Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý khu bảo tồn thiên nhiên xuân liên tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 122 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, trải dài gần 15 độ vĩ (8020' 22022' vĩ độ Bắc) và hơn 7 kinh độ (102010' - 109020' kinh độ Đông) là nơi giao
điểm của vùng Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Malaysia. Những điều kiện tự nhiên đã
tạo ra tính đa dạng cao về các hệ sinh thái rừng, do đó nước ta có nguồn tài nguyên
vô cùng phong phú về khu hệ động, thực vật. Năm 1943 nước ta có 14,3 triệu ha
rừng, độ che phủ là 43%; đến năm 1990 chỉ còn 9,18 triệu ha, độ che phủ rừng
27,2%. Đến nay, tổng diện tích rừng là 13,388 triệu ha (tính đến 31/12/2010) [7] độ
che phủ đạt 39,5%, nhưng chất lượng rừng thấp. Diện tích đất lâm nghiệp phân bố
chủ yếu ở các vùng sâu, vùng xa nơi tập trung nhiều dân tộc ít người, có trình độ
dân trí thấp, phương thức canh tác lạc hậu, kinh tế chậm phát triển và đời sống còn
nhiều khó khăn, người dân sống phụ thuộc vào rừng là chủ yếu.
Do vậy, đa dạng sinh học bị suy thoái, nhiều loài động và thực vật quý hiếm
đang có nguy cơ tuyệt chủng. Từ đó, mục tiêu quốc gia đã hình thành các khu bảo
tồn, vườn quốc gia và khu dự trữ thiên nhiên, nhằm duy trì và bảo tồn những gì còn
lại của thiên nhiên trong xu thế đứng bên bờ diệt vong. Công tác quản lý các khu
rừng đặc dụng trong những năm qua gặp không ít trở ngại, lực lượng quản lý lâm
nghiệp mỏng, trình độ hiểu biết về đa dạng sinh học cũng như tổ chức quản lý các
khu rừng đặc dụng còn hạn chế, chưa mang lại hiệu quả cao.
Việc xây dựng các khu rừng đặc dụng cũng như xây dựng kế hoạch quản lý
và hoạt động vẫn thường được tiếp cận theo kiểu áp đặt từ trên xuống, chưa quan
tâm đến lợi ích cũng như quyền lợi của người dân sống trong và gần rừng hoặc nếu
có thì cũng chỉ giới hạn ở sự tham gia một cách thụ động của người dân, điều này
đã đặt người dân với vai trò là người ngoài cuộc trong công tác quản lý, bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên. Mặt khác, việc quản lý bảo vệ tài nguyên thiên nhiên thường
mâu thuẫn với những lợi ích của người dân vốn sinh sống phụ thuộc rất nhiều vào
tài nguyên rừng. Nhiều nơi, thay vì tham gia quản lý bảo vệ tài nguyên, người dân
đã đối đầu với lực lượng quản lý bảo vệ rừng của chính quyền.
Thực tế cho thấy rằng, các cộng đồng dân cư miền núi chủ yếu tìm nguồn
sinh kế từ rừng như khai thác lâm sản, sử dụng đất rừng trồng cây nông nghiệp, bãi
chăn thả gia súc… tạo nên nhiều tiêu cực cho quản lý bảo vệ rừng nhưng vẫn không


nâng cao được đời sống của cộng đồng. Những hoạt động này chỉ được xem là cách


2
sinh kế tạm thời, không bền vững. Do đó, các câu hỏi được đặt ra là: Làm thế nào
để nâng cao nội lực của cộng đồng, phát huy những tiềm năng sẵn có và lôi cuốn
cộng đồng tham gia vào các hoạt động đồng quản lý bảo vệ tài nguyên rừng vì mục
tiêu phát triển bền vững của địa phương. Đây là bài toán khó không chỉ đối với
những nhà quản lý, các nhà khoa học mà của cả người dân sở tại.
Khu Bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Xuân Liên nằm ở thượng nguồn sông
Chu, trên địa bàn của huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa với tổng diện tích tự
nhiên là 26.303,62ha. Với sinh cảnh là rừng nhiệt đới thường xanh trên núi đá vôi,
là nơi sinh sống của nhiều loài động, thực vật quý hiếm như: Pơ mu, Samu, Bách
xanh, Dẻ tùng sọc trắng... Hổ, Báo, Gấu ngựa, Gà lôi trắng... cần được bảo tồn và
phát triển. Thành phần dân tộc chủ yếu là dân tộc Kinh, Thái và Mường, có trình độ
dân trí thấp. Là khu vực địa hình dốc, chia cắt hiểm trở, diện tích đất canh tác nông
nghiệp ít vì vậy đời sống người dân cực kì khó khăn, chủ yếu phụ thuộc vào rừng.
Từ đó dẫn tới nguồn tài nguyên rừng ngày càng bị suy giảm, đời sống của nhân dân
đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn. Mặt khác trên một địa bàn rộng lớn như
vậy nhưng lực lượng lại mỏng, trang thiết bị nghèo nàn, cán bộ còn hạn chế về năng
lực. Thực tế này đã gây ra không ít khó khăn và trở ngại cho công tác bảo tồn, đây
cũng là nguyên nhân chính dẫn đến rừng và ĐDSH ở KBTTN Xuân Liên vẫn tiếp
tục bị tác động và suy giảm.
Vì vậy, để giảm áp lực đối với các khu rừng đặc dụng nói chung và quản lý
rừng đặc dụng tại KBTTN Xuân Liên nói riêng, chia sẻ gánh nặng với các ngành,
các cấp trong việc bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên thì nhiệm vụ của các nhà
quản lý là cần huy động sự tham gia tích cực của nguời dân trong công tác quản lý,
bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên quý giá này. Để thực hiện được vấn đề trên
cần phải đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý rừng hiện nay, tìm ra được tồn
tại, khó khăn, thách thức; phân tích, đánh giá được tiềm năng, khả năng đồng quản

lý rừng của các bên liên quan từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp, sát với điều kiện
tự nhiên - kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu, luật pháp Nhà nước hiện hành.
Trên cơ sở thực tiễn và lý luận đó, để phần nào trả lời được câu hỏi và giải
quyết vấn đề trên tại KBTTN Xuân Liên, với sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS.NGƯT. Trần Hữu Viên tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đề xuất
một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên
tỉnh Thanh Hóa”.


3
Đề tài được thực hiện sẽ là giải pháp cùng với người dân và các cơ quan tổ
chức khác trên địa bàn đồng quản lý KBTTN, là triển vọng để thay đổi bộ mặt người
dân nơi đây, đồng thời cũng là cơ hội bảo tồn giá trị đa dạng sinh học trong khu vực.
Đó cũng chính là những lý do để đề tài thực hiện tại KBTTN Xuân Liên, Tỉnh Thanh
Hóa.


4
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức chung về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm đồng quản lý
Thực tế cho thấy, với hệ thống các Khu bảo tồn (KBT) đã được thành lập thì
các hệ sinh thái, các loài động, thực vật quý hiếm, đặc hữu, được bảo vệ tốt hơn.
Tuy nhiên, qua đánh giá các hoạt động quản lý bảo vệ hệ thống rừng đặc dụng cho
thấy một trong những khó khăn của công tác quản lý hiện nay là chưa chủ động
được sự tham gia quản lý, bảo vệ của các lực lượng trong xã hội như: Các tổ chức
đoàn thể xã hội, các cá nhân... và cộng đồng sống ở trong hay gần khu rừng đặc
dụng. Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tế cho thấy nếu thiếu sự tham gia tích
cực của cộng đồng thì công tác quản lý bảo vệ các VQG và KBTTN sẽ gặp nhiều

trở ngại và khó thành công.
Để góp phần xây dựng các giải pháp nhằm thu hút các đối tác, cộng đồng
cùng tham gia quản lý, bảo vệ rừng ở các VQG, KBTTN, cho đến nay nhiều tác giả
đã đưa ra khái niệm về đồng quản lý, trong đó có một số khái niệm như sau:
Năm 1990, Rao và Geisler [27] đưa ra định nghĩa đồng quản lý như sau:
Đồng quản lý là sự chia sẻ việc ra quyết định giữa những người sử dụng tài nguyên
địa phương với các nhà quản lý tài nguyên về chính sách sử dụng các vùng bảo vệ.
Các đối tác cần hướng tới mối quan tâm chung là bảo tồn thiên nhiên để trở thành
đồng minh tự nguyện.
Năm 1996, lần đầu tiên Borrini - Feyerabend [23] đã đưa ra khái niệm đồng
quản lý là tìm kiếm sự hợp tác, trong đó các bên liên quan cùng nhau thỏa thuận
chia sẻ chức năng quản lý, quyền và nghĩa vụ trên một vùng lãnh thổ hoặc một khu
vực tài nguyên với tình trạng bảo vệ. Đến năm 2000, Borrini - Feyerabend tiếp tục
đưa ra khái niệm đồng quản lý như là một dạng hợp tác trong đó hai hoặc nhiều đối
tác xã hội hiệp thương với nhau xác định và thống nhất việc chia sẻ chức năng quản
lý, quyền và trách nhiệm về một vùng, một lãnh thổ hoặc nguồn tài nguyên thiên
nhiên được xác định.
Cùng năm 1996, hai nhà khoa học khác là Wild và Mutebi [31] đã đưa ra
khái niệm: Đồng quản lý là một quá trình hợp tác giữa các cộng đồng địa phương


5
với các tổ chức nhà nước trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên hoặc
các tài sản khác. Các bên liên quan, nhà nước hay tư nhân, cùng nhau thông qua
một hiệp thương xác định sự đóng góp của mỗi đối tác và kết quả là cùng nhau ký
một hiệp ước phù hợp mà các đối tác chấp nhận được.
Năm 1999 Andrew W.Ingle và các tác giả, [22] lại có một định nghĩa khác:
Đồng quản lý (ĐQL) được coi như sự sắp xếp quản lý được thương lượng bởi nhiều
đối tác liên quan, dựa trên cơ sở thiết lập quyền và quyền lợi, hoặc quyền hưởng lợi
được nhà nước công nhận và hầu hết những người sử dụng tài nguyên chấp nhận

được. Quá trình đó được thể hiện trong việc chia sẻ quyền ra quyết định và kiểm
soát việc sử dụng tài nguyên.
Năm 2000, Borrini - Feyerabend đưa ra khái niệm chung “đồng quản lý như
là một dạng hợp tác trong đó hai hoặc nhiều đối tác xã hội hiệp thương với nhau xác
định và thống nhất việc chia sẻ chức năng quản lý về quyền và trách nhiệm về một
vùng, một lãnh thổ hoặc nguồn tài nguyên thiên nhiên được xác định”. Đồng quản
lý được xây dựng trên các luận điểm là: Tính đa dạng về chủ thể và hình thức quản
lý tài nguyên; đồng quản lý trong kết hợp bảo tồn thiên nhiên và phát triển bền
vững.
Trên cơ sở các khái niệm của các tác giả, qua quá trình nghiên cứu thảo luận,
bước đầu có thể hiểu khái niệm về đồng quản lý tài nguyên rừng như sau: “ Đồng
quản lý là một quá trình tham gia của nhiều đối tác có cùng mối quan tâm đến tài
nguyên rừng, trong đó trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và quyền lợi của các đối
tác được thỏa hiệp, thống nhất trên cơ sở khả năng, năng lực của từng đối tác và
không trái với luật pháp Nhà nước hiện hành, Công ước Quốc tế nhà nước đang
tham gia, nhằm đạt được mục tiêu chung là quản lý tài nguyên rừng KBTTN một
cách tốt nhất, vừa thỏa mãn mục tiêu riêng của từng đối tác”.
1.1.2. Khái niệm vùng đệm, quản lý vùng đệm
Theo Quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất là rừng
tự nhiên ban hành theo Quyết định số 08/2001/QĐ- TTg ngày 11/01/2001 thì “Vùng
đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm sát gianh giới của các
VQG và Khu bảo tồn thiên nhiên; có tác động ngăn chặn hoặc giảm nhẹ sự xâm
phạm khu rừng đặc dụng. Mọi hoạt động trong vùng đệm phải nhằm mục đích hỗ


6
trợ cho công tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ khu rừng đặc dụng; hạn chế di dân từ
bên ngoài vào vùng đệm; cấm săn bắt, bẫy các loài động vật và chặt phá các loài
thực vật hoang dã là đối tượng bảo vệ”.
Theo Quyết định số 186/2006/QĐ- TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính

phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng thì “Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất
hoặc vùng đất có mặt nước nằm liền kề với VQG và Khu bảo tồn thiên nhiên; bao
gồm toàn bộ hoặc một phần các xã, phường, thị trấn nằm sát gianh giới với VQG và
Khu bảo tồn thiên nhiên.Vùng đệm được xác lập nhằm ngăn chặn, giảm nhẹ sự xâm
hại của con người tới VQG và Khu bảo tồn thiên nhiên. VQG và Khu bảo tồn thiên
nhiên phải xây dựng vùng đệm cho khu rừng. Ban quản lý khu rừng đặc dụng tổ
chức cho cộng đồng dân cư vùng đệm tham gia các hoạt động bảo vệ, bảo tồn, sử
dụng hợp lý lâm sản và các tài nguyên tự nhiên, các dịch vụ du lịch sinh thái để góp
phần nâng cao thu nhập gắn sinh kế của người dân với các hoạt động của khu rừng
đặc dụng. Cơ quan chính quyền Nhà nước trên địa bàn vùng đệm lập dự án đầu tư
phát triển sản xuất và cơ sở hạ tầng nông thôn để ổn định cuộc sống cho cộng đồng
dân cư, đồng thời thiết lập quy chế trách nhiệm của cộng đồng dân cư và từng hộ
gia đình trong việc bảo vệ và bảo tồn khu rừng đặc dụng. Diện tích vùng đệm không
tính vào diện tích của khu rừng đặc dụng.
Quản lý vùng đệm được nhìn nhận như là một hành động can thiệp dài hạn
nhằm đạt được tính bền vững về sinh thái, xã hội, tổ chức kinh tế.
Để phát huy vai trò của vùng đệm đối với bảo tồn và phát triển, trước hết cần
phải giải quyết những vấn đề sau:
- Phải có quy hoạch vùng lõi và vùng đệm rõ ràng, có mốc giới kiên cố.
- Xác định cơ chế chia sẻ lợi ích có hiệu quả. Người dân được hưởng lợi gì từ
Khu bảo tồn thiên nhiên, hoặc Vườn quốc gia.
- Xác định rõ ràng mục tiêu phát triển vùng đệm và có các dự án để thực hiện
mục tiêu đó.
- Phối hợp tốt các chương trình, các dự án của các cấp, các ngành khác nhau
trên cùng một địa bàn.
- Xây dựng cơ chế phối hợp cùng tham gia giữa các bên liên quan.


7
Trong các vấn đề trên thì sự tham gia và hỗ trợ của người dân địa phương là

hết sức quan trọng. Các mục tiêu của dự án phải phù hợp với nguyện vọng của
người dân. Người dân phải thực sự làm chủ trong vùng đệm về tài nguyên, về công
việc, về quyền lợi. Chỉ khi họ trở thành người chủ đích thực thì họ sẽ có trách
nhiệm với chính nơi mà họ đang sinh sống.
Vùng đệm có vai trò hết sức quan trọng đối với bảo tồn và phát triển, song
việc quản lý vùng đệm gặp nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi phải có nhiều biện
pháp tổng hợp về pháp lý, kinh tế, kỹ thuật, xã hội, tuyên truyền và phải huy động
nỗ lực của nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau lâu dài và liên tục. Các bên liên quan
trong quản lý vùng đệm và Vườn quốc gia cần phát huy vai trò và trách nhiệm của
mình đối với bảo tồn và phát triển.
1.1.3. Quản lý rừng bền vững
Theo tổ chức gỗ nhiệt đới (ITTO) thì “Quản lý rừng bền vững là quá trình
quản lý những diện tích rừng cố định, nhằm đạt được những mục tiêu là đảm bảo
sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng như mong muốn mà không làm
giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng, không gây ra
những tác động tiêu cực đối với môi trường vật lý và xã hội.
Những mục tiêu cơ bản của quản lý rừng bền vững được giải thích như sau:
- Bền vững về môi trường: Đảm bảo hệ sinh thái ổn định, giữ gìn bảo toàn
sản phẩm của rừng, đáp ừng khả năng phục hồi rừng trên quá trình tự nhiên.
- Bền vững về xã hội: phản ánh sự liên hệ giữa phát triển tài nguyên rừng và
tiêu chuẩn xã hội, không diễn ra ngoài sự chấp nhận của cộng đồng.
- Bền vững về kinh tế: Lợi ích mang lại lớn hơn chi phí đầu tư và được truyền
lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững là một hoạt động góp phần sử dụng
bền vững tối đa không gian sống của từng địa phương cũng như của các quốc gia và
trên toàn thế giới. Với ý nghĩa này quản lý và sử dụng rừng bền vững là một nhiệm vụ
cấp bách, một giải pháp quan trọng cho sự tồn tại lâu dài của toàn xã hội loài người và
mọi hiện tượng tự nhiên khác trên trái đất.



8
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.2.1. Tính đa dạng về chủ thể và hình thức quản lý tài nguyên
Theo Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, hiện nay nước ta có 8 chủ thể
chính tham gia quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, đó là:
- Nhà nước là một chủ thể lớn nhất, có quyền quản lý và điều tiết vĩ mô về
lĩnh vực lâm nghiệp. Quản lý nhà nước về lâm nghiệp (tài nguyên rừng) là một hình
thức khẳng định chủ quyền của nhà nước đối với đất lâm nghiệp và tài nguyên rừng.
Quản lý nhà nước điều tiết quản lý, sử dụng tài nguyên đáp ứng những mục tiêu
tổng thể mang tính chất quốc gia. Quản lý nhà nước có thế mạnh về pháp luật, chính
sách và tài chính. Ngoài ra dưới sự quản lý, kiểm soát và điều tiết vĩ mô của Nhà
nước thì có các chủ thể sau được giao trách nhiệm quản lý và bảo vệ rừng.
- Hệ thống các Ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ được Nhà nước
giao rừng, giao đất để phát triển rừng với mục tiêu chính là bảo tồn thiên nhiên, mẫu
chuẩn hệ sinh thái rừng của Quốc gia, nguồn gen động vật và thực vật rừng, nghiên
cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, phục vụ nghỉ
ngơi và du lịch, bảo vệ môi trường. Là một tổ chức sự nghiệp của Nhà nước cho
nên hệ thống này có thế mạnh về pháp lý và tài chính.
- Hệ thống các tổ chức kinh tế được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, giao
đất, cho thuê đất để phát triển rừng hoặc công nhận quyền sử dụng đất rừng, quyền
sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, nhận chuyển quyền sử dụng đất rừng, nhận
quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng. Hệ thống này có thế mạnh được sự bảo
lãnh của nhà nước về pháp lý, có thế mạnh về khoa học, công nghệ mới và thị
trường, năng lực và tài chính.
- Hộ gia đình, cá nhân trong nước được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng,
giao đất, cho thuê đất để phát triển rừng hoặc công nhận quyền sử dụng rừng, quyền
sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, nhận chuyển quyền sử dụng rừng, nhận quyền
sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng. Mục tiêu chính của hình thức quản lý này là bảo
vệ rừng và phát triển kinh tế gia đình và xã hội. Hộ gia đình và cá nhân có thế mạnh
về lực lượng lao động dồi dào, ổn định tại chỗ và có những kiến thức bản địa trong

bảo vệ và phát triển rừng.


9
- Hệ thống các đơn vị vũ trang nhân dân được Nhà nước giao rừng, giao đất
để phát triển rừng. Hệ thống này có thế mạnh về thể chế, tài chính và nhân lực có
tính tổ chức, kỷ luật cao.
- Hệ thống các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đào tạo,
dạy nghề về lâm nghiệp được Nhà nước giao rừng, giao đất để phát triển rừng. Hệ
thống này có thế mạnh về khoa học, công nghệ mới và thị trường, năng lực và tài
chính.
- Hệ thống các tổ chức, cá nhân người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá
nhân người nước ngoài đầu tư tại Việt Nam được Nhà nước giao rừng, cho thuê
rừng, cho thuê đất để phát triển rừng. Hệ thống này có thế mạnh về khoa học, công
nghệ mới và thị trường, năng lực và tài chính.
- Cộng đồng dân cư thôn, bản được Nhà nước giao rừng, giao đất để phát
triển rừng. Cộng đồng quản lý tài nguyên có thế mạnh về tính tổ chức, thể chế, tính
tự nguyện, sự ổn định tại chỗ và những kiến thức bản địa.
Thông thường, trên một đơn vị tài nguyên không chỉ tồn tại một hình thức
quản lý mà tồn tại song song nhiều hình thức. Vấn đề đặt ra là các hình thức này
hợp tác với nhau như thế nào? Làm thế nào để giải quyết hài hòa mục tiêu, lợi ích
của các hình thức quản lý tài nguyên? Để đạt được sự công bằng đối với các chủ thể
quản lý, đạt được các mục tiêu tổng thể cũng như cụ thể của từng đối tượng thì
đồng quản lý sẽ là một phương thức thích hợp và hiệu quả.
Trong thực tế, Nhà nước quản lý toàn bộ tài nguyên trên lãnh thổ quốc gia,
trên cơ sở chia sẻ với các chủ thể quản lý tài nguyên khác trong xã hội. Hợp tác
quản lý sẽ phát huy được những thế mạnh của các chủ thể, đặc biệt là cộng đồng
dân cư là những người trực tiếp tiếp cận với các nguồn tài nguyên và có những hiểu
biết về chúng. Trên cơ sở hợp tác quản lý sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho
sự thành công của công tác quản lý tài nguyên.

1.2.2. Đồng quản lý trong kết hợp bảo tồn thiên nhiên và phát triển bền vững
Đồng quản lý giải quyết được mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển: Nhà
nước có chiến lược bảo tồn và thường nảy sinh mâu thuẫn với các cộng đồng địa
phương đang sử dụng tài nguyên phục vụ đời sống, giữa cộng đồng và quốc gia sẽ
đồng nhất trong mục tiêu bảo tồn và phát triển nếu như tiến tới thỏa thuận về một
phương thức đồng quản lý.


10
Bảo tồn và phát triển là hai mặt đối lập thống nhất, tài nguyên thiên nhiên là
nguồn nguyên liệu cần thiết đối với phát triển kinh tế xã hội. Để phát triển, con
người đã không ngừng khai thác các nguồn tài nguyên này, nên bảo tồn thiên nhiên
sẽ mâu thuẫn với phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nếu khai thác cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên sẽ gây ảnh hưởng và tạo ra sự bất ổn cho phát triển cả về kinh tế
và các mặt xã hội khác. Chính vì vậy con người cần phải bảo tồn, tái tạo các nguồn
tài nguyên bảo hộ cho sự phát triển ổn định lâu dài. Đồng quản lý tài nguyên
KBTTN Xuân Liên sẽ định hướng cho tiến trình bảo tồn và phát triển.
Theo Gilmour D.A và Nguyễn Văn Sản (1999), quan điểm bảo tồn và phát
triển là để liên kết việc bảo tồn tài nguyên và những nhu cầu phát triển địa phương,
bao gồm 3 thành phần chính (cách tiếp cận) như sau:
- Thứ nhất là nếu nhu cầu phát triển cộng đồng tại địa phương đó có thể được
đáp ứng bởi các nguồn thay thế khác thì ảnh hưởng của nó lên tài nguyên sẽ được
giảm bớt và tài nguyên được bảo tồn: Cách tiếp cận các giải pháp thay thế sinh kế.
- Thứ hai là nếu cộng đồng rất khó khăn về mặt kinh tế, không thể nào quan tâm
đến việc bảo tồn được vì những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống vẫn còn chưa được đáp
ứng thì trước hết cần phải nỗ lực cải thiện nền kinh tế - xã hội của họ đủ tốt để họ có thể
quan tâm hơn đến việc bảo tồn tài nguyên: Cách tiếp cận phát triển kinh tế.
- Thứ ba là cộng đồng địa phương đó cũng đồng ý với việc bảo tồn tài nguyên
thiên nhiên nếu như họ có thể được tham gia một cách tích cực vào việc quy hoạch
và quản lý sử dụng tài nguyên và được chia sẻ lợi nhuận từ tài nguyên đó. Theo

cách này, tài nguyên có thể được bảo tồn trong khi một số nhu cầu cơ bản của người
dân địa phương được đáp ứng thông qua việc sử dụng và khai thác tài nguyên một
cách hợp lý và bền vững: Cách tiếp cận tham gia quy hoạch.
Như vậy, sự hợp tác ở trong những cách tiếp cận này cũng chính là hình thức
đồng quản lý tài nguyên và đồng quản lý sẽ giải quyết được mâu thuẫn giữa bảo tồn
và phát triển, giữa cộng đồng và nhà nước sẽ được thống nhất trong các mục tiêu
đồng quản lý.
1.2.3. Đồng quản lý dựa trên cơ sở phối hợp lợi ích quốc gia và lợi ích cộng đồng
Quản lý một KBT nhà nước tính đến lợi ích mang tính toàn cục, mục tiêu
chung là bảo vệ đa dạng sinh học, là tài sản quý giá của quốc gia, bảo vệ môi
trường, rừng phòng hộ cho các ngành sản xuất và đời sống xã hội trong khu vực.


11
Ở các KBTTN, đời sống cộng đồng của họ phụ thuộc trực tiếp vào nguồn tài
nguyên. Lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của người dân là đảm bảo sử dụng bền
vững nguồn tài nguyên cho nhiều thế hệ. Chính vì vậy, bảo vệ, bảo tồn và phát triển
tài nguyên thiên nhiên phải dựa trên cơ sở đảm bảo các lợi ích của cộng đồng dân
cư. Phải coi những cộng đồng này là những nhóm đặc biệt trong khi thành lập và
quản lý KBTTN và các KBTTN không thể tách rời khỏi các nhu cầu phát triển kinh
tế, xã hội và tinh thần của người dân địa phương. Do đó việc quản lý, bảo vệ và phát
triển các KBT cần phải có sự phối hợp chặt chẽ vì lợi ích chung, vừa đảm bảo lợi ích
của quốc gia nhưng cũng phải đảm bảo lợi ích của cộng đồng dân cư.
Ngoài ra có các thành phần khác (Các công ty du lịch, các nhà máy thủy điện,
thủy nông, các tổ chức nghiên cứu khoa học....), có mối quan tâm đến tài nguyên và sử
dụng bền vững nguồn tài nguyên trong khu bảo tồn phục vụ cho lợi ích của họ, do đó
đồng quản lý sẽ gắn lợi ích của họ với trách nhiệm quản lý bảo vệ các nguồn tài nguyên
mà họ đang quan tâm, sử dụng và sẽ sử dụng trong tương lai.
Đồng quản lý phải không được ảnh hưởng quá mức hoặc làm mất đi lợi ích
của các bên liên quan mà phải gắn lợi ích của họ với trách nhiệm quản lý bảo vệ các

nguồn tài nguyên mà họ đang quan tâm.
1.2.4. Đồng quản lý với việc bảo tồn bản sắc văn hóa cộng đồng và chiến lược
xóa đói giảm nghèo
Những trang phục đặc sắc, những nghi lễ trong cưới xin và ngay trong cách
hái lượm, sử dụng tài nguyên... của mỗi cộng đồng dân tộc đều mang một màu sắc
riêng biệt. Cùng với sự phát triển của xã hội, sự hội nhập về văn hóa ngày càng sâu
rộng đã làm mai một không ít những bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng người
địa phương; những sinh hoạt văn hóa dân gian và cả những tri thức hiểu biết về
quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị thiếu vắng.
Bảo tồn bản sắc văn hóa, kiến thức bản địa cũng là một trong những chiến
lược lâu dài của Nhà nước, đồng quản lý tài nguyên rừng sẽ khuyến khích người
dân sử dụng, phát huy những kiến thức bản địa, sáng kiến, bản sắc văn hóa và thể
chế cộng đồng giúp chúng tồn tại và phát triển.
Đồng quản lý được hình thành và phát triển sẽ giúp cộng đồng dân tộc trong
khu vực tiếp cận được những tiến bộ khoa học cùng với sự hỗ trợ tích cực của các
bên liên quan. Những hỗ trợ của kiến thức mới, của cơ chế tài chính trong quản lý


12
rừng đặc dụng kết hợp với việc sử dụng kiến thức và sáng kiến sẽ giúp cộng đồng
phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo bằng con đường tự vận động. Khi vận
dụng một cách sáng tạo những kinh nghiệm, kiến thức khoa học tiên tiến thì công
tác quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả
cao.
Đây cũng là phương thức quản lý tạo cơ hội cho các bên liên quan trong đó
có cộng đồng người dân tham gia nhiều hơn trong công tác quản lý bảo vệ rừng,
bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời tạo nguồn thu nhập hợp pháp và thường xuyên;
nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân địa phương. Như vậy, đồng
quản lý rừng đặc dụng góp phần xóa đói giảm nghèo một cách bền vững.
1.2.5. Cơ sở pháp lý và khuôn khổ chính sách của đồng quản lý

Cơ sở chính sách pháp lý và khuôn khổ chính sách của đồng quản lý là
những văn bản luật, nghị định, thông tư, công ước.
Công ước bảo vệ đa dạng sinh học mà Việt Nam tham gia năm 1994, trong
đó điều 8, điểm J ghi rõ: “Tùy theo luật pháp quốc gia, sự tôn trọng và duy trì các tri
thức, các sáng kiến và các thông lệ của cộng đồng bản xứ và địa phương, biểu hiện
bằng lối sống truyền thống phù hợp với bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh
học”.
Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất là
rừng tự nhiên.
Luật đất đai năm 2003, trong đó công nhận cộng đồng dân cư là một chủ thể
có quyền được nhận đất lâm nghiệp để quản lý và sử dụng ổn định lâu dài.
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, trong đó quy định về trách nhiệm
bảo vệ rừng là của toàn dân.
Thông tư 70/TT-BNN [3] ngày 1/8/2007 của Bộ NN và PTNT về việc hướng
dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng
đồng dân cư thôn.
Luật đa dạng sinh học năm 2008, quy định sự đa dạng về nguồn đầu tư bảo
tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học.
Nghị định số 99/NĐ-CP [4] ngày 2/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Trong đó,


13
quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và mức xử phạt đối với từng hành
vi vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng.
Nghị định số 117/NĐ-CP [5] ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
tổ chức quản lý rừng đặc dụng. Trong đó, quy định rõ các biện pháp bảo vệ rừng,
phục hồi hệ sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững tài nguyên
rừng đặc dụng.

Quyết định số 34/QĐ-TTg [6] ngày 24/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành quy chế quản lý rừng.
Quyết định số 57/QĐ-TTg [7] ngày 09/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về
phê duyệt kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 - 2020.
Quyết định số 07/QĐ-TTg ngày 8/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ về ban
hành một số chính sách tăng cường công tác bảo vệ rừng.
Quyết định số 24/QĐ-TTg ngày 01/06/2012 của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 - 2020.
Tóm lại: Cơ sở khoa học của đồng quản lý tài nguyên rừng cho thấy chìa
khóa thành công trong quản lý tài nguyên rừng là hợp tác trong quản lý sẽ phát huy
được những thế mạnh của các chủ thể, đặc biệt là cộng đồng dân cư là những người
trực tiếp tiếp cận với các nguồn tài nguyên và có những hiểu biết sâu sắc về chúng.
Trên cơ sở đó hợp tác quản lý sẽ tạo ra một sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho sự
thành công của đồng quản lý tài nguyên.
1.3. Tình hình nghiên cứu và thực hiện trên thế giới
Trong giai đoạn hiện nay đồng quản lý rừng đang được xem như là một giải
pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, hỗ trợ giải quyết tình trạng
suy thoái tài nguyên, đã có không ít những mô hình đồng quản lý tài nguyên được
hình thành ở Uganda, Nam phi, Thái lan, Nepal… Đây là những bài học quý giá
cho quá trình xây dựng những giải pháp đồng quản lý bền vững tài nguyên rừng ở
Việt Nam.
Ở Ấn Độ, tham gia quản lý nói chung (Joint Forest Management) là khái
niệm được biết đến lần đầu tiên. Tuy nhiên, đồng quản lý (hay hợp tác quản lý) khu
rừng bảo vệ (Co-management of Protected Areas) mới chỉ được tiến hành từ cuối
những năm của thế kỷ 20 và nhanh chóng lan rộng tới các quốc gia thuộc các nước
châu Phi, châu Mỹ La tinh và châu Á. Nghiên cứu của Eva Wollenberg, Bruce


14
Campbell, Sheeona Shackletton, David Edmunds, and Patricia Shanley, 2004 tại

Orissa và Uttarkhand ở Ấn độ, Bộ lâm nghiệp cho phép người dân được trực tiếp
tiếp cận với sản phẩm rừng, đất rừng, lợi ích từ tài nguyên rừng hoặc tạo cơ hội để
họ được tiếp cận với cách quản lý rừng của Nhà nước. Ngược lại, Nhà nước cho
phép người dân hợp tác với họ để quản lý rừng thông qua việc bảo vệ rừng hoặc
trồng rừng, yêu cầu người dân chia sẻ lợi nhuận với các cơ quan quản lý rừng của
Nhà nước.
Theo Wild và Mutebi, 1996 [31] tại VQG Bwindi Impenetrable và
MgaHinga Gorilla thuộc Uganda việc hợp tác quản lý được thực hiện theo quy ước
giữa ban quản lý VQG và cộng đồng dân cư. Trong đó, người dân được phép khai
thác một số lâm sản trên quan điểm khai thác sử dụng bền vững, đồng thời có nghĩa
vụ quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng. Như vậy, việc hợp tác quản lý tại đây mới chỉ
có hai đối tác là Ban quản lý VQG và cộng đồng dân cư tham gia.
Theo Sherry. E. (Canada), 1999 [30] việc hợp tác quản lý tài nguyên thiên
nhiên tại VQG Vutut được thực hiện trên nguyên tắc: Có sự phối hợp giữa chính
quyền, Ban quản lý VQG và cộng đồng dân cư. Đồng quản lý ở đây đã kết hợp
được các mối quan tâm của các bên tham gia và sử dụng kiến thức bản địa của
người dân địa phương vào mục tiêu bảo tồn. Đồng thời, ban quản lý VQG xây dựng
và đưa ra các mô hình đó. Như vậy, việc hợp tác quản lý ở đây đã giải quyết hài hòa
mâu thuẫn giữa Nhà nước và cộng đồng dân cư địa phương. Đồng thời lợi dụng
được kiến thức bản địa vào công tác bảo tồn hoang dã và bảo tồn các di sản văn
hoá.
Trong báo cáo nghiên cứu sự hợp tác quản lý tài nguyên thiên nhiên tại VQG
Andringitra của Madagascar; Shuchenmann 1999 [29] viết rất rõ: Sự hợp tác đồng
quản lý ở đây có rất nhiều các bên tham gia như chính quyền, ban quản lý VQG, cơ
quan du lịch và người dân. Chính quyền ban hành nghị định nhằm đảm bảo cuộc
sống cho người dân cả về vật chất lần tinh thần như được phép chăn thả gia súc,
khai thác tài nguyên từ rừng phục hồi để sử dụng tại chỗ, cho phép giữ gìn các đền
thờ cúng thần rừng đáp ứng cuộc sống tâm linh. Ngược lại, người dân phải đảm bảo
tham gia vào các công tác bảo vệ và sử dụng bền vững các giá trị đa dạng sinh học
trong VQG và khu vực lân cận.



15
Ở Brazil, nông dân đã giúp quản lý 2,2 triệu ha rừng phòng hộ, khoảng một
nửa số huyện ở Zimbabuê tham gia vào chương trình CAMPFIRE, ở đó người dân
có thể chia sẻ lợi nhuận từ du lịch trong các khu rừng bảo vệ động vật hoang dã, các
chương trình này giúp nhà nước bảo vệ được rừng, giúp người dân cải thiện được
quyền tiếp cận với tài nguyên rừng, tuy nhiên chưa giúp người nghèo cải thiện đáng
kể kế sinh nhai.
Tại khu bảo tồn Hoàng gia Chiwan ở Nepal, Oli Krishna Prasad 1999 [25] có
viết trong báo cáo như sau: Cộng đồng dân cư vùng đệm được tham gia hợp tác với
một số bên liên quan quản lý tài nguyên vùng đệm phục vụ cho du lịch. Lợi ích của
cộng đồng khi tham gia quản lý tài nguyên là khoảng 30 - 50% thu được từ du lịch
hàng năm sẽ đầu tư trở lại cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của cộng
đồng. Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở đồng quản lý tài nguyên rừng phục vụ du
lịch ở vùng đệm.
Ở Nam Phi, Moenieba Isaacs và Najma Mohamed, 2000 [24] trong báo cáo
“Hợp tác quản lý với người dân ở Nam Phi trong phạm vi vận động” đã nghiên cứu
các hoạt động hợp tác quản lý tại VQG Richtersveld. Do người dân nhận thức chưa
cao về bảo tồn thiên nhiên, trong khi đó công việc của họ làm ảnh hưởng tới đa
dạng sinh học của VQG. Ban quản lý VQG đã phải nghiên cứu phương thức bảo tồn
trong nhiều năm và cho đến năm 1991 mới chính thức tìm ra được phương thức hợp
tác quản lý với cộng đồng dân cư. Phương thức này chủ yếu dựa trên hương ước
quản lý bảo vệ tài nguyên (Contractual Agreement). Trong đó người dân cam kết
bảo vệ đa dạng sinh học trên địa phận của mình, còn chính quyền và ban quản lý hỗ
trợ người dân xây dựng cơ sở hạ tầng và cải thiện các điều kiện kinh tế xã hội khác.
Theo Reid, H., 2000 [28] việc hợp tác quản lý tài nguyên thiên nhiên tại
VQG Kruger, người dân trước đây đã chuyển đi từ Makuleke, khi chính phủ mới
thành lập đã cho phép người dân trở lại vùng đất truyền thống để sinh sống. Để đạt
được quyền sử dụng đất đai cũ, người dân phải xây dựng quy ước bảo vệ môi

trường trong khu vực VQG, đồng thời họ cũng được chia sẻ lợi ích thu được từ du
lịch. Từ những kết quả đạt được về đồng quản lý tài nguyên ở Nam Phi đã trở thành
bài học kinh nghiệm cho các nước đang phát triển khác.
Theo Poffenberger, M. và McGean, B. 1993 [26] trong báo cáo “Liên minh
cộng đồng: Đồng quản lý rừng ở Thái Lan” đã có nghiên cứu điểm tại VQG Dong


16
Yai nằm ở Đông Bắc và khu rừng phòng hộ Nam Sa ở phía bắc Thái Lan. Tại Dong
Yai, người dân đã chứng minh được khả năng của họ trong việc tự tổ chức các hoạt
động bảo tồn, đồng thời phối hợp với Cục Lâm nghiệp Hoàng gia xây dựng hệ
thống quản lý rừng đảm bảo ổn định về môi trường sinh thái, cũng như phục vụ lợi
ích của người dân trong khu vực. Tại Nam Sa, cộng đồng dân cư cũng rất thành
công trong công tác quản lý rừng phòng hộ. Họ khẳng định rằng nếu chính phủ có
chính sách khuyến khích và chuyển giao quyền lực thì họ chắc chắn sẽ thành công
trong việc kiểm soát các hoạt động khai thác quá mức nguồn tài nguyên rừng, các
hoạt động phá rừng và tác động tới môi trường. Đồng quản lý ở Thái Lan có thể trở
thành bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam, bởi Thái Lan cũng là một nước
trong vùng Đông Nam Á, có một số đặc điểm tương đồng với Việt Nam về điều
kiện tự nhiên và văn hoá xã hội.
Nhận xét: Qua những nghiên cứu của các tác giả trên thế giới về đồng quản lý cho
thấy: Bước đầu đã hình thành được sự liên kết giữa nhà nước và người dân (chủ yếu
là BQL và người dân) nhằm giải quyết những mâu thuẫn trước mắt là sự phụ thuộc
của người dân vào TNR với việc QLBVR của nhà nước. Đồng thời, đồng quản lý
đã một phần cải thiện được cuộc sống của người dân và người dân đã khẳng định
được vai trò của mình trong vấn đề quản lý TNR.
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về đồng quản lý ở đây mới chỉ dừng lại
ở sự thỏa thuận giữa 2 hoặc 3 đối tác (BQL, người dân, cơ quan du lịch), mà chưa
xây dựng được mô hình cơ bản về đồng quản lý cũng như chưa đề ra được những
giải pháp và nguyên tắc cụ thể cho các bên khi tham gia đồng quản lý rừng.

Vì vậy việc đưa ra được bộ máy tổ chức ĐQL cũng như đề ra nguyên tắc và
giải pháp phù hợp với từng đối tác khi tham gia đồng quản lý là một hướng đi mà
đề tài đang xây dựng.
1.4. Nghiên cứu, thực hiện đồng quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam
Đồng quản lý du nhập vào Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945
dưới hình thức Hợp tác xã Nông nghiệp. Bản chất của đồng quản lý ở đây là coi tài
nguyên rừng là của chung, các hoạt động khai thác và sử dụng đều mang tính tập
thể, tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức quan hệ thấp, chưa thật sự hiệu quả.
Sự hợp tác quản lý của cộng đồng địa phương đối với tài nguyên rừng được
phát triển qua từng giai đoạn sau: Giai đoạn năm 1954 trở về trước, các cộng đồng


17
dân tộc tự quản lý và kiểm soát rừng theo quy ước cộng đồng. Giai đoạn 1955 1986, ở miền Bắc và sau đó cả nước thực hiện theo mô hình quản lý tập trung theo
chế độ tập thể làm chủ. Hình thức quản lý rừng cộng đồng hay đồng quản lý ở giai
đoạn này bị mai một và suy giảm. Giai đoạn từ 1986 đến nay, việc thực hiện chính
sách đổi mới, Nhà nước thực hiện quyền sử dụng lâu dài cho các cá nhân, hộ gia
đình. Nhà nước thực hiện chính sách phi tập trung và giao quyền quản lý rừng và
đất rừng cho địa phương.
Khái niệm đồng quản lý tài nguyên lần đầu tiên được đưa vào Việt Nam năm
1997 tại khoá tập huấn về “Kết hợp bảo tồn và phát triển” (Integrated Conservation
and Development - ICD) tổ chức tại VQG Cát Tiên, do quỹ Quốc tế về bảo tồn
thiên nhiên tài trợ. Song do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nên khái
niệm này vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Qua quá trình thực hiện quản lý rừng tại các
địa phương, khái niệm về đồng quản lý đã được nhiều tổ chức, các tác giả trong và
ngoài nước đưa ra. Trong đó tiêu biểu là khái niệm của IUCN: “Các khu bảo tồn do
Nhà nước thiết lập, nơi quyền ra quyết định, trách nhiệm quyền và quyền lợi chia sẻ
giữa các cơ quan Nhà nước và các bên tham gia, đặc biệt cộng đồng địa phương
sống dựa vào tài nguyên rừng tại các khu bảo tồn đó”.
Trong hội thảo quốc gia về lâm nghiệp được tổ chức năm 2001 tại Hà Nội

nhằm làm rõ các yếu tố khuôn khổ pháp lý của rừng cộng đồng, việc thực thi các
chính sách hỗ trợ cho quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam. Trong hội thảo có rất
nhiều báo cáo và các vấn đề thảo luận: “Báo cáo về khuôn khổ pháp lý, chính sách
của Nhà nước và hiện trạng quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam” của tác giả: Phạm
Xuân Phương, Hà Công Tuấn, Vũ Văn Mê, Nguyễn Hồng Quân.
Ulrich Apel, Oliver C. Maxwell và các tác giả 2002 [18] đã có nghiên cứu về
phối hợp quản lý và bảo tồn ở KBTTN Pù Luông. Các tác giả đánh giá nghịch lý về
sử dụng đất đai và nhà ở, tình hình quản lý tài nguyên thiên nhiên ở một số thôn bản
vùng đệm KBTTN Pù Luông. Nghiên cứu này mới đưa ra được một số phân tích về
sự phụ thuộc của người dân đối với tài nguyên rừng và đánh giá một số thể chế,
chính sách hiện nay đối với công tác quản lý rừng đặc dụng. Nghiên cứu chưa đánh
giá được đầy đủ tiềm năng về đồng quản lý cũng như chưa đưa ra được nguyên tắc
và giải pháp thực hiện.


18
Trong thời gian gần đây, đã có một số dự án được triển khai thực hiện với
mục tiêu xây dựng mô hình đồng quản lý. Điển hình như: Dự án MOSAIC, 2002 [9]
đã triển khai thực hiện tại khu vực sông Thanh - Quảng Nam, nội dung đồng quản
lý mới được bắt đầu và đang trong thời gian thử nghiệm cho giai đoạn tiếp theo.
Một số dự án khác về xây dựng mô hình đồng quản lý giữa Khu bảo tồn,
cộng đồng dân cư và các tổ chức, cơ quan liên quan (bao gồm cả tổ chức Chính phủ
và phi Chính phủ) tại Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền, tỉnh thừa Thiên - Huế.
Song các dự án nói trên đều chưa đưa ra được nguyên tắc và các giải pháp thích hợp
để xây dựng kế hoạch đồng quản lý tài nguyên, nhưng trong thực tế cho thấy đồng
quản lý các khu rừng đặc dụng là một trong những xu hướng phù hợp với điều kiện
bảo tồn thiên nhiên ở nước ta.
Một nghiên cứu mới trong quá trình xây dựng mô hình đồng quản lý rừng
phòng hộ tại Hòa Bình, dưới sự tài trợ của Dự án phục hồi rừng đầu nguồn tự nhiên
bị suy thoái tại miền Bắc Việt Nam (RENFODA – JICA) cho thấy: Dự án đã nghiên

cứu và đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp thực hiện đồng quản lý rừng phòng
hộ tại xóm Lòn xã Bình Thanh và xóm Dưng xã Hiền Lương, trong khuôn khổ dự
án bước đầu đã lựa chọn một số nguyên tắc và giải pháp để áp dụng trong các hoạt
động của Dự án trên địa bàn hai xã này. Đây là một thử nghiệm áp dụng phương
thức đồng quản lý rừng đầu tiên ở Việt Nam cho rừng phòng hộ.
Hầu hết các dự án đều đang lúng túng vì chưa đưa ra được tiến trình, nguyên
tắc và các giải pháp thích hợp để xây dựng kế hoạch đồng quản lý tài nguyên rừng.
Do vậy, ngày 4/8/2003, một hội thảo về “Ý tưởng thành lập khu bảo tồn thiên nhiên
Phu Xai Lai Leng do cộng đồng quản lý” được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ
An. Hội thảo đề xuất một số vấn đề đồng quản lý khu bảo tồn. Tuy nhiên, hội thảo
cũng chưa thống nhất được các nguyên tắc đồng quản lý và giải quyết triệt để vấn
đề [12].
Trong những năm gần đây, trong các Luận văn Thạc sỹ Lâm nghiệp Trường Đại học Lâm nghiệp đã có các nghiên cứu và đề xuất một số nguyên tắc và
giải pháp thực hiện đồng quản lý các khu Bảo tồn thiên nhiên như: Nguyễn Quốc
Dựng (2004) nghiên cứu tại khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh - Quảng Nam; Vũ
Đức Thuận (2006) nghiên cứu tại khu bảo tồn thiên nhiên Copia - Sơn La; Nguyễn
Xuân Hoan (2009) nghiên cứu tại khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ - Hà Tỉnh... bước


19
đầu đã chỉ ra được kinh nghiệm đồng quản lý rừng tại nơi nghiên cứu và cũng là
những gợi ý cho những nghiên cứu tiếp theo về đồng quản lý rừng ở các địa phương
khác.
Năm 2008 thực hiện dự án thí điểm các phương pháp quản lý rừng đa mục
đích tại Lâm Đồng. Dự án tập trung vào việc quản lý rừng bền vững như: Bảo vệ
môi trường, cải thiện đời sống của người dân ở những khu vực phụ thuộc vào rừng,
nâng cao đóng góp của ngành lâm nghiệp cho nền kinh tế. Đã cũng cố các hệ thống
quản lý Nhà nước về lâm nghiệp, đưa ra cách tiếp cận bền vững và định hướng đến
người nghèo vào công tác quản lý rừng.
Việc đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam là mới, còn trong giai

đoạn thử nghiệm và còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình ứng dụng vào thực tiễn,
các thể chế chính sách còn nhiều vấn đề bất cập, chưa phù hợp với hướng phát triển
của mô hình này. Do vậy, việc tham gia của các bên liên quan còn mang nặng tính
hình thức và chồng chéo về quản lý. Đặc biệt đối với cộng đồng dân cư sinh sống
tại khu vực vùng đệm của các KBT và VQG, việc tham gia vào mô hình còn mang
tính thụ động, họ chưa được coi là chủ thể tích cực trong việc quản lý bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên. Do đó, nhất thiết cần phải có những nghiên cứu để xây dựng
phương thức đồng quản lý nhằm thu hút người dân địa phương tự nguyện tham gia
đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Nhận xét: Các nghiên cứu trước đây, phần lớn các tác giả chủ yếu tập trung nghiên
cứu đồng quản lý giữa ban quản lý khu rừng đặc dụng với cộng đồng dân cư sống
trong và gần rừng, chưa có nhiều nghiên cứu chú ý tới các cơ quan, tổ chức khác có
mối quan tâm hoặc có chức năng quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn. Mặt khác đề
xuất tổ chức bộ máy, tiến trình thực hiện đồng quản lý nhiều điểm chưa thống nhất,
chưa phù hợp với thực tiễn.
Ở tỉnh Thanh Hóa nói chung và KBTTN Xuân Liên nói riêng chưa có một
nghiên cứu nào có tính hệ thống về quản lý rừng cộng đồng hay đồng quản lý tài
nguyên rừng. Vì vậy, nghiên cứu của đề tài là cơ sở giải quyết những khó khăn
trong công tác quản lý tài nguyên rừng và phát triển kinh tế - xã hội của KBTTN
Xuân Liên - Thanh Hóa.


20
Chương 2
MỤC TIÊU - ĐỐI TƯỢNG - PHẠM VI - NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Về mặt lý luận
Nghiên cứu xác định một số cơ sở khoa học về đồng quản lý tài nguyên rừng.
2.1.2. Về mặt thực tiễn

Đề xuất được một số nguyên tắc và giải pháp cơ bản làm cơ sở cho công tác
đồng quản lý rừng tại KBTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
2.2. Đối tượng và phạm vi, giới hạn nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Cơ chế chính sách của các cấp có liên quan đến công tác quản lý KBTTN
Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
- Kiến thức bản địa và thể chế của cộng đồng dân cư địa phương trong quản
lý tài nguyên thiên nhiên KBTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
- Tổ chức quản lý KBTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
- Tài nguyên thiên nhiên KBTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
2.2.2. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Do điều kiện về thời gian, nhân lực và kinh phí, đặc biệt là nội dung và
phương pháp của đề tài đòi hỏi thời gian dài và nhân lực nhiều, nên phạm vi nghiên
cứu được giới hạn cụ thể ở một xã mang tính đại diện nhất là xã Xuân Cẩm - huyện
Thường Xuân - tỉnh Thanh Hóa làm cơ sở đề xuất nguyên tắc, giải pháp đồng quản
lý rừng KBTTN Xuân Liên.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng quản lý rừng tại KBTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
- Đánh giá tiềm năng đồng quản lý tại KBTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.
- Phân tích mối quan tâm và mâu thuẫn ảnh hưởng đến sự liên kết giữa các
bên liên quan đến đồng quản lý.
- Thiết lập các nguyên tắc và đề xuất một số giải pháp thực hiện đồng quản
lý rừng tại KBTTN Xuân Liên.


21
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Thu thập tài liệu thứ cấp
Tài liệu thứ cấp là các tài liệu đã được tổng hợp và xử lý, có sẵn ở các cơ
quan và ban ngành các cấp từ trung ương tới địa phương. Những tài liệu cần thu

thập là: Điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế, văn hóa, xã hội; Các văn bản pháp
quy, quy chế, nội quy, quy định về quy hoạch sử dụng đất, công tác quản lý bảo vệ
rừng; Dự án xây dựng KBTTN Xuân Liên, ngoài ra cần các tài liệu nghiên cứu về
đa dạng sinh học KBTTN Xuân Liên... Tất cả những tài liệu này sẽ là cơ sở để tổng
hợp phân tích và đánh giá vấn đề đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên KBTTN
Xuân Liên tỉnh Thanh Hóa.
2.4.2. Khảo sát thu thập tài liệu sơ cấp
Tài liệu sơ cấp là tài liệu được tác giả thu thập trực tiếp ngoài thực địa bằng
các kỹ năng và phương pháp dưới đây:
2.4.2.1. Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu
Tiêu chí chọn xã:
- Có địa bàn quản lý hành chính nằm trong địa phận hoặc nằm ở vùng đệm
KBTTN Xuân Liên, là nơi có tính đa dạng sinh học cao cần phải bảo tồn.
- Người dân trong xã có các hoạt động phụ thuộc vào rừng như: Du lịch, đất
canh tác nông nghiệp, lâm sản gỗ và ngoài gỗ, động vật và các tài nguyên khác.
- Có rừng được quản lý dưới dạng cộng đồng dân cư như: Rừng phòng hộ,
sản xuất, rừng thiêng...
- Có vị trí quan trọng trong việc tuần tra, kiểm soát các hoạt động khai thác
lâm sản trong khu KBTTN Xuân Liên và vùng đệm.
Trên cơ sở các tiêu chí như trên, xã Xuân Cẩm được chọn làm địa điểm
nghiên cứu điểm trong đề tài.
2.4.2.2. Phương pháp điều tra


Điều tra đánh giá các giá trị đa dạng sinh học cần phải bảo tồn

Đa dạng sinh học KBTTN Xuân Liên mới được điều tra đánh giá, nên đề tài
sẽ kế thừa các tài liệu đã có là chủ yếu, chỉ kiểm tra bổ sung cập nhật một số thông
tin ngoài thực địa về hiện trạng rừng, thực vật bậc cao có mạch và động vật có
xương sống, nhằm đánh giá mức độ đe dọa. Sử dụng phương pháp điều tra theo



22
tuyến kết hợp với phỏng vấn người dân để điều tra đa dạng về thực vật; Sử dụng
phương pháp phỏng vấn người dân, thợ săn để điều tra đa dạng về động vật.


Điều tra tiềm năng đồng quản lý trong cộng đồng

Sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA - Rapid Rural
Appraisal) để thu thập những thông tin bổ sung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội, ảnh hưởng của các nhân tố này đến công tác bảo tồn, cũng như thuận lợi, khó
khăn, nguy cơ, thách thức trong công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên. Phương pháp
đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA- Participatory Rural Appraisal): Được áp
dụng để củng cố những thông tin thu thập được từ phương pháp kế thừa và phương pháp
RRA. Đồng thời, xác định những phong tục, tập quán, kiến thức và thể chế bản địa liên
quan đến việc bảo tồn và tiềm năng đồng quản lý của cộng đồng dân cư, các tổ chức, vai
trò của các bên liên quan, mâu thuẫn và khả năng hợp tác của các bên liên quan.
Để thực hiện phương pháp trên cần có sự giúp đỡ của một số cán bộ địa
phương, cán bộ kỹ thuật tại Ban quản lý KBTTN Xuân Liên. Tuy ngày nay cùng
với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật thì một phần trong số họ đã được tiếp cận
với những phương pháp điều tra xã hội mới này thông qua các chương trình, dự án.
Nhưng để nâng cao tính chính xác, hiệu quả của đề tài nên trước khi điều tra ở thực
địa tiến hành tập huấn kỹ thuật cho các cán bộ của KBTTN và cán bộ xã, nhằm
thống nhất phương pháp làm việc cho hiệu quả của những thành phần tham gia thực
hiện.
 Các công cụ sử dụng trong điều tra:
- Sơ đồ quản lý và sử dụng tài nguyên thôn, xóm; trên đó thể hiện các nguồn
tài nguyên, các hình thức quản lý và sử dụng tài nguyên.
- Phân tích giới trong quản lý sử dụng tài nguyên

- Ma trận đánh giá tình hình sử dụng một số loại lâm sản chủ yếu.
- Ma trận và sơ đồ đánh giá tiềm năng các bên liên quan.
- Ma trận đánh giá mâu thuẫn trong quản lý sử dụng tài nguyên rừng.
- Ma trận đánh giá khả năng tham gia của các đối tác trong quản lý Khu
BTTN.
- Bảng câu hỏi phỏng vấn bán định hướng các cơ quan cấp huyện, cấp xã,
trưởng thôn và hộ gia đình.


23
 Phương pháp chọn hộ gia đình phỏng vấn:
Bảng phỏng vấn bán đinh hướng được chuẩn bị trước; Trong đó: Số hộ được
phỏng vấn 90 HGĐ/3 cộng đồng dân tộc với đầy đủ các nhóm hộ khá, trung bình,
nghèo. Nội dung phỏng vấn là các vấn đề liên quan đến các nguồn thu nhập, các
hình thức và nguyên nhân tác động làm suy giảm tài nguyên trong khu bảo tồn.
Phương pháp chọn hộ gia đình để phỏng vấn như sau:
Trước tiên thống nhất với trưởng thôn về tiêu chí và cách phân loại hộ gia
đình trong thôn nhằm đánh giá kinh tế hộ gia đình.
- Nếu thôn chưa phân loại hoặc đã phân loại nhưng không có hộ giàu và khá
thì đề nghị trưởng thôn lập một danh sách phân loại thành 3 nhóm hộ:
+ Nhóm loại 1: Có điều kiện kinh tế tốt nhất.
+ Nhóm loại 2: Có điều kiện kinh tế trung bình.
+ Nhóm loại 3: Có điều kiện kinh tế kém nhất.
Sau đó rút ngẫu nhiên lấy 90 hộ để phỏng vấn.
- Nếu đã phân loại theo tiêu chí của huyện, tỉnh hoặc nhà nước thì lấy danh
sách đó và chọn ngẫu nhiên 90 hộ đại diện cho 3 nhóm dân tộc để phỏng vấn: 30 hộ
người Mường, 30 hộ người Kinh, 30 hộ người Thái với phân bố đầy đủ cho các
nhóm hộ khác nhau như: Khá, trung bình, nghèo.
 Phương pháp chọn nhóm người dân (cộng tác viên) tham gia thảo luận:
+ Về số lượng: Mỗi thôn có 8 - 10 người tham gia thảo luận.

+ Về tuổi tác bao gồm: Người cao tuổi, trung niên, thanh niên.
+ Về kinh nghiệm, trình độ: Bao gồm những người hiểu biết rõ về thôn, xóm;
là người sống lâu đời trong thôn, xóm; có kiến thức bản địa.
+ Về nghề nghiệp bao gồm:
- Nhóm nam có 4 - 5 người hay đi rừng lấy củi và các loại lâm sản khác.
- Nhóm nữ có 4 - 5 người có kinh nghiệm đi rừng lấy củi, lấy rau, lấy các lâm
sản khác.
- Mỗi nhóm có 2 - 3 người của các đoàn thể như: Hội phụ nữ, hội nông dân,
đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh...


24
 Phương pháp thảo luận nhóm:
Phương pháp này được thực hiện bằng các cuộc thảo luận được tiến hành
dựa trên khung thảo luận chuẩn bị sẵn, nhóm thảo luận gồm 8 - 10 người gồm đại
diện các nhóm hộ gia đình, lãnh đạo thôn, đoàn thể. Những người này phải là người
có kinh nghiệm, hiểu biết rõ về phong tục tập quán của người dân, nguồn tài nguyên
trong khu bảo tồn và đại diện cho từng nhóm người khác nhau về: Tuổi tác, kinh
nghiệm, trình độ, nghề nghiệp, giới...
Thảo luận nhóm nhằm bổ sung và thống nhất về các hình thức, mức độ tác
động của người dân vào rừng và đất rừng của KBTTN, các nguyên nhân của sự tác
động đó. Những khó khăn và khuyến nghị của cộng đồng trong quản lý và bảo vệ
tài nguyên rừng.
2.4.2.3. Phương pháp chuyên gia
Để kiểm tra mức độ chính xác của các thông tin thu được, nâng cao tính
đúng đắn của các giải pháp được đề xuất. Đề tài chọn phương pháp là dựa vào kinh
nghiệm và hiểu biết của các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là
các chuyên gia về lĩnh vực quản lý rừng, phát triển nông thôn miền núi để kiểm tra
những thông tin thu được trong đề tài, kiểm tra các giả thiết được nêu ra.
2.4.3. Xử lý và phân tích số liệu

2.4.3.1. Xử lý, phân tích tài liệu đa dạng sinh học
So sánh danh lục và kết quả điều tra, bổ sung nếu phát hiện thêm các loài
mới cho khu hệ động, thực vật và tình trạng của khu hệ động vật, thực vật.
2.4.3.2. Xử lý, phân tích tài liệu điều tra xã hội
- Số liệu thu thập qua bảng phỏng vấn bán định hướng được xử lý và phân tích
định lượng bằng phần mềm Excel. Kết quả xử lý được thể hiện theo dạng phân tích,
mô tả, và hệ thống các bảng biểu.
- Ngoài ra, các kết quả thảo luận các thông tin định tính như chính sách, tổ chức
cộng đồng, thể chế cộng đồng, thị trường... được phân tích theo phương pháp định
tính. Kết quả xử lý được thể hiện theo dạng phân tích, đánh giá.
- Dùng phương pháp phân tích tổng hợp, mô tả, so sánh, đánh giá để tìm ra tiềm
năng phát triển đồng quản lý tài nguyên rừng.
- Phân tích kết quả quy hoạch sử dụng đất, các kết quả thảo luận xây dựng tổ
chức đồng quản lý rừng từ đó so sánh, đánh giá tìm ra tiến trình, nguyên tắc và
những giải pháp cơ bản, thích hợp cho phương thức đồng quản lý rừng KBTTN
Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa.


25
Chương 3
ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý, hành chính
KBTTN Xuân Liên nằm cách thành phố Thanh Hóa 65km về phía Tây Nam,
thuộc địa giới của huyện Thường Xuân. Có tổng diện tích là 26.303,62 ha.
Vị trí địa lý:

- Từ 19051’53’’ đến 19059’ độ vĩ Bắc.
- Từ 104057’ đến 105011’32’’ độ kinh Đông.


- Phía Bắc giáp xã Lương Sơn, Yên Nhân - Thường Xuân.
- Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An và xã Vạn Xuân - Thường Xuân.
- Phía Đông giáp xã Xuân Cẩm - Thường Xuân.
- Phía Tây giáp tỉnh Nghệ An và xã Bát Mọt - Thường Xuân.
Vùng đệm KBTTN bao gồm 5 xã Bát Mọt, Yên Nhân, Lương Sơn, Xuân
Cẩm và Vạn Xuân.
3.1.2. Địa hình, địa mạo
Địa hình bị chia cắt mạnh do lịch sử kiến tạo địa chất, khu vực thuộc vùng
núi thấp miền Trung. Gồm các kiểu địa hình đồi, núi, sông, hồ xen kẽ nhau. Có
kiểu địa hình chính sau:
- Vùng núi trung bình: Có độ cao từ 800 - 1700m, phân bố giữa hai thung
lũng sông Khao và Nậm Boong. Đây là vùng bị chia cắt mạnh, độ dốc phổ biến
>350, xen vào giữa dãy núi là các thung lũng hẹp, sâu, dốc. Điển hình là dãy núi
trung lưu sông Chu chạy từ Sầm Nưa (Lào) có nhiều đỉnh núi cao nổi trội như: Ba
Tu Leo cao 1400m, núi Bù Gió 1563m, nằm về phía Nam Bản Vịn.
- Vùng núi thấp và đồi cao: Độ cao dưới 800m tập trung về phía Đông và
phía Nam. Độ dốc trung bình từ 20 - 250, mức độ chia cắt ít phức tạp hơn.
- Kiểu địa hình hồ và thung lũng: Gồm hồ Cửa Đạt và các thung lũng xen lẫn
giữa các khu đồi núi thấp, hồ có diện tích 2.829 ha.
3.1.3. Địa chất, thổ nhưỡng
3.1.3.1. Địa chất
Đây là khu vực được cấu tạo bằng các loại đá khác nhau từ các đá trầm tích như
(đá phiến, đá vôi, phiến thạch sét) đến các đá phun trào spilite, aldezit và các đá
biến chất như đá hoa, phiến mica. Phần lớn các dãy núi cao, trung bình được cấu tạo


×