Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc được đồng bào dân tộc dao sử dụng tại vườn quốc gia hoàng liên, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-------------------

NGUYỄN HỒNG PHONG

NGHIÊN CỨU NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC ĐỒNG
BÀO DÂN TỘC DAO SỬ DỤNG TẠI VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG
LIÊN, TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-------------------

NGUYỄN HỒNG PHONG

NGHIÊN CỨU NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC ĐỒNG
BÀO DÂN TỘC DAO SỬ DỤNG TẠI VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG
LIÊN, TỈNH LÀO CAI

Chuyên ngành: Lâm Học
Mã số: 60.62.02.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ THỊ XUYẾN

HÀ NỘI, 2012


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cuộc sống ngày nay khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì
những vấn đề về sức khỏe con người ngày càng được quan tâm hơn bao giờ hết,
nhận thức của con người ngày càng được tăng lên, còn người càng muốn hướng tới
một cuộc sống mà ở đó có sự phát triển bền vững. Những sản phẩm được con người
ưu tiên sử dụng là những sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên.
Việt Nam là nước có truyền thống lịch sử lâu dài với hơn bốn nghìn năm dựng
nước, giữ nước, xây dựng và phát triển. Trong thời gian đó rất nhiều bài học, kinh
nghiệm dân gian đã được người dân đúc rút thành những kinh nghiệm và truyền từ
đời này qua đời khác. Một trong những sản phẩm bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của
con người được người dân hết sức quan tâm đó là việc sử dụng những cây cỏ làm
thuốc để chữa bệnh. Từ thủa xa xưa cho đến ngày nay đồng bào các dân tộc anh em
trên đất nước ta đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu, sử dụng nguồn tài nguyên cây
thuốc chữa bệnh. Cùng với kinh nghiệm cổ truyền của dân tộc, sự phát triển của
khoa học kỹ thuật đã đưa ra cơ sở khoa học của việc sử dụng những loài cây thuốc
đó qua thành phần hóa học, tác dụng kháng khuẩn.
Cho đến năm 2012, nước ta được ghi nhận có tới gần 4700 loài thực vật được
sử dụng làm thuốc (Võ Văn Chi, 2012) [8], đây chắc hẳn chưa phải là con số đầy đủ
nếu như không muốn nói là còn ít so với những con số thực tế bởi vì kho tàng kinh
nghiệm của các dân tộc là rất lớn, trong khi công tác điều tra, nghiên cứu, thử

nghiệm, bảo tồn nguồn tài nguyên quí giá này của chúng ta vẫn còn có nhiều hạn
chế. Mặc dù xu thế hiện nay của thế giới là nghiên cứu việc chiết xuất ra các dạng
dược phẩm có giá trị nhưng việc điều tra, nghiên cứu về nguồn dược liệu của các
dân tộc hiện nay vẫn đang là vấn đề cần được quan tâm một cách sâu sắc bởi nhiều
loại bệnh cho đến nay tây y vẫn chưa có thuốc đặc trị.
Cũng như nhiều Vườn quốc gia (VQG) khác trong cả nước, VQG Hoàng Liên,
tỉnh Lào Cai có hệ thực vật nói chung, tài nguyên cây thuốc nói riêng được đánh giá
là khá phong phú và đa dạng nhưng gần đây lại đang bị suy giảm cả về số lượng
cũng như chất lượng. Dân tộc Dao là một trong số các đồng bào dân tộc có truyền
thống và nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng các loài cây thuốc phục vụ cho chữa


2
bệnh. Tuy vậy, tại đây cho đến nay các công trình nghiên cứu về cây thuốc dân tộc
vẫn chưa được quan tâm và chú ý tới nhiều. Xuất phát từ vấn đề trên, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc được đồng bào dân tộc Dao
sử dụng tại VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai”.


3
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới.
Nói đến chữa bệnh bằng cây cỏ, người ta thường nghĩ ngay tới Trung Quốc,
đát nước có nền Đông Y lâu đời. Theo tuyền thuyết của vua Thần Nông tức Viêm
Đế (3320-3080 trước công nguyên - TCN) thì Thần Nông đã nếm hàng trăm loại
cây cỏ, phân loại dược tính của thảo mộc và soạn ra cuốn sách “Thần Nông bản
thảo”. Cốn sách đã thống kê được 365 vị tuốc có giá trị [40].
Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hương, Tử đinh hương để
chế hương nang để phòng chống và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông còn

dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc gối (hương chẩm) để điều trị
chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời nhà Hán (năm 168 trước Công
nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa
bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc
trong tập “Bản thảo cương mục”[48]. Cho đến nay, Trung Quốc đã cho ra đời khá
nhiều công trình về sử dụng các loài cây cỏ để chữa bệnh.
Sử dụng thực vật gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Trải qua hàng
nghìn năm, một số lượng lớn các loài thực vật bậc cao đã và đang được con người
sử dụng làm thuốc chữa bệnh. Người ta ước tính có khoảng 35.000 - 70.000 loài
thực vật đã và đang được cọn người sử dụng vào mục đích chữa bệnh. Tại Trung
Quốc, có tới 5.000 loài thực vật dùng làm dược liệu trong y học cổ truyền. Trong hệ
thống Y học của người Trung Quốc, có 80% bài thuốc cổ truyền có sử dụng các loài
thực vật bậc cao. Việc sử dụng thực vật làm thuốc khá phổ biến ở các nước châu Á
như Ấn Độ, Hàn Quốc, Inđônêxia, Malaixia, Pakistan, Banglades, Sri Lanka,
Nêpal,[47].
Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền được hình thành cách đây hơn 3000 năm. Chủ
trương của người Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị bệnh thì các liệu pháp
tự nhiên chủ yếu thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp loại bỏ gốc rễ căn bệnh.
Bộ sử thi Vedas được viết vào năm 1.500 TCN và cuốn Charaka samhita được các
thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi Vedas, trình bày cụ thể 350 loài thảo


4
dược. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo dược như tổng hợp chất
hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học, thử nghiệm độc tính, và
nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con người. Hiện nay, chính phủ
khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng cây thuốc. Hầu hết các viện
nghiên cứu dược của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên cứu chuyển hóa các loại thuốc
và hợp chất có hoạt tính từ thực vật [43].
Ở Philippin, người ta sử dụng cây Bồ cu vẽ (Breynia fructicosa) lấy vỏ sắc

làm thuốc cầm máu hoặc tán bột rắc lên mụn nhọt, vết lở loét làm chúng chóng
khỏi.
Ở Malaixia, cây Húng chanh (Coleus amboinicus) dùng lá sắc cho phụ nữ sau
khi sinh đẻ uống hoặc giã nhỏ, vắt nước cốt cho trẻ em uống trị sổ mũi, đau họng,
ho gà.
Ở Cămpuchia, Malaixia người ta dùng Hương nhu tía (Ocimum sanctum),
trong đó rễ trị đau bụng, sốt rét; nước lá tươi có tác dụng long đờm hoặc giã nát đắp
trị bệnh ngoài da, khớp.
Trong chương trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu vực
Đông Nam Á, Perry đã ghi nhận những cây thuốc trong Y học cổ truyền và các loài
cây này đã được các nhà khoa học kiểm chứng, trong đó có 146 loài có tính kháng
khuẩn. [51]. Hay gần đây, tập thể các nhà khoa học đã cho ra đời cuốn sách Tài
nguyên các loài cây thuốc ở Đông Nam Á “Plant Resources of South-East Asia,
Medicinal and poisonous Plant (2001)” với 1000 loài cây. [55]
Từ thời cổ xưa, các chiến binh La Mã đã biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe
barbadensis) để rửa vết thương, vết loét làm cho chúng chóng lành bệnh mà ngày
nay khoa học đã chứng minh là dịch cây có khả năng làm liền sẹo thông qua sự kích
thích tổ chức hạt và tăng nhanh quá trình biểu mô hóa. Người cổ Hy Lạp đã sử dụng
rau Mùi tây (Coriandrum officinale) để đắp vết thương cho mau lành. Bên cạnh đó
Hippocrat (460 – 377 TCN) là thầy thuốc nổi tiếng người Hy Lạp được mệnh danh
là cha đẻ của y học hiện đại khi ông là người đưa ra quan niệm “Hãy để thức ăn của
bạn là thuốc và thuốc chính là thức ăn của bạn” [40].


5
Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu được các
thầy tu sưu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo mộc
bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn sách “A Physical
Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản cuốn “The English Physician”. Đây là
cuốn dược điển có giá trị và là một trong những cuốn sách hướng dẫn đầu tiên dành

cho nhiều đối tượng sử dụng, người không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang
chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay, cuốn sách này vẫn được tham khảo và trích dẫn
rộng rãi [36].
Trong Y học dân gian Liên Xô đã sử dụng nước sắc vỏ cây Bạch dương
(Betula alba), vỏ cây Sồi (Quercus robus) để rửa vết thương và tắm ghẻ. Ở nước
Nga, Đức đã dùng cây Mã đề (Plantago major) sắc nước hoặc giã nát lá tươi đắp,
chữa trị vết thương, viêm tiết niệu, sỏi thận. Tại Bungaria, “đất nước của hoa hồng”
từ lâu đã sử dụng hoa hồng để chữa nhiều bệnh khác nhau. Người ta dùng cả hoa,
lá, rễ để làm thuốc tan huyết ứ và phù thũng. Ngày nay, người ta đã chứng minh
được trong cánh hoa hồng có một lượng tanin, glusit, tinh dầu đáng kể, tinh dầu này
không chỉ để chế nước hoa mà còn được dùng để chữa nhiều bệnh. [36, 40]
Ở Cu Ba, người ta đã dùng bột papain lấy từ mủ cây Đu đủ (Carica papaya) để
kích thích hoại tử, kích thích tổ chức hạt ở các vết thương phát triển.
Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa
học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học
trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Các nhà
khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là khả năng
miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn do các hợp chất tự nhiên có
mặt phổ biến trong thực vật như phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, ancaloid,
flavonoid, saponin, … Cho đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã được giải mã về cấu
trúc, những hợp chất này được chiết xuất từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc
được giải mã, người ta có thể tổng hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall
(1950) đã phân lập được chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất
này có tác dụng với vi khuẩn lao ở người và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và
Lewis (1994) đã chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh


6
tả, lị, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta),
người ta đã chiết xuất được berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các

hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập được một
hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác dụng kháng
khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+
và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp được chiết xuất từ cây Ba
gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp
vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thư, được chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin
được chiết xuất từ cây Dương địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin được chiết xuất
từ cây Sừng dê (Strophanthus spp.) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu
nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác
dụng chữa bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
Về vấn đề sử dụng Y học cổ truyền, khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang
phát triển sử dụng các phương pháp y học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó
chủ yếu là cây cỏ. Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc
phát triển nên trong số cây thuốc đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên
4.000 loài) là được sử dụng theo kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đât nước
này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét ban đầu
được điều trị tại chỗ bằng thảo dược. Tỷ lệ dân số tin tưởng vào hiệu quả sử dụng
thảo dược và các biện pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng đang tăng nhanh ở
các quốc gia phát triển. Ở Châu Âu, Bắc Mỹ, và một số nước khác, ít nhất 50% dân
số sử dụng thực phẩm bổ sung hay thuốc thay thế từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số
sử dụng các phương thuốc có nguồn gốc thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh,
chi phí hàng năm cho các loại thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla [43].
Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con người trong việc chăm sóc sức khỏe
ngày một tăng, nhưng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm. Nhiều loài thực
vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hoạt động trực tiếp và
gián tiếp của con người. Theo tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
(IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài thực vật mà cơ quan này lưu giữ thông
tin có tới 30.000 loài được coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác



7
nhau. Trong đó có nhiều loài là cây thuốc quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng
hạn như ở Bangladesh, một số cây thuốc quý như Tylophora indicia để chữa hen,
Zannia indicia (thuốc tẩy xổ), trước đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi.
Loài Ba gạc (Rauvolfila serpentina) vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh,
Thái Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị
trường Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên tục
nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy một số bang ở Ấn Độ
đã đình chỉ khai thác loài Ba gạc này [23,26]. Ở Trung Quốc, loài Từ (Dioscorea
sp.) đã từng có trữ lượng lớn và từng được khai thác tới 30.000 tấn, nhưng hiện nay
số lượng bị giảm đi rất nhiều, có loài đã phải trồng lại. Một vài loài cây thuốc dân
tộc quý như Fritillaria cirrhosa làm thuốc ho, phân bổ nhiều ở vùng Tây bắc tỉnh
Tứ Xuyên nay chỉ còn có ở 1 đến 2 điểm với số lượng ít ỏi.
Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lượng của các loài
cây thuốc trước hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên dược liệu và do
môi trường sống của chúng bị hủy diệt bởi các hoạt động của con người. Đặc biệt, ở
các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao của
thế giới nhưng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số liệu của tổ chức Nông Lương
(FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm (1940 – 1980), diện tích của các loại
rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ước tính khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy.
Trong thế kỷ 21, với mục đích phục vụ sức khỏe con người, sự phát triển của
xã hội, chống lại các bệnh nan y thì sự cần thiết là phải kết hợp giữa Đông Y với
Tây Y, giữa Y học hiện đại và Y học cổ truyền của các dân tộc. Chính những kinh
nghiệm của các dân tộc chính là chìa khóa giúp chúng ta khám phá ra nhiều loại
thuốc mới cho tương lai. Chính vì điều đó mà việc bảo tồn, khai thác và phát triển
các loài cây thuốc cần được chú ý quan tâm.
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
Cũng như các dân tộc khác, nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có từ rất lâu
đời, nhiều phương thuốc bào chế từ cây thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân
gian. Những kinh nghiệm này đã được ghi chép thành những cuốn sách có giá trị và



8
lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Nền y học cổ truyền qua hàng nghìn năm Bắc
thuộc nên chịu ảnh hưởng rất lớn của y học cổ truyền Trung Quốc.
Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm, Việt Nam có nguồn tài
nguyên thực vật phong phú. Ước tính, nước ta có khoảng 12.000 loài thực vật bậc
cao có mạch, 800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn 2.000 loài tảo. Có khoảng gần 4.000
loài thực vật bậc cao dùng làm thuốc [38].
Một trong những tài liệu sớm nhất về cây thuốc Việt nam phải kể đến cuốn
sách “Nam Dược Thần Hiệu” và “Hông Nghĩa Giác Tư Y Thư” của Tuệ Tĩnh.
Trong tài liệu này đã mô tả hơn 630 vị thuốc, 50 đơn thuốc chữa các loại bệnh trong
đó 37 đơn thuốc chữa bệnh thương hàn. Hai cuốn sách này được xem là những cuốn
sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam. Đời nhà Trần có Phạm Ngũ Lão
thừa lệnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, thu thập trông nom một vườn thuốc
lớn để chữa bệnh cho quân sĩ, gọi là “Sơn dược”, nay vẫn còn di tích tại xã Hưng
Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đến thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông Lê
Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô
tả khá chi tiết về các loài thực vật, các đặc tính chữa bệnh [23].
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam chịu
nhiều ảnh hưởng của dược học phương Tây. Các phương thức chữa bệnh mới được
mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc đẩy quá trình
nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây thuốc nói riêng.
Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cương Đông Dương” của Lecomte (chủ biên)
xuất bản cuối thể kỷ 18 đầu thể kỷ 19 đã mô tả và phân loại hơn 7.000 loài thực vật.
Bộ sách “Danh mục các sản phẩm ở Đông Dương” của C. Crévost và A. Pétélot
năm 1935 đã thống kê được 1.340 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc được dùng trong
y học của Đông Dương [50]. Đến năm 1993 Nguyen Van Duong xuất bản cuốn
“Những cây thuốc của Campuchia, Lào và Việt Nam” với 524 trang và thống kê
khoảng 1.480 loài thực vật. Tuy nhiên cuốn sách này chưa hoàn thiện về mô tả,

phân bố, thành phần hóa học và dược lý của các loại thảo mộc [51].
Năm 1957, Hội Đông Y Việt Nam (nay là hội Y học Cổ truyền Việt Nam)
được thành lập, lãnh đạo các lương y làm nghề chữa bệnh trong nhân dân. Cũng


9
trong năm này, Viện nghiên cứu Đông Y (nay là viện Y học Cổ truyền Việt Nam)
với mục tiêu chỉ đạo các bệnh viện Y học dân tộc và các tỉnh, kết hợp giữa Y học cổ
truyền với Y học hiện đại từ trung ương đến cơ sở. Năm 1961, Viện Dược liệu được
thành lập chuyên trách việc nghiên cứu nuôi trồng dược liệu, đã tiếp thu các viện
nghiên cứu Đông Y chuyển sang, các vườn thuốc ở Văn Điển (Hà Nội), Tam Đảo
(Vĩnh Phúc), Sa Pa (Lào Cai) cũng được xây dựng từ đây. Đây là các mốc thời gian
quan trọng trong lịch sử nghiên cứu cây thuốc của đất nước [46].
Trong thời gian chiến tranh (1954-1975), vùng căn cứ ở hậu phương vẫn dùng
thuốc nam và “toa thuốc căn bản” gia giảm, thời kháng chiến chống Pháp trước đây
và phát hiện nhiều vị thuốc mới như cây Dền chữa sốt rét bổ máu, Bèo tây giải độc
hoá chất. Từ sau khi miền Nam được giải phóng, y dược học dân tộc đã phát triển ở
khắp cả nước. Nhiều công trình biên soạn giảng dạy, nghiên cứu khoa học y dược,
phòng bệnh dưỡng sinh, xoa bóp, châm cứu, trị bệnh bằng thuốc theo y học cổ
truyền, và kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại đã được tổng kết và có tác dụng
tăng cường khả năng bảo vệ sức khoẻ nhân dân [46].
Gần đây, Phạm Hoàng Hộ (1991-1993) đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt
Nam” đã giới thiệu được công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [20]. Đỗ Tất
Lợi (1995) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” và tái bản
vào năm 2000 [27,28]. Công trình này thống kê gần 800 loài cây, con và vị thuốc,
trong đó nhiều loài thực vật đã được mô tả về mặt cấu tạo, phân bố, cách thu hái và
chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng.
Võ Văn Chi (1997) trong cuốn sách từ điển cây thuốc Việt Nam, đã mô tả
được 3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500 loài thuộc 1.050 chi,
được xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của Takhtajan [7]. Tác giả đã trình bày

về cách nhận biết, các bộ phận được sử dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hóa
học, tính vị và tác dụng, công dụng của các loài thực vật. Đến năm 2000, Võ Văn
Chi và Trần Hợp tiếp tục giới thiệu cuốn sách “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” mô tả
khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao có mạch với các đặc điểm hình thái, sinh thái,
phân bố và công dụng [8].


10
Trong nghiên cứu cây thuốc, không thể không kể đến nhiều bộ công trình có
giá trị của Viện Dược liệu (Bộ Y Tế). Năm 1980, Đỗ Huy Bích và tập thể nghiên
cứu của Viện Dược Liệu đã giới thiệu 159 loài cây thuốc trong “Sổ tay cây thuốc
Việt Nam”. Hay Tập thể các tác giả Viện Dược liệu cho ra đời cuốn “Tài nguyên
Cây thuốc Việt nam” (1993) với khoảng 300 loài cây thuốc đang được khai thác và
sử dụng ở các mức độ khác nhau trong toàn quốc, “Dược điển Việt Nam, 2 tập”
(1994), “Selected medicinal plants in Vietnam” (2001), và gần đây nhất là cuốn
“Cây thuốc và động vật là thuốc ở Việt Nam, 2 tập” (2004) [3, 44, 45,46].
Trần Đình Lý (1993) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây có ích”.
Trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam có 76 loài cho nhựa
thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 chứa tanin, 500 loài cây gỗ có
giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong số các nhóm thực vật này, rất
nhiều loài có công dụng làm thuốc. Năm 1995 Vương Thừa Ân cho ra đời cuốn
“Thuốc quý quanh ta”, Ngô Trực Nhã với “Cây thuốc trong trường học”, [48].
Bên cạnh đó, nhiều cuốn sách có giá trị trong nghiên cứu về tài nguyên cây
thuốc ở Việt Nam như Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ
sách “Danh lục các loài thưc vật Việt Nam” [2]. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ các
thông tin về tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh
thái và công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu hệ thực vật nói chung
và tra cứu thành phần loài cây thuốc nói riêng.
Về vấn đề sử dụng cây thuốc của các dân tộc thiểu số nói chung, do đời sống
gắn liền với khai thác sử dụng thực vật nên có nhiều kinh nghiệm và tri thức quý

trong quá trình chế biến, sử dụng thực vật; đặc biệt là các kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc. Tuy nhiên, các tri thức và kinh nghiệm dân tộc thường được sử dụng và lưu
truyền trong một phạm vi hẹp (dân tộc, dòng họ, gia đình), vì vậy không được phát
huy để phục vụ cho xã hội và có nguy cơ thất thoát rất cao. Nhận thức được tầm
quan trọng này, trong khoảng 10 năm trở lại đây, nghiên cứu cây thuốc dân tộc
được đặc biệt quan tâm tại một số cơ sở của nước ta và đã thu được nhiều kết quả
khả quan. Kết quả điều tra được ghi nhận là các kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của
cộng đồng dân tộc ở các địa phương trong cả nước [21].


11
Các nhà khoa học thuộc Viện Dược liệu (Bộ Y tế), Viện Sinh thái và Tài
nguyên Sinh vật, trường Đại học Dược Hà Nội trong những năm qua đã có nhiều
công trình nghiên cứu về trí thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Đặc biệt là các nghiên cứu về y học cổ truyền của các dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc trong những năm gần đây. Nhiều nghiên cứu về cây
thuốc đã được thực hiện với các công đồng dân tộc thiểu số như: H’ Mông, Dao, Tu
Dí, Mường, như:
+ Điều tra nghiên cứu về tri thức bản địa và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc
của đồng bào Thái tại Mai Châu – Hòa Bình của tác giả Nguyễn Tiến Bân và cộng
sự vào năm 2001;
+ Nghiên cứu và ứng dụng thành công tri thức sử dụng cây Ngấy (Rubus
cochinchinesis) của đồng bào dân tộc trong việc chữa trị u tiền liệt tuyến của tác giả
Lưu Đàm Cư và cộng sự, năm 2002.
+ Năm 2001, Nguyễn Thị Phương Thảo và cộng sự đã điều tra đánh giá về tài
nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng các loài thực vật làm thuốc của một số
cộng đồng dân tộc Dao, Tày và Hoa tại Yên Tử - Quảng Ninh và đã thu thập được
362 loài thực vật làm thuốc. Năm 2005, tác giả và cộng sự thực hiện đề tài “Nghiên
cứu tác động kinh tế - dân sinh của các cộng đồng dân tộc vào tài nguyên thực vật
và ảnh hưởng của nó tới đa dạng sinh học tại Chiềng Yên – Mộc Châu – Sơn La”.

Kết quả đã thống kê được 209 loài cây thuốc do người Mường sử dụng và 176 cây
thuốc được người Dao sử dụng [23].
+ Trần Văn Ơn (2006), “Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân
tộc Dao tại VQG Ba Vì”. Luận án tiến sĩ dược học.
+ Năm 2008, Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự về “Cây thuốc của đồng bào dân
tộc Thái ở Con Cuông, tỉnh Nghệ An” [40].
Kết quả của các nghiên cứu trên cho thấy các dân tộc nước ta có nhiều tri thức
quý giá và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc độc đáo để phòng và chữa bệnh.
Nhiều bài thuốc dân tộc có hiệu quả chữa trị cao đã được thu thập và đưa vào
nghiên cứu thực nghiệm. Đồng thời, đã phát hiện nhiều loài cây thuốc mới; đặc biệt
là các công dụng mới của nhiều loài cây thuốc. Như vậy, nghiên cứu cây thuốc


12
truyền thống của các dân tộc thiểu số đã góp phần sử dụng hiệu quả hơn nguồn tài
nguyên cây thuốc ở nước ta.
Cùng với việc điều tra thành phần loài, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các
cộng đồng thiểu số; nghiên cứu sàng lọc các bài thuốc dân tộc sử dụng rộng rãi góp
phần chăm sóc sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế xã hội được chú trọng
nghiên cứu trong những năm gần đây. Từ kinh nghiệm truyền thống của các dân tộc
đã có những nghiên cứu và sản xuất thành công các loại thuốc chữa bệnh cho người
dân. Có thể nhận thấy, nghiên cứu cây thuốc dân tộc không chỉ góp phần sử dụng
bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc của đất nước, mà còn là cơ sở để sản xuất các
loại dược phẩm mới để điều trị các bệnh hiểm nghèo. Đây thực sự là hướng nghiên
cứu có triển vọng lớn trong tương lai.
1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở VQG Hoàng liên, tỉnh Lào
Cai.
Đề án "Điề u tra đánh giá dươ ̣c liê ̣u mô ̣t số vùng tro ̣ng điể m của tỉnh Lào
Cai" (Viện Dược liệu 1997, 1998) đã thố ng kê có 706 loài cây thuố c có tiề m năng
làm thuố c ở huyê ̣n Sa Pa, trong đó có xã Tả Van và xã Bản Hồ. Theo điều tra sơ bô ̣

của Viện Dược liê ̣u chỉ có 17 loài còn trữ lượng khá, có khả năng khai thác tự nhiên. Phần
lớn là các cây thuốc thông thường. Có 35 loài cây thuố c bi ̣ đe do ̣a ở các mức đô ̣ khác
nhau bao gồm 10 loài ở mức độ E (Endangered - đang nguy cấp); 8 loài ở mức đô ̣
V (Vulnerable - sẽ nguy cấp); 10 loài ở mức độ R (Rare- hiế m); 7 loài ở mức đô ̣ T
(Threatened - bị đe do ̣a). Có 98 loài cây thuốc đươ ̣c trồ ng ở huyê ̣n Sa Pa. Trong đó
23 loài đươ ̣c trồng phổ biến như: Thảo quả, Bạch truâ ̣t, Đỗ tro ̣ng, Laõ quan thảo,
Đương quy. Phầ n lớn các cây là nhâ ̣p nô ̣i, chỉ có mô ̣t số loài là bản đia.̣
Năm 2003, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, thuộc Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam đã tiến hành đề tài “Xây dựng luận cứ khoa học để bảo vệ tri
thức bản địa cho việc sử dụng đa dạng sinh học” có triển khai tại một số điểm của
huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, nhưng đây chỉ là một số ghi nhận nhỏ [47].
Năm 2008, Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự công bố “Đa dạng sinh học VQG
Hoàng Liên” trong đó có ghi nhận nằm trong khu vực VQG có 761 loài cây thuốc.
Cũng theo tác giả thì nơi đây là trung tâm của các loài cây thuốc nguy cấp, một số


13
loài cây thuốc quí hiếm như Ô đầu (Aconitum camichaeli), Bạch chỉ (Angelica
dahurica), Đương quy (Angelica uchiyamae), Dâm dương hoắc (Epimedium
macranthum), Tam thất (Panax stipuleanatus), Hoàng liên (Coptis chinensis).
Nhưng đây là công trình tổng hợp về đa dạng sinh học nói chung của cả vườn quốc
gia, không có ghi nhận về các bài thuốc của đồng bào các dân tộc nơi đây [41]. Năm
2011, Nguyễn Thị Minh Hải đã điều tra và đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc của
đồng bào dân tộc H’Mông tại xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sa Pa, tỉnh Lào
Cai (2 trong 4 xã vùng lõi của VQG Hoàng Liên) [16].
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về vấn đề
cây thuốc và vị thuốc của đồng bào dân tộc Dao tại VQG Hoàng Liên được xuất
bản, chưa có dự án nào về bảo tồn các bài thuốc hiện có của đồng bào dân tộc Dao
nơi đây.



14
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá sự đa dạng tài nguyên cây thuốc, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của
đồng bào dân tộc Dao ở tại VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
Xác định được các loài cây sử dụng làm thuốc và kinh nghiệm sử dụng và phát
triển tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao trong khu vực VQG Hoàng
Liên. Đưa ra giải pháp bảo tồn một số loài cây làm thuốc có giá trị.
2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Toàn bộ các loài thực vật được đồng bào dân tộc Dao tại VQG Hoàng Liên, tỉnh
Lào Cai sử dụng làm thuốc chữa bệnh.
- Các bài thuốc dân tộc của đồng bào dân tộc Dao ở VQG Hoàng Liên.
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 09 năm 2012.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Điều tra thu thập thông tin, xây dựng danh lục về các loài cây có tác dụng
làm thuốc được đồng bào dân tộc Dao sử dụng trong VQG.
2.3.2. Phân tích, đánh giá tính đa dạng các loài cây thuốc: đa dạng các bậc phân
loại, dạng sống, sự phân bố các loài cây thuốc theo môi trường sống, xây
dựng sơ đồ phân bố các loài cây thuốc có giá trị cần được bảo vệ.
2.3.3. Vấn đề sử dụng cây thuốc: Đa dạng về công dụng chữa trị của các loài cây
thuốc, bộ phận của cây được sử dụng làm thuốc. Một số bài thuốc.
2.3.4. Các giải pháp bảo tồn các loài cây thuốc và nguồn tri thức bản địa cho cộng
đồng dân cư địa phương: Điều tra về thị trường cây thuốc, tình hình khai thác
tiêu thụ và bảo tồn các loài cây sử dụng làm thuốc và bài thuốc dân gian.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Điều tra thực địa theo tuyến:

Điều tra khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành chọn tuyến điều tra. Tuyến được
chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh cảnh đặc trưng cho VQG. Trên


15
mỗi tuyến cắt ngang chọn các ô tiêu chuẩn là những điểm chốt đặc trưng nhất để
nghiên cứu đa dạng tài nguyên cây thuốc (theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997).
Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc
Dao sử dụng trong phạm vi 10 m mỗi bên. Mỗi loài lấy 5-6 tiêu bản.
Sau thời gian một năm với 2 chuyến điều tra thực địa, được sự giúp đỡ của
BQL VQG Hoàng liên và các trạm kiểm lâm trực thuộc, các ông lang, bà mế, chúng
tôi đã tiến hành 2 chuyến điều tra khảo sát và thu mẫu trong phạm vi khu vực
nghiên cứu.
- Các tuyến điều tra thực địa là:
+ Xã Tả Van: tuyến đi Tả Van Dáy, tuyến đi Tả Van Mông, tuyến đi Séo Mý
Tỷ, tuyến đi Dền Thàng.
+ Xã San Sả Hồ: tuyến đi suối Cát Cát, tuyến đi Ý Linh Hồ, tuyến đi Sín Chải,
tuyến đi Suối vàng - Thác tình yêu.
+ Xã Bản Hồ: tuyến đi Hoàng Liên, tuyến đi Séo Trung Hồ, tuyến đi Nậm
Toóng, tuyến đi Ma Quái Hồ và Tả Trung Hồ.
+ Xã Lao Chải: tuyến đi Lao Chải San, tuyến đi Lồ Hàng Chải, Lý Lao Chải.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn điều tra một phần tại các xã vùng đệm để thấy rõ
tình hình sử dụng, cũng như buôn bán nguồn dược liệu như xã Mường Khoa, Thân
Thuộc (Lai Châu).
- Các ông lang, bà mế đã phỏng vấn là:
+ Bà Bàn Thị Mủi, thôn Hoàng Liên, xã Bản Hồ.
+ Ông Triệu Văn Trọng, thôn Hoàng Liên, xã Bản Hồ.
+ Bàn Thị Hưởng, bản Lao Chải San, xã Lao Chải.
+ Bà Sùng Thị Mủa, bản Lồ Lao Chải, xã Lao Chải.
+ Bà Bàn Thị Hưởng, bản Lao Chải San, xã Lao Chải.

+ Ông Triệu Thừa Trung, bản Cát Cát, xã San Sả Hồ.
+ Bà Bùi Thị Hà, bản Cát Cát, xã San Sả Hồ.
+ Ông Thân Văn Hướng, thôn Gia Hòa, xã Thân Thuộc.
+ Ông Chảo Văn Định, bản Giền Thăng, xã Thân Thuộc.
+ Ông Văn Tử Tuân, bản Sang Ma, xã Thân Thuộc.


16
+ Bà Bùi Thị Hiển, thôn Hoàng Liên, xã Mường Khoa.
Ngoài ra, chúng tôi còn phỏng vấn người dân buôn bán, kể cả tiểu thương tại
chợ Sa Pa.
2.4.2. Thu thập số liệu, tài liệu:
+ Tiến hành thu thập số liệu từ các nguồn thông tin đáng tin cậy như các báo cáo
khoa học của khu bảo tồn, kỷ yếu, tạp chí khoa học, internet.
+ Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA): Phỏng
vấn đồng bào, các cán bộ làm công tác quản lý, nhất là các ông lang, bà mế, các
lương y dân tộc Dao tại khu vực VQG Hoàng Liên. Thông qua các bảng câu hỏi đã
được xây dựng sẵn để sưu tầm và phát hiện các bài thuốc, cây thuốc sử dụng theo
kinh nghiệm dân gian. Mỗi cây thuốc, bài thuốc đều có mẫu thu và ghi chép các
thông tin cần thiết như công dụng, bộ phận sử dụng, cách sử dụng của cây (phụ lục
2).
+ Thu thập các loài thực vật làm thuốc được đồng bào dân tộc Dao ở khu vực VQG
sử dụng (theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997; Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006).
2.4.3. Xử lý số liệu
+ Phương pháp chuyên gia: Dựa vào kinh nghiệm của các chuyên gia đặc biệt là các
vấn đề như xác định tên khoa học của các mẫu đã thu hái, các thuật ngữ về các bệnh
được chữa trị.
+ Phương pháp xử lý mẫu vật, chỉnh lý tên khoa học (theo Nguyễn Nghĩa Thìn,
1997). Các tiêu bản tươi được thu thập ngoài thực địa tiếp tục xử lý trong phòng thí
nghiệm tại Phòng Thực vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Các mẫu sau khi

sấy khô được ngâm tẩm bằng dung dịch cồn chứa 0,3-0,5% HgCl2 để diệt khuẩn và
chống côn trùng phá hại. Các mẫu tiêu bản được sấy khô, ép khẳng, trình bày và
khâu trên giấy bìa cứng kích thước 28 cm x 42 cm.
+ Xác định tên khoa học, kiểm tra, chỉnh lý tên theo các tài liệu chính là các tập Cây
cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ), Thực vật chí Việt Nam (nhiều tác giả), Danh lục
các loài thực vật ở Việt Nam (nhiều tác giả) cùng nhiều tài liệu liên quan khác.
+ Xây dựng danh lục: Điều chỉnh khối lượng họ, chi theo hệ thống của bộ Sách
“Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam” 3 tập [4,5,6]. Danh lục được xây dựng theo


17
nguyên tắc sự phát triển của các ngành thực vật từ Lá thông đến thực vật Hạt kín.
Trong mỗi ngành các họ, chi loài được xếp theo vần ABC. Riêng ngành thực vật
Hạt kín do khối lượng lớn nên chia thành 2 lớp Hai lá mầm và lớp Một lá mầm, sau
đó cũng xếp tương tự như trên. Danh lục ngoài tên khoa học, tên Việt Nam của các
loài còn có các thông tin khác như công dụng, dạng sống, môi trường sống của các
loài thực vật, bộ phận sử dụng và cách thức sử dụng loài đó làm thuốc như mô hình
bảng 2.1.
Bảng 2.1. Bảng danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu)
TÊN KHOA

TT

HỌC

TÊN
VIỆT
NAM

CÔNG

DỤNG

BỘ
PHẬN
DÙNG

CÁCH

DẠNG

DÙNG

CÂY

MÔI
TRƯỜNG
SỐNG

1
2
3
+ Xác định các loài quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt: Trên cơ sở danh lục thực vật,
lập danh sách các loài quí hiếm ở VQG Hoàng liên, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai. Các
loài được xác định quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt dựa vào tiêu chí của các công
trình sau:
-

Sách đỏ Việt Nam, 2007 [4];

-


Danh lục các loài thực vật quý hiếm của IUCN, 2009 [24];

-

Nghị định số 32 của chính phủ về các loài động thực vật quý hiếm [10].

+ Đánh giá tính đa dạng của các loài cây thuốc, về dạng sống của các loài cây
thuốc, mô trường sống của các loài cây thuốc, về tần số sử dụng các bộ phận, về số
lượng các bộ phận sử dụng làm thuốc (theo Viện Dược liệu).
+ Các nhóm bệnh được phân chia theo tài liệu của Lê Trần Đức (1997) “Cây thuốc
Việt Nam trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu”. Chi tiết như sau:
- Nhóm 1: Bệnh ngoại cảm (gồm cảm mạo phát sốt ớn lạnh, nghẹt mũi, cảm cúm
hơi sốt sợ lạnh, đau mỏi, cảm gió lạnh, rét run, cảm nóng rét nắng mưa thời khí hỗn
tạp, cảm về mùa hè nôn đầy, cảm cúm mùa hè sốt dai đau mình, cảm nắng hay sốt


18
nóng đơn thuần, nóng rét qua lại, sốt rét cơn, sốt dị ứng, phát ngứa sưng phù, bệnh
ôn nhiệt sốt hè thu, trúng gió méo mồm lệch mắt, trúng phong thấp hôn mê co cứng,
trúng phong hàn hôn mê quyết lạnh).
- Nhóm 2: Bệnh về hô hấp (ngạt mũi, sổ mũi, hắt hơi, viêm mũi dị ứng, ho, viêm
họng, ho đờm, ho khan, viêm phế quản, viêm phổi, sưng phổi, hen phế quản, hen
suyễn, suyễn thở, ho lao).
- Nhóm 3: Bệnh về huyết mạch (gồm các loại chảy máu, huyết áp cao, huyếp áp
thấp, hạ đường huyết, mạch máu xơ cứng (tắc mạch, giãn mạch), đau tim).
- Nhóm 4: Bệnh về tâm thần (gồm khó ngủ hồi hộp, ngủ lờ mờ không sâu, dễ tỉnh,
điên cuồng, tinh thần phân liệt (sầu uất), động kinh, kinh giản).
- Nhóm 5: Bệnh về tiêu hoá (nghẹn nuốt khó, nấc cụt, ợ, nôn oẹ, nôn mửa, đau
bụng không tiêu, đau bụng lạnh dạ, nóng ruột, chán cơm, táo bón, ỉa chảy phân

loãng, sống phân, ỉa xối ra nước không dứt, lỵ mới phát, lỵ ra máu, có sốt, lỵ mạn
tính, thổ tả, đau bụng giun quấy, trục giun, ngộ độc, đau dạ dày, viêm đại tràng mạn
tính, lòi dom và trĩ mới phát).
- Nhóm 6: Bệnh về tiết niệu và gan thận (gồm tiểu tiện không thông, đái buốt, đái
đục, đái ra dưỡng chất, đái ra cát sỏi, phù thũng, viêm cầu thận cấp, thuỷ thũng,
viêm gan, truyền nhiễm, sưng gan (áp-xe), viêm gan mãn tính, xơ gan mãn tính, xơ
gan cổ trướng, viêm túi mật, sỏi mật, đái tháo nhạt không rõ nguyên nhân, đái tháo
đường, viêm tiền liệt tuyến, vô niệu do nhiễm độc hay uất hoả).
- Nhóm 7: Bệnh về sinh dục (gồm thận hư, tinh yếu, di mộng tiết hoạt tinh, liệt
dương).
- Nhóm 8: Bệnh suy nhược không đau (gồm cơ thể hư nhược, tinh thần suy
nhược, tự ra mồ hôi khi ra gió, ra mồ hôi ở tay chân, bốc nóng giữa đỉnh đầu).
- Nhóm 9: Các bệnh đau nhức (đau đầu chóng mặt, đau đầu ê ẩm, nặng đầu, đau
đầu như búa bổ, đau nửa đầu liền với mắt, mắt đau sưng đỏ, đau mắt trắng, mắt mờ,
đau răng, viêm lợi, đau ngang lưng (thần kinh hông), phong thấp, tê thấp, thấp thở,
phong nhiệt nhức nhói, đầu gối sưng đau, tê phù, đau lưng trên, bả vai, cánh tay, nổi
hạch, u, viêm hạch, lao hạch, viêm tinh hoàn (sa đì), bại liệt nửa người, xuất huyết
dạng thấp (thấp cơ).


19
- Nhóm 10: Bệnh ngoài da (gồm đơn độc sưng tấy, mụn nhọt, lở ngứa các loài,
thuốc dùng ngoài đối với từng loại lở ngứa, lở nấm, tổ đỉa, chín mé, hắc lào, lở
chàm, ghẻ, lang ben, lang trắng, mụn cóc, bướu cổ, phủi, lở cùi, tràng nhạc hay lao
hạch).
- Nhóm 11: Bệnh ngoại thương (gồm bị thương, bị ngã, bị thương chảy máu, bị
bỏng, rắn cắn).
- Nhóm 12: Bệnh phụ nữ (gồm kinh không đều, thấy sớm kỳ, kinh thấy chậm kỳ,
kinh loạn kỳ, kinh nguyệt gián đoạn thất thường, kinh bế, rong kinh, băng huyết nhẹ
do cơ năng; khí hư, bạch đới, viêm phần phụ, viêm âm hộ, âm đạo sưng đau, Sa

sinh dục (sa dạ con), u xơ tử cung, mót đái do viêm các cơ quan sinh dục, vô kinh
do giảm chức năng buồng trứng, tắc tia sữa, viêm tuyến vú, u xơ tuyến vú, áp xe vú,
nhọt vú, vú bị lở, đứt cổ gà, nôn nghén, động thai, phòng sẩy thai, sau khi đẻ say
máu; sau khi đẻ cảm sốt, sau khi đẻ phù nề).
- Nhóm 13: Bệnh trẻ em (gồm ợ, nấc cụt, trớ sữa, ói sữa, trẻ ỉa chảy phọt toé ra
nước, ỉa chảy phân loãng, ỉa phân sống, cam tích, cam tướt, cam lỵ, còi xương, suy
dinh dưỡng, cam thũng, quai bị, ho gà, sởi, thủy đậu, sốt bại liệt, viêm màng não B
và di chứng, sổ xuất huyết do muỗi, sưng amidan, viêm tai, thấp tim, đái dầm, thoát
vị thừng tinh, lở chàm, chốc đầu – mô đầu, rôm sảy, tưa lưỡi, lở mồm).
+ Sơ đồ phân bố các loài thực vật quý hiếm: Căn cứ vào các điểm đã phát hiện được
cây thuốc ngoài thực địa (đã được xác định vị trí bằng GPS và đánh dấu vào bản đồ
điều tra), đánh dấu điểm phân bố của loài trên bản đồ (theo Nguyễn Thượng Dong
và cộng sự, 2006).


20
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VƯỜN
QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI
3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu:
3.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích:
3.1.1.1. Vị trí địa lý, diện tích:
Vườn Quốc gia Hoàng Liên nằm trong khu vực Tây Bắc Việt Nam, có vị trí
địa lý từ 22009’ - 23030’ độ vĩ Bắc và 103000 - 103059’ độ kinh Đông. Về địa giới
hành chính nó thuộc 5 xã: San Sả Hồ, Lao Chải, Tả Van, Bản Hồ, Mường Khoa
huyện Sa Pa và huyện Tân Uyên (tỉnh Lai Châu) có ranh giới tiếp giáp:
3.1.1.2. Ranh giới VQG Hoàng Liên:
- Phía Đông giáp xã Thanh Kim, Nậm Sài, Nậm Cang, huyện Sapa và xã Tả
Phìn, thị xã Cam Đường Lào Cai.
- Phía Tây giáp xã Bản Bo, Bình Lư, Hồ Thầu huyện Tam Đường Lai Châu.

- Phía Nam và Đông Nam giáp huyện Văn Bàn và phần còn lại giáp 2 xã Mường
Khoa, Thân Thuộc và các xã Hố Mít, Pắc Ca, huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu.
- Phía Bắc giáp phần ngoài khu điều tra thuộc xã Tả Giàng Phình, Tả Phìn, Bản
Khoang, Trung Trải huyện Sapa.
- Trụ sở Ban quả lý VQG Hoàng Liên nằm tại thị trấn Sapa, cách Lào Cai 36km.
Tổng diện tích đất đai thuộc quản lý của VQG Hoàng Liên là 51.800ha, trong đó
vùng lõi là 29.845ha, là phần cuối cùng của dãy Himalaya chạy dọc sông Hồng theo
hướng Tây Bắc – Đông Nam. Ranh giới vùng lõi của VQG cũng được phân chia
theo dãy núi này, theo đó vùng lõi của VQG thuộc sườn phía Đông Bắc còn phần
vùng đệm (thuộc huyện Tân Uyên) thì thuộc sườn Tây Bắc.
3.1.2. Địa chất, địa hình
3.1.2.1. Địa chất và thổ nhưỡng:
- Theo Vũ Tự Lập (1999), Hoàng Liên được cấu tạo từ các loại đá nguồn gốc
Mắc-ma như granit, amphibolite, filit, đá vôi, trong đó đá granit là phổ biến nhất
trong điều kiện nhiệt đới ẩm, chúng có lớp vỏ phong hóa dày ở khu vực chân núi


21
nhưng ở sườn dốc do sự bào mòn mạnh của nước chảy nên sự xâm thực nhanh hơn
nhiều so với phong hóa, đá gốc lộ ra nhiều làm cho các đỉnh hầu như có sắc nhọn.
- Địa chất và địa hình, kết hợp với khí hậu làm thêm thổ nhưỡng, quy luật
phân bố các loại đất đai VQG. Hoàng Liên theo đai độ cao được thể hiện rõ. Kết
quả điều tra phân loại đất đã xác định trong khu vực có 2 nhóm, gồm 7 loài chính
như sau:
+ Đất mùn thô than bùn màu xám trên núi cao, phân bố từ 1.600-2.800m.
+ Đất mùn alit màu vàng nhạt trên núi cao, phân bố từ 1.600-2.800m.
+ Đất feralit màu vàng đỏ núi cao phát triển trên đá axit từ 600-1.600m.
+ Đất feralit màu vàng đỏ núi cao phát triển trên đá biến chất 600-1.600m.
+ Đất feralit màu vàng đỏ núi cao phát triển trên đá axit từ 300-600m.
+ Đất feralit màu vàng đỏ núi cao phát triển trên đá biến chất 300-600m.

+ Đất feralit biến đổi do trồng lúa.
+ Đất dốc tụ trồng lúa.
- Từ các loại đá mẹ gneiss, granit lớp phủ thổ nhưỡng được phong hóa trong
điều kiện chủ yếu là thoát hơi nước tốt, trên các đai độ cao khác nhau.
3.1.2.2. Địa hình:
- Hoàng Liên là một hệ thống các đỉnh núi cao trên 2.000m chạy theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam, ở VQG có đỉnh núi Phansipan cao 3.143m so với mặt nước
biển, đây là đỉnh núi cao nhất Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung. Các
Hệ chính của dãy núi thoải dần theo hướng Đông Bắc thuộc huyện Sapa và sườn
Tây Nam thuộc huyện Than Uyên. Phần lớn các đỉnh núi có độ cao trung bình từ
2.000 - 2.500m còn độ cao có bình độ thấp nhất phía Sapa là 380m (xã Bản Hồ).
- Các dạng địa hình chủ yếu của VQG Hoàng Liên gồm núi cao, thung lung,
sườn núi đồi. Mức độ chia cắt theo chiều ngang và chiều thẳng đứng rất mạnh tạo
sự phức tạp của địa hình và độ ạnh tạo sự phức tạp của địa hình và độ dốc lớn. Độ
dốc trung bình phổ biến từ 200-300 có nơi 400 và dốc đứng.
3.1.3. Khí hậu, thủy văn:
3.1.3.1. Khí hậu:


22
- Đặc điểm của các yếu tố khí hậu với vị trí ở phía đông của dãy Hoàng Liên,
có địa hình phức tạp nên chế độ khí hậu VQG Hoàng Liên hầu như quanh năm duy
trì ở trạng thái ẩm ướt. Đặc biệt hiện tượng mưa phùn cuối đông diễn ra mạnh mẽ vì
các thung lung mở rộng về phía đồng bằng đã tạo điều kiện tichs tụ các luồng gios
nồm ẩm thổi từ biển tới.
- Bức xạ: Tổng bức xạ mặt trời có chỉ số phổ biến từ 100-135Kcal/cm2/năm,
ngoài giới hạn này có ở Sapa, Mù Cang Chải.
- Nhiệt độ trung bình năm có chỉ số phổ biến từ 13-210c, lớn ở sườn Tây, nhỏ
ở sườn Đông. Nhiệt độ cao nhất vào tháng 6-7 có chỉ số 16-250c. Nhiệt độ thấp nhất
vào các tháng 12 và tháng , nhiều năm dưới 50c.

- Chế độ mưa: Lượng mưa phân bố không đều giữa các tháng trong năm, đặc
biệt vào các tháng mùa hè, lượng mưa tương đối cao. Mùa mưa bắt đầu từ giữa
tháng 3 đến giữa tháng 10.
- Chế độ bốc hơi nước: Lượng bốc hơi trong vùng có ảnh hưởng tới độ ẩm,
nhiệt độ không khí trung cho từng lưu vực.
3.1.3.2. Thủy văn
Mặc dù không có sông lớn chảy qua, nhưng do đặc điểm địa hình của khu vực,
VQG Hoàng Liên được tạo từ hai sườn chính: sườn Đông Bắc dốc thoải về phía
sông Hồng và sườn Tây Nam dốc thoải về phía sông Đà vì vậy trong lưu vực tạo
nên 2 hệ suối chính.
- Hệ thống suối khu vực Đông Bắc huyện Sapa gồm 3 suối chính: Mường
Hoa Hồ bắt nguồn từ Phansipan, Séo Chung Hồ bắt nguồn từ Tả Van, Tả Trung Hồ
bắt nguồn từ Bản Hồ.
- Hệ suối thuộc khu vực Tây Nam dãy Hoàng Liên gồm 2 suối chính: Suối
Nậm Bé (xã Mường Khoa) và suối Nậm Pao, Nậm Chăng (xã Thân Thuộc).
3.1.4. Tài nguyên thiên nhiên
VQG Hoàng Liên có tổng diện tích tự nhiên là 51.800ha, được chia ra thành 2
loại đất như sau:
+ Diện tích đất lâm nghiệp: 42.845 ha
- Đất có rừng: 30.352 ha


23
- Đất trống đồi núi trọc: 12.493 ha
+ Các loại đất khác: 8.955 ha
Về tài nguyên rừng, theo Nguyễn Nghĩa thìn và cộng sự (2008), rừng ở VQG
Hoàng Liên gồm các dạng rừng rậm nguyên sinh thường xanh đai á nhiệt đới trên
núi và trạng thái thứ sinh của nó, rừng ôn đới nguyên sinh, rừng ôn đới thứ sinh có
cây gỗ lá rộng hỗn giao với trúc và các trạng thái trảng khác.
3.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội:

3.2.1. Dân tộc và dân số: Theo kết quả điều tra năm 2004 thì số dân trong vùng lõi
và vùng đệm VQG Hoàng Liên là 30.697 người với 4.151 hộ. Mật độ dân số bình
quân trong khu vực điều tra là 59 người/km2. Mật độ thấp nhất là 10 người/ km2 (xã
Bản Hồ) và cao nhất 192 người/km2 thị trấn Sapa. Trong đó tỷ lệ tăng dân số bình
quân 2,63%/năm. Một số dân tộc có tỷ lệ sinh đẻ cao là H’Mông (3,6%),
Dao(3,2%). Trong khu vực điều tra có 10 dân tộc cư trú, trong đó dân tộc H’mông
chiếm tỷ lệ 40%, dân tộc Kinh 18,57%. Ngoài ra còn có các dân tộc khác như Dao,
Tày, Dáy và Thái. Cơ cấu dân tộc ở các xã cũng rất khác nhau. Các xã có người
H’mông chiêm tỷ lệ cao như xã Hầu Thào, Sử Pán, San Sả Hồ, Tả Van, Lao Chải.
Người kinh tập trung chủ yếu ở thị trấn Sapa, Sa Pả, Thân Thuộc, Mường Khoa.
Còn các dân tộc khác rải rác ở các vùng đất thấp và ven các con suối lớn.
3.2.2. Lao động và tập quán:
Tổng số người đến độ tuổi lao động trong khu vực chiếm 41,9% tổng số
nhân khẩu. Các dân tộc vùng cao có tập quán làm ăn chủ yếu là sản suất nông
nghiệp với loại hình sản suất lúa nước trên các ruộng bậc thang hẹp. Công cụ lao
động đơn giản như: Cày, cuốc, dao phát. Trong tổng số diện tích đất canh tác tại
VQG Hoàng Liên thì đất trồng lúa nước chiếm 24%, đất trồng lúa nương chiếm
6,5%. Ngoài sản suất lương thực, đồng bào còn trồng thêm các loại đặc sản như:
Thảo quả, một số loài cây dược liệu và vài loài rau ăn.
Hiện tượng du canh, phát nương làm rẫy vẫn diễn ra vì thế đã làm giảm diện
tích rừng một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, nạn lửa rừng do con người gây ra,
săn bắn các động vật rừng lấy thực phẩm và bán lấy tiền (da, sừng, mật), làm dược
liệu, đã trở thành mối đe dọa cho nguy cơ suy giảm đa dạng sinh học và mất rừng.


×