Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh ngành nghề gỗ mỹ nghệ trên địa bàn huyện trảng bom, tỉnh đồng nai năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 140 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là xu thế tất
yếu của tiến trình phát triển kinh tế - xã hội.
Vì vậy phát triển ngành nghề ở nông thôn là tạo tiền đề đẩy nhanh
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Ngành nghề gỗ mỹ nghệ truyền thống có lịch sử từ lâu đời và được duy
trì cho tới ngày hôm nay. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng, trong việc thúc
đẩy nhanh phân công lao động xã hội; thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và khai thác các nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn; tạo ra
các sản phẩm cho thị trường trong nước và xuất khẩu; góp phần giữ vững và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và là nhân tố quan trọng tăng thu nhập cho
dân cư và phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.
Việt Nam là một trong 4 quốc gia xuất khẩu mặt hàng gỗ chế biến lớn
nhất khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh sự phát triển của ngành công nghiệp gỗ
chế biến, Việt Nam còn có thế mạnh về nghề gỗ mỹ nghệ.
Các sản phẩm gỗ mỹ nghệ của Việt Nam không chỉ được đánh giá cao
về chất lượng, mà còn phong phú về mẫu mã, chủng loại, phục vụ cho mọi
nhu cầu đa dạng trong cuộc sống. Sản phẩm gỗ mỹ nghệ của Việt Nam đã có
mặt ở thị trường hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Đồng Nai là một tỉnh công nghiệp xếp hàng thứ 4 của cả nước, là một
địa phương có nhiều ngành nghề truyền thống lâu đời trong đó có nghề gỗ
mỹ nghệ của huyện Trảng Bom.
Nghề gỗ mỹ nghệ ở huyện Trảng Bom đang có chiều hướng mai một
với nhiều lý do khác nhau: như thiếu vốn, thiếu mặt bằng sản xuất, chủ yếu
các cơ sở sản xuất sử dụng đất nhà ở là chính, do đó còn gặp nhiều khó khăn.


2



Huyện Trảng Bom là địa phương có rất nhiều thuận lợi nhất để sản xuất
mặt hàng gỗ mỹ nghệ đó là trên địa bàn có rất nhiều thợ giỏi, nghệ nhân tâm
huết với nghề, có nguồn nguyên liệu dồi dào từ các cơ sở mộc gia dụng, trên
địa bàn có rất nhiều khu du lịch thuận lợi cho việc phát triển làng nghề và
Hiện nay tỉnh Đồng Nai đang có dự án quy hoạch cụm làng nghề gỗ mỹ nghệ
tại địa bàn xã Bình Minh, huyện Trảng Bom. Tuy nhiên trong quá trình triển
khai đang gặp rất nhiều khó khăn do các cơ sở sản xuất không đồng ý di
chuyển vào cụm vì họ sợ không có vốn, không có đầu ra ổn định, không có
lao động lành nghề, và một vấn đề quan trong nữa là lao động nông
thôn chưa quen với hình thức sản xuất công nghiệp nên ý tưởng vào cụm rất
sản xuất là rất hạn chế. Các cơ sở sản xuât tại gia đình thấy rất thuận tiện vì
ngành này độ tuổ từ 10 tuổi trở lên là có thể phụ giúp được công việc sản
xuất. Các cơ sở sản xuất chủ yếu lao động gia đình là chính giảm thuê mướn
sẽ giảm được rất nhiều chi phí. Và đây chính là những lý do các cơ sở không
đồng ý vào cụm sản xuất.
Với tình hình phát triển của ngành gỗ mỹ nghệ như hiện nay, thì định
hướng phát triển sản xuất kinh doanh ổn định cho những năm tới là một vấn
đề hết sức cần thiết, vì đây là ngành có tốc độ tăng trưởng cao, giải quyết
việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho người dân ở địa phương
góp phần phát triển nhanh công nghiệp ở khu vực nông thôn theo phương
châm “ly nông bất ly hương” góp phần phát triển một nền kinh tế ở nông
thôn ổn định và bền vững.
Đây là yêu cầu vừa cấp thiết vừa lâu dài cần được nghiên cứu nhằm
tìm ra những căn cứ lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc phát triển sản
xuất, kinh doanh ngành nghề mỹ nghệ gỗ phát triển phù hợp và bền vững.
Song chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề nêu trên. Xuất phát từ đó, Em xin
chọn đề tài “Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh ngành nghề gỗ mỹ



3

nghệ trên địa bàn huyện Trảng Bom, Tỉnh Đồng Nai năm 2013” làm đề
tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khái quát tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh gỗ mỹ nghệ,
nêu những thuận lợi, khó khăn và các yếu tố tác động đến việc phát triển
sản xuất kinh doanh gỗ mỹ nghệ, để từ đó ta thấy được vai trò của việc
phát triển ngành nghề gỗ mỹ nghệ tại địa phương.
Thông qua những kết quả điều tra, luận văn đánh giá thực trạng sản
xuất kinh doanh ngành nghề gỗ mỹ nghệ trên địa bàn huyện Trảng Bom,
từ đó đề xuất những định hướng, mục tiêu và xây dựng các giải pháp nhằm
phát triển sản xuất kinh doanh ngành nghề gỗ mỹ nghệ trong giai đoạn
hiện.
Mục tiêu cụ thể
Để giải quyết mục tiêu tổng quát đề tài cần nghiên cứu ba mục tiêu cụ
thể như sau:
Thứ nhất : Khái quát tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh gỗ
mỹ nghệ, nêu những thuận lợi, khó khăn và các yếu tố tác động đến việc phát
triển sản xuất kinh doanh gỗ mỹ nghệ để khẳng định việc phát triển ngàng
nghề gỗ mỹ nghệ tại địa bàn huyện Trảng Bom là phụ hợp trong giai đoạn
hiện nay.
Thứ hai: Thông qua kết quả điều tra, phân tích thực trạng sản xuất
kinh doanh gỗ mỹ nghệ trên địa bàn huyện Trảng Bom. Từ đó, đánh giá
những thành công và hạn chế của các cơ sở sản xuất kinh doanh trong thời
gian qua.


4


Thứ ba: Đề xuất giải pháp cụ thể để phát triển sản xuất kinh doanh
ngành nghề gỗ mỹ nghệ trên địa bàn huyện Trảng Bom, Tỉnh Đồng Nai trong
gia đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. Nhằm góp phần đẩy nhanh công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và đây cũng là xu thế tất
yếu của tiến trình phát triển kinh tế - xã hội.
3. Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu thực trạng của việc phát triển sản xuất kinh doanh và giải
pháp phát triển của các cơ sở sản xuất ngành nghề gỗ mỹ nghệ trên địa bàn
huyện Trảng Bom, Tỉnh Đồng Nai.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi về nội dung: Tìm hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh của
các cơ sở sản xuất ngành nghề gỗ mỹ nghệ và các yếu tố tác động đến việc
phát triển sản xuất kinh doanh ngành nghề gỗ mỹ nghệ.
Phạm vi về không gian: Các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn
huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
Phạm vi về thời gian: Kháo sát phân tích các cơ sơ sản xuất năm 2012.
4. Nội dung nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Nghiên cứu sự phát triển sản xuất kinh doanh của các cơ
sở sản xuất ngành nghề gỗ mỹ nghệ trong nhưng năm qua và năm 2012 trên
địa bàn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
Thực trạng: Sản xuất kinh doanh ngành nghề gỗ mỹ nghệ trên địa bàn
huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Theo số liệu tổng hợp của phòng kinh tế
huyện Trảng Bom năm 2005, huyện Trảng Bom đã có hơn 237 cơ sở lớn nhỏ


5

sản xuất gỗ mỹ nghệ thì hiện nay trên toàn huyện chỉ còn 98 cơ sở lớn nhỏ,

số hộ sản xuất kinh doanh ngày càng thu hẹp.
Mục đích nghiên cứu: Nghiện cứu thực trạng sản xuất và những tác
động ảnh hưởng đến phát triển sản xuất gỗ mỹ nghệ.
Các giải pháp đề xuất: Phát triển ngành nghề gỗ mỹ nghệ trên địa bàn
huyện Trảng Bom trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Các kết quả nghiên cứu của đề tài về Phát triển ngành nghề gỗ mỹ nghệ
trên địa bàn huyện Trảng Bom năm 2013 và một số giải pháp đề xuất là tài
liệu tham khảo có giá trị cho công tác Phát triển ngành nghề gỗ mỹ nghệ.
Việc nghiên cứu lý luận và gắn với thực tiễn của địa bàn nhằm hướng
tới những giải pháp mang tính khả thi sẽ có những ý nghĩa đáng kể cho định
hướng phát triển và quy hoạch cụm làng nghề gỗ mỹ nghệ.
Trong đề tài đã đưa ra được các giải pháp để phát triển ngành nghề gỗ
mỹ nghệ vì vậy đề tài có thể giúp địa phương có những giải pháp để phát
triển ngành nghề gỗ mỹ nghệ hiện nay và trong tương lai.
Qua đề tài này, giúp cho người đọc hiểu hơn về ngành nghề gỗ mỹ
nghệ truyền thống và hiểu hơn về một số Nước sản xuất ngành ghề truyền
thống mà đề tài đã đề cập. Song qua đề tài này người đọc sẽ được tham khảo
các giải pháp phát triển của ngành nghề gỗ mỹ nghệ và phát triển cụm làng
nghề mỹ nghệ mà đề tài đã đưa ra.
6. Cấu trúc của luận văn
Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiến về phát triển sản xuất ngành ngề
gỗ mỹ nghệ.


6

Chương 2: Đăc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tế về phát triển sản xuất kinh

doanh của các cơ sở gỗ mỹ nghệ trên địa bàn huyện Trảng Bom. Năm 2013.
Kết luận và kiến nghị


7

Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiến về phát triển sản xuất ngành nghề gỗ mỹ nghệ
1.1. Cơ sở lý luận về phát triển sản xuất kinh doanh ngành nghề gỗ
mỹ nghệ
Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đã cho ta thấy làng
xã Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất cũng như đời sống
nhân dân ở nông thôn.
Qua thử thách của những biến động thăng trầm, những lệ làng phép
nước song các phong tục tập quán ở nông thôn vẫn được duy trì đến cho ngày
nay. Làng xã Việt Nam chính là nơi sản sinh ra ngành nghề thủ công truyền
thống, các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh dân tộc.
Được biểu hiện bằng những sản phẩm thủ công truyền thống. Có nhiều tên
gọi khác nhau để chỉ ngành nghề (NN) thủ công truyền thống (TCTT) ở nước
ta như: Nghề truyền thống, nghề cổ truyền, nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN)...
Hiện nay, các số liệu thống kê chính thức hàng năm vẫn chưa có một
mục chuyên về sản xuất thủ công truyền thống mà gộp các ngành nghề này
vào nhóm “Tiểu công nghiệp - thủ công nghiệp”, “Thủ công mỹ nghệ” “Sản
xuất hộ gia đình phi nông nghiệp”....
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải thống nhất tiêu chí xác định ngành
nghề truyền thống để làm cơ sở thực hiện các chính sách bảo tồn, phát
triển và định hướng chiến lược phù hợp. Các nhà nghiên cứu đề xuất một
số yếu tố cấu thành của ngành nghề TCTT:
Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta; Sản xuất tập trung,
tạo thành các làng nghề, phố nghề;

Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề;
Kỹ thuật và công nghệ khá ổn định của dân tộc Việt nam;


8

Sử dụng nguyên liệu tại chổ, trong nước hoàn toàn hoặc chủ yếu nhất;
Là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân cư của cộng đồng; có đóng
góp đáng kể về kinh tế vào ngân sách nhà nước, [19].
Như vậy Vậy nghiên cứu giải pháp phát phát triển sản xuất kinh doanh
ngành nghề gỗ mỹ nghệ truyền thống là góp phần bảo tồn và phát huy bản
sắc của dân tộc Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm về ngành nghề truyền thống
Nghề truyền thống là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra những
sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày
nay hoặc có nguy cơ bị mai một thất truyền.
Tiêu chí công nhận ngành nghề thủ công truyền thống
Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận;
Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc;
Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của
làng nghề.
1.1.2. Ngành nghề gỗ mỹ nghệ truyền thống
Ngành nghề gỗ mỹ nghệ truyền thống là một trong những ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Việt Nam đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử
phát triển kinh tế của nước ta còn tồn tại cho đến ngày nay.
Sản phẩm gỗ mỹ nghệ là những sản phẩm mang tính truyền thống và
độc đáo, có giá trị chất lượng cao. Sản phẩm gỗ mỹ nghệ vừa là hàng hoá,
vừa là sản phẩm văn hoá, nghệ thuật, mỹ thuật, thậm chí có thể trở thành di
sản văn hoá của dân tộc, mang bản sắc văn hoá của dân tộc.



9

Sự phát triển của hoạt động sản xuất hàng gỗ mỹ nghệ trên địa bàn
huyện Trảng Bom mang tính chất tự phát, chưa có định hướng lâu dài và
thiếu ổn định do tổ chức sản xuất còn manh mún, phân tán. Tính tư hữu, bảo
thủ nghề của từng gia đình, dòng họ được ưa chuộng hơn là việc tổ chức,
phân công hợp tác sản xuất. Sự thiếu liên kết về tổ chức, kinh tế (vốn đầu tư),
công nghệ kỹ thuật đã hạn chế khả năng phát triển [19].
1.1.3. Lao động và thị trường tiêu thụcủa ngành nghề TCMN
1.1.3.1. Về lao động
Ngành nghề TCMN đã tạo ra nhiều việc làm và thu hút lực lượng lao
động đáng kể. Lao động nghề gỗ mỹ nghệ không giới hạn tuổi tác, trình độ
văn hóa đã giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư nông
thôn, góp phần xóa đói, giảm nghèo và giảm các tệ nạn nạn xã hội ở địa
phương, tác động chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực. Tuy có
nguồn lao động dồi dào nhưng với ngành gỗ mỹ nghệ thì đòi hỏi người lao
động phải có tay nghề cao, phải được qua đào tạo, cộng với sự cần cù sáng
tạo thì mới tạo ra được những sản phẩm tinh xảo. Do vậy nguồn lao động
cũng là một vấn đề bức xúc của các cơ sở hiện nay, hầu hết các cơ sở đều nhận
lao động vào vừa học, vừa làm nên năng suất không cao [26].
1.1.3.2. Thị trường tiêu thụ
Để tạo điều kiện phát triển cho các làng nghề, tỉnh Đồng Nai đã phê
duyệt nhiều đề án phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống
trên địa bàn từ 2006 đến 2015. Theo đó, ưu tiên các cụm làng nghề sản xuất
tập trung, nhằm gắn kết với phát triển du lịch.
Theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Đồng Nai năm 2013 (tính theo giá
2010), nhóm ngành TCMN trên địa bàn tỉnh đạt hơn 3.600 tỷ đồng, giải
quyết việc làm cho hơn 15.000 lao động. Một số làng nghề gắn kết với phát

triển du lịch như gốm mỹ nghệ, gỗ mỹ nghệ, dệt thổ cẩm… Trong đó, làng


10

nghề được nhắc đến đầu tiên là gốm mỹ nghệ. Gốm Biên Hòa nổi danh từ lâu
bởi chất liệu men đặc trưng, sự sáng tạo trong ý tưởng thiết kế, kết hợp nét
văn hóa cổ và hiện đại, trang trí hài hòa với họa tiết, tinh túy qua từng nét
vẽ… Mặc dù sự tồn tại của các cơ sở sản xuất kinh doanh gốm mỹ nghệ ở nội
ô thành phố Biên Hòa không còn là những làng nghề đúng nghĩa với điều
kiện thực tế, nhưng những giá trị truyền thống của gốm mỹ nghệ vẫn còn
nguyên và càng được củng cố, giữ gìn khi kết hợp đưa vào phát triển cùng
với du lịch.
Bên cạnh đó, làng nghề gỗ mỹ nghệ ở xã Bình Minh, huyện Trảng
Bom, với sản phẩm được tận dụng từ gỗ “phế thải” đã mang lại sự danh tiếng
với những sản phẩm như thuyền buồm, máy bay, ô tô, xích lô, xe tăng…
Đầu ra của sản phẩm là quyết định sự tồn vong của các cơ sở sản xuất.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói chung, huyện Trảng Bom nói riêng
phần lớn các cơ sở gặp không ít khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm,
nhiều cơ sở sản phẩm làm ra không bán được để hàng tồn kho rất nhiều vì
vậy dẫn đến việc bán phá giá [5]. Song các cơ sở thường không tiếp cận được
thị trường trực tiếp (bán trực tiếp cho người tiêu dùng), mà bán thông qua hệ
thống bán lẻ và đây cũng là một phần nguyên nhân đã dẫn đến tình trạng ép
giá sản phẩm.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành nghề sản xuất kinh
doanh thủ công mỹ nghệ
Ngành nghề thủ công mỹ nghệ xuất hiện từ nhu cầu đòi hỏi của cuộc
sống con người, sự hưng thịnh của từng ngành nghề đều chịu sự ảnh hưởng
của các nhân tố tác động đến nó qua từng thời kỳ. Nhân tố ảnh hưởng thì có
nhiều, ở đây tôi xin trình bày một số tác động có tính chủ yếu như sau:

1.2.1. Môi trường vĩ mô


11

Môi trường vĩ mô chính là môi trường mà các cơ sở, doanh nghiệp
đang hoạt động. Môi trường kinh doanh của các cơ sở, doanh nghiệp bao
gồm nhiều nhân tố phức tạp ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các cơ
sở, doanh nghiệp. Môi trường đó chính là tổng thể các nhân tố cơ bản như:
Nhân tố kinh tế, Chính sách và pháp luật của nhà nước, Nhân tố chính trị và
pháp luật, nhân tố xã hội, nhân tố tự nhiên, nhân tố công nghệ và Ô nhiễm
mơi trường. Mỗi nhân tố này tác động và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt
động kinh doanh của các cơ sở, doanh nghiệp. Chúng có thể là cơ hội hoặc
thách thức đối với các cơ sở, doanh nghiệp. Các các cơ sở và doanh nghiệp
cần phải có sự am hiểu về các nhân tố trên và đưa ra cách ứng xử cho phù
hợp đối với những đòi hỏi, những biến động của chúng đối với các cơ sở và
doanh nghiệp kinh doanh . Đây là những vấn đề cần được coi trọng [35].
1.2.1.1. Nhân tố kinh tế.
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với các cơ sở và doanh nghiệp và
là nhân tố quan trọng nhất trong môi trường kinh doanh của các cơ sở và
doanh nghiệp, Một nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo đà cho các cơ sở và doanh
nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên đồng nghĩa với một tương lai
sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc độ tích luỹ vốn đầu tư trong nền kinh
tế cũng tăng lên, mức độ hấp dẫn đầu tư cũng sẽ tăng lên cao, sự cạnh tranh
cũng ngày càng gay gắt. Thị trường được mở rộng đây chính là cơ hội tối cho
những cơ sở và doanh nghiệp biết tận dụng thời cơ, biết tự hoàn thiện mình,
không ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Nhưng nó cũng chính là thách
thức đối với những cơ sở và doanh nghiệp không có mục tiêu rõ ràng, không
có chiến lược hợp lý [35].
Cũng như hàng hóa khác, sản phẩm của làng nghề sẽ không tồn tại nếu

không có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là yếu tố quan trọng nhất của các
làng nghề trong giai đoạn hiện nay. Thị trường đầu tiên của làng nghề chính
là chợ làng nhằm phục vụ địa phương và các vùng lân cận, thị trường tại chỗ


12

nhỏ hẹp, sức tiêu thụ chậm; phương thức thanh toán trên thị trường chủ yếu
là trao tay, thỏa thuận miệng về quan hệ tín dụng giữa người sản xuất, người
tiêu dùng và giữa các chủ thể kinh tế. Cùng với sự phát triển kinh tế thị
trường, sản phẩm của làng nghề được tiêu thụ rộng rãi không chỉ tại nơi sản
xuất mà còn được cung cấp ở các địa phương khác trên toàn quốc và xuất
khẩu ra thị trường nước ngoài.
Bên cạnh thị trường đầu ra, thị trường yếu tố đầu vào có ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển của ngành này. Sau nhiều năm phát triển, nhu cầu
nguyên liệu ngày càng tăng, các địa phương thay nhau khai thác bừa bãi,
thiếu quy hoạch và đầu tư dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn nguyên liệu gỗ,
tre, trúc sào, giang, nứa, mây…Nguyên liệu vải có chất lượng phục vụ cho
sản xuất hàng thêu hầu như phải nhập khẩu hoàn toàn khiến cho chi phí
nguyên liệu chiếm từ 60-80% chi phí sản xuất. Hay nguồn nguyên liệu đất sét
phù hợp không có sẵn đã hạn chế sản xuất ra những sản phẩm gốm chất
lượng cao phục vụ nhu cầu của thị trường thế giới.
Để khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công, nhất là ngành
nghề thủ công mỹ nghệ, chúng ta cần có chiến lược dài hạn để phát triển
nguồn nguyên vật liệu cho ngành nghề thủ công mang tính bền vững [34].
1.2.1.2. Chính sách của nhà nước.
Đối với Các làng nghề TCTT, TCMN, cũng như nhiều ngành nghề
khác, bao giờ cũng hoạt động trong một môi trường thể chế. Nói cách khác,
chính sách và pháp luật của nhà nước luôn luôn tác động trực tiếp đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh và sự phát triển bền vững ở các làng nghề. Thực

tiễn chứng tỏ các nhân tố chủ quan như đường lối, chính sách, thiết chế của
Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ đều có liên quan đến phát triển ngành
nghề thủ công truyền thống. Thực chất của nhân tố thể chế, đường lối, chính
sách là nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, tận dụng những


13

mặt tích cực, giảm thiểu những mặt khuyết tật của cơ chế thị trường, nhằm
nâng cao trình độ và hiệu quả kinh tế-xã hội của sản xuất hàng hoá.
Để có thể giúp các sản phẩm ngành nghề TCMN Việt Nam duy trì
được vị trí trọng tâm trong quá trình bảo tồn bản sắc dân tộc trong tương lai,
cần có một quan điểm thống nhất về định hướng phát triển, phối hợp giữa
nhiều bên liên quan. Đây chính là vai trò cơ bản của chính phủ. Các sản
phẩm ngành nghề TCMN đang thay đổi nhanh chóng cùng với quá trình phát
triển của nền kinh tế thị trường. Những thay đổi đó đã tạo ra nhiều yếu tố
thuận lợi cũng như khó khăn, ví dụ: như tăng kim ngạch xuất khẩu, mai một
giá trị truyền thống, thiếu lực lượng kế tục, những vấn đề về môi trường...
Vai trò của chính phủ là hỗ trợ cải thiện tính cạnh tranh giúp đỡ các bên có
liên quan trực tiếp tới sản xuất thủ công, cải thiện điều kiện về xã hội, văn
hoá, môi trường cũng như những vấn đề khác để ngành nghề thủ công có thể
phát triển một cách bền vững [21].
1.2.1.3. Nhân tố chính trị và pháp luật
Chính trị và pháp luật có tác dụng rất lớn đến sự phát triển của bất cơ
sở, doanh nghiệp nào. Chính trị và pháp luật là nền tảng cho sự phát triển
kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý cho các cơ sở, doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh ở bất cứ thị trường nào dù là trong nước hay nước ngoài.
Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn
định, phát triển thực sự lâu dài và lành mạnh. Luật pháp tác động điều chỉnh
trực tiếp đến hoạt động của mỗi cơ sở, doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mỗi

thị trường đều có hệ thống pháp luật riêng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi cho hoạt động
kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đặc biệt đối với từng cơ sở, doanh nghiệp
tham gia vào hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng của quan hệ giữa các chính
phủ, các hiệp định kinh tế quốc tế ... Các cơ sở, doanh nghiệp này cũng đặc


14

biệt quan tâm tới sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia. Sự khác biệt
này có thể sẽ làm tăng hoặc giảm khả năng cạnh tranh của cơ sở, doanh
nghiệp những đièu này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động, chính sách kế
hoạch chiến lược phát triển, loại hình sản phẩm cơ sở, danh nghiệp sẽ cung
cấp cho thị trường.
Vì vậy, các cơ sở, doanh nghiệp luôn luôn cần một nền kinh tế ổn định
một môi trường pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ lợi ích cho các cơ sở,
doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức ... trong nền kinh tế. Khuyến khích phát triển,
tham gia khả năng cạnh tranh [35].
1.2.1.4. Nhân tố xã hội
Nhân tố xã hội thường biến đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời gian
nên đôi khi khó nhận biết nhưng lại qui định các đặc tính của thị trường mà
bất cứ cơ sở, doanh nghiệp nào cũng phải tính đến khi tham gia vào thị
trường đó cho dù có muốn hay không. Nhân tố xã hội có thể bao gồm.
Lối sống, phong tục, tập quán; Thái độ tiêu dùng; Trình độ dân trí;
Ngôn ngữ; Tôn giáo; Thẩm mỹ...
Chúng quyết định hành vi của người tiêu dùng, quan điểm của họ về
sản phẩm, dịch vụ, chúng là những điều mà không ai có thể đi ngược lại được
nếu muốn tồn tại trong thị trường đó. Ví dụ như ở những thị trường luôn có
tư tưởng đề cao sản phẩm nội địa như ấn Độ, Nhật Bản thì các sản phẩm
ngoại nhập sẽ kém khả năng cạnh tranh so với các Cơ sở, Doanh nghiệp của

quốc gia đó. Sự khác biệt về xã hội sẽ dẫn đến việc liệu sản phẩm của Cơ sở,
Doanh nghiệp khi xuất sang thị trường nước ngoài đó có được thị trường đó
chấp nhận hay không cũng như việc liệu Cơ sở đó có đủ khả năng đáp ứng
được yêu cầu của thị trường mới hay không. Vì vậy các Cơ sở, doanh nghiệp
phải tìm hiếu nghiên cứu kỹ các yếu tố xã hội tại thị trường mới cũng như thị
trường truyền thống để từ đó tiến hành phân đoạn thị trường, đưa ra được


15

những giải pháp riêng. Đáp ứng thị trường tốt nhất yêu cầu của thị trường để
nâng cao khả năng cạnh tranh của các cơ sở [35].
1.2.1.5. Nhân tố tự nhiên
Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi
hoặc khó khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở
trung tâm công nghiệp hay gần nhất nguồn nguyên liệu, nhân lực trình độ cao,
lành nghề hay các trục đường giao thông quan trọng ... sẽ tạo cơ hội cho các
doanh nghiệp phát triển, giảm được chi phí. Các vấn đề ô nhiểm môi trường,
thiếu năng lượng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Cùng với nhu cầu ngày
càng lớn đối với các nguồn lực có hạn khiến cho xã hội cũng như các doanh
nghiệp phải thay đôỉ quyết định và các biên pháp hoạt động liên quan.
1.2.1.6. Thị trường công nghệ
Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của
các cơ sở và doanh nghiệp thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán bất kỳ
một sản phẩm nào được sản xuất ra cũng đều phải gắn với một công nghệ
nhất định. Công nghệ sản xuất đó sẽ quyết định chất lượng sản phẩm cũng
như tác động tới chi phí cá biệt của từng doanh nghiệp từ đó tạo ra khả năng
cạnh tranh của từng cơ sở và doanh nghiệp .
Khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp các doanh nghiệp xử lý thông tin
một cách chính xác và có hiệu quả nhất trong thời đại hiện nay, bất kỳ một

doanh nghiệp nào muốn thành công cũng cần có một hệ thống thu thập, xử lý,
lưu trữ, truyền phát thông tin một cách chính xác, đầy đú nhanh chóng hiệu
quả về thị trường và đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, khó học công nghệ tiên
tiến sẽ tạo ra một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế
quốc dân nói chung cũng như thị trường của các cơ sở và doanh nghiệp gỗ
mỹ nghệ nói riêng. Vì vậy, có thể nói rằng khoa học công nghệ là tiền đề cho
các cơ sở và doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình [35].


16

Bộ Khoa học Công nghệ đã triển khai dự án "Nghiên cứu ứng dụng và
phát triển công nghệ phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn" với một số chỉ tiêu như: về trình độ công nghệ: các thiết bị là sản
phẩm mới có tính năng kỹ thuật, kiểu dáng, chất lượng và giá cả có khả năng
cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực. Về sở
hữu trí tuệ: Có ít nhất 10% số nhiệm vụ có giải pháp được công nhận sáng
chế hoặc giải pháp hữu ích, 15% số nhiệm vụ đã được chấp nhận đơn yêu cầu
bảo hộ sở hữu công nghiệp…[8].
Ngành nghề thủ công mỹ nghệ nước ta đang từ truyền thống tiến lên
hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, nhu cầu đòi hỏi phải tổ chức lại
sản xuất trong mỗi cơ sở sản xuất, mỗi doanh nghiệp và trong phạm vi từng
làng nghề. Thị trường nội địa và xuất khẩu phát triển nhanh chóng đã đặt ra
yêu cầu hoàn toàn mới đối với nghề thủ công mỹ nghệ. Trước hết, là đòi hỏi
số lượng hàng hoá tăng gấp bội, thời hạn giao hàng bị khống chế chặt chẽ
bằng hợp đồng; do đó, yêu cầu tăng nhanh năng suất lao động luôn đặt ra rất
bức bách. Nhiều nghề đã sử dụng khá phổ biến các loại máy nhỏ trong sản
xuất hàng ngày, đặc biệt là nghề mộc, hầu như đã sử dụng máy trong tất cả
các công đoạn của sản xuất. Nhiều người còn dựa theo máy của công nghiệp
để tự chế tạo các máy đơn giản dùng động cơ điện, sử dụng rất hiệu quả trong

sản xuất như máy khuấy sơn ta, máy se tơ, dệt lụa... Các nghề thủ công ngày
nay rất chú trọng đến các giải pháp kỹ thuật của công nghiệp để xử lý và chế
biến nguyên liệu như kỹ thuật thấm các-bon trong nghề mây, tre, lò sấy gỗ...
Các chế phẩm của công nghiệp cũng được dùng khá phổ biến, như các
loại keo dán, chất phủ bóng bề mặt, sơn màu, các loại nhựa... Tại các cơ sở
sản xuất lớn, còn tiếp thu cách tổ chức sản xuất của công nghiệp để phân chia
quá trình sản xuất thành nhiều công đoạn liên kết với nhau, bố trí lao động
chuyên môn hoá cao theo từng phần việc. Do vậy, diện mạo của làng nghề
TCMN ngày nay đã đổi mới mang sắc thái công nghiệp hơn, chứ không thể


17

thấy được một làng nghề đúng như truyền thống. Với việc sử dụng hợp lý các
kỹ thuật mới vào sản xuất, với sự sáng tạo mới của các nghệ nhân, tính truyền
thống vẫn được bảo tồn và phát triển; nếu không, tự nó sẽ bị mai một dần
trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp. Quá trình hiện đại hoá công
nghệ truyền thống là công việc hết sức khó khăn, phải tiến hành theo một tiến
trình dài trong nhiều năm, có sự chỉ đạo chặt chẽ và thống nhất, đồng thời
phải có nguồn lực đủ mạnh để hỗ trợ cho các làng nghề, các cơ sở sản xuất.
Trong dự thảo chương trình khuyến công quốc gia 2006-2010 do Bộ Công
nghiệp xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cũng đã có tiểu
chương trình này. Đây sẽ là giải pháp thiết thực thực hiện HĐH công nghệ
truyền thống để sản xuất các sản phẩm thủ công [34].
Công nghệ trong TCMN đặc biệt trong vấn đề tiêu hao năng lượng sẽ tác
động trực tiếp đến năng suất lao động, giá thành sản phẩm, năng lực cạnh tranh
trên thị trường. Áp dụng công nghệ tiên tiến sẽ giúp các cơ sở sản xuất tăng
năng suất, hạ giá thành, đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn, đa dạng hóa sản
phẩm, doanh thu tăng và đó là động lực mạnh mẽ nhất để giữ và phát triển làng
nghề. [28].

1.2.1.7. Ô nhiễm môi trường
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020. Chiến lược bảo vệ môi trường là bộ phận cấu thành không thể
tách rời của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, là cơ sở quan trọng bảo đảm
phát triển bền vững đất nước. Trong thời gian qua, việc khôi phục và phát
triển ngành nghề TCMN đã mang lại hiệu quả cao, góp phần tạo việc làm,
nâng cao thu nhập và đời sống cho người lao động, xoá đói giảm nghèo tại
nhiều địa phương. Tuy nhiên, do công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện
phát triển ngành nghề này tại một số địa phương chưa được quan tâm đúng
mức; nhiều làng nghề tiếp tục phát triển dựa vào sản xuất thủ công, công


18

nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường không khí, đất, nước, ảnh hưởng trực
tiếp tới sức khoẻ cộng đồng.
Vấn đề ô nhiễm môi trường mà các làng nghề TCMN đang phải đối
mặt không chỉ giới hạn trong phạm vi các làng nghề mà còn ảnh hưởng đến
người dân ở các vùng lân cận. Điều này là do cả người lao động và người
thuê lao động đều chỉ nghĩ đến việc tăng thu nhập và lợi ích kinh tế chứ chưa
nghĩ đến những ích lợi của công tác bảo vệ môi trường cũng như thực thi các
quy định về an toàn lao động.
Chính phủ và các cơ quan hữu quan của từng địa phương cần quan
tâm tới các vấn đề về sức khoẻ và môi trường của các chủ thể tham gia vào
sản xuất thủ công (doanh nghiệp, làng nghề) và nâng cao nhận thức của họ.
Nếu chậm trễ, tai hoạ môi trường, về bệnh tật, sức khoẻ nhân dân sẽ ngày
càng nghiêm trọng và các làng nghề chắc chắn đứng trước nguy cơ phải di
dời đi nơi khác [36].
1.2.2. Trình độ đào tạo, trình độ tay nghệ của thợ sản xuất
Ngày nay, trong quá trình thực hiện CNH, ngành nghề nông thôn

không đơn thuần chỉ sử dụng lao động có kinh nghiệm, với những công cụ
lao động thủ công truyền thống, mà còn có sự đan xen giữa lao động thủ công
truyền thống với lao động có trình độ chuyên môn cao, kết hợp giữa công
nghệ cổ truyền và công nghệ hiện đại để sản xuất ra những sản phẩm vừa
mang tính dân tộc cao, lại có mẫu mã đẹp, hiện đại đáp ứng được nhu cầu
tiêu dùng đa dạng của thị trường. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo
phương thức truyền nghề trong các gia đình từ đời này sang đời khác và chỉ
khuôn laị trong từng làng. Hiện nay, việc phát triển mạnh kinh tế tư nhân
hình thành các lớp dạy nghề tập trung đã làm các bí quyết nghề nghiệp không
còn được giữ bí mật như trước kia nữa. Trong giai đoạn hiện tại cần đa dạng
hoá các lọai hình đào tạo tri thức mỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với


19

thực hành truyền nghề tại các làng nghề là giải pháp cơ bản để chúng ta đào
tạo được nguồn nhân lực ổn dịnh và lâu dài cho các làng nghề. Tuy nhiên, để
thực hiện được điều này cần có một cơ quan phụ trách toàn bộ các vấn đề chứ
không thể tiếp tục tình trạng nhiều ngành cùng phụ trách làng nghề truyền
thống như hiện nay.
Đã có rất nhiều hội chợ thương hiệu, cuộc thi nghệ nhân bàn tay vàng
được tổ chức nhưng các nghệ nhân ở những làng nghề truyền thống vẫn đang
dần biến mất mà không có người kế tục. Chúng ta cần tham quan, học hỏi
kinh nghiệm của các nước có ngành nghề TCMN phát triển, kết hợp với việc
nghiên cứu với những đặc thù của Việt Nam để đề ra được các giải pháp cũng
như lộ trình thực hiện phù hợp cho vấn đề này bởi nguồn nhân lực là yếu tố
cơ bản để phát triển thành công ngành nghề TCMN [9].
1.2.3. Kỹ thuật truyền thông và kinh nghiệm lâu đời
Các sản phẩm TCMN của Việt Nam được đặc trưng bởi hai khía cạnh
quan trọng là giá trị nguyên bản và giá trị truyền thống. Việc giữ được tính

nguyên bản có vai trò hết sức quan trọng để mở rộng thị trường, cạnh tranh
với sản phẩm của các nước châu Á khác. Công tác bảo tồn giá trị truyền
thống sẽ góp phần nâng cao bản sắc văn hoá Việt Nam, sử dụng các sản
phẩm thủ công trong sinh hoạt hàng ngày đồng nghĩa với việc ‘’bảo tồn
truyền thống trong môi trường sống”. Yếu tố truyền thống có vai trò ảnh
hưởng nhất định đối với sự phát triển của các làng nghề TCMN. Đây là nhân
tố quan trọng không chỉ chi phối các hoạt động sản xuất mà chi phối cả tiêu
dùng và đời sống của cư dân. Sự ổn định của các làng nghề là điều kiện tạo ra
tính truyền thống và truyền thống lại góp phần giúp cho làng nghề phát triển
truyền thống cao hơn. Yếu tố truyền thống hiện nay có tác dụng hai mặt, vừa
tích cực vừa tiêu cực đối với sự phát triển của các làng nghề. Vấn đề đặt ra là
làm sao ứng dụng được sự tiến bộ của khoa học- công nghệ hiện đại nhưng
vẫn giữ được những yếu tố truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc và những


20

sản phẩm của làng nghề truyền thống phải được tiếp nhận trong thị trường
của xã hội hiện nay [10].
1.2.4. Sở hữu trí tuệ
Ngày nay, kinh nghiệm và thực tiễn thế giới chỉ ra rằng: Một nền kinh
tế phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao được hình thành dựa trên một
trong những nền tảng là hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ vững chắc. Sở
hữu trí tuệ (SHTT) là một yếu tố then chốt trong công việc hoạch định chính
sách của chính phủ cũng như trong việc xây dựng kế hoạch chiến lược của
doanh nghiệp. Đối với ngành nghề TCMN để các làng nghề phát triển bền
vững, trong thời gian qua các cơ quan chức năng đã có những dự án nghiên
cứu và triển khai nhằm từng bước khắc phục tình trạng sản xuất gia công tại
các làng nghề thủ công mỹ nghệ nhằm mang lại những sản phẩm có giá trị
cao hơn. Bộ NN-PTNT và Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã phối

hợp triển khai dự án "Nghiên cứu quy hoach phát triển ngành nghề nông thôn
theo hướng công nghiệp hoá nông thôn Việt.
Các chuyên gia cho rằng kết quả khảo sát nghiên cứu gần đây cho thấy
các DNVVN ở VN chưa nhận thức việc phát triển, bảo hộ và khai thác quyền
SHTT là nguồn lực kinh tế.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn thiếu đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và
phát triển, để từ đó thương mại hoá các sản phẩm được bảo hộ sáng chế độc
quyền. Doanh nghiệp cũng không nhận thức được ý nghĩa hay giá trị của việc
đăng ký các thủ tục xin cấp patent (bằng sáng chế).
Nhằm thay đổi điều này, Chính phủ VN đang thực hiện nhiều biện
pháp, trong đó có Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh
nghiệp. Đây là một chương trình lớn được thực hiện từ 2005 đến nay. Mục tiêu
là nâng cao nhận thức và hỗ trợ các doanh nghiệp VN trong việc tạo ra, khai
thác, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh [18].


21

Việc nâng cao nhận thức cũng như trách nhiệm bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ đối với các sản phẩm, thương hiệu uy tín của tổ chức, doanh nghiệp và
cá nhân là rất cần thiết trong điều kiện đất nước ta ngày càng hội nhập sâu
rộng với thế giới. Đó cũng là việc làm mang ý nghĩa thiết thực, góp phần tạo
nên các hành động tích cực bài trừ các hành vi tiêu cực, làm ảnh hưởng hình
ảnh, uy tín của các sản phẩm đã được công nhận sở hữu trí tuệ, đồng thời đẩy lùi
tình trạng gỉa, nhái thương hiệu đang có chiều hướng tăng cao như hiện nay [19].
1.3. Tình hình nghiên cứu và giải quyết các vấn đề nghiên cứu về
giải pháp sản xuất kinh doanh ngành nghề thủ công mỹ nghệ
(TCMN)
1.3.1. Một số đặc đểm lịch sử, văn hóa truyền thống và mỹ thuật của ngành
nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống

1.3.1.1. Đặc điểm lịch sử
Việt Nam là một trong những nước có nghề thủ công lâu đời, nhiều làng
nghề, phố nghề và trung tâm sản xuất kinh doanh ngành nghề mỹ nghệ.
Nhiều địa phương có lịch sử nghề từ bao thế kỷ, đến nay vẫn được duy
trì và phát triển. Sản phẩm TCMN nước ta rất phong phú, đa dạng và tinh tế.
Các nghệ nhân và thợ thủ công Việt Nam tài hoa với đôi bàn tay khéo léo, trí
thông minh, óc thẩm mỹ tinh tế đã tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị nghệ thuật
cao, trong đó có không ít các sản phẩm được lưu giữ như một báu vật vô giá
như: Trống đồng Đông Sơn là một trong những loại sản phẩm của nghề đúc
đồng đương thời đã đạt đến tuyệt đỉnh về kỹ thuật và nghệ thuật. Giai đoạn
này khá nhiều nghề thủ công đã ra đời như luyện kim đen, rèn đồ sắt, chế tạo
thuỷ tinh, dệt vải, đóng thuyền, nghề sơn... bên cạnh một số nghề xuất hiện
rất lâu trước đó như nghề đan lát, nghề chế tác đá, nghề mộc... Trải qua nhiều
bước thăng trầm trong lịch sử nhiều ngành nghề thủ công của Việt Nam đã có
bước tiến mạnh mẽ như nghề gốm, nghề sản xuất tơ lụa, chạm khắc gỗ, đúc


22

đồng, kim hoàn... đều đã đạt tới trình độ tuyệt kỷ, tinh xảo cả về kỹ thuật và
nghệ thuật được bảo tồn, truyền đến ngày nay [19].
1.3.1.2. Đặc điểm văn hoá
Bản sắc văn hoá của bất cứ dân tộc nào cũng đều là nền tảng cho sự tồn
tại của dân tộc đó. Truyền thống văn hóa được biểu hiện tập trung ở bản sắc
văn hoádân tộc, đó vừa là động lực cũng là mục tiêu của sự phát triển. Nghề
thủ công với những sản phẩm của nó thật sự đã góp phần tạo nên bản sắc văn
hoá của dân tộc và tự nó đã là những di sản văn hoá của dân tộc. Sản phẩm
thủ công có hai loại giá trị truyền thống: một là căn cứ vào giá trị kỹ thuật
như nguyên vật liệu, quy trình sản xuất, kỹ thuật, mẫu mã... và hai là giá trị
văn hoá, bao gồm lối sống truyền thống và di sản của người dân, những câu

chuyện huyền bí, đức tin về văn hoá xã hội, các nghi lễ và lễ hội. Cả hai yếu
tố này được phát triển hàng trăm năm trong môi trường văn hoá Việt Nam và
đã trở thành một di sản văn hoá được kế thừa của cả vùng. Các sản phẩm thủ
công gắn bó mật thiết với cuộc sống con người, được dùng trong các lễ hội
và trang trí mang tính tôn giáo hay được dùng làm hàng hoá và được đánh giá
cao vì công dụng và vẻ đẹp của chúng.
Phát triển ngành nghề TCMN có tác động tích cực đến hoạt động văn
hoá tại các địa phương. Do đặc điểm nghề nghiệp, tại các địa bàn có ngành
nghề truyền thống phát triển thường có những nét đẹp của đời sống văn hoá
rất riêng, bởi người thợ hành nghề bên cạnh mục đích kinh tế còn kết hợp với
các yếu tố khác thiêng liêng, mật thiết, nó trở thành chất kết dính bền vững
trong các làng nghề. Đó là những hoạt động hướng về cội nguồn, đoàn kết để
phát triển. Ở hầu hết các làng nghề đều tổ chức các hoạt động mang tính lễ
hội để tưởng nhớ đến công lao của những ông tổ đã dạy và truyền nghề cho
dân. Những người cùng làm nghề hình thành nên các hội nghề nghiệp nhằm
hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong việc giữ gìn, phát triển nghề nghiệp và đổi mới


23

cho phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Đó cũng là những nét văn
hoá thể hiện trong quá trình sản xuất-kinh doanh.
Văn hoá làng nghề không chỉ được thể hiện rõ, nhận biết ngay trong
sản phẩm TCMN của các làng nghề, mà còn thể hiện ngay trong phương thức
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cũng như trong thái độ ứng xử của mỗi
doanh nhân. Chúng ta xuất khẩu hàng TCMN ra thị trường thế giới càng
nhiều càng tốt, nhưng tất cả cần phải toát lên bản sắc văn hoá Việt Nam, làm
cho sản phẩm, hàng hoá mang thương hiệu Việt Nam nhưng vẫn có những
nét riêng của từng làng nghề, không lẫn được với sản phẩm, hàng hoá của
những nước khác, cũng tức là mang văn hoá kinh doanh của Việt Nam ra thế

giới, góp phần làm phong phú thêm văn hoá kinh doanh toàn cầu [19].
1.3.1.3. Tính phong phú và đa dạng
Một đặc điểm của các làng nghề TCMN truyền thống ở Việt Nam là
được nằm rải rác trên cả nước, hầu như địa phương nào cũng có những làng
nghề với những sản phẩm TCMN truyền thống, gắn với di tích lịch sử, phong
tục tập quán và văn hoá ở địa phương. Tính đa dạng trên trước hết là do nước
ta nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, có khả năng lưu thông và
mở cửa thuận lợi ra các nước nên có điều kiện giao lưu, tương tác, hấp thụ
những nét văn hoá từ nhiều dân tộc khác; mặt khác, tài nguyên đất, rừng,
biển ...của Việt Nam tương đối phong phú, tiềm năng khai thác lớn. Đặc biệt
điều kiện thời tiết, khí hậu, tính đa dạng nhiều vẻ của đất đai, nguồn nước rất
thuận lợi cho phát triển nhiều loại cây trồng, thú rừng, vật nuôi, hải sản...là
các loại nguyên vật liệu cần thiết để ngành nghề thủ công mỹ nghệ phát triển
phong phú.
Nghề thủ công Việt Nam đa dạng và từng nghề cũng có các làng nghề
đa dạng, chẳng hạn có gốm Bát Tràng, nhưng cũng có gốm Hương Canh, Phù
Lãng (xứ Bắc), gốm Móng Cái (Quảng Ninh), gốm Quế Quyển xứ Nam, gốm


24

Phước Tích của Quảng Trị Thừa Thiên, gốm Thanh Hà của Hội An xứ Quảng,
gốm Biên Hoà, sông Bé của miền Đông Nam Bộ, gốm Mnông ở Buôn Hồ,
gốm Tà Ôi ở Vel (làng muôi)... Có làng nghề đúc đồng ở Hè Nôm, lại cũng
có làng nghề gò đồng ở Đại Bái (Bưởi Nồi), ở Vó (Quảng Bố), ở Thiệu Lý
Thanh Hoá, ở Phường Đúc xứ Huế, có nghề rèn sắt thép Đa Sĩ (Hà Tây), rèn
Canh diễn, phố lò rèn Hà Nội, lại có nghề rèn của người H’Mông (Mèo), của
người B’Ru, Tà Ôi, K’Tu... đa dạng về bí quyết, quy trình công nghệ, về chất
liệu, về các mặt hàng,... Cho nên nhiều khi cùng một nghề mà có thể có nhiều
vị tổ nghề, tuỳ làng, tuỳ địa phương. Nhiều ý kiến hiện nay đã thống nhất

phân chia ngành nghề thủ công truyền thống thành các nhóm chính là:
Các ngành nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như: gỗ mỹ nghệ,
chạm khắc gỗ, gốm sứ mỹ nghệ, sơn mài, thêu, ren, thảm, khảm, chạm khắc
đá, chạm, mạ vàng bạc, dệt tơ tằm, thổ cẩm, mây tre đan các loại...
Các ngành nghề sản xuất công cụ sản xuất như : rèn sắt, làm cày bừa,
nông cụ, đóng thuyền...
Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu dùng thông
thường như : dệt chiếu, làm nón, đan mành, rổ, rá, sọt, bồ, bện thừng, dệt vải,
may mặc...
Các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống như : nề, mộc, hàn,
đúc đồng,gang, sản xuất vật liệu xây dựng...
Các ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm như : xay xát, làm
bún, bánh, đường mật, làm tương, đậu phụ, nấu rượu, chế biến hải sản các
loại [32].
1.3.1.4. Tính mỹ thuật, độc đáo của sản phẩm
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ: Là sự kết tinh và tính kế tục qua nhiều
thế hệ của lao động thủ công Lao động trong các làng nghề truyền thống chủ


25

yếu là lao động thủ công nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay,
vào đầu óc thẩm mỹ và tính sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân.
Phương pháp dạy nghề: Chủ yếu được thực hiện theo phương pháp
truyền nghề. Hầu hết các làng nghề truyền thống dù hình thành bằng con
đường nào đi nữa thì chúng phải có các nghệ nhân làm nòng cốt và là người
thầy hướng dẫn để phát triển các làng nghề. Mỗi làng đều có một tổ nghề
chính là người đầu tiên dạy nghề, truyền nghề, đem bí quyết nghề nghiệp ở
nơi khác đào tạo ra những người thợ kế tục theo phương pháp “cầm tay chỉ
việc”, “vừa làm vừa học” ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác.

Cứ như thế, những thế hệ thợ thủ công kế tiếp nhau, đan xen nhau, lớp này
đến lớp khác, đời sau nối tiếp đời trước. Sự tồn tại và phát triển của NNTC từ
thế hệ này sang thế hệ khác cho đến hôm nay, chứng tỏ rằng, nghề thủ công
mỹ nghệ không phải chỉ có tính giai đoạn, chuyển tiếp hay nhất thời mà còn
có lý do tồn tại vì chính tính chất của nó. Thợ thủ công không chỉ là những
người thợ sản xuất, mà còn là những nghệ nhân, không chỉ sản xuất ra những
sản phẩm tiêu dùng mà còn sản xuất ra những sản phẩm mang tính nghệ thuật.
Chức năng nghệ thuật, tính chất mỹ thuật: Nghề thủ công mỹ nghệ
chính là điều kiện làm cho nghề thủ công vượt lên tính giai đoạn để tồn tại
song song với ngành đại công nghiệp. Các nhà tư tưởng cũng như các định
nghĩa đã trở thành quy điển đều khẳng định nghề thủ công là nơi gặp gỡ của
nghệ thuật và kỹ thuật. “Lao động thủ công nghiệp... bản thân nó, một nửa là
nghệ thuật, một nửa là mục đích tự thân”.(K.Marx). Hay như tự điển Bách
Khoa, xuất bản năm 1971 của nhà xuất bản Mac Milan Company : “Thủ công
nghiệp vừa là một cách thức sản xuất có tính chất công nghiệp, vừa là một
dạng hoạt động có tính chất mỹ thuật”.
Nghề thủ công truyền thống ở nước ta: Cũng như trên thế giới vẫn tiếp
tục tồn tại và có chỗ đứng của mình, vì con người ở mọi nơi, vào mọi thời đại,
ngoài cái tiện lợi, vẫn còn cần đến cái đẹp, ngoài những vật dụng mang tính


×