Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn hoá học ở trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.51 KB, 24 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài:
Hoá học là một bộ môn khoa học nghiên cứu về các chất, sự biến đổi của các chất và ứng
dụng của chúng. Ở chương trình THCS, Hoá học cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến
thức phổ thông cơ bản và thiết thực. Là một môn học rất thiết thực với thực tế đời sống và lao
động sản xuất, chuyên nghiên cứu về các chất và sự chuyển hoá của các chất, giúp ta từ các
chất ban đầu tạo ra nhiều chất mới. Nhiều sản phẩm mới và quý không thể thiếu được trong
cuộc sống để từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của con người và đáp ứng toàn bộ yêu
cầu của xã hội. Nhưng, thực tế cho thấy kết quả học tập môn Hoá học của phần lớn học sinh
còn thấp, tỉ lệ học sinh yếu kém còn cao. Vì sao?

Qua 5 năm trực tiếp giảng dạy bộ môn tôi nhận thấy có một số nguyên
nhân cơ bản sau: Là môn học được tiếp cận sau nhất trong chương trình giáo dục
phổ thông. Ban đầu mới làm quen với hàng loạt các khái niệm, định luật, học
thuyết và các chất nên học sinh không khỏi bỡ ngỡ. Không ít học sinh quan
niệm rằng là môn học trừu tượng, khó hiểu nên đã có thái độ mang tính tiêu cực
đối với bộ môn, nản lòng trước những bài tập yêu cầu có tính suy luận cao. Có
thể nói Hoá học là một môn học khó đối với học sinh THCS vì nó là một môn
khoa học tổng hợp kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác. Cho
nên sau khi học xong chương trình lớp 7 các em mới có đủ điều kiện để lĩnh hội
kiến thức của môn học này. Bên cạnh đó một số em học sinh còn cho rằng đây là
một môn phụ, nhiều học sinh còn có tính ỷ lại, lười học nên các em chưa có ý
thức để học tập tốt bộ môn. Ngoài ra, theo tôi còn một nguyên nhân chủ quan
nữa đó là: Phải chăng giáo viên chưa thực sự trăn trở, tâm huyết với từng tiết
dạy, chưa phân loại cụ thể các đối tượng học sinh, chưa thực sự quan tâm đến
đối tượng học sinh yếu kém trong lớp, chưa làm cho học sinh nhận thấy được
tầm quan trọng của bộ môn, và chưa tạo ra được những tiết học thực sự lôi cuốn
học sinh?
Tôi đã trăn trở rất nhiều bởi câu hỏi đó và trách nhiệm nghề nghiệp thôi thúc tôi phải
làm thế nào để nâng cao chất lượng học tập của đối tượng học sinh yếu kém. Vì vậy tôi quyết
định tìm hiểu và nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng học sinh yếu kém


môn Hoá học ở trường Trung học cơ sở”.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Mục đích: Việc thực hiện đề tài nhằm nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp nâng cao
chất lượng học sinh yếu kém, giảm tỷ lệ học sinh yếu kém môn Hoá học ở trường THCS nói
chung và trường THCS Dân tộc Nội trú Lang Chánh nói riêng.
2. Nhiệm vụ: Nghiên cứu lý luận và tình hình thực tiễn về các biện pháp phát triển năng lực
nhận thức, năng lực tư duy và khả năng vận dụng kiến thức của học sinh yếu kém môn Hoá
học. Đề xuất một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn Hoá học. Thử
nghiệm, kiểm tra, khảo sát tính hiệu quả và tính khả thi của những biện pháp được đề xuất.
III. Phạm vi và thời gian nghiên cứu:
1. Phạm vi nghiên cứu: Quá trình dạy và học môn Hoá học ở trường THCS Dân tộc Nội trú
Lang Chánh, Huyện Lang Chánh, Tỉnh Thanh Hoá.
2. Thời gian nghiên cứu:
Tháng 9/2009: Lập đề cương.
Từ tháng 10/2009 đến 5/2010: Nghiên cứu và áp dụng thử đối với học sinh yếu kém khối lớp
8 trường THCS Dân tộc Nội trú Lang Chánh.
Năm học 2010 - 2011: Áp dụng rộng rãi đối với học sinh yếu kém trong toàn trường.

1


Tháng 3/2011: Cùng tập thể giáo viên trong tổ rút ra bài học kinh nghiệm và hoàn tất đề tài.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn, thống kê số liệu.
- Phân tích thực trạng, tham khảo các tài liệu và ý kiến đồng nghiệp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác - Lênin thì quá trình nhận thức thế giới khách
quan của con người là “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn”. Vận dụng vào môn Hoá học có thể thấy là học sinh sẽ xây dựng được các định
nghĩa, khái niệm, các tính chất của một chất... tốt nhất khi các em rút ra chúng từ các hiện
tượng thực tế, các thí nghiệm mà chính các em được làm, được quan sát từ đó áp dụng cho
các trường hợp khác tương tự và vận dụng để làm các bài tập định tính, định lượng, giải thích
các hiện tượng trong thực tiễn. Hoá học là khoa học tự nhiên nghiên cứu các chất có trong tự
nhiên và sự chuyển hoá của chúng. Tính ứng dụng của Hoá học gần với thực tế. Đối với mỗi
một vấn đề trong hoá học ta đều có thể cho học sinh liên hệ với cuộc sống, sản xuất và công
nghiệp.
Các lý thuyết về sự hiểu biết của học sinh như: Lý thuyết hành vi, lý thuyết nhận thức (lý
thuyết của Bruner, lý thuyết phát triển của Piaget, lý thuyết tạo dựng), lý thuyết xã hội. Sau
khi so sánh thì lý thuyết nào người thầy cũng phải đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn và đánh
giá. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trung học cơ sở: Lứa tuổi học sinh lớp 8, 9 trường
trung học cơ sở trong khoảng từ 13 đến 16 tuổi. Là khoảng thời gian trong độ tuổi dậy thì, giai
đoạn này các em có những biến đổi quan trọng và phức tạp về tâm sinh lí. Tuy nhiên sự biến
đổi là không hoàn toàn như nhau ở mỗi học sinh. Điều đó làm cho thái độ của các em đối với
mỗi môn học cũng được phân hoá (có môn “hay”, môn “không hay, có môn “cần”, môn
“không cần thiết” ...). Ở lứa tuổi này tư duy trừu tượng phát triển mạnh, nhưng thành phần
của tư duy hình tượng – cụ thể vẫn tiếp tục phát triển và giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc
tư duy. Do vậy các em vẫn rất cần đến sự hỗ trợ của những biểu tượng trực quan về đối tượng
để tìm hiểu những dấu hiệu bản chất, trừu tượng của đối tượng đó. Trong học tập, các em
muốn độc lập lĩnh hội tri thức, muốn có quan điểm và lập luận riêng. Các em thường thích
những gì mới lạ, thích các hoạt động phải liên hệ đến thực tiễn và có thể tạo môi trường cho
các em khẳng định mình.
Nâng cao chất lượng học sinh yếu kém là giáo viên phải bổ sung được những “lỗ hổng” kiến
thức cho học sinh (chủ yếu là những kiến thức có trong sách giáo khoa) để giải quyết, để
giành lại kiến thức mà các em chưa lĩnh hội hết trong tiết dạy chính trên lớp. Từ đó học sinh
có thể hòa nhập theo kịp với các bạn trong tiết học đang diễn ra trên lớp. Theo tôi học sinh
muốn làm tốt hoạt động này thì bản thân giáo viên cần phải nắm bắt chính xác và đánh giá

được mức độ kiến thức đọng lại ở mỗi học sinh trong mỗi tiết dạy để chuẩn bị lên kế hoạch
phụ đạo, thết kế nội dung phụ đạo sao cho có hiệu qủa nhất, muốn vậy thì cần phải biết rõ căn
cứ, hiểu và kết hợp giải quyết được các vấn đề sau:
- Tìm hiểu tại sao học sinh sợ ,chán ,học yếu kém học môn hóa học và tìm cách giải tỏa tâm
lí này ở các em.
- Hướng dẫn học sinh tự đánh giá hiểu biết của bản thân về môn học và tự rèn luyện ý thức
học tập.
- Giáo viên xác định được khối lượng kiến thức đối với từng bài học cụ thể cho đối tượng
học sinh yếu kém, để đề ra nội dung ,hình thức vàphương pháp dạy thích hợp nhất.
Như vậy cần ở học sinh phải hoàn toàn tự giác cao trong suy nghĩ và hành động, tích cực
phối hợp với giáo viên, có suy nghĩ ,cân nhắc kĩ lưỡng những thông tin nhận được để “vá lại
lỗ hổng kiến thức” và phản hồi lại kiến thức một cách chính xác ,khoa học nhất. Muốn vậy

2


giáo viên là người rất quan trọng cần phải có các hướng dẫn cụ thể để giúp học sinh. Dựa trên
những cơ sở đó tôi đã sáng tạo và sử dụng được một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
học tập của học sinh yếu kém trong môn Hoá học.

II. Thực trạng:
1. Thuận lợi:
Nhà trường có đầy đủ cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện và đồ dùng dạy
học cần thiết. Học sinh được xét tuyển từ khắp các trường tiểu học trong địa bàn
huyện, ý thức học tập tốt. Cùng nhau ăn, ở, học tập và sinh hoạt tập trung trong
khu ký túc xá của trường nên đây là điều kiện thuận lợi để các em có thể hình
thành các nhóm học tập và giáo viên có thể nắm bắt tình hình học sinh. Học sinh
có các giờ tự học buổi chiều, buổi tối trên lớp. Đây là thời gian mà giáo viên có
thể củng cố lại kiến thức, phụ đạo học sinh. Hoá học là môn học gắn liền với thí
nghiệm, thực hành, có thể sử dụng triệt để các phương tiện, đồ dùng dạy học mà

Nhà trường có, là bộ môn gắn liền với thực tế đời sống, giải thích được nhiều
hiện tượng trong thực tế cuộc sống hằng ngày. Đây là cơ sở quan trọng để học
sinh tìm thấy hứng thú và sự lôi cuốn trong môn học.
2. Khó khăn:
Do đặc trưng của bộ môn nên một số khái niệm, định nghĩa, định luật đối với học sinh là khá
mới mẻ, trừu tượng yêu cầu phải có sự tư duy, suy luận, sáng tạo và óc tưởng tượng cao. Là
một môn khoa học tổng hợp kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác nên bắt
buộc học sinh phải có kiến thức của các môn liên quan, đặc biệt là Toán, Vật lí, Sinh học. Sĩ
số học sinh trong một lớp khá đông, mặt khác năng lực không đồng đều, do đặc thù là học
sinh dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa nên một số học sinh khả năng lĩnh hội, tiếp thu kiến
thức còn yếu, chậm, chưa sáng tạo, linh hoạt, khả năng tư duy thấp. Vì vậy khi soạn giáo án
và tổ chức dạy học giáo viên thường bị động về thời gian, rất khó khăn để quan tâm đến tất cả
các đối tượng học sinh.
Mặt khác, học sinh do vẫn còn chịu ảnh hưởng của cách truyền thụ trước đây cho nên một số
học sinh ỷ lại, lười suy nghĩ, trong giờ học lơ là không tập trung, không học bài và làm bài
trước khi đến lớp… làm kiến thức bị thiếu hụt lâu dần tỏ ra sợ học, chán học từ đó bị hổng về
kiến thức. Bên cạnh đó thêm một tồn tại là khi giáo viên đưa ra câu hỏi thì lập tức học sinh
cắm cúi vào sách giáo khoa, không có sự linh động, sáng tạo trong tư duy, có khi còn sợ bị gọi
trả lời, làm tiết học trở nên trầm, rời rạc. Kết quả là giáo viên thường xuyên bị “cháy” giáo án,
học sinh nắm bài hời hợt trở thành yếu kém làm hiệu quả tiết dạy chưa cao.

Kết quả học tập môn Hoá học khối 8, 9 năm học 2008 – 2009
Khối Sĩ số

Giỏi

Khá

T bình


Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

8

71

9


12,7

17

23,9

34

47,9

9

12,7

2

2,8

9

67

8

11,9

15

22,4


36

53,7

7

10,4

1

1,6
3


III. Những biện pháp thực hiện

1. Soạn giáo án chi tiết, chuẩn bị kỹ cho tiết dạy.
1.1 Xác định vị trí bài học trong cấu trúc chương trình, xác định loại bài
dạy: Trước hết bản thân tôi phải nắm vững cấu trúc chương trình sách giáo khoa
của từng lớp học, từng cấp học và cả chương trình của bộ môn, trong khi soạn,
giảng bài, tôi sẽ có các phương pháp phù hợp giúp học sinh vận dụng kiến thức
đã học, xây dựng kiến thức mới hoặc khi giảng xong kiến thức mới, tôi có thể
xác định cho các em hướng để các em học lên các lớp trên. Xác định đúng dạng
bài để dạy đúng phương pháp đặc trưng của bộ môn và đúng với phương pháp
của từng loại bài dạy. Đọc kĩ bài dạy để hiểu đúng ý của người viết sách giáo
khoa, về kiến thức cơ bản và cách trình bày kiến thức của tác giả, nắm được mối
quan hệ giữa các kiến thức từ đó khắc sâu được kiến thức trọng tâm cho học
sinh và làm cho học sinh thấy rõ con đường đi đến kiến thức rồi hướng dẫn cho
các em phát hiện ra kiến thức.
Ví dụ: Bài 3: “Tính chất hoá học của axit” lớp 9. Trước khi vào bài tôi cho

học sinh nhắc lại định nghĩa axit ở lớp 8, lấy ví dụ. Sau đó tìm hiểu tính chất hoá
học của axit qua các thí nghiệm, sau khi tìm hiểu xong tính chất hoá học của axit
cho xây dựng định nghĩa về axit dựa vào tính chất hoá học, tôi cho học sinh
nhắc lại định nghĩa axit ở lớp 8, từ đó hướng dẫn cho học sinh xây dựng định
nghĩa axit ở lớp 9. Đến đây tôi xác định cho học sinh định nghĩa về axit không
dừng lại ở đây mà lên lớp trên định nghĩa về axit còn được mở rộng hơn nữa
(dung dịch axit là một hợp chất có khả năng cho proton (phân li ra H +)). Hoặc
khi tìm hiểu định nghĩa về phản ứng oxi hoá - khử, định nghĩa về bazơ... cũng
tương tự.
1.2 Tiến hành soạn giáo án: Trước tiên tôi xác định hướng trọng tâm của bài dạy, mục tiêu,
phương pháp và sắp xếp các kiến thức của bài thành một hệ thống kiến thức lôgíc, chặt chẽ.
Chuyển tiếp giữa các mục trong bài dạy phải có sự dẫn dắt theo kiểu dạy học nêu vấn đề và
bằng phương pháp thầy thiết kế, trò thi công. Hệ thống câu hỏi phải lôgic theo hệ thống kiến
thức của bài và ngắn gọn, rõ ràng, phù hợp với 4 đối tượng học sinh để huy động nhiều học
sinh làm việc trên lớp (để các em thấy chương trình mà sách giáo khoa đưa ra không có gì là
quá tải, rất phù hợp). Luôn luôn xác định tạo không khí học tập thoải mái, hứng thú là một
trong những mục tiêu của tiết học. Giáo viên cần chú ý chuẩn bị thật kỹ càng cho các hoạt
động tạo không khí học tập, có như vậy mới không để xảy ra các tình huống ngoài dự kiến,
vừa không đạt mục đích lại có thể gây hiệu ứng ngược.

Vívàdụ:
Bài
24:
“Tính
chất
của
oxi”
lớp
8,nắm
kiến

thức
trọng
tâm
của
bàihọc

phần
tính
chất
hoá
học
của
oxi,
tôi
đãphát
làm
cho
học
sinh
thấy
rõcác
con
đường
đi
đến
kiến
thức
làđể
bằng
thí

nghiệm
thực
tế,
các
em
được
các
tính
chất
hoá
của
ôxi
hướng
dẫn
cho
các
em
hiện
kiến
thức
qua
từng
thí
nghiệm,
tôi
cho
học
sinh
thấy


các
chất
đem
tác
dụng
cùng
với
việc
em
quan
sát
thí
nghiệm

vận
dụng
vốn
kiến
thức
cóđể
sẵn
đểnghiệm
córa
thể
dự
đoán
sản
phẩm
tạo
thành

sau
phản
ứng

dẫn
đến
kết
luận,
cụ
thể:
Tính
chất
ôxi
tác
dụng
với
sắt,
tôi
cho
học
sinh
quan
sát
thí
nghiệm
biểu
diễn,
học
sinh
sẽ

xác
định
được
các
chất
đem
tác
dụng

ôxi

sắt,
học
sinh
quan
sát
thí
thấy

hạt
nóng
đỏ
bắn
ra,
các em sẽ đự đoán sản phẩm là Fe 3O4 (màu nâu),
t từ đó các em rút ra phương
trình :
3Fe(r) + 2O2 (k) → Fe3O4 (r)
4
0



Ngoài việc hiểu đúng ý nghĩa của người viết sách còn giúp tôi vận dụng
thêm kiến thức của tài liệu tham khảo để mở rộng và nâng cao kiến thức cho học
sinh (ở những lúc cần thiết). Đồng thời tránh được tình trạng dạy sai kiến thức
cho học sinh. Đối với tôi soạn bài là một hình thức giảng thử để phân bố thời
gian cho phù hợp với từng phần kiến thức của bài và để bỏ bớt các ngôn ngữ
thừa, các câu hỏi vụng, giúp học sinh hiểu bài một cách chắt lọc, nhẹ nhàng.
Trong bài soạn, đối với các câu hỏi, tùy từng đặc điểm trình độ nhận thức của
học sinh, phương pháp lựa chọn mà quyết định số lượng, chất lượng các câu hỏi
thích hợp. Tránh khuynh hướng hình thức, tránh đặt câu hỏi mà không chuẩn bị
trước. Mỗi bài học có một vài câu hỏi then chốt và cần quan tâm đến tính lôgíc
của câu hỏi, câu hỏi phải vừa sức, phù hợp với đối tượng học sinh, đồng thời tạo
điều kiện cho học sinh hoạt động độc lập, theo cặp hoặc theo nhóm tạo điều kiện
cho học sinh tự đánh giá, và đánh giá lẫn nhau, kết hợp đánh giá của giáo viên
và đánh giá của học sinh. Đặc biệt với đối tượng học sinh yếu kém cần tạo điều
kiện cho các em tham gia hoạt động bằng cách có câu hỏi gợi mở, gợi ý dẫn dắt
cho học sinh trả lời giúp các em thêm tự tin và hoà nhập với lớp. Tuy nhiên để
tiết học có chiều sâu về mặt kiến thức thì trong mỗi bài dạy giáo viên phải tìm
được điểm nhấn của mỗi bài. Từ đó các em khắc sâu được kiến thức và hiểu sâu
hơn.
1.3 Chuẩn bị đồ dùng: Hoá học là một môn khoa học thực nghiệm, từ các thí nghiệm
thực hành để giúp học sinh hiểu bài, vì vậy cần thiết tôi chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ, hoá chất
để làm thí nghiệm, bố trí thí nghiệm không cồng kềnh, mang tính chất thẩm mỹ khoa học thao
tác thí nghiệm của giáo viên phải thành thạo, nhẹ nhàng, khéo léo, giáo viên phải làm thử
trước để tránh các trường hợp do hoá chất bảo quản không tốt hoặc do bố trí thí nghiệm mà
dẫn đến thí nghiệm không thành công, giáo viên phải chuẩn bị để giải thích cho học sinh các
tình huống bất trắc xẩy ra khi làm thí nghiệm. Các thí nghiệm hoá chất và dụng cụ dễ kiếm tôi
giao cho học sinh chuẩn bị trước ở nhà và yêu cầu các em phải đọc kỹ nội dung các thí
nghiệm có trong tiết học, chú ý phương pháp tiến hành, dự đoán trước hiện tượng và giải

thích, học sinh phải chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ mà giáo viên yêu cầu. Tuy là những những
thứ dễ kiếm, rất gần gũi với đời sống nhưng từ đó hình thành trách nhiệm của các em đối với
tiết học, các em sẽ thêm chú ý và ghi nhớ kiến thức dễ dàng hơn.
Ví dụ: Trong bài 19: “Sắt”, lớp 9: Học sinh có thể chuẩn bị một số đinh sắt mới để làm
thí nghiệm thay thế cho những mẫu sắt có trong phòng thí nghiệm. Trong bài 55: “Thực hành:
tính chất của gluxit”, thí nghiệm phân biệt glucozơ, sacarozơ và tinh bột học sinh có thể
chuẩn bị hồ tinh bột, đường ăn. Trong bài 34: “Khái niệm về hợp chất hữu cơ và hoá học hữu
cơ” học sinh có thể chuẩn bị bông. Trong bài 41: “Độ tan của một chất trong nước”, lớp 8:
Học sinh có thể chuẩn bị đường, muối... Ngoài ra, những thí nghiệm khó thành công, chiếm
nhiều thời gian, có các chất độc hại tôi đã thay thế bằng các thí nghiệm quay sẵn hay thí
nghiệm ảo để học sinh quan sát trên màn hình máy chiếu. Thực tế cho thấy khi tiết dạy có sự
chuẩn bị kỹ về phương tiện, đồ dùng, học sinh rất hứng thú học tập, không khí sôi nổi, xây
dựng kiến thức từ thực nghiệm, là cái các em được làm, được quan sát nên sẽ nắm chắc, hiểu
sâu kiến thức.

1.4 Lên lớp giảng bài: Phong thái, tác phong của người thầy khi lên lớp
rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến thái độ, không khí học tập của học sinh. Vào
lớp tôi luôn giữ tinh thần thoải mái và gần gũi với học sinh, nắm sĩ số học sinh,
quan sát tổng thể lớp học để chuẩn bị cho học sinh có tư thế, tinh thần tốt nhất
5


để bước vào tiết học. Nhất thiết phải kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh ở nhà,
đặc biệt là học sinh yếu kém. Kiểm tra bài cũ và vở ghi, vở bài tập, vở nháp.
Kiểm tra bài cũ yêu cầu cần phải kiểm tra được kiến thức trọng tâm của bài,
giúp cho học sinh nhớ lại, khắc sâu một lần nữa để vận dụng khi giải quyết bài
mới, câu hỏi hoặc bài tập kiểm tra phải rõ ràng phù hợp với 4 đối tượng học sinh
(Giỏi, khá, trung bình, yếu) để chống học sinh lười học, hay học vẹt, không kiểm
tra nhiều kiến thức với một học sinh. Thực hiện tôi cho học sinh gấp sách vở lại
rồi đặt câu hỏi hoặc nêu bài tập cho cả lớp, gọi một học sinh lên bảng, cả lớp

làm nháp hoặc theo dõi bạn trả lời, tôi cho 1 học sinh khác nhận xét bổ sung,
cuối cùng giáo viên nhận xét, bổ sung và cho điểm học sinh. Ngoài ra giáo viên
có thể đưa ra những câu hỏi để phục vụ cho bài học mới mà không liên quan đến
kiến thức của bài học ngay trước đó.
Ví dụ: Khi dạy bài “Tính chất chung của phi kim” (Tiết 30 - lớp 9)
Ta có thể đưa ra các câu hỏi kiểm tra bài cũ như sau:
Câu 1: Nêu tính chất hoá học của kim loại
Câu 2: Nêu tính chất hoá học của ôxi mà em đã được học ở lớp 8. Viết các
phương trình phản ứng minh hoạ.
Như vậy có thể thông qua 2 câu hỏi trên mà các em đã hình thành nên tính
chất hoá học của phi kim là: Tác dụng với kim loại tạo thành muối hoặc axit và
nhiều phi kim tác dụng với oxi tạo thành oxit axit
2. Xác định động cơ học tập cho học sinh
Khi thực hiện bất kể công việc gì đó nếu có động cơ, mục tiêu rõ ràng
chúng ta sẽ thấy được ỹ nghĩa của công việc mình đang và sẽ làm. Nếu không có
động cơ và mục tiêu rõ ràng sẽ không thể nỗ lực hết mình và vượt qua mọi khó
khăn. Bởi vây, việc xác định động cơ, mục tiêu học tập cho học sinh là một biện
pháp hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với những học sinh dân tộc thiểu số vùng
sâu, vùng xa, học sinh yếu kém. Khi đó các em sẽ hình thành được ý thức học
tập đúng đắn, có thái độ đúng mực với việc học, các em sẽ tập trung, chú ý hơn,
dành nhiều thời gian hơn với việc học và kết quả học tập sẽ cao hơn. Bằng sự
hiểu biết của bản thân, thông qua các câu chuyện so sánh về kết quả học tập, về
cuộc sống của những người có động cơ học tập, đạt kết quả cao và những người
6


không được đi học, lười học, bỏ học... Các em dần dần hình thành được câu trả
lời: “Học để làm gì?”, “Học cho ai?”, “Học như thế nào?” ... Từ đó các em sẽ nỗ
lực hơn trong việc học.
3. Gây hứng thú học tập, hình thành sự yêu thích bộ môn

3.1 Hình thành niềm tin cho học sinh
Tôi cho rằng để làm một việc gì đó đạt kết quả tốt thì không thể thiếu yếu
tố niềm tin. Cụ thể ở đây là niềm tin vào chính bản thân các em, vào người thầy
và niềm tin vào khoa học. Đặc biệt là với học sinh yếu kém, các em có suy nghĩ
tự ti, sợ gọi lên bảng, sợ gọi trả lời câu hỏi. Vậy sự tự tin là một trong những
điều kiện để các em mạnh dạn hơn, tìm thấy hứng thú trong học tập. Trước tiên,
cần phải tiến hành phân loại học lực của học sinh, nắm chắc những học sinh yếu,
phát hiện học sinh giỏi. Từ đó tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, gần gũi, quan tâm
sâu sắc đến đời sống sinh hoạt của các em, vì các em là những học sinh dân tộc
vùng cao ở tập trung tại khu kí túc xá, xa gia đình. Người thầy không chỉ đơn
thuần là người truyền đạt kiến thức mà còn có vai trò như là người cha, người
mẹ. Làm cho các em cảm nhận được sự gần gũi, tình thương của người thầy.
Động viên, khích lệ kịp thời khi các em có những câu trả lời, ý kiến hay bài giải
hay. Làm cho các em mạnh dạn phát biểu ý kiến, trao đổi với thầy, từ đó hình
thành niềm tin và cố gắng học tập, tiến tới hứng thú trong học tập. Biến kiến
thức của SGK, tài liệu tham khảo thành kiến thức của mình khi truyền thụ cho
học sinh, từ đó tôi đã gây cho học sinh một niềm tin vững chắc về kiến thức ở
người thầy, các em thấy người thầy là thiêng liêng cao cả và giữa giáo viên và
học sinh phải có một khoảng cách nhất định về kiến thức nhưng rồi lại được quy
tụ tại một điểm.
Ngoài ra còn phải tìm hiểu nguyện vọng, ước mơ của học sinh xem sau
này các em muốn làm nghề gì, ước mơ như thế nào. Từ đó qua các câu chuyện,
sự hiểu biết thực tế người thầy sẽ có định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Đây
là một việc làm rất quan trọng, nó sẽ đáp ứng mục tiêu giáo dục của nhà trường
THCS đó là định hướng nghề cho các em. Như vậy ngay từ khi học THCS các
em đã có ước mơ cho tương lai sau này.

7



3.2 Dùng câu hỏi tạo tình huống gây hứng thú, kích thích sự tò mò cho
học sinh: Trong một số bài giáo viên sử dụng những câu hỏi nhằm kích thích sự
tò mò của học sinh và tạo điểm nhấn của bài, gây sự chú ý để học sinh tập trung
chủ động tư duy sẽ làm khả năng ghi nhớ kiến thức của học sinh dễ dàng hơn.
Ví dụ : Khi dạy bài: Tính chất hoá học của axit ( Tiết 5 - Lớp 9)
Trong khi làm thí nghiệm giữa axit HCl và bazơ NaOH của các nhóm .
Cho quỳ tím vào sản phẩm thu được ta thấy có những trường hợp sau :
* Quỳ tím vẫn màu tím
* Quỳ tím chuyển sang màu xanh
* Quỳ tím chuyển sang màu đỏ
Vì sao?
Giải thích kết quả của các nhóm như thế nào? GV cho các em thảo luận
nhóm. Điều đó được giải thích là nếu axit và bazơ tham gia hết (Trường hợp 1),
axit phản ứng hết, bazơ dư (Trường hợp 2), bazơ phản ứng hết, axit dư (Trường
hợp 3). Trước đó các em đã biết bazơ làm quỳ tím chuyển sang màu xanh và axit
làm quỳ tím chuyển sang màu đỏ. Như vậy các em đã giải thích được những
hiện tượng quan sát được của thí nghiệm. Nên khi làm phần bài tập có liên quan
đến thiếu thừa, bài tập về lượng chất dư các em nhập cuộc rất dễ dàng.
Bài 1: Đem 19,6g H2SO4 tác dụng với 12g NaOH. Cho quỳ tím vào sản
phẩm thu được? Theo em màu của giấy quỳ thay đổi như thế nào. Giải thích?
Giải :

H2SO4 + 2NaOH Na2SO4 + 2H2O

Số mol H2SO4 tham gia phản ứng là :
n H2SO4 = 19,6/98 = 0,2 mol
Số mol NaOH tham gia phản ứng là :
n NaOH = 12/40 = 0,3 mol
Ta có tỷ lệ : 0,2/1 > 0,3/2. Điều đó chứng tỏ H2SO4 dư. Nên ta cho giấy
quỳ tím vào sản phẩm thu được, giấy quỳ sẽ chuyển sang màu đỏ (như

vậy ví dụ này rơi vào trường hợp 3)
8


Bài 2 : Cho 500ml KOH 1M tác dụng với 200ml HCl 2M. Cho quỳ tím vào sản
phẩm thu được? Theo em màu của giấy quỳ thay đổi như thế nào. Giải thích?
Giải :

HCl + KOH KCl + H2O

Số mol KOH tham gia phản ứng là :
n KOH = 0,5.1 = 0,5mol
Số mol HCl tham gia phản ứng là :
n HCl = 0,2. 2 = 0,4mol
Ta có tỷ lệ : 0,5/1 > 0,4/1. Điều đó chứng tỏ KOH dư . Nên ta cho giấy
quỳ tím vào sản phẩm thu được, giấy quỳ sẽ chuyển sang màu đỏ (như
vậy ví dụ này rơi vào trường hợp 2)
Chính vì thế một lần nữa tôi muốn khẳng định việc tạo ra những điểm
nhấn trong mỗi bài dạy là rất quan trọng, tạo ra ấn tượng với các em trong quá
trình học và khắc sâu kiến thức cơ bản.
3.3. Sử dụng các “bài thơ”, câu văn vần giúp học sinh ghi nhớ kiến thức:
Đối với học sinh yếu kém, khả năng tư duy, ghi nhớ kiến thức chậm hơn, khó
khăn hơn. Vì vậy tôi đã sử dụng các bài thơ dạng văn vần như bài ca hoá trị, bài
ca nguyên tử khối... để học sinh học thuộc.
Ví dụ 1: Bài 5: Nguyên tố hoá học – Lớp 8 Phần nguyên tử khối
Để học sinh thêm hứng thú và ghi nhớ nguyên tử khối dễ dàng giáo viên
có thể cho học sinh học thuộc bài ca nguyên tử khối như sau:
BÀI CA NGUYÊN TỬ KHỐI
Hidro (H) là 1
12 cột Các bon (C)

Nitơ (N) 14 tròn
Oxi (O) trăng 16.
Natri (Na) hay láu táu
Nhảy tót lên 23
Khiến Magie (Mg) gần nhà
Ngậm ngùi nhận 24.
27 Nhôm (Al) la lớn

Kali (K) thích 39
Canxi (Ca) tiếp 40
(55) Mangan (Mn) cười
Sắt (Fe) đây rùi: 56.
64 Đồng (Cu) nổi cáu
Bởi kém kẽm (Zn) 65
80 Brom (Br) nằm
Xa Bạc (Ag) 108.
Bari (Ba) buồn chán ngán
9


Lưu huỳnh (S) giành 32
Khác người thật là tài
Clo (Cl) ba nhăm rưỡi (35,5).

(137) Một ba bẩy ích chi
kém người ta còn gì!
Thủy ngân (Hg) hai linh mốt(201)
Còn tôi..., đi sau rốt...!

Ví dụ 2: Bài 10: Hoá trị – lớp 8

Sau khi học xong và giới thiệu hoá trị của các nguyên tố, giáo viên có thể cho
học sinh học bài ca hoá trị như sau:
BÀI CA HOÁ TRỊ
Kali (K), iot (I), hidrô (H)
Natri (Na) với Bạc (Ag), Clo (Cl) một loài
Là hoá trị I em ơi!
Nhớ ghi cho kỹ kẻo rồi phân vân...
Magiê (Mg), chì (Pb), kẽm (Zn) thuỷ ngân (Hg)
Oxi (O), đồng (Cu), thiếc (Sn) cũng gần Bari (Ba)
Cuối cùng thêm chú Canxi (Ca)
Hoá trị II đó có gì khó khăn!
Bác nhôm hoá trị III lần.
In sâu trí nhớ khi cần có ngay.
Cacbon (C) , silic (Si) này đây
Có hoá trị IV không ngày nào quên.
Sắt (Fe) kia rồi cũng quen tên
II , III lên xuống cũng phiền lắm thôi.
Nitơ (N) rắc rối nhất đời!
I , II , III , IV khi thời lên V.
Lưu huỳnh (S) lắm lúc chơi khăm
Xuống II lên VI khi nằm thứ IV.
Phot pho (P) nói đến không dư
10


Có ai hỏi đến thì ừ rằng V.
Em ơi , cố gắng học chăm
Bài ca hoá trị suốt năm cần dùng!
Ví dụ 3: Bài 37: Axit – Bazơ – Muối
Phần giới thiệu bảng tính tan trong nước của các axit – bazơ – muối, sau khi giới

thiệu bảng tính tan, cho học sinh tìm hiểu cách sử dụng bảng tính tan, tìm hiểu
tính tan của các hợp chất, giáo viên có thể cho học sinh tham khảo bài thơ sau:
TÍNH TAN CỦA MUỐI
Loại muối tan tất cả
Là muối nitrat (-NO3)
Và muối acetat (-COOH)

Bất kể kim loại nào
Những muối hầu hết tan
Là clorua (-Cl), sulfat (=SO4)
Trừ bạc chì clorua
Bari, chì sulfat
Những muối không hòa tan
Carbonat (=CO3), photphat (PO4)
Sulfur (=S) và sulfit (=SO3)
Trừ kiềm, amoni
Sau đó cho học sinh đối chiếu với bản tính tan, tìm các loại hợp chất:
Muối nitrat (-NO3), clorua (-Cl), sunfat (=SO4), cacbonat (=CO3), photphat
(PO4), sunfur (=S) và sulfit (=SO3), là dãy nào, là những muối nào trong bảng
tính tan …
Ví dụ 4: Bài 17 Hoá học 9 “Dãy hoạt động hoá học của kim loại”
Giáo viên cho học sinh học thuộc các câu văn sau:
DÃY ĐIỆN HÓA (I)
K

Na

Li

Ba


Ca

Mg

Không Nói

Li

Biệt

Chiều

Mưa

Ấy

Sn

Pb

Mn

Zn

Mắt
H

Fe


Dõi Phương
Cu

Bi

Al

Co

Ni



Nhớ Thương Chờ

Hg

Ag

Pt

Au
11


Hi Cú

Bit

Hay


Ai

Ph

Vng

Chớn nh mi thng vo tn m
DY IN HểA (II)
K

Na

Ba

Ca Mg Al Zn Fe Ni Sn

Pb

H Cu Hg Ag Pt Au

Khi No Bn Cn May o Giỏp St Nờn Sang Phỏp Hi Ca Hng Phi u
Hng ngy yờu cu cỏc hc sinh khỏ gii trong lp kim tra v hng dn
cỏch ghi nh. Cú tuyờn dng vi cỏc bn ó hng dn, giỳp nhit tỡnh cỏc
bn hc yu.
3.4 a dng cỏc hot ng ca hc sinh ng dng cụng ngh thụng tin
vo ging dy: Trong cỏc tit dy tụi ó thụng qua cỏc hot ng nh t chc trũ
chi, lm cỏc thớ nghim vui giỳp hc sinh hng thỳ hn trong gi hc. Ngoi
ra cỏc hot ng khụng ch nhng gi hc chớnh khoỏ m cũn c t chc
hot ng ngoi khoỏ thụng qua cỏc cuc thi nh Rung chuụng vng, u

trng 30 thc hin trong mt lp, i no m ti th t chc thi gia 2
lp ... vi h thng cõu hi khụng nhng liờn quan n kin thc b mụn m cũn
liờn h gii thớch cỏc hin tng thng gp trong i sng hng ngy, ỳng vi
tinh thn hc m chi chi m hc, mi ngy n trng l mt ngy
vui... Ngy nay, khoa hc hin i vic ỏp dng cỏc cụng ngh thụng tin vo
nhng tit hc l rt cn thit v quan trng. Nú to hng thỳ cho cỏc em tip
cn thụng tin v khỏm phỏ tit hc mt cỏch say mờ, nh nhng v hiu qu cao.
ú l vic ging dy bng giỏo ỏn in t, s dng cỏc phn mm nh
powerpoint, violet, flash...
Ví dụ: Tiết 47, Bài 38 Axetilen. Hoá học 9
Để củng cố bài và kiểm tra kiến thức cũ, tôi đã thiết kế
một trò chơi ô chữ bằng phần mềm powerpoint nh sau:

12


- Hµng ngang 1: Tªn cña mét hi®rocacbon cã 1 liªn kÕt ®«i
trong ph©n tö
- Hµng ngang 2: Loại đơn chất mà tính chất của chúng là không dẫn điện,
dẫn nhiệt hoặc dẫn điện dẫn nhiệt kém.
- Hàng ngang 3: Tên của loại phễu chiết trùng với 1 loại quả (có hình ảnh quả lê)
- Hàng ngang 4: Loại phản ứng đặc trưng của hợp chất hiđro cacbon có liên kết
bội.
- Hàng ngang 5: Trạng thái của các hợp chất hiđro cacbon đã học.
- Hàng ngang 6: Loại phản ứng đặc trưng của các hợp chất hiđro cacbon có toàn
liên kết đơn trong cấu tạo phân tử.
- Hàng ngang 7: Tên của một hiđrocacbon còn gọi là khí đá (bơm vào bóng
bay).
- Hàng ngang 8: Hoá trị của nguyên tố Cacbon trong các hợp chất hữu cơ.
- Hàng ngang 9: Tên một loại hiđro cacbon đã học.

Sau khi giải xong các ô chữ hàng ngang, học sinh sẽ tìm ra từ chìa khoá là
“liên kết ba” – là loại liên kết mới học xong. Như vậy vừa kiểm tra được kiến
thức bài cũ, vừa củng cố bài mới và kết thúc tiết học với tinh thần rất thoải mái,
vui vẻ đầy hứng thú.
3.5 Liên hệ thực tế cuộc sống và hiểu biết xã hội:
Trong chương trình sách giáo khoa mới thông thường sau mỗi bài đều có
phần “Em có biết” giáo viên nên cho các em đọc trong tiết dạy của mình. Đây là
những thông tin rất bổ ích mà các em cần biết để có những kinh nghiệm trong
13


cuộc sống và hiểu biết về thế giới xung quanh mình. Sau đây tôi xin trích một
vài thí dụ điển hình.
Ví dụ 1: Bài 36 Nước (Tiết 54 - lớp 8) Qua phần “Em có biết” học sinh
thấy được vai trò của nước trong đời sống và sản xuất, chống ô nhiễm nguồn
nước, ngoài ra còn một số thông tin sau:
Để có được một tấn sản phẩm, lượng nước cần tiêu thụ như sau: Than cần
từ 3 - 5 tấn nước, dầu mỏ từ 30 - 50 tấn nước, giấy gừ 200 - 300 tấn nước, gạo từ
5000 - 10.000 tấn nước, thịt từ 20.000 - 30.000 tấn nước.
Ví dụ 2: Bài 28 Các oxit của cacbon (Tiết 34 - Lớp 9):
* Khí CO có thể gây chết người.
CO được sinh ra từ các lò khí than, đặc biệt là khí ủ bếp than (do bếp
không cung cấp đầy đủ khí ôxi cho than cháy). Đã có một số trường hợp tử vong
do ủ than trong nhà đóng kín cửa. Đó là do nồng độ khí CO sinh ra từ bếp than ủ
trong phòng kín qua mức cho phép, khí CO kết hợp với hêmôglobin trong máu
ngăn không cho máu nhận ôxi và cung cấp ôxi cho các tế bào và do đó gây tử
vong. Cần đun than ở nơi thoáng gió. Tuyệt đối không dùng bếp than để sưởi và
ủ bếp trong phòng kín.
* Tại sao CO2 được dùng để dập tắt đám cháy.
Khí CO2 nặng hơn không khí và không tác dụng với ôxi nên nó có tác

dụng ngăn không cho vật cháy tiếp xúc với không khí. Do đó khí CO 2 được
dùng để dập tắt đám cháy.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết về phần “em có biết ” rất hay, giáo viên
không nên bỏ qua phần này và có thể phân tích thêm cho các em hiểu những
điều điệu kỳ có ở xung quanh mình và thêm yêu môn học.
4. Dạy phụ đạo vào các buổi ngoại khoá
4.1 Tổ chức các buổi phụ đạo: Khâu chuẩn bị, soạn giáo án của giáo viên
kỹ lưỡng, cẩn thận, trau chuốt. Không khí học tập trên lớp sôi nổi, phương pháp
phù hợp, học sinh hoạt động tích cực. Song, với đối tượng học sinh yếu kém, các
em vẫn chưa thể nắm vững trọng tâm kiến thức, chưa thể vận dụng kiến thức.
Thời gian một tiết học không thể đủ để giáo viên quan tâm sâu sắc đến tất cả
mọi đối tượng học sinh. Đặc biệt với những lớp có sự phân hoá khả năng, năng
lực học sinh rõ rệt. Vậy, phụ đạo học sinh yếu kém ngoài các tiết dạy chính khoá
là một biện pháp không thể thiếu để nâng cao kết quả học tập, giúp học sinh vá
14


lại lỗ hổng kiến thức để các em bắt kịp những kiến thức mới, hoà nhịp cùng các
bạn trong lớp. Hoạt động này được tổ chức vào những buổi các em tự học tên
lớp. Thời gian từ một đến hai tuần hoặc học xong hai, ba bài sẽ tổ chức phụ đạo
một buổi. Các bước thực hiện biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém là:
- Lên danh sách học sinh của từng lớp, từng khối.
- Yêu cầu học sinh xem lại kiến thức đã học.
- Giáo viên nắm bắt những kiến thức cần bổ sung lại cho học sinh.
- Giáo viên soạn bài, chuẩn bị cho buổi phụ đạo.
- Tổ chức phụ đạo và kiểm tra kết quả, khả năng tiếp thu bài của học sinh
cuối mỗi buổi phụ đạo.
Trong mỗi buổi phụ đạo cần giải đáp ngay những nghi vấn của học sinh
giúp học sinh xác định chính xác kiến thức. Giảng lại, giảng kỹ những kiến thức
khó, phức tạp, dễ nhầm lẫn. Chữa và hướng dẫn giải các bài tập trong sách giáo

khoa, sách bài tập.
Ví dụ: Sau khi học xong bài 16 (Sgk Hoá học 8) “Tiết 22, 23: Phương
trình hoá học”, qua nhận xét ,đánh giá sự tiếp thu bài của học sinh, tôi thấy các
em chưa nắm bắt được cách lập phương trình hóa học, chưa biết cách viết một
phương trình hoá học, chưa hiểu và chưa xác định được các chất tham gia, các
chất tạo thành … Tôi đã tổ chức buổi phụ đạo cho các em, giáo án như sau:
ÔN TẬP: PHƯƠNG TRÌNH HÓA HỌC
I.MỤC TIÊU: Phải làm cho học sinh biết:
1. Kiến thức: Hiểu và phân biệt rõ ràng các chất tham gia, các chất tạo thành, phương trình
hóa học, nắm được các bước lập phương trình hóa học.
2.Kĩ năng: Phân biệt, ghi nhớ KHHH, CTHH của một số chất.
3.Thái độ: Tạo cho học sinh say mê với môn học, thích khám phá.
4.Trọng tâm: Phần kiến thức trên.
II.PHƯƠNG PHÁP: kết hợp các phương pháp:
- Đàm thoại gợi mở
- Trực quan
- Thảo luận nhóm
- Giảng giải nêu vấn đề
- Phát vấn
- Chơi trò chơi.
III.CHUẨN BỊ:
1.GV: Soạn bài, nghiên cứu tài liệu có liên quan…
Phiếu học tập, bảng phụ (bảng 1) …
2.HS: Xem và nghiên cứu ,chuẩn bị trước theo yêu cầu của giáo viên.
IV.TIẾN TRÌNH TRÊN LỚP:
1.Ổn định tổ chức:
Làm công tác tư tưởng đối với học sinh để các em không nhàm chán môn học.
2.Kiểm tra bài: kiểm tra sự chuẩn bị của HS và nêu mục đích của buổi phụ đạo.
3.Bài mới: Sau những gì các em đã tiếp thu trên lớp thì trong giờ học này các em sẽ tự đánh


15


giá lại những kiến thức mà mình đã học ,qua đó xác định lần nữa thật chính xác kiến thức để
vận dụng và làm kiến thức cơ sở cho các bài học tiếp theo.

Nội dung
GV
HS
I.Phương trình hóa HĐ1:Tìm hiểu và xác định và hiểu rõ được các ngôn
học.
ngữ : chất tham gia ,tạo thành, biểu diễn PTHH như thế
nào.
Treo bảng phụ một số phương
-PTHH dùng để biểu trình chữ của phản ứng
diễn ngắn gọn PƯHH. Bảng 1:
a.Khí hidro + khí ôxi - -> nước
Các chất tham gia -> - đọc nội dung bảng phụ
các chất tạo thành.
b. Canxi cacbonat
- ->
và thảo luận nhóm:
Canxioxit + cacbonđioxit
Nêu tên được các chất
tham gia và các sản
c.kẽm + axít clohiđric - -> kẽm phẩm ,ghi CTHH của
clorua + khí hidro.
các chất.
-Hãy cho biết tên các chất tham
gia ,các chất tạo thành , CTHH

của các chất trên?
Khi các chất được viết dưới dạng
CTHH ,các chất tham gia nối với -học sinh lên bảng ghi
nhau bằng dấu cộng (+) ,các chất các sơ đồ phản ứng đã
tạo thành cũng nối với nhau bằng cho lên bảng theo hướng
dấu cộng,các chất tham gia nối dẫn.
với các chất tạo thành bằng dấu
mũi tên(- ->) ,các chất tham gia
viết ở bên trái còn các chất tạo
thành viết ở bên phải mũi tên ta
được sơ đồ của phản ứng hóa học.
-Trong phản ứng a tại sao nước -Vì nước không có mặt
không phải là chất tham gia ? Khí trong phản ứng từ ban
hidro không phải là chất tạo
đầu chỉ có hidro và
thành?
oxi…
Các sơ đồ phản ứng trong bài tập
16


II.Các bước lập
PTHH

2,3 (57,58) giáo viên YC học sinh -học sinh làm bài tập
nhận biết chất tham gia và sản
theo yêu cầu của giáo
phẩm.
viên.
HĐ2:Tìm hiểu các bước lập PTHH.


Vẫn dùng kết qủa bảng trên.
-Hãy đếm số nguyên tử của mỗi -số nguyên tử ở sơ đồ
nguyên tố trong các sơ đồ phản phản ứng a,c là không
ứng trên và cho nhận xét?
bằng nhau.
-Vậy ta phải làm như thế nào để
cho các nguyên tử mỗi nguyên tố -Cho thêm hệ số .
bằng nhau?
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm hệ Thảo luận dưới sự
số thích hợp của sơ đồ phản ứng hướng dẫn của giáo
a,c bằng thảo luận nhóm.
viên.
Lưu ý một số vấn đề học sinh hay
lầm lẫn : cách viết hệ số ,chỉ số
- viết sơ đồ phản ứng của công thức hóa học không
- tìm hệ số thích
được thay đổi trong PTPƯ…
hợp…
-Khi cho kim loại Na tác dụng với
- viết thành PTHH. khí Oxi tạo thành Natrioxit (Na2O) -suy nghĩ trả lời : viết sơ
để biểu diễn phản ứng này ta làm đồ phản ứng, tìm hệ số
như thế nào?
thích hợp…, viết thành
Yêu cầu học sinh làm luôn.
PTHH.
-Sơ đồ phản ứng khác với PTPƯ ở
điểm nào?
- PTHH đầy đủ hệ số với
số lượng nguyên tử mỗi

nguyên tố ở hai vế bằng
nhau.
Để nắm bắt được kiến thức phần thảo luận mà học sinh cần hoàn thành là:
Bảng 1:

a.Khí hidro + khí ôxi - -> nước
- H2
O2
H2O
- H2 +
O2
- -> H2O
- 2H2 +
O2
2H2O
17


b.Canxi cacbonat
- -> Canxioxit + cacbonđioxit
- CaCO3
CaO
CO2
- CaCO3
- -> CaO
+
CO2
- CaCO3
CaO
+

CO2
c.kẽm + axít clohiđric - -> kẽm clorua + khí hidro.
- Zn
HCl
ZnCl2
H2
- Zn
+
HCl
-->
ZnCl2 + H2
- Zn
+ 2HCl
ZnCl2
+ H2
----------------------------------------Các chất tham gia
các chất tạo thành
4.Củng cố: Giáo viên cho học sinh làm trắc nghiệm 10 câu (5 phút) đánh giá khả năng của
học sinh tiếp thu bài như thế nào:

Hãy khoanh tròn câu trả lời đúng:
I. Cho phương trình phản ứng sau: 4Al
+ 3O2
2 Al2O3
1.Các chất tham gia là:
a. O2 ,
b. Al2O3
c. Al. O2.
d. Al
2.Các chất tạo thành (sản phẩm) là:

a. O2 ,
b. Al2O3
c. Al. O2.
d. Al
3.Các hệ số của phương trình lần lượt là:
a. 4:3:2
b. 4:2:3
c. 2:3:4
d. 4:3:3
II. Cho sơ đồ phản ứng:
Hg + O2
- -> HgO
Các hệ số của phương trình lần lượt là:
a. 1:2:2
b. 2:2:1
c. 1:1:1
d. 2:1:2
III. Cho sơ đồ phản ứng:
Fe + Cl2 - -> FeCl3
Các hệ số của phương trình lần lượt là:
a. 3:2:2
b. 2:3:2
c. 2:1:2
d. 1:1:1
5.Dặn dò: Học bài, làm bài tập trong Sgk và sách bài tập.

4.2 Chia nhóm học sinh, hình thành nhóm bạn cùng tiến.
Để giúp các em học sinh yếu kém tự học ở nhà tôi đã chia lớp thành các
nhóm, mỗi nhóm từ 2 đến 4 học sinh. Trong mỗi nhóm có 1 học sinh khá, giỏi là
nhóm trưởng kèm cặp các học sinh còn lại. Nhiệm vụ của nhóm trưởng là hướng

dẫn các bạn trong nhóm tự học, làm bài tập, giải đáp các thắc mắc của các bạn
trong nhóm, kiểm tra việc tự học ở nhà của các bạn trong nhóm và báo cáo lại
với giáo viên bộ môn, từ đó giáo viên sẽ có kế hoạch bồi dưỡng, phụ đạo kịp
thời. Vì phần lớn các em học sinh ăn ở sinh hoạt trong khu ký túc xá của trường
18


nên việc hình thành và quản lý các nhóm học tập là khá thuận lợi. Đối với những
học sinh ở ngoại trú tôi sắp xếp phân nhóm gồm những em ở gần nhà nhau.
4.3 Sưu tầm hệ thống bài tập tương tự, cùng dạng cho học sinh làm ở nhà:
Sau các buổi phụ đạo, giáo viên phải có các bài tập, câu hỏi tương tự các
bài tập vừa hướng dẫn trên lớp giao về nhà để học sinh làm. Mục đích để các em
một lần nữa tái hiện lại kiến thức và vận dụng để làm bài tập giúp ghi nhớ và
khắc sâu kiến thức. Đến buổi phụ đạo hôm sau giáo viên sẽ kiểm tra bài làm của
học sinh.
Những học sinh làm tốt phải được khen, khích lệ kịp thời. Tôi đã phối hợp
với giáo viên chủ nhiệm các lớp và đề nghị tuyên dương các em có tiến bộ trước
lớp trong các buổi sinh hoạt lớp. Khi sự cố gắng của mình có kết quả và được
giáo viên ghi nhận, động viên, khích lệ kịp thời các em sẽ thêm tự tin vào bản
thân, tinh thần học tập sẽ tốt hơn.

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết quả thu được
Trong năm học 2009 – 2010 tôi đã áp dụng đề tài này vào giảng dạy, sau
một năm tôi thấy chất lượng học sinh được nâng cao rõ rệt, đặc biệt là đối tượng
học sinh yếu kém, kiến thức “hổng” của các em được bổ sung đáng kể. Các em
đã rất hứng thú mỗi khi học, hoà nhập cùng các bạn, trong lớp hăng say phát
biểu xây dựng bài và luôn hoàn thành tốt những nội dung mà tôi đưa ra. Có thể
nói biện pháp này đã trở thành một yếu tố quan trọng để hình thành ở học sinh
thói quen học tập tốt.

Kết quả học tập môn Hoá học khối 8, 9 năm học 2008 – 2009
(Khi chưa áp dụng đề tài)
Khối Sĩ số

Giỏi

Khá

T bình

Yếu

Kém
19


SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

8

71

9

12,7

17

23,9

34

47,9

9

12,7

2

2,8


9

67

8

11,9

15

22,4

36

53,7

7

10,4

1

1,6

Kết quả học tập môn Hoá học khối 8, 9 năm học 2009 – 2010
(Sau khi áp dụng đề tài)
Khối Sĩ số

Giỏi


Khá

T bình

Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

8


69

10

14,5

19

27,5

38

55,1

2

2,9

0

0

9

68

11

16,2


15

22,1

41

60,2

1

1,5

0

0

Qua bảng kết quả chúng ta nhận thấy rõ rằng, sau khi áp dụng đề tài, tỷ lệ học sinh yếu giảm
rõ rệt, thay vào đó là tỷ lệ học sinh TB tăng lên. Nói chung chất lượng của học sinh yếu kém ở
các lớp thực nghiệm đã có sự chuyển biến tích cực khá rõ nét so với khi chưa áp dụng đề tài
này, thể hiện qua kết quả học tập của các em.
II. Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình giảng dạy, giúp đỡ, nâng cao chất lượng học sinh yếu kém của bộ môn Hoá
học, tôi đã vận dụng đề tài này và rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Giáo viên phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến
phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực, tạo hứng thú cho các em
trong từng tiết học, phải phối kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với giáo viên chủ nhiệm,
với các giáo viên bộ môn có liên quan, với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, với chính
quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào,
các hoạt động ngoài giờ, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo

viên phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em,
hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý
kiến của các em, đặc biệt đây là đối tượng học sinh học sinh dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa, để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Các em cũng thích được động viên khen thưởng,
giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em
có niềm tin để các em an tâm học tập.
Tóm lại, nếu giáo viên tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh,
thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em là
học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng

20


với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì
chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em.
III. Kết luận và kiến nghị
Qua quá trình thực hiện đề tài, tôi có một số kiến nghị sau: Việc dạy cho HS yếu, kém vất
vả chẳng khác gì bồi dưỡng HS giỏi. Để một HS yếu kém hiểu được thực chất vấn đề rất khó khăn. Những em vì
lơ là học tập mà học yếu thì “chữa” rất dễ nhưng những em có “chỉ số IQ” thấp thì một tiết dạy phải dành thời
gian gấp đôi, gấp ba người thường. Với những người không thực sự tâm huyết với nghề thì việc phụ đạo HS yếu,
kém chỉ mang tính hình thức chứ không có tác dụng gì. Vậy, giáo viên phải cần có sự tâm huyết với nghề, học
sinh cần phải có sự nỗ lực, cố gắng cao, gia đình cần thực sự quan tâm đến con em mình, phối hợp chặt chẽ với
gia đình để giáo dục các em. Ban giám hiệu cần tạo mọi điều kiện tốt nhất có thể để giáo viên hoàn thành tốt
nhiệm vụ, đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy, tăng cường trang thiết bị về
cả số lượng lẫn chất lượng. Nên chia lớp theo đối tượng học sinh để giáo viên thuận lợi hơn trong việc soạn giáo
án. Phải đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá để phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh, phải biên soạn
chương trình sách giáo khoa phù hợp với học sinh. Từng bước cải thiện đời sống cho giáo viên, có những chế độ
khen thưởng thoae đáng, kịp thời để khích lệ, động viên giáo viên yên tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ
trồng người.


Trên đây là một số biện pháp tôi đã áp dụng để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém tại đơn
vị. Trong quá trình thực hiện đề tài tôi nhận thấy các biện pháp này có tác dụng rõ rệt, tạo
được hứng thú cho học sinh, thể hiện rõ nét tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của các
em trong học tập. Học sinh thực sự là chủ thể, là trung tâm của hoạt động dạy học. Thay đổi
nhận thức của học sinh với việc học, đang từng bước nâng cao chất lượng học tập của học
sinh nói chung, đặc biệt là học sinh yếu kém - là vấn đề đang được đặt ra cấp thiết trong hoạt
động dạy và học. Tôi xin mạnh dạn trao đổi cùng đồng nghiệp kinh nghiệm này. Kính mong
sự phê bình, góp ý của Hội đồng khoa học và bạn đọc để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Lang Chánh, ngày 15 tháng 4 năm 2011
Người viết
Nguyễn Khắc Kiên

Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
01. SGK Hoá học 8 – NXB GD năm 2006
02. SGV Hoá học 8 – NXB GD năm 2004
03. SBT Hoá học 8 – NXB GD năm 2006
04. SGK Hoá học 9 – NXB GD năm 2005
05. SGV Hoá học 9 – NXB GD năm 2004
06. SBT Hoá học 9 – NXB GD năm 2005
07. Bồi dưỡng hoá học THCS
Tác giả Vũ Anh Tuấn – NXBGD
08. Tài liệu BDTX Cho GV THCS Chu kì III (04 – 07) – NXBGD
09. Phương pháp giảng dạy bộ môn hóa học THCS (Chương trình mới)
Tác giả: Lê Xuân Trọng - Nguyễn Cương - Đỗ Tất Hiển - Nguyễn Phú Tuấn


10. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS Tác giả: Nguyễn hải Châu
11. Báo giáo dục và thời đại
12. GS.TSKH Nguyễn Cương - Sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học hiện đại và
phương tiện kỹ thuật dạy học để nâng cao chất lượng dạy học Hoá học (Đề cương bài giảng
lớp tập huấn giảng viên CĐSP - Dự án đào tạo GV THCS), Hà Nội, tháng 10/2003.

22


MỤC LỤC
Trang

A. ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................................................

1

I. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................................................................

1

II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................................

2

III. Phạm vi và thời gian nghiên cứu ................................................................................................................

2

IV. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................................................................


2

B. NỘI DUNG ................................................................................................................................................

3

I. Cơ sở lý luận ......................................................................................................................................................................

3

II. Thực trạng ..........................................................................................................................................................................

4

III. Những biện pháp thực hiện ..............................................................................................................................

6

1. Soạn giáo án chi tiết, chuẩn bị kỹ cho tiết dạy ........................................................................

6

2. Xác định động cơ học tập cho học sinh ..........................................................................................

9

3. Gây hứng thú học tập, hình thành sự yêu thích bộ môn .................................................

10


4. Dạy phụ đạo vào các buổi ngoại khoá ............................................................................................

17

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..............................................................................................

23

I. Kết quả thu được ............................................................................................................................................................

23

II. Bài học kinh nghiệm .................................................................................................................................................

23

III. Kiến nghị ................................................. ................................................. .......................................................................

24

Ý kiến đánh giá của hội đồng khoa học ..............................................................................

26

Tài liệu tham khảo ................................................. .................................................................................

27

Mục lục ................................................. ................................................. ...........................................................


28

23


24



×