Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Trình bày tầm quan trọng của khoa học công nghệ với phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 23 trang )

I, Trình bày t ầm quan tr ọng c ủa khoa
h ọc công ngh ệv ớ
i phát tri ển kinh t ế
Để th ấy rõ vai trò c ủa khoa h ọc và công ngh ệv ớ
i t ăng tr ưởn g kinh t ếc ần
hi ểu rõ các khái ni ệm: th ế nào là khoa h ọc, th ế nào là công ngh ệ, gi ữ
a
khoa h ọc và công ngh ệcó m ối quan h ệnh ưth ếnào?
1, Khái ni ệm khoa h ọc công ngh ệ
* Khoa h ọc là h ệth ống tri th ứ
c v ềcác hi ện t ượ
n g, s ựv ật, quy lu ật c ủa t ựnhiên xã h ội và t ưduy.

1


*công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình kỹ năng, bí quyết, công cụ, ph ương ti ện để bi ển
đổi các nguồn lực thành sản phẩm và dịch vụ mong muốn.
Hoạt động Khoa học công nghệ là hoạt động khoa học và công nghệ là tập hợp toàn bộ các hoạt động có hệ
thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức liên quan đến con người, tự nhiên và xã hội, nhằm sử dụng
những kiến thức đó để toại ra những ứng dụng mới
* khoa học công nghệ có mối quan hệ như thế nào ?

2


- gi ữa khoa h ọc và công ngh ệ t ồn t ại m ối quan h ệ bi ện ch ứng th ống nh ất v ới nhau, tác động l ẫn
nhau.
2, Tầm quan trọng của khoa học và công nghệ

-



Khoa học công nghệ góp phần mở rộng khả năng sản xu ất của nền kinh t ế, thể hiện một cách
chung nhất là số lượng sản phẩm mà một nền kinh tế có thể cung ứng cho thị tr ường.

-

Sự phát triển của khoa học và công ngh ệ đã thúc đẩy qúa trình hình thành và chuy ển d ịch c ơ
cấu kinh tế.

3


-

Sự phát triển của khoa học và công nghệ góp phần làm t ăng s ức c ạnh tranh c ủa hàng hóa,
thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường.

-

Phát triển khoa học và công nghệ thúc đẩy tăng tr ưởng và phát tri ển kinh t ế, t ăng tr ưởng kinh
tế là sự tăng thêm quy mô, sản l ượng sảm phẩm hàng hóa và d ịch v ụ trong m ột th ời k ỳ nh ất
định (thường là một năm).

4


- S ự phát tri ển khoa h ọc công ngh ệ ở n ước ta hi ện nay càng tr ở nên c ần thi ết, s ự c ần
thiết này xu ất phát t ừ:

Nước ra từ nền nông nghiệp lạc hậu hiện nay nước công nghiệp hóa hiện đại hóa .

*Phát triển kinh tế xã hội nước ta đang trên đà phát triển công nghiệp, việc phát triển khoa học
và công nghệ cần quán triệt các quan điểm sau
-

Thứ nhất, cùng với giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,
là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữa vững độc lập dân tộc
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
5


-

-Thứ hai, khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động c ủa tất c ả
các cấp, các ngành là nhân t ố chủ yếu thúc đẩy tăng tr ưởng kinh t ế và c ủng c ố an ninh
quốc phòng.

-Th ứ ba, phát tri ển khoa h ọc công ngh ệ và khoa h ọc ph ải g ắn li ền v ới b ảo v ệ môi
trường sinh thái, bảo đảm phất tri ển kinh t ế xã hội nhanh và bền v ững.

6


-

-

Khoa học tự nhiên có nhiều thành tựu trong nghiên cứu điều tra, góp phần tạo luận cứ
khoa học cho việc xây d ựng chiến l ược và quy ho ạch phát tri ển kinh t ế- xã h ội. Khoa
h ọc và công ngh ệ đã g ắn bó h ơn v ới s ản xu ất và đời s ống, góp ph ần nâng cao n ăng
xuất chất lượng, hiệu quả của tất cả các ngành, đặc biệt là nông nghiệp.


II, Thực trạng của khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay.
1, Thành tựu
Thành tựu về khoa học công nghệ trên tất cả các ngành: Nông nghiệp, Công
nghiệp, thương mại dịch vụ
-Trong nông nghiệp:
+ Trồng trọt :
Nhờ áp dụng những tiến bộ KH- CN về giống cây trồng, quy trình kỹ thuật thâm canh và
chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chúng ta đã tuyển chọn, lai tạo hàng chục giống lúa mới, phù
7


hợp các vùng sinh thái khác nhau, tạo mức tăng trưởng quan trọng. Như là đã thực hiện
thành công dự án “Giải mã genome một số giống lúa bản địa của Việt Nam”, mở ra triển
vọng khai thác trình tự gen phục vụ nghiên cứu, chọn tạo các giống lúa mới đem lại hiệu
quả cao cho sản xuất.

- Theo bảng thống kê diện tích và sản lượng lúa của cả nước, nhận thấy rằng bắt đầu từ

năm 2000 đến năm 2007 diện tích trồng lúa giảm từ 7.666 nghìn ha xuống 7.207 nghìn ha
và từ năm 2007 trở đi diện tích trồng lúa có xu hướng tăng trở lại và đạt 7.899 nghìn ha
vào năm 2013
- Đến năm 2015 : Sản lượng lúa gạo của Việt Nam đạt tới 44,7 triệu tấn.

( thêm một số hình ảnh)
+ Chăn nuôi:
Nghiên cứu và tạo nhiều loại giống gia súc, gia cầm, có giá trị kinh tế cao, thúc
đẩy chăn nuôi phát triển.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào nuôi trồng thủy sản giúp tăng năng suất, giảm
thiểu thiệt hại dịch bệnh trên thủy sản.

VD : Đặc biệt, kỹ thuật nuôi tôm đã được ứng dụng khắp nơi, tạo công ăn việc làm cho
350.000 ngư dân ven biển góp phần cải thiện và tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành
thuỷ sản, tổng sản lượng thủy sản giai đoạn 2011-2015 đạt mức tăng trung bình
3,8%/năm, cao hơn 9,3% so với kế hoạch. Trong số đó, sản lượng khai thác thủy sản tăng
trung bình 4,7% năm, sản lượng nuôi trồng tăng trung bình 3%/năm. Kim ngạch xuất
khẩu thủy sản tăng trung bình 2,4%/năm.

-Công nghiệp:
8


: hàng loạt kỹ thuật tiên tiến được áp dụng, tạo nhiều sản phẩm chất lượng cao : hàng
may mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy, điện tử… nhất là trong chế tạo máy
móc, thiết bị phụ tùng và đổi mới công nghệ, kinh doanh sản xuất ô tô, xe máy, nhằm giải
quyết nguyên vật kiệu, thiết bị thay thế.
VD : Công nghiệp năm 2014 là động lực và đầu tàu tăng trưởng chung.

Tăng trưởng cao lên của công nghiệp từ năm ngoái đến nay đã góp phần làm cho tăng
trưởng GDP thoát đáy vượt dốc đi lên trong 2 năm 2013, 2014, tạo tiền đề để tăng trưởng
kinh tế phục hồi theo kế hoạch năm 2015, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm
2016 – 2020 cũng như chiến lược phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2011- 2020.
-Trong công nghiệp đầu khí… đội ngũ cán bộ khoa học trong nước, đã có khả năng
tiếp thu và làm chủ công nghệ mới.
VD : Đây là giàn khoan đầu tiên của Việt Nam có thể đạt tới độ sâu 90m nước, thuộc sở
hữu của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN). Ở Việt Nam, dự án cơ khí này
được tài trợ nhiều nhất. Sau khi dự án được lắp đặt thành công trên biển, Việt Nam có thể
tự hào là quốc gia sở hữu giàn khoan có chất lượng nằm trong top 3 khu vực châu Á và
top 10 trên thế giới.

9



Giàn khoan tự nâng 90m nước của Tập đoàn PVN

Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình, nghiên cứu KH- CN đã tập trung vào
công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng. Đổi mới CN xây dựng các
nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phương pháp giảm tổn thất năng lượng
trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống năng lượng đã phát triển nhanh chóng :
80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử dụng.
VD: Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đã hoạt động 3 lần trong nửa thế kỷ vừa qua, một lần
vào năm 1963, một lần vào năm 1984, và lần gần đây nhất là vào năm 2011. Lần hoạt
động thứ ba này diễn ra vào ngày 30/10/2011, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong
lịch sử phát triển của lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Điều này một lần nữa đã chứng minh
rằng Việt Nam có khả năng cung cấp một nguồn năng lượng nguyên tử ổn định; nó cũng
đánh dấu một bước phát triển trong việc sản xuất năng lượng trong nước nói chung.

10


Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt

Trong giao thông vận tải : KH- CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp và phát
triển mạng lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường sông… đã xây dựng một số
công trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng tàu biển trọng tải 3.000 tấn,
công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình giao thông
ở Lào, Campuchia… với việc áp dụng CN mới trong gia cố nền móng và thi công mặt
đường.
Trong viễn thông : đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại bằng việc áp
dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang… đủ mạnh để hoà nhập mạng thông tin
quốc tế và khu vực. Viễn thông nước ta hiện được xếp vào một trong những nước có tốc

độ phát triển nhanh nhất thế giới. Thị trường tin học nước ta những năm qua, có tốc độ
tăng trưởng trungpi bình hằng năm khoảng 40-50%. Hiện các cơ quan Đảng, chính phủ
đang sử dụng hàng vạn chiếc máy vi tính, trong đó lưu giữ nhiều thông tin, số liệu bí mật
quan trọng. Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia.
VD: Dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử viễn thông tân tiến nhất ở khu vực Đông Nam
Á được xây dựng và đưa vào hoạt động bởi Trung tâm sản xuất thiết bị điện tử Viettel
(một công ty con thuộc tập đoàn viễn thông Viettel). Dây chuyền có khả năng sản xuất
khoảng 5 triệu sản phẩm USB, 3 triệu điện thoại di động, và 9 trăm nghìn máy tính cá

11


nhân

mỗi

năm.

Các kỹ sư đang vận hành dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử viễn thông

Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn dịch học, cắt
giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà, bại liệt, sởi… Kết
hợp y học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều mặt hàng thuốc mới. Nâng cao
trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm
não Nhật Bản,…
VD : Khoa Phẫu thuật bụng - Bệnh viện 103, Hà Nội đã thành công trong việc xây dựng
và hoàn thiện một phương pháp phẫu thuật nội soi có thể loại bỏ các khối u ở tuyến tụy.
Đây là loại phẫu thuật cực kỳ phức tạp và liên quan đến các thiết bị kỹ thuật cao. Sự
thành công của phương pháp này đánh dấu một cột mốc mới về phẫu thuật nội soi ổ bụng
tại Việt Nam.


12


Một kíp mổ nội soi của Bệnh viện 103, Hà Nội đang tiến hành phẫu thuật

2, Hạn chế

a.Đầu tư cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp.
-Thực tế cũng cho thấy, hoạt động về KH-CN của phần lớn các doanh nghiệp vẫn còn
trầm lắng, mức đầu tư thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao và tồn tại nhiều bất cập, hạn chế.
Bộ trưởng Bộ KH-CN Nguyễn Quân cho biết, hoạt động KH-CN thời gian qua có rất
nhiều khó khăn, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Chi dành cho KH-CN hiện chiếm
2% ngân sách nhà nước, tương đương với mức trung bình các nước trên thế giới, nhưng
do GDP còn thấp nên nguồn tài chính cho KH-CN của Việt Nam năm 2012 chỉ là 700
triệu USD (trong khi chỉ riêng Tập đoàn Samsung của Hàn Quốc đã chi hơn 1 tỷ USD
cho công nghệ).
Hơn nữa, tổng đầu tư xã hội cho KH-CN rất thấp do chưa huy động được sự đầu tư của
xã hội, nhất là của doanh nghiệp. Hiện đầu tư cho KH-CN của khối doanh nghiệp chỉ
bằng 50% đầu tư từ ngân sách nhà nước. Điển hình như năm 2011, ngân sách nhà nước
đầu tư gần 700 triệu USD cho KH-CN, đầu tư của xã hội chỉ là 300 triệu USD (Hồng
Anh, 2012).
- Còn tới 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng công nghệ lạc hậu từ 3-4 thế hệ so với
thế giới, thế nhưng, năng lực nghiên cứu đổi mới công nghệ của số doanh nghiệp này còn
rất hạn chế. Tình trạng công nghệ, thiết bị lạc hậu là một trong những nguyên nhân lớn
dẫn đến việc lãng phí năng lượng, khiến doanh nghiệp phải tăng chi phí đầu tư.
13


b.Lực lượng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu

Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ chủ yếu thuộc trung ương cho
thấy : trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số người có trình độ trên đại học là
2.509 người, cao đẳng và đại học 11.447 người và dưới cao đẳng là 8.357. So với yêu cầu
phát triển thì nhiều ngành còn thiếu lực lượng lao động có trình độ khoa học- kỹ thuật.
- Trước tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công ty tư nhân đã thu
hút số lượng đáng kể lao động có trình độ chuyên môn cao từ các cơ quan khoa học công
nghệ của nhà nước. ở tất cả các đối tượng lao động, số trường hợp ra đi nhiều hơn số
trường hợp đến, đặc biệt với số cán bộ khoa học có học vị cao, số ra đi vượt hẳn số đến.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình quân chung là
57,2 tuổi trong đó giáo sư là 59,5 tuổi và phó giáp sư là 56,4 tuổi. Số cán bộ cán học vị,
học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56 trở lên là 65,7%, riêng giáo
sư chiếm tới 77,4% và phó giáo sư chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ
khoa học công nghệ có học hàm thì phần đông giáo sư có tuổi trên 60 và phó giáo sư có
tuổi từ 56 đến 60. Khi một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ
không có khả năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị bồi
dưỡng đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong
tương lai rất gần.
c.Sự phân bố lực lượng lao động khoa học không hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành, các khu vực giữa
các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển,
càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các vùng, các ngành. Một điều mà
nhiều người nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt sau khi chuyển sang kinh tế thị
trường thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và dường như đang bị bỏ rơi. Đó là một
cách nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm
trọng. Khoa học công nghệ là một hệ thống, cũng như một nền kinh tế nếu không có hạ
tầng cơ sở tốt thì không thể phát triển được. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những
ngành ứng dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đưa khoa học đến
chỗ bế tắc và không có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ
mới.


III. Những chính sách khuyến khích phát triển khoa học công nghệ
của nước ta hiện nay
Báo cáo của Đoàn giám sát Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu rõ trong giai đọan
2005-2015, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát
triển khoa học và công nghệ, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thúc dẩy phát

14


triển khoa học và công nghệ đã được đổi mới và không ngừng hoàn thiện.

Đặc biệt Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Phát triển khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp
phát triển kinh tế- xã hội đất nước.”
Tán thành với việc cần thiết phải ban hành Nghị quyết chuyên đề về một số nhiệm
vụ và giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật về phát triển
khoa học, công nghệ nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn
2015-2020, trong đó chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo thì
đến Hội nghị Trung ương 6, Tổng Bí thư đã ký ban hành Nghị quyết số 20 về phát
triển khoa học và công nghệ.
Nhà nước thực hiện các chính sách sau đây nhằm bảo đảm phát triển khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu:
1- Phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một
trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ
quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt
động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà
nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đóng vai
trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ.
15



2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt
động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ;
phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ
chức khoa học và công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.

3- Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển bền vững,
trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có chính
sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.

4- Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công
nghệ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế tham
gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn,
khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển
khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi mới ứng
dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường khoa
học và công nghệ. Quan tâm đúng mức đến nghiên cứu cơ bản, tiếp thu và làm chủ
công nghệ tiên tiến của thế giới phù hợp với điều kiện Việt Nam.

5- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức khoa học và công nghệ
tiên tiến của thế giới, thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học và công nghệ của
Việt Nam. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh,
thực tập sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc

16


Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ cải thiện đáng kể vị thế của khoa học và công nghệ

Việt Nam trong khu vực và thế giới

Hiệu quả của chính sách
-Công tác quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ đã hướng vào mục tiêu đổi
mới, nâng cao chất lượng nghiên cứu trong những ngành, lĩnh vực quan trọng.
Trong điều kiện khó khăn nhưng Nhà nước vẫn dành đầu tư thích đáng cho khoa
học công nghệ từ nguồn ngân sách.
Về tổng đầu tư xã hội cho Khoa học và công nghệ, mục tiêu của Chiến lược là
phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho Khoa học và công nghệ đạt 1,5% GDP vào
năm 2015 và trên 2% GDP vào năm 2020. Bảo đảm mức đầu tư từ NSNN cho

17


Khoa học và công nghệ không dưới 2% tổng chi NSNN hàng năm.

-Nguồn nhân lực khoa học công nghệ tăng nhanh về số lượng. Thị trường công
nghệ được thúc đẩy phát triển và bước đầu phát huy vai trò cầu nối, gắn kết hoạt
động khoa học công nghệ với sản xuất, kinh doanh. Hệ thống bảo vệ, thực thi
quyền sở hữu trí tuệ được củng cố, góp phần lành mạnh hóa môi trường nghiên
cứu và kinh doanh.
Theo tính toán, giá trị sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm ứng dụng công nghệ cao
đóng góp ngày càng nhiều vào Tổng sản phẩm quốc nội giai đoạn 2011-2013 với
tỷ trọng đóng góp theo các năm lần lượt là 11,7%; 19,1% và 28,7%. Nếu duy trì
được đà tăng trưởng này, chỉ tiêu đạt 45% Tổng sản phẩm quốc nội vào năm 2020
là khả thi.

18



Th
ứ trưởng Trần Việt Thanh báo cáo một số kết quả đạt được của Chiến lược phát triển khoa học và
công nghệ giai đoạn 2011-2015

Về tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị: Chiến lược đặt mục tiêu tốc độ đổi mới công
nghệ, thiết bị đạt 10 - 15%/năm giai đoạn 2011 - 2015 và trên 20%/năm giai đoạn
2016 – 2020. Theo kết quả tính toán sơ bộ của Bộ KH&CN, giai đoạn 2011-2014,
Việt Nam có tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 10,68%/năm, đạt mục tiêu
chiến lược đề ra là 10-15%/năm.
Về số lượng công bố quốc tế, Chiến lược đặt mục tiêu số lượng công bố quốc tế từ
các đề tài nghiên cứu sử dụng NSNN tăng trung bình 15 - 20%/năm. Theo số liệu
thống kê, giai đoạn 2011-2015, tổng số bài báo, công trình khoa học được công bố
quốc tế của Việt Nam là 11.738, gấp 2,2 lần so với giai đoạn 2006-2010, tốc độ
tăng bình quân là 19,5%/năm, đạt mức cao so với mục tiêu của Chiến lược. Toán
học, Vật lý, Hoá học tiếp tục là những lĩnh vực có thế mạnh của Việt Nam, chiếm
40% tổng công bố quốc tế trong 5 năm qua. Riêng Toán học, chúng ta có số lượng
công bố quốc tế đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Tính tổng số công bố quốc tế
trong giai đoạn 2011-2015, chúng ta xếp thứ 59 trên thế giới (so với thứ 66 trong
giai đoạn 2006-2010 và thứ 73 giai đoạn 2001-2005) và thứ 4 của Đông Nam Á,
sau Singapore (thứ 32 thế giới), Malaysia (thứ 38) và Thái Lan (thứ 43). Một trong
các lý do quan trọng làm tăng số lượng công bố quốc tế của Việt Nam trong 5 năm
qua xuất phát từ việc tăng quy mô, hiệu quả hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, đặc biệt
19


là nghiên cứu cơ bản từ nguồn NSNN thông qua Quỹ phát triển KH&CN quốc gia
(NAFOSTED).

Qu
ang cảnh Hội nghị Sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn

2011-2015; Tổng kết công tác năm 2015, phương hướng, nhiệm vụ năm 2016

Về số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ của Việt Nam, mục tiêu của Chiến lược là số
lượng sáng chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2011 - 2015 tăng gấp 1,5 lần so với giai
đoạn 2006 - 2010, giai đoạn 2016 - 2020 tăng 2 lần so với giai đoạn 2011 - 2015.
Số liệu thống kê cho thấy, giai đoạn 2011-2015, số lượng sáng chế, giải pháp hữu
ích được bảo hộ tăng 62% so với giai đoạn 2006-2010. Cụ thể, số đơn đăng ký bảo
hộ sáng chế, giải pháp hữu ích giai đoạn 2011-2015 là 22.674 (2006-2010 là
15.989); số văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích giai đoạn tương ứng là
6.391 và 3.940.
Số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D) theo Chiến lược là
vào năm 2015 đạt 9 - 10 người/vạn dân, năm 2020 là 11 - 12 người/vạn dân. Kết
quả điều tra năm 2014 cho thấy, cả nước có 164.744 người tham gia hoạt động
R&D (14 người/vạn dân), trong đó số cán bộ nghiên cứu có trình độ cao đẳng và
đại học trở lên là 112.430 người. Nếu quy đổi toàn thời gian (FTE), số lượng cán
bộ R&D của Việt Nam chỉ đạt 7 người/vạn dân.
20


Số tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và quốc tế, theo
Chiến lược, sẽ hình thành 30 tổ chức nghiên cứu cơ bản, ứng dụng đạt trình độ khu
vực và thế giới năm 2015; 60 tổ chức năm 2020, đủ năng lực giải quyết những vấn
đề trọng yếu quốc gia đặt ra đối với KH&CN. Mới đây, Đại hội đồng UNESCO đã
thông qua việc thành lập, bảo trợ 02 Trung tâm UNESCO dạng 2 về Toán học, Vật
lý trên cơ sở Viện Toán học, Viện Vật lý thuộc Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.
Đây là tham chiếu quan trọng trong việc đánh giá “đạt trình độ khu vực và quốc tế”
đối với các tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng khác. Đồng thời, trên cơ sở bộ
tiêu chí đánh giá các tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng do Bộ KH&CN và
các viện nghiên cứu, trường đại học phối hợp xây dựng cho thấy, có 6 tổ chức đạt
trình độ khu vực và quốc tế, 8 tổ chức khác có thể đầu tư để đạt trình độ khu vực

và quốc tế vào năm 2020. Bộ KH&CN sẽ có kiến nghị điều chỉnh mục tiêu này của
Chiến lược.

Những hạn chế còn tồn tại
Hoạt động khoa học và công nghệ nhìn chung còn trầm lắng, chưa thực sự trở
thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.

21


-Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học và công nghệ chưa
được chú trọng nhiều
- Đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao: Theo
thống kê, tổng đầu tư xã hội cho KH&CN năm 2013 khoảng 25.468 tỷ đồng, tương
đương 0,71% GDP, trong đó 67% từ NSNN, 33% từ khu vực doanh nghiệp, vốn
nước ngoài. Tỷ lệ này còn thấp so với mục tiêu của Chiến lược và thấp so với các
quốc gia có nền KH&CN phát triển (trên 3,0% GDP; cơ cấu đầu tư cho KH&CN
từ Chính phủ và doanh nghiệp là 30/70). Về đầu tư từ NSNN, mặc dù chỉ tiêu tối
thiểu 2% tổng chi NSNN cho KH&CN đã được quy định tại Nghị quyết Trung
ương 6 (khoá XI), Luật KH&CN năm 2013 và Chiến lược, nhưng thực tế chỉ đạt
khoảng 1,5-1,6% chi NSNN. Nếu chi đủ 2%, NSNN cho KH&CN mới đạt trên
0,6% GDP.
-Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ còn nhiều bất
cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ chậm được đổi mới. Công
tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý.
-Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa gắn kết chặt chẽ kết quả
nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lýLiên
quan đến số doanh nghiệp KH&CN, mục tiêu Chiến lược đặt ra đến năm năm
2015, hình thành 3.000 doanh nghiệp KH&CN; năm 2020, hình thành 5.000 doanh

nghiệp KH&CN. Tính đến tháng 11/2015, cả nước có khoảng 2.800 doanh nghiệp
KH&CN, gồm 204 doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp
KH&CN; 23 doanh nghiệp được cấp giấy chứng doanh nghiệp công nghệ cao; 400
doanh nghiệp đang hoạt động tại các khu công nghệ cao; 818 doanh nghiệp đạt tiêu
chí doanh nghiệp KH&CN và có nhu cầu được cấp chứng nhận (tập trung chủ yếu
trên địa bàn Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh); 1.400 doanh nghiệp phần mềm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin.
- Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu
quả thấp.
Hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ
yếu :

22


a) Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền nhận thức về nghiên cứu, ứng dụng và phát
triển khoa học và công nghệ chưa thật đầy đủ, chưa coi đây là một nhiệm vụ trọng
tâm; chưa bố trí cán bộ lãnh đạo có đủ thẩm quyền trực tiếp chỉ đạo công tác khoa
học và công nghệ. Đầu tư nguồn lực cho khoa học và công nghệ chưa tương xứng.
b) Việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về khoa học và công nghệ còn thiếu chủ động, quyết liệt. Chưa có các
giải pháp đồng bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả. Sự phối hợp giữa các bộ,
ban, ngành và giữa Trung ương với các địa phương chưa chặt chẽ; nhiều khó khăn,
vướng mắc trong quá trình thực hiện chậm được tháo gỡ.
c) Chưa tạo được môi trường minh bạch trong hoạt động khoa học và công nghệ;
thiếu quy định về dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.
d) Chưa hình thành nhu cầu tự thân đủ mạnh của các doanh nghiệp trong việc phát
huy vai trò của khoa học và công nghệ.

23




×