Nâng cao chất lượng thảo luận tại các phiên họp toàn thể. Đây là hình
thức khơng thể thiếu đối với mỗi kỳ họp HĐND, vì HĐND làm việc theo chế độ hội
nghị và quyết định theo đa số. Việc thảo luận các báo cáo tại phiên họp toàn thể sẽ giúp
cho các đại biểu HĐND tập trung ý chí, tranh luận và thảo luận các vấn đề, nhất là
những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, nghe các cơ quan trả lời về các kiến nghị của cử
tri. Trên cơ sở thơng tin đã được phân tích, đại biểu sẽ quyết định chính xác các vấn đề
đặt ra.
Thứ hai: Tăng cường quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân: Tình hình

chất vấn và việc trả lời chất vấn đã trở thành một hoạt động bình thường tại kỳ họp
HĐND. Các ý kiến đặt ra phải trên cơ sở khảo sát thực tế, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân hoặc dựa trên cơ sở khảo sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân

10


dân. Để bảo đảm việc thực hiện chất vấn có hiệu quả, phải hạn chế những chất vấn mang
tính kiến nghị, thông tin và sự việc không rõ; những người bị chất vấn phải trả lời rõ
ràng, cụ thể, có tính thuyết phục, khơng vịng vo, né tránh các nội dung chất vấn, không
để vụ việc kéo dài mà phải có biện pháp khắc phục cụ thể.
Thứ ba: Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân
dân.. để nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát của HĐND, cần phải coi công tác
kiểm tra, giám sát của Thường trực HĐND và các Ban của HĐND là một việc làm
thường xuyên.
Thứ tư: Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các Ban của HĐND.
Thứ năm: Đại biểu HĐND phải gắn bó với cử tri, vừa lắng nghe và phản ánh
trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri, vừa giám sát, vừa tác động và đơn đốc các cơ
quan có thẩm quyền giải quyết thoả đáng các ý kiến, nguyện vọng của cử tri. Hội đồng
nhân dân phải có trách nhiệm nâng cao năng lực và trách nhiệm cho đại biểu Hội đồng
nhân dân như tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho đại biểu tham gia
hoạt động giám sát của Thường trực HĐND và các Ban của HĐND.
Thứ sáu: Tăng cuờng hơn nữa sự phối hợp hoạt động giữa Đoàn đại biểu Quốc
hội và các cơ quan, đoàn thể ở địa phương: Việc phối hợp với Đoàn đại biểu Quốc hội ở
địa phuơng trong việc tham gia hoạt động giám sát, trong việc tiếp xúc với cử tri sẽ tạo
điều kiện cho các đại biểu HĐND để trao đổi thơng tin về kiến thức pháp luật, về tình
hình chấp hành pháp luật nói chung, cũng nhu trao đổi về kinh nghiệm trong hoạt động
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân.
Thứ bảy: Bảo đảm kinh phí và điều kiện vật chất khác cho hoạt động giám sát của
HĐND, của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và các đại biểu HĐND.

KẾT LUẬN
Như vậy, hoạt động giám sát của các cơ quan quyền lực Nhà nước là một biện pháp
pháp lý bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước rất hiệu quả. Thông qua
hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp, nhân dân thực hiện quyền lực của
mình đối với hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước để đảm bảo cho hoạt động đó
phục vụ cho lợi ích, ý chí, nguyện vọng của nhân dân đồng thời là quyền của cơ quan

11


nhà nước thể hiên ở việc xem xét đối với hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát
trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật nhằm đảm bảo pháp chế hoặc sự chấp hành
những quy tắc chung của pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, trường Đại học Luật Hà nội, năm 2008

2.

Luật Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001)

3.

Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003

4.

Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003


5.

Luật khiếu nại tố cáo 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005, 2006)

1.

Website

-



-



-



12



×