Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong dạy học truyện ngắn việt nam hiện đại (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.16 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRẦN THỊ NGỌC LAM

TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
TRONG DA ̣Y HỌC TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(NGƢ̃ VĂN 9)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRẦN THỊ NGỌC LAM

TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
TRONG DA ̣Y HỌC TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(NGƢ̃ VĂN 9)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 01 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Lê Huy Bắc

HÀ NỘI – 2016




MỤC LỤC
Lời cảm ơn ...................................................... Error! Bookmark not defined.
Danh mu ̣c chữ viết tắt ..................................... Error! Bookmark not defined.
Mục lục............................................................................................................... i
Danh mu ̣c bảng................................................................................................. ii
Danh mu ̣c hin
̀ h ................................................ Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........... 10
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài .......................................................................... 10
1.1.1. Một số khái niệm sử dụng để nghiên cứu đề tài ................................. 10
1.1.2. Một số vấn đề về kỹ năng sống cho học sinh ..................................... 19
1.1.3. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động dạy học
truyện ngắn Việt Nam hiện đại (Ngữ văn 9) ... Error! Bookmark not defined.
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài ......................... Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Khảo sát thực tiễn.................................. Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Thực trạng tích hợp kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy học thể
loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại cho học sinh ở trường THCS Lý Tự
Trọng, Tp. Nam Định ...................................... Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 1............................................ Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TÍCH HỢP GIÁO DỤC KỸ NĂNG
SỐNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THỂ LOẠI TRUYỆN
NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ........................ Error! Bookmark not defined.
2.1. Một số nguyên tắc xây dựng biện pháp ... Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu....... Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục ....... Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo về lượng ............. Error! Bookmark not defined.
2.1.4. Dạy học bám sát đặc trưng thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại Chương trình Ngữ văn 9. ................................ Error! Bookmark not defined.


i


2.1.5. Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc tích hợp rèn kĩ
năng sống......................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Một số định hướng tích hợp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động
dạy học thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đạiError!

Bookmark

not

defined.
2.2.1. Sử dụng phương pháp dạy học tích cực Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Dạy học tích hợp liên môn .................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Tích hợp KNS trong kiểm tra đánh giá . Error! Bookmark not defined.
2.3. Các bước thực hiện một bài dạy tích hợp KNSError!

Bookmark

not

defined.
Tiểu kết chương 2............................................ Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3:THỰC NGHIỆM ........................ Error! Bookmark not defined.
3.1. Những vấn đề chung về thực nghiệm sư phạmError! Bookmark not
defined.
3.1.1. Mục đích thực nghiệm ........................ Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Đối tượng và thời gian thực nghiệm... Error! Bookmark not defined.

3.1.3. Giáo án thực nghiệm........................... Error! Bookmark not defined.
3.1.4. Phương pháp thực nghiệm .................. Error! Bookmark not defined.
3.2. Kết quả thực nghiệm .............................. Error! Bookmark not defined.
3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm ............... Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 3............................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHI ...................
Error! Bookmark not defined.
̣
1. Kết luận ....................................................... Error! Bookmark not defined.
2. Khuyến nghị ................................................ Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 22
PHỤ LỤC ........................................................... Error! Bookmark not defined.

ii


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI đã được UNESCO khái quát qua
câu nói: “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung
sống”. Câu nói ấy cho thấy một yếu tố không thể thiếu được ở mỗi quốc gia
là giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ. Việc đẩy mạnh hoạt động giáo dục kĩ
năng sống cho thế hệ trẻ là một yếu tố vô cùng quan trọng.
Thực hiện việc giáo dục kĩ năng sống nhằm làm giảm tình trạng gia
tăng trẻ vị thành niên phạm tội, đặc biệt là ở các đô thị và thành phố lớn. Các
em vì chưa có kĩ năng sống mà có thể sa vào hiện tượng hút thuốc lá, uống
rượu, tiêm chích ma túy, quan hệ tình dục sớm… Các em sẵn sàng đánh nhau,
chửi bậy, sa đà vào các tệ nạn xã hội, liều lĩnh từ bỏ mạng sống… Thậm chí
là tự sát khi gặp vướng mắc trong cuộc sống hay tham gia những vụ án giết
người, cố ý gây thương tích. Bên cạnh đó nhiều em học giỏi, nhưng ngoài

điểm số cao, khả năng tự chủ và kỹ năng giao tiếp lại rất kém. Do chưa được
tiếp cận với chương trình giáo dục kỹ năng sống nên học sinh còn thiếu hụt
những kỹ năng sống cần thiết. Chính vì thiếu kỹ năng sống mà nhiều học sinh
đã giải quyết các vấn đề gặp phải một cách tiêu cực dẫn đến các tệ nạn, rủi ro.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh không chỉ góp phần củng cố kiến
thức từ sách vở mà còn củng cố kiến thức ngoài thực tế, củng cố cho học sinh
kỹ năng, kỹ xảo, hành vi, cách ứng xử và đối phó với những biến đổi ngoài
môi trường sống, giúp cho các em tự tin hơn trong các tình huống hay các sự
cố xảy ra ngoài ý muốn của bản thân. Từ đó, học sinh có thể vận dụng tốt hơn
kiến thức và áp dụng kỹ năng sống một cách hiệu quả hơn. Khi được giáo dục
và rèn kỹ năng sống, các em tự tin hơn rất nhiều, không biểu hiện những thái
độ tiêu cực và dần trở nên vững vàng hơn trong cuộc sống và các mối quan hệ
trong xã hội, mối quan hệ con người với tự nhiên ngày càng hoàn thiện hơn.
Ngày nay vấn đề giáo dục các kỹ năng sống cho các chủ nhân tương lai
thực sự của đất nước lại càng vô cùng cấp thiết. Bởi trong xã hội hội nhập và

1


phát triển hiện nay, cả thế giới đều hướng loài người tới một cộng đồng hòa
bình, lành mạnh, an toàn. Nếu không có kĩ năng sống, chúng ta sẽ không thích
nghi được với môi trường mới. Có kĩ năng sống, chúng ta sẽ phát triển nhiều
năng lực như: chuyển đổi nghề nghiệp theo yêu cầu mới của thị trường lao
động, năng lực quản lý, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề; tôn trọng và
nghiêm túc tuân theo pháp luật; quan tâm và giải quyết các vấn đề bức xúc
mang tính toàn cầu; có tư duy phê phán, có khả năng thích ứng với những
thay đổi trong cuộc sống,... Thực hiện việc giáo dục kĩ năng sống còn đáp ứng
nhu cầu đổi mới giáo dục để đáp ứng sự phát triển của đất nước cũng như
đáp ứng nhu cầu của người học.
Vì vậy, trên thế giới đã có nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã đưa

việc giáo dục kỹ năng sống vào các chương trình giáo dục ở mọi lứa tuổi, ở
các chương trình giáo dục khác nhau, đặc biệt là các chương trình môn học
thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, trong đó có Ngữ văn. Việt Nam cũng là đất
nước ý thức được việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Chúng ta đã thực
hiện đổi mới giáo dục phổ thông; đổi mới mục tiêu giáo dục từ chủ yếu là
trang bị kiến thức cho người học sang trang bị những kĩ năng sống cần thiết
như: năng lực hợp tác, có khả năng giao tiếp,… Cách tiếp cận kỹ năng sống
trong giáo dục đã quán triệt trong đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp
giáo dục phổ thông ở Việt Nam. Từ năm 2001, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông với sự hỗ trợ của các
tổ chức quốc tế, đặc biệt là Unicef tại Việt Nam. Bộ Giáo dục và Đào tạo
đang nghiên cứu xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống để đưa vào
chương trình giáo dục phổ thông theo hình thức tích hợp ở nhiều môn học và
hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. Giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh được thực hiện bằng việc khai thác nội dung của một số môn học có
ưu thế, đặc biệt là các môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội như: Ngữ văn,
Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân… Đặc biệt là môn Ngữ văn. Ngữ văn là
bộ môn có ưu thế trong rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Không môn nào

2


rèn luyện kĩ năng sống của học sinh tốt bằng môn Ngữ văn. Học Văn là học
về cách sống, cách làm người. Thông qua đó, ta có cách sống, giao tiếp phù
hợp với văn hoá Việt. Nhờ đó, tính cách của mỗi cá nhân được bộc lộ , đươ ̣c
uố n nắ n , phát triển, ý thức kỷ luật , tinh thầ n tương trơ ̣ , ý thức cộng đồng…
cao hơn.
Tuy nhiên, hiện nay, việc nhận thức về kỹ năng sống, cũng như việc thể
chế hóa giáo dục kỹ năng sống trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam chưa
thật sự cụ thể, đặc biệt về hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống

cho học sinh các cấp, bậc học còn hạn chế. Đồng thời, muốn thực hiện được
điều này thì cần phải đi từ những nguyên tắc, nguyên lý hay định nghĩa trước
(lý thuyết) theo một chương trình dài hạn với kế hoạch cụ thể. Từ đó mới làm
việc giáo dục hình thành được các kỹ năng, kỹ xảo thực hành bộ môn để
người học ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Việc tích hợp giáo dục kỹ năng
sống vào nội dung môn học, hoạt động giáo dục nào, bằng phương pháp nào,
thời lượng, cơ cấu chương trình và các tổ chức thực hiện ra sao là những câu
hỏi đặt ra đòi hỏi phải giải đáp. Chúng ta vẫn đang nghiên cứu tìm hướng áp
dụng dạy kĩ năng vào các môn học một cách hợp lí nhất, đặc biệt là môn Ngữ
văn. Giáo dục kỹ năng sống thông qua môn Ngữ văn sẽ gúp học sinh dễ dàng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, từ đó hình thành kỹ năng, nâng cao nhận
thức, phát triển thái độ, tình cảm, niềm tin, bản lĩnh cũng như sự năng động,
sáng tạo của học sinh. Đó cũng là lý do để tôi chọn đề tài nghiên cứu: “TÍ CH
HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (NGƢ̃ VĂN 9)”
2. Lịch sử nghiên cứu
Dạy học theo định hướng tích hợp kĩ năng sống vào dạy học Ngữ văn
nói chung và dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng là một trong
những khuynh hướng đổi mới tích cực trong dạy học Ngữ văn. Đây là vấn đề
mới và hiện đang nhận được sự quan tâm của nhiều người làm nghiên cứu
khoa học. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều nghiên cứu đã

3


khẳng định sự cần thiết phải tích hợp kĩ năng sống vào dạy học. Đồng thời,
cũng có một số nghiên cứu đề xuất cách thức tích hợp kĩ năng sống vào dạy
học, đặc biệt trong môn Ngữ văn.
2.1.


Các tài liệu trực tiếp nói tới việc tích hợp kĩ năng sống vào dạy học
Ngữ văn
Nhìn chung, các tài liệu này chưa nhiều, chủ yếu tản mạn ở các bài viết,

sáng kiến kinh nghiệm. Ở đây, chúng tôi chỉ đi vào khảo sát tài liệu mang tính
chính thống của Bộ GD và ĐT (2010). Đó là cuốn Giáo dục kỹ năng sống
trong môn Ngữ văn ở trường THPT. Cuốn sách đưa ra cách tích hợp kĩ năng
sống hệ thống với nhiều giáo án mẫu dễ hiểu, cách thức thực hiện cũng đa
dạng. Tuy nhiên, mảng tích hợp không đi sâu vào dạy học thể loại truyện
ngắn Việt Nam hiện đại.
2.2.

Các tài liệu gián tiếp nói tới tích hợp kĩ năng sống vào dạy học Ngữ văn
Ngoài cuốn sách hướng dẫn trực tiếp về tích hợp kĩ năng sống vào dạy

học Ngữ văn, Bộ GD và ĐT còn biên soạn nhiều cuốn khác về tích hợp kĩ
năng sống trong nhiều môn khác, như Giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động
Giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THPT, Giáo dục kỹ năng sống trong
môn Địa lý ở trường THPT,… Phần lí thuyết về tích hợp ở các cuốn này
không mới song các giáo án áp dụng vô cùng đa dạng, gần với từng bài. Đây
là tài liệu để so sánh, đối chiếu với việc tích hợp trong môn Ngữ văn.
Bộ Y tế (2009) cũng cho xuất bản cuốn sách để giúp đỡ giáo viên tích
hợp kĩ năng sống trong bài học. Cuốn Những điều giáo viên cần biết để giáo
dục kỹ năng sống và sức khỏe sinh sản vị thành niên có kiến thức sâu về kĩ
năng sống, song chủ yếu đi sâu vào mảng tình bạn, tình yêu học trò.
Viện chiến lược và chương trình Giáo dục nhận thấy nhu cầu cấp thiết
về giáo dục kĩ năng sống nên cũng cho xuất bản cuốn Giáo dục kỹ năng sống
ở Việt Nam. Cuốn sách khẳng định vai trò quan trọng của kĩ năng sống cũng
như việc giáo dục kĩ năng trước khi quá muộn. Việc giáo dục được thực hiện


4


sớm, ngay khi trẻ mới chập chững. Đó không chỉ là trách nhiệm của thầy cô
mà còn là của gia đình.
Ngoài ra, nhiều tác giả khác cũng cho ra đời các tài liệu hướng dẫn tích
hợp giáo dục kĩ năng sống, như cuốn Cẩm nang Giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trung học của nhiều tác giả. Cuốn sách trình bày súc tích, logic về
cách giáo dục kĩ năng sống. Trong đó, các tác giả đưa ra nhiều tình huống
mang tính áp dụng thực tế, gần gũi. Tuy vậy, nó chủ yếu áp dụng ngoài giờ
lên lớp. Còn trong cuốn Giáo dục kỹ năng sống, tác giả Võ Kỳ Anh lại đưa ra
hệ thống lí thuyết đầy đủ về kĩ năng sống, nêu rõ vai trò của việc giáo dục kĩ
năng này. Tuy vậy, nhìn chung, các tài liệu còn nhiều chỗ trùng lặp nhau.
Có thể thấy, đổi mới dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp kĩ năng sống
cho học sinh đang là vấn đề được nhiều thầy cô, các nhà nghiên cứu khoa học
quan tâm. Tuy nhiên, chưa có tài liệu nào bàn cụ thể các biện pháp tích hợp kĩ
năng sống trong dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Với hy vọng có thể
góp một phần nhỏ vào công cuộc đổi mới trên, người viết mạnh dạn đề xuất
một số biện pháp tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong dạy học
truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Những công trình nghiên cứu trên sẽ là nguồn
tài liệu vô cùng quý giá để người viết tham khảo, học hỏi trong quá trình thực
hiện đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu
Xác định, hệ thống hóa những vấn đề lí luận về việc tích hợp giáo dục
kĩ năng sống vào dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học truyện ngắn Việt
Nam hiện đại nói riêng.
Xác định thực trạng giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động Ngữ
văn nói chung và dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng ở trường
phổ thông.
Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp tích hợp giao dục kĩ năng sống vào

dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện
đại nói riêng.

5


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tƣợng nghiên cứu:
Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào dạy học Ngữ văn nói chung và

dạy học thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu việc tích hợp

giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy học của giáo viên trong thể
loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại (Ngữ Văn 9).
- Về không gian: Nghiên cứu chủ yếu ở trường THCS Lý Tự
Trọng – TP. Nam Định
- Đối tượng điều tra khảo sát: Cán bộ quản lý, tổ trưởng bộ môn,
giáo viên và học sinh lớp 9 ở trường THCS Lý Tự Trọng – TP. Nam Định
5. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u
5.1.

Phƣơng pháp luận:

5.1.1. Quan điểm hệ thống - cấu trúc

Giáo dục kỹ năng sống là một hoạt động gồm nhiều thành tố có mối
quan hệ với nhau. Việc lồng ghép, tích hợp giáo dục kỹ năng sống thông qua
hoạt động dạy học Ngữ văn là một trong các thành tố thuộc cấu trúc của hoạt
động dạy học nên khi nghiên cứu việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống thông
qua hoạt động dạy học phải đặt nó trong mối quan hệ chi phối, ảnh hưởng
của các yếu tố khác như người dạy, người học, nội dung dạy học, phương
pháp dạy học, phương tiện dạy học, môi trường… Vận dụng quan điểm hệ
thống cấu trúc trong tích hợp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy
học Ngữ văn nói chung và dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng ở
trường THCS Lý Tự Trọng bao gồm những yếu tố như: mục tiêu quản lý, nội
dung quản lý, chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, kết quả quản lý.
5.1.2. Quan điểm lịch sử - logic
Quan điểm này giúp người nghiên cứu xác định phạm vi không gian, thời gian
và điều kiện hoàn cảnh cụ thể để điều tra thu thập số liệu chính xác, và trình
bày công trình nghiên cứu theo một trình tự logic phù hợp.

6


5.1.3. Quan điểm thực tiễn
- Xuất phát từ thực trạng giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động
dạy học Ngữ văn ở trường THCS Lý Tự Trọng – TP. Nam Định còn nhiều tồn
tại, khó khăn; trên cơ sở đó đề ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy học Ngữ văn ở trường THCS
Lý Tự Trọng – TP. Nam Định
5.2.

Phƣơng pháp cụ thể:

5.2.1. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận

- Nghiên cứu các đề tài, các văn bản, nghị quyết của Đảng và nhà nước
về vấn đề giáo dục và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học; phân
tích tổng hợp những tư liệu, tài liệu lý luận về giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh trung học.
- Đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu nhằm xác lập cơ sở
lý luận.
5.2.2. Nhóm các phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phƣơng pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Phương pháp được thực hiện nhằm thu thập thông tin về thực trạng tích
hợp, các biện pháp tích hợp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy
học Ngữ văn nói chung và dạy học thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói
riêng. Các đối tượng được điều tra gồm giáo viên, tổ trưởng bộ môn và cán bộ
quản lí trường THCS Lý Tự Trọng – TP. Nam Định
- Phƣơng pháp phỏng vấn trực tiếp
Phương pháp được thực hiện nhằm tìm hiểu các nguyên nhân về thực
trạng tích hợp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy học Ngữ văn
nói chung và dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng và tìm hiểu
quan điểm của các đối tượng được phỏng vấn về việc tích hợp giáo dục kỹ
năng sống thông qua hoạt động dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học truyện
ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng. Phương pháp được thực hiện chủ yếu với

7


giáo viên, tổ trưởng bộ môn và cán bộ quản lý các trường THCS được khảo
sát.
- Phƣơng pháp quan sát nhằm thu thập thông tin về các vấn đề nghiên
cứu.
Tiến hành dự giờ để quan sát việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống
thông qua hoạt động dạy học trên lớp của giáo viên.

- Phƣơng pháp lấy ý kiến chuyên gia, khảo nghiệm sƣ phạm
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Trao đổi, lấy ý kiến chuyên gia là
cán bộ quản lý các trường phổ thông, chuyên gia về giáo dục kỹ năng sống
để tìm hiểu về việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào môn Ngữ văn nói
chung và dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng.
+ Phương pháp khảo nghiệm: Khảo nghiệm các biện pháp tích hợp giáo
dục kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học
truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng. Các phương pháp này được sử dụng
đồng bộ nhằm xác lập cơ sở thực tiễn của đề tài.
5.2.3. Phƣơng pháp hỗ trợ
Sử dụng phương pháp thống kê để xử lý các kết quả thực nghiệm sư
phạm và kết quả điều tra bằng phiếu hỏi.
6. Giả thuyết khoa học
Thời gian qua, việc lồng ghép, tích hợp giáo dục kỹ năng sống thông
qua hoạt động dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học truyện ngắn Việt Nam
hiện đại nói riêng ở THCS Lý Tự Trọng, Nam Định đã được các giáo viên bộ
môn Ngữ văn thực hiện đạt được một số kết quả nhất định, song vẫn còn một
số hạn chế bất cập trong quá trình quản lý về các mặt như tổ chức chỉ đạo,
kiểm tra đánh giá… nên hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân của thực trạng trên
có thể từ nhiều phía, trong đó, phải nói đến các biện pháp giáo dục kỹ năng
sống trong nhà trường chưa có sự thống nhất về nhận thức và hoạt động, chưa
có sự thực hiện một cách hệ thống, đồng thời chưa phù hợp với thực tiễn dạy
học ở trường THCS. Vì vậy, cần phải có những biện pháp tích hợp một cách

8


hợp lý, sát với tình hình thực tế để khắc phục được những hạn chế và nâng
cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Kiến nghị, Tài liệu tham khảo, Phụ
lục, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chƣơng 2: Một số biện pháp tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh thông qua hoạt động dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
Chƣơng 3: Thực nghiệm

9


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.

Cơ sở lý luận của đề tài

1.1.1. Một số khái niệm sử dụng để nghiên cứu đề tài
1.1.1.1. Kỹ năng sống
Từ năm 1996 khái niệm “kĩ năng sống” xuất hiện ở nước ta trong một
số chương trình giáo dục của Unicef ở Việt Nam. Trước tiên là “chương trình
giáo dục KNS (kĩ năng sống) để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AISD
cho thanh thiếu niên trong và ngoài trường”. Cũng từ năm 1996 đến nay khái
niệm KNS được nói tới trong nhiều chương trình, tài liệu giáo dục KNS cho
học sinh trong ngành giáo dục, từ trẻ em đến người lớn trong các bậc học, cấp
học khác nhau, trong hệ thống giáo dục chính quy, giáo dục thường xuyên,
trong giáo dục ở gia đình cho đến giáo dục xã hội, cũng như trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
Theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc
(UNESCO) cho rằng: KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức
năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày” [2;tr.11]. Theo WHO (tổ chức y
tế thế giới) (năm 1993) cho rằng: “KNS là năng lực tâm lí xã hội, là khả năng

ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc
sống” [2;tr.11]. Quan niệm này cho rằng: KNS là năng lực là cách hiểu chưa
khái quát, chưa đầy đủ. Bởi vì KNS đảm bảo cho công việc đạt kết quả ở mức
độ nhất định thì năng lực đảm bảo cho công việc đạt chất lượng cao. Người có
KNS chưa thể gọi là có năng lực, những KNS giúp cho con người phát triển
năng lực. Có thể nói, KNS là một thành phần của năng lực. Con người muốn
hoàn thành tốt một công việc nào đó thì không thể không hiểu biết về công
việc đó. Do đó muốn có năng lực trước hết phải có tri thức về công việc, nắm
bắt được cách thức và điểu kiện tiến hành công việc, có nghĩa là phải có KNS.
KNS là một trong những điều kiện để hình thành nên năng lực. Năng lực là
một thuộc tính phức hợp, ổn định ở con người, nó chuyển biến theo trình độ

10


nắm vững các kĩ năng. Còn KNS là một tổ hợp các kĩ năng nói lên khả năng
mà con người lĩnh hội được trong quá trình nhận thức và hành động.
UNESCO (2003) quan niệm: “Kĩ năng sống là năng lực cá nhân để
thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là
khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử
tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và
những thách thức trong cuộc sống hàng ngày”.
Tương đồng với quan niệm của WHO còn có quan niệm KNS là những
kĩ năng tâm lí xã hội có liên quan đến những tri thức, giá trị và những thái độ,
cuối cùng được thể hiện ra bên ngoài bằng những hành vi làm cho cá nhân có
thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và cách thức của cuộc
sống.
Theo tác giả Xkomni thì: “KNS là khả năng con người thực hiện những
hành vi thích ứng với thách thức và những đòi hỏi của cuộc sống. KNS thể
hiện năng lực sống của con người trong cuộc sống cá nhân, trong mối quan hệ

xã hội” [27;tr.7].
Theo tổ chức UNICEF Hà Nội năm 2004 trong một tài liệu tập huấn về
KNS đã mở rộng khái niệm “KNS” “là cách sống” và coi KNS là các khả
năng cho phép con người dựa vào đó và giúp họ có khả năng giải quyết có
hiệu quả với những yêu cầu cũng như thách thức của cuộc sống thường nhật,
thậm chí ngay cả trường hợp khó khăn. Quan niệm này cho phép KNS bộc lộ
một cách có hệ thống, linh hoạt và đem lại kết quả cho hoạt động.
KNS là những kĩ năng mang tính tâm lý – xã hội và kĩ năng về giao
tiếp được vận dụng trong những tình huống hàng ngày để tương tác một cách
có hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những
tình huống của cuộc sống hàng ngày. KNS còn được xem như khả năng duy
trì trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần biểu hiện qua các hành vi phù hợp
khi tích cực tương tác với những người khác, với những người xung quanh
cũng như với nền văn hóa xã hội. KNS được hình thành chủ yếu dựa trên

11


những KN về mặt tinh thần. Trong đó, những kĩ năng này thể hiện vai trò điều
tiết cuộc sống làm cho những kĩ năng hoạt động hay những kĩ năng thể chất
cũng được thực thi một cách có hiệu quả.
Tiếp thu và kế thừa các quan điểm của tổ chức quốc tế, ở Việt Nam
trong một số tài liệu viết về KNS, một số tác giả quan niệm về KNS như sau:
Tác giả Nguyễn Thanh Bình quan niệm: “Kĩ năng sống nhằm giúp
chúng ta chuyển dịch kiến thức – “cái chúng ta biết” và thái độ, các giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành vi thực tế - “làm gì và
làm bằng cách nào” là tích cực nhất và tính tính chất xã hội” [3;tr.10].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn trong tài liệu “Nhập môn kĩ năng sống” quan
niệm: Hiểu một cách đơn giản: “KNS chính là những kĩ năng tinh thần hay
những kĩ năng tâm lí, kĩ năng tâm lí – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại
và thích ứng trong cuộc sống. Những kĩ năng này giúp cho cá nhân thể hiện

được chính mình cũng như tạo ra những nội lực cần thiết để thích nghi và
phát triển. KNS còn được xem xét như một biểu hiện quan trọng của năng lực
tâm lí – xã hội, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống vốn chứa đựng
nhiều thách thức nhưng cũng không thiếu các cơ hội” [36;tr.8].
Đứng trên phương diện tâm lí học, tác giả Nguyễn Quang Uẩn quan
niệm cuộc sống của con người diễn ra bằng hoạt động sống. Hoạt động sống
diễn ra với sự đan xen của dòng “hoạt động có đối tượng” và mối quan hệ
“giao tiếp ứng xử” giữa con người với con người. Hai mặt, hai phương diện
nói trên đan xen, nương tựa hòa quyện vào nhau, chi phối, tác động qua lại
lẫn nhau, tạo nên cuộc sống đích thực của mỗi con người trong cộng đồng.
Trong hệ thống các kĩ năng cơ bản có tính tổng hợp và phức tạp của hoạt
động sống của con người có kĩ năng sống. Nguyễn Quang Uẩn cho rằng:
“KNS là một tổ chức phức tạp của một hệ thống các kĩ năng nói lên năng lực
sống của con người, giúp con người thực hiện công việc và quan hệ với bản
thân, với người khác, với xã hội có kết quả trong những điều kiện xác định
của cuộc sống” [45;tr.3].

12


Có rất nhiều quan niệm khác nhau về KNS, trong nghiên cứu này
chúng tôi quan niệm: KNS là một tổ chức phức tạp của một hệ thống các kĩ
năng nói lên khả năng vận dụng những tri thức, kinh nghiệm, hành động và
hoạt động sống vào thực hiện những hành động, hoạt động có kết quả trong
các điều kiện khác nhau của cuộc sống”.
KNS vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. KNS mang tính cá
nhân vì đó là khả năng của cá nhân. KNS mang tính xã hội vì trong mỗi giai
đoạn phát triển của lịch sử xã hội, ở mỗi vùng miền lại đòi hỏi mỗi cá nhân có
những KNS thích hợp. Chẳng hạn KNS của mỗi cá nhân trong thời bao cấp
khác với KNS của các cá nhân trong cơ chế thị trường, trong giai đoạn hội

nhập; KNS của người sống ở nông thông khác với KNS của người sống ở
thành phố; KNS của người sống ở miền núi khác với KNS của người sống ở
đồng bằng.
1.1.1.2.

Tích hợp kỹ năng sống trong hoạt động dạy học

KNS là một nội dung giáo dục hết sức quan trọng cần được thực hiện
một cách hệ thống và thường xuyên trong các nhà trường. Giáo dục KNS giúp
học sinh có hiểu biết và được rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản
thân và cộng đồng, phòng ngừa những hành vi có hại cho sức khỏe thể chất và
tinh thần, tăng cường khả năng nhận thức xã hội, khả năng thích ứng với cuộc
sống cũng như khả năng ứng phó linh hoạt, tích cực với những thách thức của
cuộc sống hàng ngày. Việc đưa KNS vào nhà trường có ý nghĩa như một sự
thức tỉnh để các nhà giáo dục chú ý nhiều hơn đến tính hữu dụng, thiết thực
của chương trình nhà trường, đồng thời tăng khả năng đáp ứng yêu cầu đào
tạo con người mới năng động, tích cực, tự tin, đạt được thành công trong cuộc
sống hội nhập.
Môn Ngữ Văn ở trường THCS nói chung và truyện ngắn Việt Nam
hiện đại nói riêng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục
này. Với đặc trưng của một môn học về khoa học xã hội và nhân văn, bên
cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng

13


Việt, năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ
Văn còn giúp học sinh có được những hiểu biết về xã hội, văn hóa, lịch sử,
đời sống nội tâm của con người. Với tính chất là một môn học công cụ, môn
Ngữ Văn giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để học tập, giao tiếp và nhận

thức về xã hội và con người. Với tính chất giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ Văn
giúp học sinh bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định
hướng thị hiếu để hoàn thiện nhân cách. Vì thế, Ngữ Văn là một môn học có
những khả năng đặc biệt trong việc giáo dục các KNS cho học sinh. Điều đó
thể hiện ở mục tiêu giáo dục của môn Ngữ Văn trong nhà trường THCS:
- Trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, hệ
thống về văn học và tiếng Việt, bao gồm: kiến thức về những tác phẩm tiêu
biểu cho các thể loại tiêu biểu của văn học Việt Nam và một số tác phẩm,
đoạn trích của văn học nước ngoài; kiến thức sơ giản về lịch sử văn học và
một số khái niệm lí luận văn học thông dụng; kiến thức về các đơn vị tiêu
biểu của tiếng Việt (đặc điểm và các qui tắc sử dụng); kiến thức về các loại
văn bản (đặc điểm, cách thức tiếp cận và tạo lập).
- Hình thành và phát triển các năng lực ngữ văn, bao gồm: năng lực sử
dụng tiếng Việt ở 4 kĩ năng cơ bản (nghe, nói, đọc, viết), năng lực tiếp nhận
văn học, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự học và năng lực thực hành,
ứng dụng.
- Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình
yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước; lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự
cường; lí tưởng xã hội chủ nghĩa; tinh thần dân chủ, nhân văn; nâng cao ý
thức trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và hợp tác quốc tế; ý thức tôn
trọng, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Mục tiêu và nội dung môn Ngữ Văn đã chứa đựng những yếu tố của
giáo dục KNS, phù hợp với các nội dung cơ bản của KNS (bao gồm kĩ năng
xác định giá trị: tình yêu thương, sự cảm thông…, tư duy sáng tạo: nêu vấn
đề, tìm kiếm và xử lí thông tin, bình luận, phân tích đối chiếu, phê phán, bác

14


bỏ; kĩ năng hợp tác nhóm: thảo luận, tham gia hiệu quả, kĩ năng giao tiếp:

lắng nghe, phản hồi, trình bày, ứng xử giao tiếp, kĩ năng cảm thông, chia sẻ;
kĩ năng ra quyết định: giải quyết vấn đề, ứng phó tình huống, thương lượng;
kĩ năng tự nhận thức: tự tin, tự trọng, tự xác định giá trị...), phù hợp với cách
tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các vấn
đề của cuộc sống. Vì vậy có thể triển khai giáo dục kĩ năng sống vào các nội
dung của môn học mà không cần phải đưa thêm thông tin, kiến thức làm nặng
nội dung môn học. Một trong những đặc điểm của môn Ngữ Văn ở trường
phổ thông, với tính chất là môn học công cụ, là có thể kết hợp nhiều nội dung
giáo dục trong quá trình dạy học. Bên cạnh nội dung cốt lõi, mang tính chất
ổn định của môn học là các nội dung giáo dục mang tính thời sự - xã hội (giáo
dục tình cảm nhân văn, trách nhiệm của thanh niên, học sinh trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giáo dục về truyền thống dân tộc, về
tình bạn, tình yêu và gia đình; về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh; giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục sức khỏe, giới tính,…) nhằm
đáp ứng yêu cầu hình thành ở học sinh quan hệ ứng xử đúng đắn với những
vấn đề của cuộc sống, đất nước, thời đại; giúp học sinh có đủ bản lĩnh hội
nhập trong xu thế toàn cầu hóa. Vì vậy, việc tích hợp giáo dục KNS vào môn
Ngữ Văn là điều có thể thực hiện và phù hợp với xu thế dạy học Ngữ Văn
hiện nay. Việc giáo dục các chuẩn mực xã hội, các KNS không thể chỉ xuất
phát từ yêu cầu của những người soạn chương trình và những nhà giáo dục
mà phải xuất phát từ quyền lợi và nhu cầu phát triển của học sinh. Cách tiếp
cận giáo dục KNS giúp cho học sinh có những kĩ năng cần thiết để sống an
toàn, lành mạnh, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu phát triển, làm cho học sinh tích
cực, hứng thú học tập, lĩnh hội các tri thức, các chuẩn mực một cách chủ
động, tự giác. Việc giáo dục KNS trong môn Ngữ Văn được triển khai theo
hai phương diện: từ nội dung bài học và từ phương pháp triển khai nội dung
bài học. Nhiều bài học của môn Ngữ Văn hướng đến việc giúp học sinh nhận
thức được các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn

15



hóa trong các tình huống giao tiếp đa dạng của cuộc sống. Mặt khác, các KNS
còn được giáo dục thông qua phương pháp học tập tích cực, dựa trên sự tương
tác giữa nội dung bài học với những hiểu biết, kinh nghiệm vốn có của bản
thân người học và quá trình đối thoại, tương tác giữa người học với nhau để
thực hành, vận dụng linh hoạt vào các tình huống trong cuộc sống. Như vậy
có thể khẳng định được rằng, việc giáo dục KNS trong môn Ngữ Văn có
nhiều ưu thế.
Quá trình học tập môn học theo hướng tích hợp giáo dục KNS trong
trường phổ thông có khả năng giúp học sinh hình thành thái độ, hành vi và kĩ
năng sống mang tính thích ứng và tích cực, có động lực tìm hiểu, cân nhắc
các lựa chọn và có quyết định đúng đắn để giải quyết vấn đề cũng như có cơ
hội thuận lợi để rèn luyện các kĩ năng ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hằng ngày, mang lại hiệu quả giáo dục tốt nhất.
1.1.1.3. Truyện ngắn Việt Nam hiện đại
Thể loại hiện nay đang là một trong những trục tích hợp của sách giáo
khoa Ngữ văn THCS. Bởi vậy quan tâm đến đặc điểm thi pháp của từng loại
thể nhất định có ý nghĩa khoa học và thực tiễn không nhỏ đối với việc rèn
luyện KNS cho học sinh.
Thi pháp thể loại đặt ra vấn đề bản thể, về phương thức tồn tại thực sự
của văn học, cung cấp một chìa khóa khoa học mở cánh cửa văn chương đồng
thời cũng đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới phương pháp dạy học đang
đi dần vào chiều sâu trong các nhà trường phổ thông hiện nay.
“Tự sự là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn
đến sự việc kia. Cuối cùng dẫn đến một kết thúc thể hiện một ý nghĩa”
[30;tr.28]. Tác phẩm tự sự bao giờ cũng có một câu chuyện làm nòng cốt,
trong đó có những sự việc đang xảy ra, đang diễn ra, có sự tham gia của
những con người với những hành động ngôn ngữ, tính cách… của họ trong
mối quan hệ với hoàn cảnh thiên nhiên, xã hội và trong mối quan hệ lẫn nhau.

Nhờ những đặc điểm đó nên loại hình tự sự có khả năng nhiều nhất trong việc

16


dựng nên những bức tranh rộng lớn, sâu sắc, nhiều mặt về đời sống, xã hội,
con người, về những biến cố lịch sử quan trọng. Đây cũng là phương thức
phản ánh đời sống chân thật nên rất gần gũi với đối tượng học sinh THCS.
Trong đời sống hàng ngày văn kể chuyện rất cần thiết, thường sử dụng trong
giao tiếp, trong đó thể loại truyện ngắn được sử dụng trong chương trình sẽ
bồi dưỡng tình cảm đẹp, góp phần rèn luyện KNS cho học sinh.
Toàn bộ chương trình môn Ngữ văn ở cấp THCS (trong phân phối
chương trình ban hành năm 2005) của cả bốn cấp lớp 6, 7, 8, 9 có 595 tiết.
Trong đó số tiết về văn bản là 173 tiết và ở từng khối lớp cũng khác
nhau:
+ Lớp 6: 38 tiết
+ Lớp 7: 35 tiết
+ Lớp 8: 37 tiết
+ Lớp 9: 63 tiết
Trong phần văn bản của bốn khối lớp, số tiết Văn học Việt Nam
(VHVN) chiếm số lượng lớn (144 tiết), còn lại 29 tiết là Văn học nước ngoài.
Việc phân phố số tiết về phần VHVN cũng khác nhau ở từng khối lớp:
+ Lớp 6: VHVN 30 tiết
+ Lớp 7: VHVN 30 tiết
+ Lớp 8: VHVN 27 tiết
+ Lớp 9: VHVN 57 tiết
Như vậy tính trong tổng số tiết VHVN thì Văn học hiện đại (VHHĐ)
chiếm 104 tiết (72.2 %). Tỷ lệ này cho thấy VHHĐ Việt Nam có một vị trí rất
quan trọng trong chương trình Ngữ văn nói chung và phần VHVN nói riêng.
Trong đó thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại chiếm số lượng đáng kể.

Hầu hết các tác phẩm truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ khối lớp 6 đến
khối lớp 9 đều phân phối hai tiết là hợp lí với yêu cầu cần đạt ở mỗi bài. Cụ
thể ở lớp 9 có 4 tác phẩm truyện ngắn Việt Nam hiện đại với những đề tài

17


phong phú, đa dạng, qua những kiểu nhân vật điển hình thể hiện những tình
cảm, lí tưởng sống cao đẹp.
Bài 13: Làng (trích) – tác giả Kim Lân – tr.162 – tập 1
Bài 14: Lặng lẽ Sa Pa – tác giả Nguyễn Thành Long – tr.180 – tập 1
Bài 15: Chiếc lƣợc ngà – tác giả Nguyễn Quang Sáng – tr.195 – tập 1
Bài 27: Bến Quê – tác giả Nguyễn Minh Châu – tr.100 – tập 2
Bài 28: Những ngôi sao xa xôi – tác giả Lê Minh Khuê – tr.113 – tập 2
Với tổng số tiết thực dạy 10 tiết, riêng tác phẩm Bến quê (Nguyễn
Minh Châu) tương đối khó đối với học sinh THCS nên đã được chuyển qua
phần HD đọc thêm.
Vấn đề cơ bản ở đây là các văn bản được giảng dạy trong chương trình
lớp 9 đều là truyện ngắn sau 1945. Sau đây là những đặc điểm của thể loại
truyện ngắn.
Truyện ngắn là thể loại tự sự cỡ nhỏ, nội dung bao trùm hầu hết các
phương diện của đời sống và thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng,
phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm
hồn của con người. Vì thế trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự
kiện phức tạp; mỗi nhân vật là một mảnh nhỏ của thế giới đời thường và là
hiện thân cho một trạng thái quan hệ hay ý thức xã hội. Cốt truyện của
truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn chế, đề cập
đến một một vấn đề nào đó về cuộc đời hay tình người. Khi đề cập đến
truyện ngắn hiện đại, yếu tố không thể thiếu là tình huống truyện và nhân
vật. Chi tiết trong truyện ngắn phải tiêu biểu, biểu trưng cho ý tưởng nghệ

thuật của nhà văn. Bút pháp nghệ thuật của truyện ngắn thường là chấm
phá, chi tiết cô đúc, là lối hành văn mang nhiều ẩn ý khiến tác phẩm có
chiều sâu hơn. Thế giới nghệ thuật của truyện còn được biểu hiện cả giọng
điệu của tác phẩm: giọng tâm sự ( Làng), giọng trầm lắng, buồn (Chiếc

18


lược ngà),... Tóm lại truyện ngắn hiện đại là thể loại gần gũi, có khả năng
phản ánh nhanh nhạy thực tế đời sống.
1.1.2. Một số vấn đề về kỹ năng sống cho học sinh
1.1.2.1. Tầm quan trọng của việc dạy kỹ năng sống cho học sinh THCS
KNS của học sinh THCS được hình thành thông qua các hoạt động như
sau: Hoạt động học tập trong nhà trường, hoạt động sinh hoạt tập thể, hoạt
động xã hội… Trong quá trình học tập, sinh hoạt tập thể ở nhà trường những
KNS được các em nhận thức, có ý thức và nhu cầu chiếm lĩnh chúng.
Xuất phát từ quan niệm chung về kĩ năng sống, chúng tôi cho rằng: kĩ
năng sống của học sinh THCS là một tổ hợp phức tạp của một hệ thống các
kỹ năng nói lên khả năng vận dụng những tri thức, kinh nghiệm, hành động
và hoạt động sống của học sinh THCS vào thực hiện hành động, hoạt động có
kết quả trong những điều kiện khác nhau của cuộc sống. Vì thế, KNS có vai
trò hết sức quan trọng:
- Xét theo yêu cầu xã hội:
Do đặc điểm xã hội hiện nay, sự hình thành và phát triển kĩ năng sống
đã trở thành một yêu cầu quan trọng đối với cá nhân và là tiêu chí về nhân
cách con người hiện đại. Hội nghị giáo dục thế giới họp tại Senegan tháng 4 –
2000 đã thông qua kế hoạch hành động giáo dục cho mọi người [Dakar
Framework for Action (2000), Word Education Forum, Senegan] gồm 6 mục
tiêu lớn. Trong đó mục tiêu 3 đã vạch ra rằng: “Đảm bảo nhu cầu học tập của
tất cả thế hệ trẻ và người lớn được đáp ứng thông qua bình đẳng tiếp cận với

các chương trình học tập và chương trình kĩ năng sống tích hợp”. Mục tiêu
này đã yêu cầu các quốc gia phải đảm bảo cho người học được tiếp cận những
chương trình KNS phù hợp.
Mục tiêu 6 của chương trình hành động Giáo dục cho mọi người cũng
khẳng định: Nâng cao toàn bộ các mặt của chất lượng giáo dục và đảm bảo có
thể nhận rõ và đo được những kết quả đó về các kĩ năng cơ bản của KNS.

19


- Xét từ góc độ giáo dục:
KNS của người học được xác định là một biểu hiện của chất lượng giáo
dục. Vì thế, trong mục tiêu 6 của kế hoặc hành động Dakar về giáo dục cho
mọi người KNS được coi là một khía cạnh của chất lương giáo dục, đánh giá
chất lương giáo dục cần tính đến những tiêu chí đánh giá về kĩ năng sống của
người học. Tổ chức giáo dục KNS cho học sinh trong các nhà trường, xét cho
cùng là để nâng cao chất lượng giáo dục.
Giáo dục KNS là thực hiện quan điểm hướng vào người học một mặt
đáp ứng nhu cầu của người học có năng lực để đáp ứng những thách thức của
cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Mặt khác, thực
hiện giáo dục KNS thông qua những phương pháp hướng đến người học (lấy
học sinh làm trung tâm) và phương pháp dạy học tương tác, tích hợp, đề cao
vai trò tham gia chủ động, tự giác của học sinh và vai trò chủ đạo của người
dạy sẽ có những tác động tích cực đối với mối quan hệ người dạy và người
học, người học với người học. Đồng thời, người học cảm thấy họ được tham
gia vào các vấn đề có liên quan đến cuộc sống của bản thân, họ sẽ thích thú và
học tập tích cực hơn.
Như vậy giáo dục cho học sinh, cụ thể là học sinh THCS đồng thời thể
hiện tính khoa học và nhân văn của giáo dục.
- Xét từ góc độ văn hóa, chính trị:

Giáo dục KNS giải quyết một cách tích cực nhu cầu về quyền con
người, quyền công dân được ghi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế. Giáo
dục KNS giúp con người sống an toàn, lành mạnh và có chất lượng trong một
xã hội hiện đại với văn hóa đa dạng và với nền kinh tế phát triển mà thế giới
được coi là một mái nhà chung.
- Xét theo yêu cầu của sự phát triển bền vững:
Trong số 15 nội dung cơ bản về giáo dục vì sự phát triển bền vững đã
được UNESCO xác định thì có rất nhiều nội dung thống nhất với giáo dục
KNS để giải quyết các vấn đề cụ thể như: quyền con người, hòa bình và an

20


ninh, bình đẳng giới, đa dạng văn hóa và hiểu biết giao lưu văn hóa, HIV/
AIDS, các nội dung về bảo vệ môi trường… Đồng thời hình thành được
những KNS cốt lõi như kĩ năng đặt mục tiêu, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng
ra quyết định… giúp mỗi cá nhân có thể định hướng cuộc sống lành mạnh
giúp thúc đẩy sự phát triển bền vững của cả cá nhân và tập thể.
Như vậy giáo dục KNS là vấn đề cấp thiết đối với thế hệ trẻ nói chung
và học sinh THCS nói riêng. Bởi, lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành
những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá
song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị
lôi kéo, kích động… Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị
trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những
yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những
giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu
cực. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống, các em
dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng,
thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách.
1.1.2.2. Các kỹ năng sống cần giáo dục cho học sinh THCS

Từ những định nghĩa và khái niệm nêu trên, chúng tôi nhận thấy KNS
là một tổ chức bao gồm một hệ thống các kĩ năng được hình thành trên cơ sở
vận dụng những hiểu biết, tri thức, kinh nghiệm và các giá trị phù hợp với
điều kiện cuộc sống của học sinh THCS. Để có KNS các em học sinh THCS
cần có tri thức, kinh nghiệm và những cách thức hành động đúng đắn trong
các điều kiện khác nhau của cuộc sống.
Nội dung cơ bản của KNS cho học sinh THCS gồm nhóm KNS: Nhóm
KNS “hướng vào bản thân”, nhóm KNS “hướng vào các quan hệ”, nhóm
KNS “hướng vào công việc”.
* Nhóm KNS hƣớng vào bản thân
Nhóm KNS hướng vào bản thân là một tổ hợp phức tạp các kĩ năng nói
lên khả năng lựa chọn và vận dụng những tri thức, kinh nghiệm và những

21


×