Chưa bao giờ vấn đề kĩ năng sống lại được đề cập nhiều như lúc này vì cuộc sống hiện nay đã đặt ra
quá nhiều thách thức cho mỗi người nói chung cũng như những bạn trẻ nói riêng. Thực tế cho thấy, con
người chỉ đơn giản, kĩ năng sống là khả năng tồn tại và thích ứng của con người trước cuộc sống thực tế. Kĩ
năng sống được xem như một năng lực quan trọng để con người làm chủ được bản thân và chung sống với
những người xung quanh cũng như cộng đồng xã hội một cách hiệu quả.
PHẦN 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I/- KHÁI NIỆM VỀ KĨ NĂNG SỐNG:
Nhắc đến kĩ năng sống, chúng ta nên bắt đầu tìm hiểu thuật ngữ kĩ năng để có một cách nhìn khoa học
và hợp lí. Khi bàn về khái niệm kĩ năng, chúng ta thấy nổi rõ lên có hai cách đặt vấn đề khác nhau: Cách thứ
nhất, xem xét kĩ năng nghiêng về mặt kĩ thuật hành động; cách thứ hai xem xét kĩ năng nghiêng về năng lực
của con người.
Theo cách đặt vấn đề thứ nhất, kĩ năng được xem là phương tiện thực hiện hành động phù hợp với mục
đích và điều kiện hành động mà con người đã nắm vững, người c ó kĩ năng hoạt động nào đó là người nắm
được các trí thức về hoạt động đó và thực hiện hành động theo đúng yêu cầu của nó mà không cần tính đến
kết quả của hành động.
Nổi rộ lên từ trước những năm 1970 của thế kỉ XX trong các sách Tâm lí học của Liên Xô c ũ thường
nói đến hành động: hành động ý chí, hành động tự động hóa và kĩ năng được coi là giai đoạn đầu của các
hành động tự động hóa. Nhiều tác giả cho rằng để hình thành kĩ năng, con người không chỉ nắm lí thuyết về
hành động mà phải biết vận dụng vào thực tiễn.
Theo quan điểm này có thể nhận thấy kĩ năng là mặt kĩ thuật của hành động, con người nắm được cách
hành động tức là có kĩ thuật hành động, có kĩ năng.
Theo cách đặt vấn đề thứ hai: Khi xem xét kĩ năng nghiêng về năng lực của con người, nó được x em là
một thành tố quan trọng để thực hiện một công việc có kết quả với chất lượng cần thiết và với thời gian tương
ứng trong điều kiện mới. Kĩ năng chỉ đơn thuần là mặt kĩ thuật của hành động mà là biểu hiện của năng lực
…
Rõ ràng kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hozạt động phức tạp hơn bằng
cách áp dụng hay lựa chọn những cách thức đúng đắn có tính đến những điều kiện nhất định. Nói khác đi,
một người có kĩ năng hành động là phải nắm được và vận dụng đúng đắn các cách thức h ành động nhằm thực
hiện hành động có kết quả. Mặt khác, có thể hiểu kĩ năng là năng lực của người thực hiện công việc có kết
quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới và trong những khoảng thời gian tương ứng. Việc
hình thành kĩ năng bao hàm cả việc thông hiểu mối quan hệ qua lại giữa mục đích hành động, các điều kiện
và các cách thức hành động. Kĩ năng là giai đoạn trung gian giữa việc nắm vững cách thức mới thực hiện
hành động, dựa trên cơ sở của tri thức và sự vận dụng đúng những tri thứ c tương xứng trong quá trình hoàn
thành các bài tập, nhưng chưa đạt tới mức độ kĩ xảo.
Như vậy, cách xem xét kĩ năng nghiêng về năng lực của con người để thực hiện các công việc có kết
quả đã bao hàm cả quan niệm kĩ năng là kĩ thuật hành động trong đó, bở i chỉ khi sự vận dụng tri thức vào
thực tiễn một cách thuần thục thì mới có được kết quả công việc đạt chất lượng. Như vậy, theo quan niệm
chúng tôi: Kĩ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri
thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kĩ năng không chỉ đơn
thuần về mặt kĩ thuật của hành động, mà còn là biểu hiện năng lực của con người.
Sống là một quá trình hoạt động đòi hỏi con người phải có những kĩ năng nhất định. Khó có thể liệt kê
một cách đầy đủ những kĩ năng con người cần có trong quá trình sống nhưng thuật ngữ “sống” ở đây được
nhìn nhận dưới góc độ tâm lí và góc độ tâm lí – xã hội. Nói khác đi, những kĩ năng nghề nghiệp, những kĩ
năng chuyên môn không được đề cập và phân tích như kĩ năng sống dù rằng nó có mối quan hệ rất chặt chẽ
để con người có thể sống, tồn tại và phát triển. Hơn thế nữa, nếu hiểu theo nghĩa hẹp của kĩ năng sống thì
sống có nghĩa là tồn tại cho nên những kĩ năng sống được phân tích ở đây là nhữ ng kĩ năng giúp cho con
người tồn tại về mặt thể chất và mặt tâm lí.
Nếu quan niệm như trên thì kĩ năng học tập, kĩ năng làm toán – tính toán, kĩ năng đọc, kĩ năng hát múa
và nhiều kĩ năng khác có phải là kĩ năng sống hay không? Ở đây, khái niệm “kĩ năng sống” được chọn lọc để
hướng đến những kĩ năng cần thiết nhất mà con người, đặc biệt là giới trẻ có thể tồn tại một cách đúng nghĩa
trong cuộc sống xã hội.
UNESCO 1 cho rằng: “Kĩ năng sống là năng lực cá nhân giúp cho việc thực hiện đầy đủ chức năng và
tham khảo vào cuộc sống hằng ngày”
Theo tác giả Xkomni thì kĩ năng sống là khả năng con người thực hiện những hành vi thích ứng thách
thức và những đòi hỏi của cuộc sống. Kĩ năng sống thể hiện năng lực sống của con người trong cuộc sống cá
nhân, trong mối quan hệ xã hội …
Theo UNICEF 2, kĩ năng sống là những hành vi cụ thể thể hiện khả năng chuyển đổi kiến thức và thái
độ thành hành độnh thích ứng trong cuộc sống. Kĩ năng sống phải dựa trên nhận thức, thái độ và chuyển biến
thành hành vi như một yêu cầu liên hoàn và có hướng đích.
Theo WHO 3 (1993) thì kĩ năng số là năng lực tâm lí – xã hội thể hiện khả năng ứng phó một cách có
hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Kĩ năng sống còn được xem như khả năng duy trì
trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh thần biểu hiện qua các hành vi phì hợp khi tích cực tương tác với người
khác, với những người xung quanh cũng như với nền văn hóa xã hội. Kĩ năng sống được hình thành c hủ yếu
dựa trên những kĩ năng về mặt tinh thần trong đó những kĩ năng này thể hiện vai trò điều tiết cuộc sống làm
cho những kĩ năng hoạt động hay những kĩ năng thể chất cũng được thực thi một cách có hiệu quả.
Một số nhà nghiên cứu về Tâm lí – xã hội có quan điểm tương đồng với WHO thì cho rằng, kĩ năng
sống là những kĩ năng tâm lí xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và thái độ, được thể hiện bằng
những hành vi giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả các yêu cầu, thách thức đặt ra của cuộc sống và thích nghi
với cuộc sống.
Theo quan niệm của chúng tôi, kĩ năng sống chính là những kĩ năng tinh thần hay những kĩ năng tâm
lí, kĩ năng tâm lí – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. Những kĩ năng này
giúp cho cá nhân thể hiện được chính mình cũng như tạo ra những nội lực cần thiết để thích nghi và phát
triển. Kĩ năng sống còn được xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lí – xã hội, giúp cho cá
nhân vững vàng trước cuộc sống vốn chứa đựng nhiều thách thức nhưng cũng không thiếu các cơ hội.
1
Viết tắt tên tiếng Anh của Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc – Untied Nations Education, Scicentific and Cultural
Organization
2
Viết tắt tên tiếng Anh của Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc – United Nations Children’s Fund
3
Viết tắt tên tiếng Anh của Tổ chức Y tế Thế giới – World Health Otganization
II/- VAI TRÒ CỦA KĨ NĂNG SỐNG TRONG QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC HỌC SINH
1. Kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội.
Thực tế cho thấy, có khoảng cách giữa nhận thức và hành vi của con người, có nhận thức đúng chưa chắc
đã có hành vi đúng. Ví dụ: Nhiều người biết hút thuốc lá có hại cho sức khỏe, có thể dẫn đến ung thư vòm họng, ung
thư phổi, … nhưng họ vẫn hút thuốc; Có những người là luật sư, công an, thẩm phán, … có hiểu biết rất rõ về pháp
luật nhưng vẫn vi phạm pháp luật; … KNS chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ,
hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có KNS phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử
thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn
yêu đời và làm chủ cuộc sống của chín mình. Ngược lại, người thiếu KNS thường bị vấp váp, dễ bị thất bại trong
cuộc sống. Ví dụ: Người không có kĩ năng ra quyết định sẽ dễ mắc sai lầm hoặc chậm trễ trong việc đưa ra quyết
định và phải trả giá cho quyết định sai lầm của mình. Hay người không có kĩ năng ứng phó với căng thẳng sẽ hay bị
căng thẳng hơn những người khác và thường có cách ứng phó tiêu cực khi bị căng thẳng, làm ảnh hưởng không tốt
đến sức khỏe, học tập, công việc, …của bản thân. Hoặc người không có kĩ năng giao tiếp sẽ khó khăn hơn trong việc
xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh, sẽ khó hợp tác hay tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ của
người khác, …
KNS còn góp phần thúc đẩy sự phát triển XH, ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con người.
Các cá nhân thiếu KNS là một nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như: nghiện rượu, nghiện ma túy, mại
dâm, cờ bạc, … Giáo dục KNS thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp nâng cao chất lượng cuộc
sống xã hội và giảm các vấn đề xã hội. Giáo dục KNS còn giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền con người,
quyền công dân được ghi trong luật pháp Việt Nam và quốc tế.
2. Giáo dục KNS là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ:
Giáo dục KNS càng trở nên cấp thiết đối với thế hệ trẻ, bởi vì:
- Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước
trong những năm tới. Nếu không có KNS, các em không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và
đất nước.
- Lứa tuổi HS là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám
phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về XH, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động, …. Đặc biệt là
trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của
những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với
những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục KNS, nếu không có KNS, các em có
thể sẽ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc
về nhân cách. Việc giáo dục KNS giúp thế hệ trẻ rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng
đồng và Tổ quốc, giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước sức ép của cuộc sống và sự lôi kéo thiếu lành
mạnh, giúp các em xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống an toàn, lành mạnh và
phát triển tốt.
3. Giáo dục KNS là thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông nói chung và đổi mới PPDH nói riêng:
Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Để thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải có những người lao động mới phát triển toàn diện,
do vậy cần phải đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới PPDH nói riêng. Nhiệm vụ đổi mới giáo dục đã được thể
hiện rõ trong các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, trong Luật Giáo dục:
Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định mục tiêu là xây
dựng nội dung chương trình, PPGD, SGK phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ,
đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận
trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng IX đã đề ra nhiệm vụ tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
đổi mới nội dung, PPDH.
Luật Giáo dục năm 2005, Điều 28 về Yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã nêu
“…phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh …; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm
việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn …”
Rõ ràng để thực hiện mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học của
Đảng, Quốc hội và Nhà nước như trên, cần phải tiến hành giáo dục KNS cho HS trong các trường phổ thông.
4. Giáo dục KNS cho HS trong các nhà trường phổ thông là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới:
Hiện nay, đã có hơn 155 nước trên thế giới quan tâm đến việc đưa KNS vào nhà trường, trong đó có 143
nước đã đưa vào chương trình chính khóa ở Tiểu học và Trung học. Việc giáo dục KNS cho HS ở các nước được
thực hiện theo ba hình thức:
- Coi KNS là một môn học riêng biệt;
- KNS được tích hợp vào một vài môn học chính;
- KNS được tích hợp vào nhiều hoặc tất cả các môn học trong chương trình.
Tuy nhiên, chỉ có một số không đáng kể các nước đưa KNS thành một môn học riêng biệt, trong đó cần kể
tới Malawi, Cabodia. Còn đa số các nước, để tránh sự quá tải trong nhà trường, thường tích hợp KNS vào một phần
nội dung môn học, chủ yếu là các môn khoa học xã hội như giáo dục sức khỏe, giáo dục giới tính, quyền con người,
giáo dục môi trường … Một số nước đã sử dụng tiếp cận “Whole School Approach” trong đó có hình thức xây dựng
“Trường học thân thiện” nhằm thúc đẩy việc tích hợp KNS vào các môn học trong nhà trường.
III/- MỤC TIÊU GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG NHÀ TRƯỜNG
PHỔ THÔNG
Giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường phổ thông nhằm các mục tiêu sau:
- Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ, và kĩ năng phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho các em
những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các
tình huống và hoạt động hàng ngày.
- Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ,
tinh thần và đạo đức.
IV/- NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG NHÀ
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Tương tác:
KNS không thể được hình thành qua việc nghe giảng và tự đọc tài liệu. Việc nghe người khác giảng và tự
đọc tài liệu chỉ giúp học sinh thay đổi nhận thức về một vấn đề nào đó. Học sinh chỉ có kĩ năng khi chúng tự làm
việc đó, chứ không chỉ nói về việc đó. Nhiều KNS được hình thành trong quá trình người học tương tác với người
lớn hoặc bạn cùng học (kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết vấn đề, …). Trong khi tham gia các hoạt động, học
sinh có dịp thể hiện các ý tưởng của mình, được trải nghiệm, được đánh giá, xem xét lại những kinh nghiệm sống
của mình trước đây dưới một cách nhìn nhận khác. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động có tính chất tương tác cao cho
học sinh tham gia là nguyên tắc quan trọng đảm bảo giáo dục KNS đạt hiệu quả.
2. Trải nghiệm:
Kĩ năng sống chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống thực tế. Kinh nghiệm
được hành động trong các tình huống đa dạng giúp trẻ dễ dàng dịch chuyển các kĩ năng đó trong các tình huống phù
hợp, biết điều chỉnh kĩ năng phù hợp với điều kiện thực tế.
3. Tiến trình:
GD KNS không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi phải có cả quá trình: nhận thức –
hình thành thái độ – thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà mỗi yếu tố có thể là khởi đầu của một chu trình mới,
do đó nhà giáo dục có thể tác động lên bất kì mắt xích nào trong chu trình trên: thay đổi thái độ dẫn đến mong muốn
thay đổi nhận thức và hành vi hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức thái độ.
4. Thay đổi hành vi:
Mục đích cao nhất của GD KNS là giúp người học thay đổi hành vi theo hướng tích cực. GD KNS thúc đẩy
người học thay đổi các giá trị, các thái độ hành vi trước đó, thay đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ và hành
động của mình. Thay đổi hành vi, thái độ và giá trị ở từng con người là một quá trình khó khăn, không đồng thời. Có
thời điểm người học lại quay trở lại những thái độ hành vi giá trị trước. Do đó các nhà giáo dục cần kiên trì chờ đợi
và tổ chức các hoạt động để đến thời điểm người học biết thay đổi hành vi và hành vi đó trở thành kĩ năng của trẻ.
5. Thời gian:
GD KNS cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Người học có thể
áp dụng các kiến thức và các kĩ năng mới vào các tình huống cuộc sống thực tế. Giáo dục KNS được thực hiện trong
gia đình, trong nhà trường và ngoài cộng đồng. Người tham gia giáo dục KNS có thể là bố mẹ, là thầy cô, là bạn
cùng học hay các thành viên cộng đồng. Trong nhà trường, GD KNS được thực hiện trên giờ học hoặc các hoạt
động ngoài giờ lên lớp, các hoạt động xã hội.
V/- NỘI DUNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG NHÀ TRƯỜNG
PHỔ THÔNG
Tự nhận
thức
Xác
định
giá trị
bản
thân
Giao tiếp
Phản
hồi/
lắng
nghe
tích cực
Tự tin
Tự
trọng
Trình
bày suy
nghĩ/
ý tưởng
Ứng xử/
giao
tiếp
Thể
hiện sự
cảm
thông
Tìm
kiếm và
xử lí
thông
tin
Tư duy
bình luận
Nêu
vấn đề
Ra quyết
định và giải
quyết vấn
đề
Xác
định/
tìm
kiếm
các lựa
chọn
Giải
quyết
vấn đề
Ứng
phó
Có trách
nhiệm/làm
chủ bản
thân
Đặt mục
tiêu
Quản lí
thời
gian
Đảm
nhận
trách
nhiệm
Bình
luận
Kiên
định
.................
.................
Sáng
tạo
Thương
lượng
Kiểm
soát cảm
xúc
MỘT SỐ LƯU Ý
.................
.................
Hợp tác
Phân
tích, so
sánh,
phán
đoán
Từ chối
Lập kế
hoạch
- Khung nội dung giáo dục kĩ năng sống đề xuất tập trung vào các kĩ năng Tâm lý – Xã hội là những kĩ năng được
vận dụng trong những tình huống hàng ngày để tương tác một cách hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu
quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống. Việc hình thành những kĩ năng này không loại bỏ mà ngược lại
phải gắn kết và song hành với việc hình thành các kĩ năng học tập (funtional skills) như: đọc, viết, tính toán, máy
tính …
- Khung nội dung giáo dục kĩ năng sống này cần được vận dụng linh hoạt tùy theo từng lứa tuổi, cấp học, điều kiện
cụ thể.
VI/- PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIÁO DỤC KĨ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
1. Một số phương pháp giáo dục kĩ năng sống:
Cách thức giáo dục KNS được hiểu bao gồm những phương pháp tiếp cận chung và những phương pháp cụ
thể cùng với các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục KNS.
- Phương pháp tiếp cận chung
+ Tiếp cận cùng tham gia: quan tâm đến vai trò tham gia của học sinh trong việc thực hành kĩ năng.
+ Tiếp cận hướng vào người học: dựa vào kinh nghiệm sống và nhu cầu của người học để khai thác sự chia
sẻ và đáp ứng nhu cầu chính đáng.
+ Tiếp cận hoạt động: tổ chức cho học sinh hoạt động và đặt các em vào những tình huống được trải
nghiệm và thực hành cách giải quyết vấn đề.
+ Tiếp cận cá nhân và quá trình: thay đổi hành vi giáo dục KNS được tổ chức theo các nhóm nhỏ thì hiệu
quả hơn. Thông qua giao tiếp thường xuyên và tiếp xúc trực tiếp, quan sát và tìm kiếm cùng học sinh thì sẽ đảm bảo
tính liên tục và duy trì những hành vi lành mạnh để các em dần chấp nhận những hành vi mới.
+ Tiếp cận đồng bộ / tổng hợp: cũng như bất kì nội dung giáo dục nào sự thống nhất, phối hợp giữa nhà
trường và gia đình, cộng đồng trong giáo dục KNS có ý nghĩa quan trọng. Vì sự thay đổi hành vi sẽ dễ dàng hơn nếu
môi trường cũng khuyến khích sự thay đổi đó đối với cá nhân.
- Một vài phương pháp cụ thể:
Những phương pháp học tập chủ động được vận dụng nhiều trong giáo dục KNS có thể kể ra đây, đó là:
+ Động não
+ Thảo luận nhóm
+ Trò chơi
+ Đóng vai
+ Xây dựng đề án
+ Xử lý tình huống (qua xem băng hình, tiểu phẩm, truyện kể, hoặc học sinh tự đưa ra các vấn đề, các tình
huống thật của mình, …)
+ Nghiên cứu trường hợp (đưa gương điển hình bằng người thật, việc thật, …)
+ Nghiên cứu cá nhân
- Hình thức tổ chức
Hình thức tổ chức chung để giáo dục KNS cho học sinh thường là:
+ Lên lớp: qua việc dạy và học một số môn học có nhiều khả năng giáo dục KNS cho học sinh.
+ Sinh hoạt câu lạc bộ
+ Tổ chức diễn đàn
+ Tư vấn trực tiếp hoặc gián tiếp
+ Trình diễn tiểu phẩm
Giáo dục KNS với nghĩa là cung cấp cho học sinh những tri thức thực tiễn, cập nhật với xã hội hiện nay và
rèn luyện một số kĩ năng nhận thức, thực hành đã được quan tâm, đặc biệt trong đổi mới giáo dục hiện nay. Giáo
dục KNS với tư tưởng đổi mới là dựa trên cơ sở định hướng của bốn trụ cột trong giáo dục thế kỉ XXI chuyển từ
trang bị tri thức sang hình thành năng lực cho học sinh. Điều đó đòi hỏi những người làm công tác giáo dục cần có
nhận thức mới và phải chuyển nhận thức mới đó thành hành động cụ thể trong giáo dục KNS cho học sinh.
2. Một số kĩ thuật dạy học tích cực trong giáo dục kĩ năng sống:
2.1. Kĩ thuật chia nhóm:
Có nhiều cách chia nhóm khác nhau:
- Theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa trong năm, …
- Theo biểu tượng.
- Theo hình ghép.
- Theo sở thích.
- Theo tháng sinh
- Theo trình độ
- Theo giới tính
- Ngẫu nhiên
2.2 Kĩ thuật giao nhiệm vụ
a. Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng:
- Nhiệm vụ giao cho cá nhân / nhóm nào?
- Nhiệm vụ là gì?
- Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?
- Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?
- Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?
- Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?
- Cách thức trình bày / đánh giá sản phẩm như thế nào?
b. Nhiệm vụ phải phù hợp với:
- Mục tiêu HĐ
- Trình độ HV
- Thời gian, không gian HĐ
- CSVC, trang thiết bị
2.3 Kĩ thuật đặt câu hỏi
a. Tầm quan trọng của việc đặt câu hỏi trong dạy học:
Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường sử dụng câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám
phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới, để đánh giá kết quả học tập của HS; HS cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại,
hỏi thêm GV và các HS khác về những ND bài học chưa sáng tỏ.
Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS – GV và HS – HS. Kĩ năng đặt câu hỏi
càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều; HS sẽ học tập tích cực hơn; việc tập huấn sẽ thành công hơn.
b. Mục đích sử dụng câu hỏi trong dạy học:
- Kích thích, dẫn dắt HS suy nghĩ, khám phá tri thức mới, tạo đ/k cho HS tham gia vào quá trình dạy học.
- Kiểm tra, đánh giá KT, KN của HS và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với ND học tập.
- Thu thập, mở rộng thông tin, kiến thức.
c. Câu hỏi đóng và câu hỏi mở:
* Câu hỏi đóng là:
- Câu hỏi mà câu trả lời là có hoặc không, đúng hoặc sai, … hoặc là câu hỏi chỉ có một câu trả lời đúng.
- Dạng câu hỏi này đòi hỏi các kiến thức các kiến thức thông tin cần được nhớ lại, tái hiện lại.
- Dạng câu hỏi này thường được sử dụng để đánh giá.
- Hình thức câu hỏi: thường sử dụng cụm từ để hỏi ngắt quãng như: … đúng … sai? … có … không? …đã … chưa?
* Câu hỏi mở là:
- Câu hỏi có thể đưa ra nhiều cách trả lời và đòi hỏi câu trả lời với nhiều chi tiết hoặc phải giả thích. Dạng câu hỏi
này đòi hỏi HS đưa ra ý kiến, quan điểm, quan niệm riêng.
- Câu hỏi này thường được sử dụng để hướng dẫn gợi mở và phát triển tư duy cho HS.
- Hình thức câu hỏi: thường sử dụng những từ để hỏi: như thế nào? Thế nào? Ra sao? Vì sao?...
d. Yêu cầu khi đặt câu hỏi:
- Liên quan đến việc thực hiện MT bài học.
- Ngắn gọn
- Rõ ràng, dễ hiểu
- Đúng lúc, đúng chỗ
- Phù hợp với trình độ HS
- Kích thích suy nghĩ của HS
- Phù hợp với thời gian thực tế
- Sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
- Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích.
- Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
2.4. Kĩ thuật “bể cá”
Kĩ thuật “bể cá” là một kĩ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó:
Một nhóm HS ngồi giữa lớp và thảo luận với nhau.
Những HS khác trong lớp ngồi xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc hội thảo đó và ghi chép.
Sau khi kết thúc cuộc thảo luận thì HS quan sát đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những HS thảo luận.
Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người thảo luận sẽ thay đổi vai trò với nhau.
2.5. Kĩ thuật phòng tranh:
- Tất cả các thành viên phác họa những ý nghĩ đầu tiên về cách giải quyết vấn đề trên một tờ báo, rồi đánh lời bàn
tay hay lời tường như một triển lãm tranh.
- Trong một vòng “triển lãm tranh” mỗi một thành viên trình bày suy nghĩ của mình về cách giải quyết (giai đoạn
tập hợp).
- Trong giai đoạn thứ hai của việc tìm lời giải cá nhân, các phương án giải quyết tiếp tục được tìm kiếm.
- Trong giai đoạn đánh giá, tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và tìm phương án tối ưu.
2.6. Kĩ thuật động não (còn gọi là công não)
Động não là kĩ thuật giúp cho HS trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng mới mẻ, độc đáo
về một chủ đề nào đó. Các thành viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo
ra cơn lốc các ý tưởng).
* Động não thường được:
- Dùng trong giai đoạn giới thiệu vào một chủ đề.
- Sử dụng để tìm các phương án giải quyết vấn đề.
- Dùng để thu thập các khả năng lựa chọn và suy nghĩ khác nhau.
* Động não có thể tiến hành theo các bước sau:
- Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ HS phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại các ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng.
- Tổng hợp ý kiến của HS và rút ra kết luận.
* Động não có ưu điểm:
- Dễ thực hiện.
- Không tốn kém.
- Sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy động tối đa trí tuệ của tập thể.
- Huy động được nhiều ý kiến.
- Tạo cơ hội cho tất cả thành viên tham gia.
* Một số lưu ý khi sử dụng kĩ thuật động não:
- Câu hỏi động não phải tạo ra nhiều cách suy nghĩ, nhiều cách giải quyết.
- Kĩ thuật động não đặc biệt phù hợp với các chủ đề ít nhiều đã quen thuộc trong thực tế cuộc sống của học sinh.
- Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn bằng một từ hay một câu thật ngắn.
- GV không nên đánh giá và phê phán trong quá trình thu thập ý tưởng của các thành viên.
- Cần liên hệ với các ý tưởng đã được trình bày.
- Khuyến khích số lượng các ý tưởng.
- Cho phép sự tưởng tượng và liên tưởng.
2.7. Kĩ thuật “Trình bày một phút”:
- GV tổ chức cho HS có cơ hội tổng kết lại những gì đã học bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn
cùng lớp. Qua đó, các em có cơ hội tổng kết kiến thức và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc.
- Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), GV nên cho các em vài phút để trả lời các câu hỏi sau trên giấy: Điều quan
trọng nhất các em học được hôm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp? …
- Các câu hỏi có thể dưới nhiều hình thức khác nhau. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời các em đưa ra sẽ giúp
củng cố quá trình học tập của các em và cho GV thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào.
2.8. Kĩ thuật “Chúng em biết 3”
Các HS được lập thành các nhóm 3 người, và trong vòng 10 phút, các em sẽ thảo luận về những gì mà các
em biết về chủ đề này. Sau đó, các em chọn ra 3 điểm để trình bày với cả lớp. Mỗi nhóm sẽ cử một em lên trình bày
về cả 3 điểm nói trên.
2.9. Kĩ thuật “Hỏi và trả lời”
Học sinh lần lượt đặt câu hỏi có liên quan đến một chủ đề nào đó. Một em (hoặc GV) sẽ bắt đầu đặt một
câu hỏi. Học sinh này sẽ gọi một bạn khác lên trả lời câu hỏi đó. Học sinh thứ hai lại đặt tiếp một câu hỏi nữa. Học
sinh này sẽ tiếp tục quá trình hỏi và trả lời với các bạn cùng lớp, …cho đến khi GV quyết định dừng hoạt động này
lại.
2.10. Kĩ thuật “Viết tích cực”
Kĩ thuật này cho các em có cơ hội suy nghĩ và xử lí thông tin. Ví dụ, ngoài hình thức báo cáo một phút,
giáo viên có thể đặt một câu hỏi, rồi cho các em thời gian tự do viết câu trả lời dài bao nhiêu tùy thích. Các em cũng
có thể viết tự do về các chủ đề trong khoảng thời gian nhất định. Kĩ thuật này có thể được sử dụng để tóm tắt hoặc
tổng kết lại các tài liệu đã học trên lớp.