Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Giải pháp tạo việc làm cho lao động tại các làng nghề trên địa bàn huyện chương mỹ thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN THỊ NHUNG

GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
TẠI CÁC LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CHƯƠNG MỸ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hà Nội, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN THỊ NHUNG

GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
TẠI CÁC LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CHƯƠNG MỸ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.62.01.15



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THU HÀ

Hà Nội, 2014


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Làng nghề truyền thống là nơi lưu giữ và phát triển tinh hoa văn hóa
của dân tộc, thể hiện qua các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với sự cống hiến
đầy sáng tạo và hết sức giá trị của các nghệ nhân. Làng nghề là một vốn quý
của dân tộc Việt Nam, điều quan trọng là nó có giá trị về kinh tế trong việc
giải quyết việc làm ở nông thôn, góp phần ổn định nông thôn, xây dựng nông
thôn mới. Làng nghề, bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ
đời này sang đời khác, được thể hiện qua bàn tay, khối óc của các thế hệ nghệ
nhân tài năng với những sản phẩm mang bản sắc riêng của mình nhưng lại
tiêu biểu cho cả dân tộc Việt Nam. Vì vậy, truyền thống làng nghề chứa đựng
truyền thống văn hóa và truyền thống nghề nghiệp. Hai yếu tố này hòa quyện
không tách rời nhau tạo nên văn hóa làng nghề trong lòng nền văn hóa Việt.
Cho nên bảo tồn và phát triển làng nghề là một nhiệm vụ rất có ý nghĩa trong
công cuộc phát triển đất nước ngày nay, khi công cuộc đổi mới đi vào chiều
sâu, để đất nước phát triển bền vững và hội nhập quốc tế thành công.
Trong những năm đổi mới cùng với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nói chung theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu kinh tế nông
thôn cũng đang chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Trong quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông thôn, Đảng và Nhà nước cũng như các chính quyền địa
phương rất quan tâm đến phát triển các làng nghề. Nhiều làng nghề truyền
thống được bảo tồn và phát triển, nhiều làng nghề mới ra đời. Sự khôi phục và
phát triển các làng nghề, các ngành nghề nông thôn đã góp phần quan trọng
trong giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn. Bộ mặt nông
thôn đã có sự thay đổi đáng kể, đời sống vật chất cũng như văn hóa xã hội
ngày càng được cải thiện.
Nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng, thành phố Hà Nội mở rộng
là nơi có nhiều làng nghề đang hoạt động, đặc biệt là làng nghề truyền thống,
trong đó huyện Chương Mỹ là một trong những nơi có điều kiện phát triển
làng nghề truyền thống. Huyện Chương Mỹ hiện có 33 làng nghề được Nhà


2

nước cấp giấy chứng nhận làng nghề truyền thống. Tuy nhiên, sự phát triển
của các làng nghề vẫn mang tính tự phát, quy mô sản xuất còn nhỏ, công nghệ
lạc hậu, trình độ lao động còn thấp. Tình trạng thiếu vốn, thiếu mặt bằng sản
xuất, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm đơn điệu, khả năng tiếp thị yếu đang khá
phổ biến ở các làng nghề hiện nay. Đây là thách thức lớn của toàn xã hội nói
chung và Chương Mỹ nói riêng, vấn đề đặt ra có tính thời sự, lâu dài, đòi hỏi
như thế nào để tìm ra phương án hiệu quả nhất, đảm bảo phát triển bền vững.
Bên cạnh những thuận lợi, sự phát triển của các làng nghề còn gặp một số trở
ngại, khó khăn, đó là khó khăn về vốn đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị sản
xuất và vốn luân chuyển; chất lượng mẫu mã sản phẩm chậm được cải tiến,
khả năng cạnh tranh thấp; Cơ sở hạ tầng của các làng nghề còn yếu kém
không đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng của các làng nghề; việc phát
triển nguồn nhân lực, đưa nghề truyền thống cũng như nghề mới truyền lại
cho lớp sau còn gặp nhiều khó khăn về tâm lý, kinh phí; thị trường đầu ra của
làng nghề còn nhỏ hẹp, chưa ổn định, chưa được mở rộng đáng kể, nhất là thị

trường quốc tế; nguồn cung ứng nguyên vật liệu đầu vào chưa ổn định do chủ
yếu dựa vào thương nhân trong tỉnh và nơi khác cung cấp.
Vấn đề đặt ra là thực trạng giải quyết việc làm cho lao động ở các làng
nghề trên địa bàn huyện ra sao, những nhân tố nào ảnh hưởng đến tạo việc
làm cho lao động ở các làng nghề. Xuất phát từ những vấn đề trên tôi quyết
định lựa chọn nghiên cứu: “Giải pháp tạo việc làm cho lao động tại các làng
nghề trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt
nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn và thực trạng tạo việc làm cho
lao động trong các làng nghề; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tạo việc
làm cho lao động trong các làng nghề trên địa bàn huyện Chương Mỹ - thành
phố Hà Nội.


3

2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá và luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về việc làm và tạo việc làm cho lao động trong các làng nghề
- Đánh giá thực trạng lao động, việc làm và tạo việc làm cho lao động
trong các làng nghề ở huyện Chương Mỹ;
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho lao động
trong các làng nghề trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội;
- Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm cho lao động trong các
làng nghề ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tạo việc làm cho người lao động trong các

làng nghề trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về nội dung
Đề tại tập trung nghiên cứu thực trạng tạo việc làm cho lao động trong
các làng nghề trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; một số nhân
tố chủ yếu tác động đến tạo việc làm cho người lao động và các giải pháp chủ
yếu nhằm tạo việc làm cho lao động trong các làng nghề trên địa bàn huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
+ Phạm vi về không gian
Đề tài nghiên cứu tạo việc làm cho người lao động trong các làng nghề
trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
+ Phạm vi về thời gian
Trong quá trình thực hiện, các tài liệu được thu thập trong giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2012 và số liệu điều tra hiện trạng năm 2013.


4

4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn về việc làm và tạo việc làm cho người lao
động trong các làng nghề.
- Thực tra ̣ng việc làm và tạo việc làm cho người lao động trong các
làng nghề trên địa bàn huyện Chương Mỹ.
- Giải pháp về tạo việc làm cho lao động tại các làng nghề trên địa bàn
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 03 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và tạo việc làm cho
người lao động trong các làng nghề.
Chương 2: Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu.

Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.


5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC LÀNG NGHỀ

1.1. Cơ sở lý luận về tạo việc làm cho người lao động trong các làng nghề
1.1.1. Khái niệm việc làm, tạo việc làm cho người lao động trong các làng nghề
1.1.1.1 Khái niệm việc làm cho người lao động trong các làng nghề
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): việc làm là những hoạt động
lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Điều 13, Chương 2 (việc làm) Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập,
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Khái niệm này được
vận dụng trong các cuộc điều tra về thực trạng lao động và việc làm hàng năm
của Việt Nam và được cụ thể hóa thành ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương dưới dạng bằng tiền
hoặc bằng hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân. Bao gồm sản xuất
nông nghiệp trên đất do chính thành viên được quyền sử dụng; hoặc hoạt động
kinh tế phi nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần.
- Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao
dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất
nông nghiệp trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ có quyền sử
dụng; hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong
hộ làm chủ hoặc quản lý.
Theo khái niệm trên, hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai

điều kiện:


6

+ Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao
động và cho các thành viên trong gia đình.
+ Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, và là điều kiện cần và
đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo
ra thu nhập nhưng vi phạm luật pháp như: trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại
dâm... không thể được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là
hợp pháp, có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là
việc làm, chẳng hạn như công việc nội trợ hàng ngày của phụ nữ cho chính
gia đình mình: đi chợ, nấu cơm, giặt giũ quần áo... nhưng nếu người phụ nữ
đó cũng thực hiện các công việc nội trợ tương tự cho gia đình người khác thì
hoạt động của họ lại được thừa nhận là việc làm vì được trả công.
Tuy nhiên, với khái niệm trên, theo tác giả có điểm còn bất hợp lý đặc
biệt là trong bối cảnh các làng nghề trong huyện Chương Mỹ thường gắn liền
với nông nghiệp: có những hoạt động có ích cho gia đình, cho xã hội, không
vi phạm pháp luật, nhưng không tạo ra thu nhập "trực tiếp" cho người tham
gia hoạt động, như công việc nội trợ của phụ nữ...lại không được coi là việc
làm. Nhờ phụ nữ làm công việc nội trợ, đã góp phần làm giảm chi tiêu của gia
đình; tạo điều kiện cho chồng, con yên tâm hoạt động sản xuất, kinh doanh
đồng thời góp phần tăng thêm lượng vốn đầu tư vào sản xuất, phát triển sản
xuất, tăng thu nhập cho cả gia đình. Như vậy, thực chất của vấn đề ở đây là công
việc nội trợ của phụ nữ cũng đã góp phần làm tăng thu nhập của cả gia đình.
Với ý nghĩa đó, tác giả đồng tình với quan điểm: việc làm là một dạng
hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện
tăng thêm thu nhập cho người thân, gia đình hoặc cộng đồng.

Áp dụng đối với các làng nghề thì việc làm cho các làng nghề chính là
một dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc
tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho người thân, gia đình hoặc cộng đồng.


7

1.1.1.2. Tạo việc làm cho người lao động trong các làng nghề
Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có lợi nhuận, các doanh nghiệp sẽ
tăng cường sử dụng lao động, tăng sản lượng, khối lượng việc làm sẽ tăng lên.
Mặt khác, khi nhu cầu thị trường suy giảm, các doanh nghiệp sẽ phải cắt giảm
sản lượng, khối lượng việc làm sẽ giảm.
Trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, khoa học
công nghệ phát triển mạnh mẽ, được ứng dụng nhanh chóng vào sản xuất và
tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội đã làm cho khối
lượng công việc có yêu cầu về mặt kỹ thuật cao tăng nhanh chóng.
Mặt khác, năng suất lao động tăng đã làm ảnh hưởng rất lớn tới "cầu"
lao động và "cơ cấu" lao động. Nếu người lao động không tự nâng cao tay
nghề, nâng cao trình độ của mình theo kịp với yêu cầu của sản xuất kinh
doanh; phân công lao động xã hội không phát triển, không tạo ra được nhiều
chỗ làm mới cho người lao động thì tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm là
điều khó tránh khỏi.
Đối với các làng nghề trong huyện Chương Mỹ, lao động cũng mang
tính thời vụ, do vậy vào thời kỳ khối lượng công việc nhiều, tăng đột biến như
vào mùa thu hoạch lao động trở nên khan hiếm. Tuy nhiên, hết mùa vụ, khối
lượng công việc giảm đột ngột, lao động trở nên dư thừa đối với các làng nghề
không có việc đều đặn. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay dân số ở khu vực
nông thôn vẫn tăng nhanh, đất canh tác không tăng thậm chí có xu hướng
giảm xuống vì nhiều lý do: đô thị hóa, đất ở tăng…mặt khác với khả năng
ứng dụng máy móc, tiến bộ khoa học công nghệ...làm cho năng suất lao động

tăng nhanh, giải phóng một lượng lao động lớn ra khỏi ngành nông nghiệp.
Nếu không tạo đủ công ăn, việc làm cho người nông dân, đặc biệt trong lúc
nông nhàn với thu nhập được người nông dân chấp nhận, sẽ dẫn đến hiện
tượng nông dân đổ xô ra các thành phố tìm kiếm việc làm gây nhiều vấn đề
phức tạp cho việc quản lý lao động, quản lý xã hội, tình trạng xóm liều, phố


8

liều, tệ nạn xã hội gia tăng. Do vậy, ngoài cách tạo việc làm cho người nông dân
có việc làm từ các khu công nghiệp, ngành dịch vụ và các công ty trên địa bàn
thì việc tạo công ăn việc làm cho người nông dân thông qua công việc từ các làng
nghề cũng là một trong các giải pháp quan trọng.
- Nội dung cơ bản của giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm là tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm và
tăng thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội.
Giải quyết việc làm cần phải xem xét cả từ ba phía: người lao động, người sử
dụng lao động và Nhà nước.
Giải quyết việc làm theo nghĩa rộng là tổng thể những biện pháp, chính
sách kinh tế, xã hội của Nhà nước, cộng đồng và bản thân người lao động tác
động đến mọi mặt của đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi người có khả năng
lao động và được lao động.
Giải quyết việc làm theo nghĩa hẹp là các biện pháp, chính sách chủ yếu
hướng vào đối tượng thất nghiệp, chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm nhằm tạo
việc làm cho người lao động, để giảm tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm.
Giải quyết việc làm rộng hơn khái niệm tạo việc làm. Trong phạm trù giải
quyết việc làm, ngoài nội dung tạo việc làm (như đã đề cập ở trên), còn có nội
dung môi giới việc làm. Môi giới việc làm về thực chất là hoạt động nhằm giúp
người lao động đang tìm việc làm và chủ sử dụng lao động đang cần tuyển lao
động dễ dàng gặp nhau, qua đó giúp người lao động dễ dàng tìm được việc làm.

Xuất khẩu lao động và chuyên gia về thực chất cũng là một hoạt động môi giới
việc làm.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của lao động trong các làng nghề
- Đặc điểm lao động trong các làng nghề
+ Lao động khu vực nông thôn nói chung và các làng nghề nói riêng
còn mang nặng tư tưởng và tâm lý tiểu nông, sản xuất nhỏ, ngại thay đổi nên
thường bảo thủ và thiếu năng động.


9

+ Có tính chất truyền thống, cha truyền con nối và ít được phổ biến rộng rãi.
+ Tăng về số lượng
Dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: quy mô
và cơ cấu của dân số có ý nghĩa quyết định đến quy mô cơ cấu của nguồn lao
động. Do sự phát triển của quá trình đô thị hóa và sự thu hẹp dần về tốc độ
tăng tự nhiên của dân số giữa nông thôn và thành thị nên tỷ lệ dân số cũng
như lực lượng lao động so với cả nước ngày càng giảm. Mặc dù vậy, quy mô
dân số và nguồn lao động ở nông thôn vẫn tiếp tục gia tăng. Do đó số lượng
lao động trong các làng nghề cũng gia tăng theo.
- Chất lượng nguồn lao động các làng nghề chưa cao
Chất lượng của người lao động được đánh giá qua trình độ chuyên môn kỹ
thuật, mức độ chuyên môn hóa, sức khỏe và mức độ cẩn thận tỉ mỉ trong công
việc…
- Về chuyên môn kỹ thuật và mức độ chuyên môn hóa: nguồn lao động
của nước ta nói chung đông về số lượng nhưng sự phát triển của nguồn nhân
lực nước ta còn nhiều hạn chế, nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu khắt
khe trong bối cảnh đất nước đang hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mức độ
chuyên môn hóa chưa cao, mỗi người thợ hầu như phải làm tất cả các khâu để
tạo sản phẩm mà chưa có sự phân công rõ ràng và khoa học. Đồng thời trình

độ chuyên môn cũng chưa đồng đều.
- Về sức khỏe: sức khỏe của người lao động có liên quan đến lượng
calo tối thiểu cung cấp cho cơ thể mỗi ngày, môi trường sống, môi trường làm
việc…nhìn chung lao động nước ta có tình trạng thể lực thấp, tuy nhiên sức
dẻo dai bền bỉ tương đối cao.
- Về mức độ cẩn thận, tỉ mỉ: rất nhiều sản phẩm của các làng nghề được
làm thủ công, do đó nó yêu cầu mức độ tỉ mỉ và say mê làm việc rất cao.


10

+ Di cư lên thành phố hoặc chuyển dịch sang các ngành dịch vụ của
lao động các làng nghề.
Đô thị hóa và di chuyển lao động các làng nghề ra thành thị trở thành
xu thế không thể cưỡng nổi, nó có tác dụng giảm sức ép căng thẳng về việc
làm tại các vùng nông thôn và cung ứng lao động cho thị trường lao động các
thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu du lịch.
Dòng lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị bao gồm cả lao động nhập
cư vào sinh sống, làm việc tại các thành phố và lao động nông thôn đến thành
phố làm việc mang tính chất thời vụ. Di chuyển lao động làng nghề ra thành
thị dẫn đến hiện tượng giảm bớt một bộ phận lao động làng nghề, đa số là lao
động trẻ, lao động vừa tốt nghiệp các cấp phổ thông chưa qua đào tạo.
Dòng lao động làng nghề di chuyển đến làm việc tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất…đa số có trình độ văn hóa từ cấp II trở lên, được các
doanh nghiệp tuyển dụng, đào tạo và sử dụng. Các khu công nghiệp tại các
thành phố lớn…có tỷ lệ lao động từ nông thôn (trong đó có các lao động từ
các làng nghề) tương đối cao. Do đó đô thị hóa có tác dụng làm biến đổi chất
lượng lao động của làng nghề, bộ phận lớn lao động làng nghề dần dần có vị
trí mới trong hệ thống sản xuất công nghiệp và dịch vụ, lao động làng nghề
nhập cư vào các thành phố là nguồn nhân lực quan trọng đảm bảo cho sự phát

triển quy mô các ngành nghề, sự hoạt động sôi nổi của thị trường lao động.
Mặt khác, với đặc điểm đô thị hóa phát triển chậm, thiếu đồng bộ ở
nước ta, nên việc di chuyển ồ ạt lao động vào các thành phố lớn có mặt trái là
gây nên tình trạng quá tải về lao động giản đơn tại các thành phố, quá tải về
hạ tầng cơ sở và gây ảnh hưởng không tốt đến cảnh quan môi trường đô thị.
- Vai trò của lao động trong các làng nghề
Do đặc điểm của lao động trong các làng nghề phần lớn là làm thủ công
do vậy, nguồn lao đông đóng vai trò then chốt và quyết định tới chất lượng, số
lượng và tiến độ tạo ra sản phẩm.


11

1.1.3. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động trong các làng nghề
a) Phát triển nguồn lao động làng nghề sẽ tận dụng được tối đa nguồn
lao động dồi dào và ngày một gia tăng, phát huy vai trò của tiềm năng con
người ở nông thôn (cả về số lượng và chất lượng).
Quá trình phát triển kinh tế-xã hội nông thôn phải hướng tới việc khắc
phục tình trạng thiếu việc làm đang diễn ra bức xúc hiện nay ở nông thôn,
nhất là vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long. Quyền và
nghĩa vụ của người lao động sẽ được thực hiện nhằm khai thác tiềm năng lợi
thế của vùng, từng địa phương về lao động. Người lao động sẽ có cơ hội, điều
kiện để phát huy tính năng động, sáng tạo, cống hiến được nhiều hơn giá trị
cho xã hội.
Thực tiễn trong những năm qua đã cho thấy, bất cứ ở đâu, khi nào nếu
các địa phương có biện pháp tích cực để tận dụng nguồn lao động dư thừa ở
nông thôn vào quá trình sản xuất như mở mang ngành nghề, dịch vụ…nói
chung và vào các làng nghề nói riêng thì GDP sẽ tăng lên, nền kinh tế sẽ phát
triển và địa phương đó đời sống người lao động được nâng cao lên một bước,
bộ mặt nông thôn không ngừng đổi mới.

b) Phát triển nguồn nhân lực làng nghề sẽ khai thác được tối đa những
nguồn lực quan trọng còn tiềm ẩn trong khu vực kinh tế các làng nghề.
Ở nước ta hiện nay, những tiềm năng về nguồn lực trong các làng nghề
còn rất lớn cả về nhiên liệu, năng lực, khoáng sản, đất đai, rừng, biển, cảnh
quan địa lý, vốn nhàn rỗi, ngành nghề truyền thống…các tiềm năng ấy vẫn
mãi mãi là tiềm năng nếu con người không hướng vào khai thác và sử dụng
phát huy nguồn nhân lực nông thôn là nhân tố quyết định để biến những tiềm
năng ấy thành hiện thực bằng các chính sách khuyến khích người lao động,
nhiều địa phương đã khai thác được các lợi thế của mình như tập trung đầu tư
khai thác có hiệu quả toàn bộ tiềm năng đất đai, khoáng sản bằng việc mở


12

rộng nhà xưởng sản xuất, nhân rộng mô hình làng nghề…Sử dụng, phát triển
nguồn nhân lực các làng nghề sẽ đảm bảo cho mọi người có việc làm, thu
nhập, đời sống ổn định, cũng từ đó mà các phong trào khác có cơ sở để phát
triển.
c) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp
Trong giai đoạn đất nước đang tăng tốc phát triển kinh tế bằng cách tập
trung đầu tư phát triển những ngành nghề công nghiệp hiện đại tại các khu đô
thị và nỗ lực phấn đấu phát huy mọi nguồn sức mạnh, tận dụng mọi lợi thế và
nguồn lực để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhằm công nghiệp
hoá kinh tế nông thôn. Ví dụ như năm 2009, giá trị sản xuất của các làng
nghề Hà Nội đã đạt khoảng 7.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng giá trị sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp toàn thành phố. Phát triển làng nghề
nông thôn góp phần tăng trưởng, tạo ra khối lượng hàng hoá đa dạng và
phong phú phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, là một trong những nội dung quan
trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm
dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ

cấu tổng sản phẩm trong nước.
Việc khôi phục các nghề và các làng nghề, phát triển các làng nghề
mới, sản phẩm mới, các doanh nghiệp nhỏ, các ngành nghề ở nông thôn một
mặt tạo ra việc làm, tăng thu nhập và sức mua cho người dân nông thôn, mặt
khác đóng vai trò tích cực trong việc thay đổi tập quán sản xuất từ sản xuất
nhỏ, phân tán, độc canh tự cung tự cấp sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá,
đa canh, kết hợp sản xuất nông nghiệp với công nghiệp dịch vụ, thúc đẩy hình
thành và phát triển thị trường hàng hoá, thị trường vốn, thị trường lao động
trong nông thôn.


13

Sự phát triển làng nghề tạo điều kiện cho công nghiệp, dịch vụ phát triển
làm giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp phù hợp với quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa của nước ta.
d) Phát triển nguồn nhân lực làng nghề sẽ thúc đẩy quá trình phân công
và hợp tác lao động ngày càng tốt hơn với quy mô lớn hơn.
Sự phân công và hợp tác lao động sẽ mang lại năng suất lao động cao
hơn và là một đặc trưng ưu việt của sản xuất lớn so với sản xuất nhỏ. Thực tế
sản xuất công nghiệp nhỏ cho thấy, tổ chức tốt việc phân công và hợp tác lao
động sẽ tạo ra một năng lực sản xuất mới và tạo ra năng suất lao động cao. Nó
không những thúc đẩy nhanh quá trình chuyên môn hoá, hợp tác hoá lao động
ở trình độ cao mà còn tạo điều kiện để nâng cao trình độ mọi mặt của người
lao động.
e) Sử dụng hợp lý và phát triển nguồn nhân lực làng nghề sẽ giải quyết
được những vấn đề bức xúc của chính sách xã hội ở nông thôn hiện nay.
Ở nông thôn hiện nay do năng suất lao động thấp, diện tích đất canh tác
ngày càng giảm do nhiều nguyên nhân, điều kiện cơ sở hạ tầng thấp, đời sống
dân cư nông thôn và nông dân còn thấp xa so với thành thị, tình trạng thất

nghiệp, thiếu việc làm vẫn tiềm tàng ở nông thôn đặc biệt là các vùng chậm
phát triển, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người dẫn đến tình
trạng đói nghèo khá phổ biến ở khu vực nông thôn. Một bộ phận dân cư nông
thôn di chuyển từ nông thôn ra thành thị làm thuê, gây sức ép rất lớn cho khu
vực thành thị, làm nảy sinh nhiều tiêu cực xã hội. Do vậy, phát triển nguồn
nhân lực làng nghề không chỉ là vấn đề trọng tâm của chiến lược phát triển
kinh tế mà còn là giải pháp kinh tế, xã hội đem lại sự thay đổi cho số đông
dân cư để thu hút họ vào sản xuất nông nghiệp hàng hoá, công nghiệp và dịch
vụ nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.


14

1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động trong các
làng nghề
- Trình độ văn hóa, chuyên môn, lao động có tay nghề và kinh nghiệm
truyền thống.
+ Về giáo dục và đào tạo: Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ
thuộc vào trình độ khoa học, công nghệ của đất nước đó. Trình độ khoa học
công nghệ lại phụ thuộc vào các điều kiện giáo dục. Giáo dục và đào tạo giúp
cho người lao động có đủ tri thức, năng lực, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu
của công việc, người lao động qua quá trình đào tạo sẽ có nhiều cơ hội để
thực hiện các công việc mà xã hội phân công sắp xếp.
Giáo dục và đào tạo là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản để đảm
bảo việc thực hiện những mục tiêu kinh tế, xã hội. Giáo dục và đào tạo nhằm
vào định hướng phát triển, trước hết cung cấp cho xã hội một lực lượng lao
động mới đủ về số lượng, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để đảm
bảo việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Đối với các làng nghề truyền thống, các lao động yêu cầu phải có tay

nghề cao, quá trình học tập và thực hành lâu dài gắn liền với thực tế. Do vậy
việc đào tạo lao động có các đặc thù riêng gắn với đặc điểm lao động của các
làng nghề, đào tạo nên được thực hiện trong thời gian dài với sự kết hợp giữa
thời gian học tập và thực hành; đào tạo các nghề có tính truyền thống nên
được thực hiện từ khi lao động còn nhỏ sẽ tiết kiệm được thời gian và công
sức.
+ Về Khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ đã làm biến đổi cơ cấu
đội ngũ lao động. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đã xuất hiện
những ngành nghề mới và cùng với nó là xu hướng tri thức hoá công nhân,
chuyên môn hoá lao động, giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc.


15

Trong nền kinh tế phát triển, người lao động muốn thích ứng với các
công việc mà xã hội yêu cầu, trước hết họ phải là những người được trang bị
một kiến thức nhất định về khoa học công nghệ. Tuy nhiên, trong thực tế ở
những nước sản xuất kém phát triển thường có mâu thuẫn: nếu công nghệ sản
xuất tiên tiến với các dây chuyền sản xuất tự động hoá, chuyên môn hoá cao
thì trình độ người lao động chưa bắt kịp dễ dẫn đến tình trạng một bộ phận
người lao động bị gạt ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế, bên cạnh
công việc đào tạo nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động, vấn đề lựa
chọn áp dụng mức độ công nghệ nào trong dây chuyền kinh doanh phải tính
toán thận trọng, bởi vì chính sách khoa học công nghệ có tác động mạnh mẽ
đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.
- Hình thức, tổ chức sản xuất của làng nghề: Với các quy mô tập trung,
thành lập các Hợp tác xã, các tổ hợp, các chủ thu gom tập trung, để thuận tiện
cho việc phát triển và sản xuất tập trung; nhằm phát huy mạnh mẽ các tài năng
tập thể, các sáng kiến ý tưởng, sản xuất mẫu mã mới, có chất lượng cao.
- Về vốn sản xuất

Vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với việc làm của người lao động: vốn
dùng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm máy móc, thiết bị, đào tạo
đội ngũ người lao động... Đặc biệt trong điều kiện ngày nay, để phát triển sản xuất
đòi hỏi phải đổi mới nhanh chóng máy móc, thiết bị, tích cực ứng dụng tiến bộ
khoa học công nghệ, hơn nữa hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh
ngày càng khốc liệt, tính rủi ro cao. Có vốn lớn, "trường vốn" đem lại lợi thế cho
doanh nghiệp và người sản xuất, thực tế là: muốn phát triển một ngành nào đó đều
cần phải có một lượng vốn đầu tư tương ứng cho một chỗ làm mới (ví dụ: cần mở
rộng sản xuất để tạo thêm nhiều việc làm cho các lao động tiểu thủ công nghiệp
cần rất nhiều vốn để xây dựng nhà xưởng, đào tạo, thu hút lao động…)


16

Các làng nghề của chúng ta được hình thành từ lâu đời, có bề dày kinh
nghiệm và tay nghề cao, tuy nhiên hiện nay các lĩnh vực này đang bị canh
tranh gay gắt từ các nước khác trên thế giới, đặc biệt là Trung Quốc. Các làng
nghề của chúng ta có quy mô nhỏ, thường là hộ gia đình và doanh nghiệp
nhỏ, vốn đầu tư ít do đó mức độ công nghiệp hóa, chuyên môn hóa chưa cao,
mức độ đảm bảo an toàn lao động và vệ sinh môi trường chưa thực tốt dẫn
đến khả năng cạnh tranh yếu, lợi nhuận thu được thấp và thích nghi chậm đối
với các yêu cầu của khách hàng. Đây là một vấn đề lớn, cần có sự định
hướng, tính toán cẩn thận của các đơn vị lãnh đạo địa phương cũng như sự
quan tâm giúp đỡ của Nhà nước và các ban ngành liên quan.
- Nguồn nguyên liệu: nguồn nguyên liệu là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
sản xuất, chế biến của làng nghề. Việc chủ động được nguồn nguyên liệu với chi
phí hợp lý có ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất, hiệu quả kinh doanh
và quy mô của các làng nghề. Đặc biệt hiện nay có một số lĩnh vực sản xuất
nguồn nguyên liệu ngày càng khan hiếm đi, chẳng hạn như ngành sản xuất tiểu
thủ công nghiệp sử dụng rất nhiều nguồn nguyên liệu được khai thác từ rừng,

trong khi đó diện tích rừng ngày càng giảm sút về quy mô và chất lượng. Do đó
cần có giải pháp hợp lý để chủ động nguồn nguyên liệu để có các tính toán chiến
lược sản xuất phù hợp.
- Chính sách lao động, việc làm trong các làng nghề
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà
nước phải tạo các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự tạo
việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có thể có
rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành
một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau hướng
vào phát triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù
hợp với nhau. Thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động.


17

Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức và
vùng có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường như:
Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách di dân và phát triển
vùng kinh tế mới, chính sách đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài,
chính sách khôi phục và phát triển làng nghề... Nhóm chính sách việc làm cho
các đối tượng là người có công và chính sách xã hội đặc biệt khác như: Thương
binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người tàn tật, đối tượng xã hội...
Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, nhưng phương
thức và biện pháp giải quyết việc làm mang nội dung kinh tế đồng thời liên quan
đến những vấn đề thuộc về tổ chức sản xuất kinh doanh như: Tạo môi trường
pháp lý, vốn, lựa chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ
sản phẩm...
1.2. Kinh nghiệm về tạo việc làm cho người lao động trong các làng nghề ở
một số nước trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Kinh nghiệm về tạo việc làm cho người lao động trong các làng nghề ở

một số nước trên thế giới
1.2.1.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhằm mục đích thúc đẩy mạnh phát triển các sản phẩm thủ công đặc
trưng của mỗi vùng. Trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá nền kinh tế
đất nước, ngành nghề thủ công Nhật bản bị phân hoá và phát triển theo hai
hướng: một số ngành tiểu thủ công nghiệp đi lên CNH (chiếm ưu thế); một số
khác tiếp tục theo hướng thủ công truyền thống. Bước vào những năm 1970,
nhu cầu về hàng hoá tiêu dùng từ chỗ coi trọng tính hợp lý cơ năng, chuyển
sang xu hướng đa dạng hoá và đề cao cá tính, coi trọng chất lượng, tính độc
đáo hơn là số lượng theo kiểu tiêu chuẩn hoá đồng loạt. Các cuộc khủng
hoảng về nhiên liệu và một số tài nguyên thiên nhiên khác trên thế giới vào
những năm đó khiến Chính phủ Nhật Bản phải suy nghĩ lại về giá trị của các


18

nghề thủ công truyền thống đã tồn tại lâu đời, sử dụng tài nguyên tiết kiệm,
hiệu quả. Trong khi đó hàng thủ công truyền thống Nhật Bản mất dần khả
năng cạnh tranh so với hàng tiêu dùng sản xuất bằng công nghiệp, lại vấp phải
hàng loạt khó khăn về thông tin thị trường, tiêu thụ, nguồn nguyên vật liệu tự
nhiên, vấn đề ô nhiễm môi trường, nguồn nhân lực bị hút ra thành thị, vào các
ngành sản xuất hiện đại hoá... Vì thế các ngành nghề thủ công Nhật Bản đã bị
suy thoái.
Trong bối cảnh đó Nghị viện Nhật Bản năm 1974 đã ban hành Luật Phát
triển nghề thủ công truyền thống. Được sự hỗ trợ của Chính phủ, phong trào
“Mỗi làng một sản phẩm” được khai sinh tại quận Oita vào năm 1979 với ý
tưởng làm sống lại các ngành nghề thủ công truyền thống. Có hai khẩu hiệu
nổi tiếng là: “Nghĩ về tổng thể, hành động ở địa phương” và “Độc lập và sáng
tạo”. Nhờ phong trào, một số sản phẩm truyền thống của Oita trở thành nổi
tiếng không chỉ trong Nhật bản, mà còn cả trên thị trường nhiều nước.

Từ thành công của quận Oita, sau 5 năm phát động cả nước Nhật đã có 20
quận hưởng ứng với các dự án tương tự như “sản phẩm của làng”, “chương
trình phát triển thành phố quê hương”, “chương trình làm sống lại địa
phương”... Tinh thần của phong trào này còn hấp dẫn nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới
1.2.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Là nước đông dân nhất thế giới với 1,3 tỷ dân nhưng 70% dân số ở khu
vực nông thôn. Hàng năm, Trung Quốc có 10 triệu lao động đến tuổi tham gia
lực lượng lao động nên yêu cầu giải quyết việc làm trở nên gay gắt. Trước đòi
hỏi cấp bách của thực tế, ngay từ năm 1978 sau khi cải cách mở cửa nền kinh
tế, Trung Quốc thực hiện phương trâm “ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất
nhập thành” thông qua chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ công
nghiệp Hưng Trấn nhằm phát triển và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế


19

và phân công lại lao động ở nông thôn, rút ngắn khoảng cách nông thôn và
thành thị; coi việc phát triển công nghiệp nông thôn là con đường giải quyết
việc làm.
Từ năm 1978 đến 1991, Trung Quốc có 19 xí nghiệp Hưng Trấn thu
hút 96 triệu lao động ở nông thôn, tạo ra giá trị tổng sản lượng 1.162 tỷ Nhân
dân tệ. Nhờ phát triển công nghiệp nông thôn mà tỷ trọng lao động nông
nghiệp đã giảm từ 70% năm 1978 xuống còn 50% năm 1991. Bình quân trong
10 năm, từ 1980 đến 1990, mỗi năm các xí nghiệp Hưng Trấn của Trung
Quốc thu hút khoảng 12 triệu lao động dư thừa từ nông nghiệp [13]. Từ thực
tiễn phát triển công nghiệp nông thôn, giải quyết việc làm ở nông thôn trong
đó có các làng nghề có thể rút ra bài học kinh nghiệm:
Một là: Trung Quốc đã thực hiện chính sách đa dạng hoá và chuyên
môn hoá sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, khuyến

khích nông dân đầu tư dài hạn phát triển sản xuất công nghiệp và mở mang
các hoạt động phi nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển các làng nghề với thị
trường chính là xuất khẩu sang các nước Châu Âu và Nhật Bản. Đây là nhân
tố quan trọng nhất tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế thu hút lao động và các
hoạt động phi nông nghiệp khác ở nông thôn.
Hai là: tạo môi trường thuận lợi để lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp nhẹ, sản phẩm chính của các làng nghề phát triển vào giai đoạn đầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nhà nước thực hiện
bảo hộ sản xuất hàng hoá trong nước, hạn chế ưu đãi đối với các doanh
nghiệp công nghiệp nhà nước, qua đó tạo sân chơi bình đẳng cho các các nghề
phát triển.
Ba là: thiết lập một hệ thống cung cấp tài chính có hiệu quả cho doanh
nghiệp các làng nghề giảm chi phí giao dịch để huy động vốn cho công
nghiệp nông thôn.


20

Bốn là: duy trì và mở rộng quan hệ hai chiều giữa doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp các làng nghề.
Như vậy, Trung Quốc đã thành công trong việc giải quyết việc làm cho
người lao động ở các làng nghề bằng việc mở hàng loạt các xí nghiệp Hưng
Trấn sử dụng lao động các làng nghề kết hợp với các chính sách vĩ mô của
nhà nước. Đây là một trong những kinh nghiệm quý báu có thể áp dụng được
ở Việt Nam, nhằm giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động nông thôn,
tăng thu nhập và cải thiện đời sống gia đình.
1.2.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
Có tên gọi “One Tambon, One Product” hay còn gọi là “Thai Tambon
Project” (tiếng Thái “Tambon” nghĩa là “làng”), được phát động sau khi Thủ
tướng Thái Lan đi thăm cửa hàng “One Village, One Product” tại Nhật Bản.

Chương trình này được giới thiệu tại Thái Lan vào năm 1999 và chính thức đi
vào hoạt động vào tháng 10 năm 2001. Trong chương trình này, Chính phủ
Thái Lan hỗ trợ để mỗi làng làm ra một sản phẩm tiêu biểu, đặc trưng và có
chất lượng cao, chủ yếu hỗ trợ ở khâu tiếp thị, xúc tiến bán hàng, huấn luyện
và chuyển giao công nghệ cho nông dân. Chính phủ Thái Lan cho biết chỉ
trong 4 tháng đầu năm 2002 chương trình này đã đem lại 3,66 tỷ Baht (84,2
triệu USD) lợi nhuận cho nông dân. Năm 2003 doanh số bán hàng của các
làng tham gia Chương trình “mỗi làng một sản phẩm” đã đạt mức 30,8 tỷ
Baht, tăng 13% so với năm 2002. Dự kiến đạt 40 tỷ Baht trong năm 2004 và
nhờ phong trào này mà nhiều người nước ngoài đã biết đến sản phẩm thủ
công của Thái Lan.
1.2.2. Kinh nghiệm tạo việc làm cho người lao động trong các làng nghề ở
Việt Nam
1.2.2.1. Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tạo việc làm
cho người lao động trong các làng nghề
Giải quyết việc làm cho người lao động vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu
dài, vừa mang tính cấp bách, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các


21

cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và của chính người lao động. Nhà
nước, các cấp ngành có chủ trương trách nhiệm xây dựng chương trình giải
quyết việc làm hàng năm và từng thời kỳ, đề ra chỉ tiêu việc làm, các giải
pháp thực hiện, có hệ thống chính sách ưu đãi khuyến khích có liên quan đến
tạo nhiều việc làm mới, thu hút lực lượng lao động và có trách nhiệm với người
lao động.
Nhà nước tạo những điều kiện cần thiết thông qua cơ chế, chính sách,
luật pháp và hỗ trợ một phần về tài chính để khuyến khích các tổ chức, đơn vị
kinh tế và người lao động ở mọi thành phần kinh tế tự giải quyết việc làm và

tạo việc làm mới.
Người lao động được tự do hành nghề, thành lập hội nghề nghiệp, liên
doanh, liên kết, hợp tác và tự do thuê mướn lao động trên cơ sở pháp luật và
sự hướng dẫn của Nhà nước. Nhà nước bảo vệ và khuyến khích các chủ
doanh nghiệp, kể cả các chủ tư nhân, gia đình và mọi người làm giàu chính
đáng, tạo được nhiều chỗ làm việc mới và thu hút được nhiều lao động.
Phát huy mọi nguồn tiềm năng trong nước, khai thác đến mức tối đa
tiềm năng trong dân (vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm làm ăn...), đồng thời tranh
thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các chương
trình và dự án việc làm có mục tiêu.
Giải quyết việc làm phải gắn với quy hoạch tổng thể, phát triển kinh tế,
xã hội và đồng thời phải căn cứ vào hai chỉ tiêu chủ yếu là hiệu quả kinh tế và
chỗ làm mới để lựa chọn các dự án phát triển kinh tế.
Giải quyết việc làm phải gắn liền với việc không ngừng nâng cao chất
lượng lao động, do đó phải xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại nguồn
nhân lực để đáp ứng yêu cầu trong từng lĩnh vực việc làm nói riêng và yêu
cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước nói chung.


22

1.2.2.2. Kết quả tạo việc làm cho người lao động trong các làng nghề ở một số
địa phương và Hà Nội
- Tại Quảng Trị:
Triển khai thực hiện Đề án 1956 từ năm 2010, qua ba năm, tỉnh Quảng
Trị đã đưa vào sử dụng đào tạo 40/52 nghề trong bảng danh mục nghề đã
được UBND tỉnh phê duyệt, trong đó nghề nông nghiệp là 19 và nghề phi
nông nghiệp là 21. Theo thống kê của Sở LĐTB&XH, đến hết năm 2012, toàn
tỉnh có hơn 17.000 LĐNT được học nghề, trong đó tỷ lệ người có việc làm
sau học nghề đạt trên 70%.

Hoạt động dạy nghề cho LĐNT được thực hiện với nhiều hình thức, như
dạy tập trung ở các cơ sở dạy nghề, dạy nghề trực tiếp tại cơ sở. Trong vòng ba
năm qua, Quảng Trị đã xây dựng được 3 mô hình điểm dạy nghề cho lao động
nông thôn lĩnh vực nông nghiệp, 2 mô hình dạy nghề phi nông nghiệp theo hình
thức dạy nghề theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp.
- Tại Phú Thọ:
Từ năm 2010, tỉnh Phú Thọ đã tổ chức triển khai Quyết định 1956/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020" (Đề án 1956) và đã đạt được kết quả đáng ghi nhận.
Tỉnh đã triển khai thí điểm nhiều mô hình dạy nghề cho lao động nông
thôn như: Năm 2010 thực hiện mô hình đào tạo nghề nuôi lợn thương phẩm,
trồng nấm cho 70 lao động ở xã Gia Điền, huyện Hạ Hòa; năm 2011 thực hiện
13 mô hình đào tạo 9 nghề cho 419 lao động tại 11 huyện, thành phố, trong đó
có những nghề đặc thù, nghề thuộc làng nghề như: Nuôi rắn thương phẩm, tạo
dáng và chăm sóc cây cảnh, trồng rau an toàn, trồng dưa bao tử; năm 2012 tổ
chức 18 mô hình, đào tạo 16 nghề (5 nghề phi nông nghiệp, 4 nghề trồng cây
chuyên canh/làng nghề) cho 896 lao động, trong đó so với năm 2010 và 2011 có


23

9 nghề mới, 7 nghề tiếp tục thí điểm để khẳng định khả năng nhân rộng. Qua 3
năm thực hiện Đề án 1956 hiệu quả đào tạo nghề đã được nâng lên rõ rệt.
Đa số lao động nông thôn sau đào tạo nghề đã áp dụng được kiến thức, kỹ
năng vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập, ổn định việc làm,
tìm được việc làm mới góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Ở một số nơi,
nhất là ở các xã thí điểm, các mô hình dạy nghề đã góp phần hình thành mô hình
sản xuất mới, với những nông dân đã qua đào tạo nghề là lực lượng nòng cốt. Có
không ít lao động nông thôn sau học nghề đã trở thành chủ cơ sở sản xuất, kinh
doanh dịch vụ. Cụ thể, số lao động nông thôn có việc làm sau học nghề là 11.425
người đạt 80,9%; nghề phi nông nghiệp 2.807 người đạt 73,9%, nghề nông

nghiệp 8.618 người đạt 83,6%; 533 người thuộc hộ nghèo thoát nghèo; 189
người thuộc hộ gia đình nghèo trở thành hộ khá; 575 người sau khi học nghề đã
chuyển sang làm nghề thuộc lĩnh vực phi nông nghiệp hoặc được doanh nghiệp
tuyển dụng, bao tiêu sản phẩm; 147 lao động làm nghề nông nghiệp được bao
tiêu sản phẩm, 127 lao động thành lập tổ sản xuất. Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu lao động sang phi nông
nghiệp, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo ở khu vực nông thôn, thực hiện tiêu chí
xây dựng nông thôn mới.
- Một số địa phương trên địa bàn thành phố Hà Nội:
Đào tạo lao động có tay nghề hướng đến mục tiêu tạo việc làm ổn định
là hướng đi chính trong chương trình giải quyết việc làm (GQVL) của Thành
phố Hà Nội. Tính từ năm 2010 đến nay, thành phố đã đầu tư hơn 50 tỷ đồng
để dạy nghề cho lao động mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp; khoảng 80 tỷ đồng để đào tạo nghề cho số lao động nông thôn
tại 19 huyện, thị xã.
Điển hình trong công tác đào tạo nghề, GQVL cho người lao động là
Đan Phượng, một trong những huyện có nhiều dự án lớn của thành phố nên số


×