Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thờ cúng tổ tiên của người việt công giáo ở giáo xứ kẻ sặt (hải dương) tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.74 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Vũ Thị Thanh Tâm

THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT CÔNG GIÁO
Ở GIÁO XỨ KẺ SẶT (HẢI DƯƠNG)

Chuyên ngành: Nhân học
Mã số : 62 31 03 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Khoa Dân tộc và Nhân học,
Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương
2. PGS.TS. Nguyễn Văn Minh

Phản biện 1: PGS.TS. Lâm Bá Nam
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Duy Bính
Phản biện 3: PGS.TS. Bùi Văn Đạo

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến
sĩ cấp Học viện, họp tại Học viện Khoa học Xã hội, 477
Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi……….giờ……phút,


năm……..

ngày……tháng……….

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
MỞ ĐẦU
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
- Thư viện Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công giáo du nhập vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ 16. Một
trong những điểm khác biệt giữa Công giáo và các tín ngưỡng truyền
thống, nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là tính độc thần, chỉ thờ
Thiên Chúa. Do vậy, ngay từ khi mới đặt chân đến Việt Nam, Công
giáo đã coi thờ cúng tổ tiên là “đạo rối” và cấm các tín đồ của mình
thực hành nghi lễ này. Sự khác biệt này là một trong những nguyên
nhân làm nảy sinh mâu thuẫn giữa những người theo tín ngưỡng
truyền thống, tín đồ Công giáo và trong chính bản thân những tín đồ
Công giáo, bởi người Việt dù có đạo hay không thường quan niệm
“nhà có người ở, tổ có người thờ”. Theo đó, một số tín đồ Công giáo
vẫn tiếp tục duy trì sự thờ cúng tổ tiên của mình bằng cách đi gửi
giỗ, đặt bát hương ở nơi kín đáo trong nhà. Sau này, Giáo hội Công
giáo có cái nhìn cởi mở hơn với thờ cúng tổ tiên, và cho phép tín đồ
được tôn kính tổ tiên nhưng không được coi trọng hơn Chúa. Do đó,
không chỉ được lập lại bàn thờ tổ tiên trong nhà, mà những năm gần
đây tín đồ Công giáo một số nơi đã khôi phục lại nhà thờ họ, nhà thờ
tổ, lập gia phả và tham dự lễ giỗ Tổ Hùng Vương. Nghiên cứu về thờ

cúng tổ tiên của người Công giáo hiện nay ở cả 3 cấp: gia đình, dòng
họ, cộng đồng sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này và cộng
đồng giáo dân ở Việt Nam.
Kẻ Sặt là một trong những giáo xứ có lịch sử lâu đời nhưng hiện
chưa có công trình nào nghiên cứu về thờ cúng tổ tiên của giáo xứ này.
Luận án này là nghiên cứu trường hợp đầu tiên về thờ cúng tổ tiên của
người Công giáo tại giáo xứ Kẻ Sặt. Với những lý do nêu trên, tác giả
đã lựa chọn đề tài Thờ cúng tổ tiên của người Việt Công giáo ở giáo
xứ Kẻ Sặt (Hải Dương) làm luận án tiến sĩ ngành Nhân học văn hóa.
1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu thờ cúng tổ tiên của người Công giáo ở
giáo xứ Kẻ Sặt để thấy được quan niệm và thực hành thờ cúng tổ tiên
của người Công giáo nói chung và người Công giáo ở giáo xứ Kẻ Sặt
(Hải Dương) nói riêng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về quan niệm, thái độ của các dòng truyền giáo ở
Việt Nam và của Tòa thánh Vatican về thờ cúng tổ tiên của người
Việt Công giáo ở Việt Nam để thấy được cái nhìn tổng quan về quan
niệm, giáo lý của Công giáo về vấn đề này. Đồng thời đưa ra những
hội nhập của Công giáo Việt Nam với văn hóa truyền thống thông
qua thờ cúng tổ tiên ở cấp gia đình, dòng họ và cộng đồng.
- Nghiên cứu các hoạt động thực hành thờ cúng tổ tiên của
người Việt ở giáo xứ Kẻ Sặt từ lúc lâm chung đến tang ma, cúng giỗ
trong một gia đình. Bên cạnh đó mở rộng nghiên cứu quan hệ dòng
họ, lập gia phả, xây dựng mộ tổ trong hoạt động thờ cúng tổ tiên.
Đồng thời tìm hiểu các nghi lễ người Công giáo ở Kẻ Sặt dành cho

các bậc tiền nhân của cộng đồng, quốc gia.
- Đánh giá tổng quát về các giá trị, những vấn đề đang đặt ra và
những biến đổi về thờ cúng tổ tiên của người Công giáo ở giáo xứ
Kẻ Sặt.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cộng đồng cư dân Công giáo
ở giáo xứ Kẻ Sặt.
Về phạm vi nghiên cứu, luận án tìm hiểu quan điểm, thái độ của
các dòng truyền giáo ở Việt Nam và của Tòa thánh Vatican trong
lịch sử về thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam; quan niệm và thực hành thờ
2


cúng tổ tiên ở Giáo xứ Kẻ Sặt ở gia đình, dòng họ, cộng đồng; bước
đầu so sánh thờ cúng tổ tiên ở đây với cộng đồng một số người Việt
Công giáo ở các địa phương khác; một số biến đổi trong thực hành thờ
cúng tổ tiên ở giáo xứ Kẻ Sặt. Theo đó, mốc thời gian nghiên cứu từ
sau Công đồng Vatican II, nhất là sau Thư chung của Hội đồng Giám
mục Việt Nam năm 1980.
Địa bàn nghiên cứu là giáo xứ Kẻ Sặt ở xã Tráng Liệt, huyện
Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Về phương pháp luận, luận án vận dụng quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính sách,
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta
Luận án sử dụng một số phương pháp Điền dã dân tộc học làm
chủ đạo để thu thập tư liệu, tài liệu. Ngoài ra, còn sử dụng các
phương pháp: so sánh đối chiếu, thu thập và xử lý thông tin bằng
hình ảnh, phương pháp nghiên cứu so sánh lịch sử đồng đại và lịch
đại,... để có những nhận định, đánh giá, luận điểm phù hợp với

những kết quả đạt được.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án góp phần cung cấp những tư liệu về thờ cúng tổ tiên của
người Việt Công giáo ở 3 cấp độ gia đình, dòng họ, cộng đồng và đời
sống văn hóa của tín đồ Công giáo ở giáo xứ Kẻ Sặt. Đồng thời góp
phần làm rõ những yếu tố tác động, sự biến đổi và các vấn đề đang
đặt ra đối với vấn đề thờ cúng tổ tiên của người Việt Công giáo tại
địa bàn nghiên cứu trong bối cảnh hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả của luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy lý luận và thực tiễn về Công giáo nói chung và tín
3


ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Công giáo ở địa bàn nghiên cứu
nói riêng.
Luận án góp phần cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn
giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đề ra những chính sách phù hợp
nhằm củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò của Công
giáo và thờ cúng tổ tiên trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước
hiện nay.
7. Cơ cấu của luận án
Bố cục luận án ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham
khảo, Phụ lục, gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và
địa bàn nghiên cứu
Chương 2. Quan niệm về thờ cúng tổ tiên của người Việt Công
giáo ở Việt Nam
Chương 3. Thực hành thờ cúng tổ tiên của người Việt Công
giáo ở giáo xứ Kẻ Sặt

Chương 4. Giá trị, những biến đổi và vấn đề đang đặt ra, kiến
nghị, giải pháp.
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu về thờ cúng tổ tiên
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu về thờ cúng tổ tiên của Giáo hội
Công giáo và chức sắc Công giáo
Ngoài các tư liệu chung của Tòa thánh Roma như: Kinh thánh,
Giáo luật, Tông huấn, Sắc lệnh, văn kiện... những tư liệu nội bộ của
Công giáo liên quan đến thờ cúng tổ tiên tiêu biểu như: Những thư
chọn trong các thư chung các đấng Vicáriô Apostôlicô và Vicari

4


Provinciale về dòng ông thánh Duminhgô đã làm tự năm 1759; Một
số thư chung hay thư luân lưu của Giám mục Pierre Jean Marie
Gendreau Đông; Hành trình hội nhập gian truân nghi lễ thờ cúng tổ
tiên (2015) của linh mục Đào Trung Hiệu; Dòng Tên trong xã hội
Đại Việt 1615-1773 của linh mục Đỗ Quang Chính (2008); Nghi
thức an táng (2014), Sách lễ Rôma (2009) do Ủy ban phụng tự ban
hành; Sách các phép của Hồng y Trịnh Văn Căn (1983); Yên ủi kẻ
liệt cùng lễ phép tống táng kẻ đã qua đời (1939) của Cố Lương (Linh
mục Pierre Cadro); Kinh nguyện gia đình và gia lễ Công giáo
(2015), Năm mươi năm thờ cúng tổ tiên – Loan tin mừng cho dòng
họ (2014), Về với cội nguồn (2013) của Linh mục Võ Tá Khánh; các
Thông cáo của Hội đồng Giám mục Việt Nam;... tập trung vào các
vấn đề sau: quan điểm, tiến trình tranh luận về vấn đề thờ cúng tổ
tiên trong lịch sử; các thông báo, hướng dẫn tín đồ ứng xử với thờ
cúng tổ tiên... Bên cạnh đó, giáo hội Công giáo Việt Nam cũng tổ

chức một số hội thảo về thờ cúng tổ tiên: Tòa Tổng Giám mục Huế
kết hợp với Viện Nghiên cứu Tôn giáo tổ chức cuộc tọa đàm về Tôn
kính tổ tiên năm 1999 tập hợp các bài viết của các linh mục, tu sĩ,
giáo dân và các nhà nghiên cứu bàn về thờ cúng tổ tiên sau những
chặng đường lịch sử đầy biến động. Năm 2014, Uỷ ban Văn hoá trực
thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức hội thảo về Lòng tôn
kính Ông bà Tổ tiên nhân dịp kỷ niệm 50 năm thông cáo của Hội
đồng Giám mục miền Nam Việt Nam áp dụng Huấn thị Plane
compertum est.
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về thờ cúng tổ tiên của người ngoài
Công giáo
Thờ cúng tổ tiên của người Công giáo đề cập dưới góc độ đời
sống đạo của người Công giáo, trong đó có tang ma, cúng giỗ,…
5


được một số nhà nghiên cứu đề cập. Tiêu biểu là Nguyễn Hồng
Dương với một số cuốn sách: Làng Công giáo Lưu Phương (Ninh
Bình) từ năm 1829 đến năm 1945 (1997), Nghi lễ và lối sống Công
giáo trong văn hóa Việt Nam (2001), Nếp sống đạo của người Công
giáo Việt Nam (2010), Công giáo trong văn hóa Việt Nam (2013);
Hà Huy Tú với Tìm hiểu nét đẹp văn hóa Thiên Chúa giáo (2002);
Tang chế của người Công giáo (nghiên cứu trường hợp giáo họ Sen
Hồ - giáo phận Bắc Ninh) (2012); Vấn đề thờ cúng tổ tiên của người
Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ - Việt Nam (tiếp cận Nhân học
Tôn giáo qua nghiên cứu trường hợp làng đạo Tử Nê) (2008); Vấn
đề thờ cúng tổ tiên của người Việt Công giáo ở giáo họ Nỗ Lực, tỉnh
Phú Thọ (2011);… Ngoài ra, còn một số bài báo đề cập đến các
thánh lễ bổn mạng của các hội đoàn cũng như lễ giỗ tổ Hùng Vương
của người Công giáo, như: Hội đoàn Công giáo – mấy vấn đề lí luận

và thực tiễn ở Việt Nam của Nguyễn Phú Lợi (2007); Lễ giỗ Tổ Hùng
Vương và thánh lễ cầu quốc thái dân an tại giáo xứ Hải Dương; Lễ
giỗ Tổ Hùng Vương tại giáo xứ Hải Dương, giáo phận Hải Phòng
trên cổng thông tin của Ban Tôn giáo Chính phủ; Giáo xứ Cẩm Phả
tổ chức Lễ giỗ Tổ Hùng Vương trên trang web của Đài phát thanh
truyền hình Quảng Ninh;... Viện Nghiên cứu tôn giáo đã tổ chức một
cuộc Hội thảo khoa học Nếp sống đạo của người Công giáo Việt
Nam và ra cuốn sách cùng tên (2010).
1.1.3. Những nghiên cứu về giáo xứ Kẻ Sặt
Giáo xứ Kẻ Sặt từng là trụ sở của Đông Đàng Ngoài nên một số
mốc lịch sử Công giáo Việt Nam đã được diễn ra tại đây, có thể thấy
trong các cuốn Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam (2 tập) của
Trương Bá Cần (2008); Lịch sử địa phận Đông Đàng Ngoài hay giáo
phận Hải Phòng (2007);… Ngoài ra, một số ấn phẩm lưu hành nội
6


bộ trong giáo xứ, như: Khoán lệ xã Tráng Liệt, tổng Thị Tranh, phủ
Bình Giang, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương (1942); Tập san Về
nguồn 2 (1993);...
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
Luận án đã thao tác một số khái niệm cơ bản, như: Thờ cúng tổ
tiên; Tôn kính tổ tiên; Thảo kính cha mẹ; Kẻ liệt; Cúng giỗ; Công
giáo; Giáo xứ; Giáo dân
1.2.2. Một số Lý thuyết nghiên cứu chủ yếu được áp dụng
Để phân tích và giải thích vấn đề được đặt ra, luận án sử dụng
những lý thuyết tiếp cận là: Thuyết chức năng, thuyết tương đối văn
hóa, thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa.
1.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu

1.3.1. Vài nét về giáo xứ Kẻ Sặt
Giáo xứ Kẻ Sặt thuộc giáo hạt Hải Dương, giáo phận Hải
Phòng, giáo tỉnh Hà Nội. Về mặt hành chính, giáo xứ Kẻ Sặt thuộc
xã Tráng Liệt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, có diện tích
2,1 km với 4.800 giáo dân, chiếm 85% dân số xã Tráng Liệt.
Theo truyền khẩu, giáo xứ Kẻ Sặt nằm trên đất Tráng Liệt được
hình thành vào giữa thế kỷ XVI.
1.3.2. Công giáo ở giáo xứ Kẻ Sặt
Từ năm 1679-1696 các thừa sai Dòng Tên đã đặt cư sở chính của
Đông Đàng Ngoài tại Kẻ Sặt. Năm 1702, thừa sai Raymundo Lezoli,
dòng Đa Minh được tấn phong Giám mục hiệu tòa Olan, Giám
mục tiên khởi của Dòng Ða Minh miền Bắc, đại diện Tông tòa Đông
Đàng Ngoài tại Kẻ Sặt. Năm 1706, Kẻ Sặt thuộc giáo hạt thứ ba, do
linh mục Jean de Saint Augusting, thuộc dòng Âu Tinh (Augusto) coi
sóc. Năm 1838, linh mục Vinh Sơn Đỗ Yến, linh mục chính xứ Kẻ
7


Sặt bị bắt và tử đạo, là 1 trong 117 người tử đạo tại Việt Nam được
Giáo hội Công giáo phong Thánh. Năm 1900, Công đồng Hội các
Giám mục Miền Bắc lần I họp tại Kẻ Sặt
Tiểu kết chương 1
Trong lịch sử, Kẻ Sặt là một trong những trung tâm chính để
truyền bá Công giáo ở Đông Đàng Ngoài. Nơi đây từng là sở chính
của các thừa sai dòng Tên ở Đông Đàng Ngoài vào cuối thế kỷ XVII.
Kẻ Sặt cũng từng có trường thần học, trường Thầy giảng vào đầu thế
kỷ XX và là nơi đã diễn ra Công đồng Kẻ Sặt năm 1900 (Công đồng
thứ I của Đàng Ngoài – Bắc Kỳ). Năm 1954, 3/5 dân Công giáo Kẻ
Sặt đã di cư vào miền Nam và thành lập giáo xứ mới với tên Kẻ Sặt
II (Hố Nai, Đồng Nai). Đây là một trong những giáo xứ điển hình

giữ đạo của cộng đồng Công giáo. Tuy vậy, qua tổng quan cho thấy,
hiện vẫn chưa có những nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và hệ
thống về giáo xứ Kẻ Sặt nói chung và thờ cúng tổ tiên của giáo dân ở
đây nói riêng.
Chương 2: QUAN NIỆM VỀ THỜ CÚNG TỔ TIÊN
CỦA NGƯỜI VIỆT CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
2.1. Quan niệm của người Việt về linh hồn và thờ cúng tổ tiên
Người Việt quan niệm con người được hình thành bởi linh hồn
và thể xác, có cuộc đời nơi trần thế và cuộc đời sau khi chết. Cuộc
sống tại thế chỉ là tạm bợ, cuộc sống sau khi chết mới là mãi mãi.
Tuy ở thế giới khác nhưng linh hồn vẫn "đi lại" và tác động đến trần
thế, vẫn theo dõi bước đi của con cháu. Con cháu lập bàn thờ tổ tiên
ở khu vực trang trọng trong nhà, xung quanh không để các đồ vật
hay có hành động tạp uế. Việc thực hiện thờ phụng tổ tiên của người
Việt dựa trên quy tắc "quyền con trưởng" của các thành viên nam

8


giới trong gia đình. Giỗ tổ của dòng họ là ngày quan trọng và thiêng
liêng. Dòng họ được kết nối và thể hiện rõ nét trên gia phả. Những
dòng họ lớn và lâu đời thường có từ đường to, đẹp, nghi thức thờ
cúng trang nghiêm.
Việc thờ cúng tổ tiên được mở rộng ra xã hội là những người có
công với cộng đồng làng, xã, đất nước hay có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới đời sống của người dân trong làng, hình thành nên hệ thống thờ
cúng thành hoàng làng, những người có công với cộng đồng và cao
hơn là thờ Tổ của đất nước: Vua Hùng. Lễ hội đền Hùng không chỉ
tưởng nhớ tổ tiên mà thực sự trở thành một nhu cầu tâm linh trở về
nguồn cội, hay đúng là hơn sự trở về cội nguồn dân tộc.

2.2. Quan niệm của người Việt Công giáo về thờ cúng tổ tiên
2.2.1. Quan niệm về linh hồn, thể xác và sự tồn tại sau khi
chết của người Công giáo
Người Việt Công giáo tin rằng, con người có linh hồn và thể xác
do Thiên Chúa tạo nên. Sau khi chết, linh hồn lìa khỏi xác và Chúa
tạm thời phán xét về tư tưởng, lời nói, việc làm để nhận lấy thành
quả xứng với các việc đã làm là vào một trong ba nơi: Thiên đàng
(không có tội, đền tội đã đủ), Hỏa ngục (tội trọng) hoặc Luyện ngục
(tội nhẹ, đền tội chưa đủ).
Giữa người đang sống và người đã khuất có mối liên hệ mật
thiết với nhau, tương trợ nhau. Linh hồn người chết không tác động
trực tiếp đến người sống mà cầu Chúa giúp người sống thực hiện
được những mong muốn của mình. Ngược lại, người sống sẽ cầu
nguyện, lập công phúc thay người chết để nhanh chóng đền bù hết
tội lỗi. Cho nên việc cầu nguyện cho các linh hồn không phải là một
việc "từ thiện" mà là việc nên làm vì tính chất liên đới tương hỗ
trong tinh thần Kitô giáo.
9


2.2.2. Quan niệm về sự chết và cái chết
Người Công giáo cho rằng, có cái chết tuyệt đối (linh hồn) và cái
chết tương đối (thể xác). Kinh thánh chú trọng tới cái chết theo nghĩa
tuyệt đối về mặt tinh thần, đó là cái chết đời đời của con người xa lìa
Chúa. Cuộc đời tại thế tương đối và ngắn ngủi nhưng vẫn có giá trị vì
đó là cửa ngõ đưa con người vào cuộc đời vĩnh cửu - "đời sau".
2.2.3. Quan điểm, thái độ của các dòng truyền giáo ở Việt
Nam về thờ cúng tổ tiên
+ Dòng Tên (Compagnie de Jésus): được coi là thích nghi sâu
nhất với văn hóa, xã hội và thờ cúng tổ tiên truyền thống của người

Việt, như cho phép: được giỗ theo phong tục trong nước; giữ thần
chủ trong nhà; đặt mâm cúng trên đầu quan tài, phần mộ;…
+ Dòng Đa Minh (Dòng Anh em thuyết giáo): có cái nhìn khắt
khe đối với vấn đề thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam nên đã loại phần lớn lễ
thức tang ma truyền thống của người Việt, cấm luôn các giáo hữu
được thực hành những việc giúp người không theo Công giáo làm
một số các nghi thức như khiêng linh cữu; học trò, đầy tớ thể hiện sự
tôn trọng nhà thầy, nhà chủ cũng không được phép lạy tại bàn thờ
tiên sư, tổ tiên...
+ Hội Thừa sai Paris (M.E.P): Dù Hiến chế Ex quo singulari
providentia (1742) đã cấm ngặt không cho bàn cãi gì về “nghi lễ Trung
Hoa”, nhưng nhiều thừa sai Paris cuối thế kỷ XVIII, đặc biệt là hai
Giám mục Đàng Trong là Giám mục Pigneau de Behaine và Jean
Labartette vẫn xin Toà thánh xét lại vấn đề này vì cho rằng, đó chỉ là
tính cách dân sự tỏ lòng kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ, với các bề
trên, bạn bè, ân nhân.
2.2.4. Các quy định của Giáo hội Công giáo và Giáo hội Công
giáo Việt Nam về thờ cúng tổ tiên
10


Từ khi vào Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam chịu sự tác
động của các sắc lệnh, hiến chế của Tòa thánh Vatican về hạn chế,
cấm nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Đến năm 1964, Hội đồng Giám mục
Việt Nam (miền Nam) được Tòa thánh cho áp dụng Huấn thị Plane
compertum est, cho phép tín đồ được tôn kính người đã chết dưới
góc độ dân sự, tránh những hoạt động dễ gây hiểu nhầm có tính chất
tôn giáo. Đến năm 1965, Hội đồng Giám mục Việt Nam (miền Nam)
ra thông cáo về việc tôn kính tổ tiên. Năm 1974, Hội đồng Giám mục
Việt Nam (miền Nam) ra Quyết nghị về Lễ nghi tôn kính ông bà tổ

tiên. Năm 1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam ra Thư chung thể
hiện đường hướng mục vụ “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” với
nhiệm vụ “xây dựng trong Hội Thánh một lối sống và một lối diễn tả
đức tin phù hợp hơn với truyền thống dân tộc”.
2.3. Những hội nhập của Công giáo Việt Nam với thờ cúng
tổ tiên
2.3.1. Cấp độ gia đình
Về cơ bản, hiện nay nghi lễ tôn kính tổ tiên của người Công giáo
vẫn mang đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên truyền thống. Đa số
gia đình Công giáo đều có bàn thờ gia tiên. Người Công giáo sử dụng
hương, nến và vái lạy trong các nghi thức kính cáo người quá cố như
trong lễ tang, lễ giỗ, lễ cưới hay các sự kiện quan trọng trong gia
đình. Giáo hội Công giáo lấy ngày 2 - 11 hằng năm và dành tháng 11
để cầu cho tín hữu đã qua đời. Trong dịp này, các giáo dân đi viếng
và thắp hương, tu sửa mộ phần tổ tiên nhà mình.
2.3.2. Cấp độ dòng họ
Trước đây, người Công giáo Việt Nam hầu như không duy trì
việc tổ chức thờ cúng trong dòng họ. Ngày 13/12/2012, Giám mục
giáo phận Hải Phòng Vũ Văn Thiên đã cùng 18 linh mục họ Vũ ở
11


giáo phận Bùi Chu, Hải Phòng thắp hương trước bàn thờ cụ thủy tổ
Vũ Hồn tại Mộ Trạch (Hải Dương) và cử hành thánh lễ đồng tế cầu
bình an cho dòng họ tại nhà văn bia. Người Công giáo còn mở các
cuộc hành hương, thăm viếng, kết nối những người cùng dòng họ tại
nhiều địa phương; khôi phục gia phả; tổ chức hội thảo về gia phả của
các dòng họ... Mộ phần của các dòng họ cũng được chăm sóc, sửa
sang, xây cất mới nhiều hơn, nhất là việc xây lăng, quy tụ những mộ
phần của dòng tộc.

2.3.3. Cấp độ cộng đồng và quốc gia
Trong hương ước của một số làng Công giáo toàn tòng ghi nhận lễ
Thánh quan thày là một trong những lễ trọng của làng, xứ đạo, họ đạo
và hình thức tổ chức như một hội làng truyền thống thể hiện sự chuyển
đổi, giao lưu giữa văn hóa làng truyền thống và Công giáo. Một số
làng thờ tiền nhân lập làng hoặc có công khai khẩn làng, như các
làng ấp ở huyện Kim Sơn (Ninh Bình).
Trong những năm gần đây, một số giáo xứ đã tổ chức lễ giỗ tổ
Hùng Vương, tiêu biểu là nhà thờ giáo xứ Hải Dương (Hải Dương),
giáo xứ Cẩm Phả (Quảng Ninh).
Tiểu kết chương 2
Thời gian đầu khi Công giáo du nhập vào Việt Nam, giáo lý
Công giáo và thực hành thờ cúng tổ tiên của người Việt có sự xung
đột với nhau trên phương diện nghi lễ. Từ năm 1964 đến nay, giáo
dân Việt Nam đã được phép tôn kính tổ tiên theo quy định của giáo
hội để tránh có sự hiểu lầm giữa quan điểm thờ cúng tổ tiên theo văn
hóa truyền thống và giáo lý Công giáo. Hiện nay, phong trào tôn
kính tổ tiên theo văn hóa truyền thống của người Công giáo diễn ra
mạnh mẽ tại nhiều địa phương. Tinh thần tôn kính tổ tiên được nâng

12


cao hơn khi thờ những người có công với cộng đồng, tiêu biểu là giỗ
Quốc tổ Hùng Vương.
Chương 3: THỰC HÀNH THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA
NGƯỜI VIỆT CÔNG GIÁO Ở GIÁO XỨ KẺ SẶT
3.1. Quan niệm về thờ cúng tổ tiên của người Việt Công giáo
ở giáo xứ Kẻ sặt
Người Việt Công giáo ở Kẻ Sặt quan niệm về thờ cúng tổ tiên

cơ bản giống như người Việt Công giáo ở các nơi khác. Họ có niềm
tin linh hồn tổ tiên cũng sẽ luôn dõi theo và nghe lời cầu khẩn của
mình để cầu bầu lên Chúa. Họ cho rằng, thờ cúng tổ tiên là một trong
những hình thức thể hiện lòng hiếu thảo cao nhất đối với ông bà, cha
mẹ đã qua đời, hơn tất cả các hình thức cúng bái nào khác.
3.2. Thờ cúng tổ tiên của người Công giáo Kẻ Sặt
3.2.1. Thờ cúng tổ tiên ở gia đình
3.2.1.1. Tang ma ở giáo xứ Kẻ Sặt
Khi có người bị bệnh nặng, gia đình tiên đoán khó qua khỏi, sẽ
mời người thuộc Ban giúp kẻ liệt đến nhà đọc kinh cầu nguyện cho
kẻ liệt được "ơn chết lành và hưởng nhan Chúa", đồng thời mời linh
mục đến thực hiện bí tích Xức dầu bệnh nhân. Khi giáo dân qua đời,
nhà thờ rung chuông báo tử cho toàn giáo xứ. Gia đình thành lập Ban
lễ tang, sử dụng nước lá thơm để rửa cho thi hài, mặc quần áo và
chiếc áo phép ra ngoài cùng; lập bàn thờ tang cho người quá cố gần
bàn thờ Chúa. Đến giờ nhập quan, chủ sự thực hiện nghi thức làm
phép xác và quan tài. Tiếp theo là làm phép tang phục rồi con cháu
và người thân của người quá cố bắt đầu mặc tang phục.
Khi phát tang, linh cữu được đưa ra vị trí làm lễ, thiết lập linh
tọa ở phía đầu quan tài. Sau khi phát tang, các hội đoàn, họ hàng,

13


làng xóm, bạn bè thân quyến gần xa bắt đầu đến viếng, đọc kinh cầu
nguyện cho linh hồn người quá cố.
Sau lễ an táng tại gia, linh cữu được đưa đến nhà thờ thực hành
Thánh lễ theo nghi thức phụng vụ Công giáo. Sau đó di chuyển linh
cữu từ nhà thờ tới nghĩa địa theo hướng chân phía trước, đầu phía
sau. Tại nghĩa địa, linh mục hoặc thừa tác viên tiến hành các nghi

thức tiễn biệt cuối cùng với người quá cố theo quy định của Giáo hội.
Ở Kẻ Sặt vẫn phổ biến hình thức địa táng, những người qua đời
được đào sâu, chôn chặt, không bốc mộ.
* Nghĩa địa (Vườn thánh): Nghĩa địa của giáo xứ Kẻ Sặt được
quy hoạch, xây dựng từ năm 1951, có quy định rất cụ thể để phân biệt
khu mộ nam, nữ, trẻ em, người lớn, khu giáo dân và khu dành cho
những người có chức Thánh. Do diện tích ngày càng thu hẹp nên một số
ngôi mộ không được xây cất theo thứ tự từ trong ra ngoài hay từ trên
xuống dưới, các ngôi mộ được xây cất khít nhau, thậm chí không có
đường đi, người đi viếng phải trèo lên một phần mộ để di chuyển.
* Một số trường hợp mai táng đặc biệt: Thai nhi mới chỉ hình
thành vài tháng đã bị sẩy cũng được an táng ở nghĩa địa và đắp nấm
mồ đất. Còn khi đã có hình hài con người thì được tổ chức nghi thức
an táng tại gia đình và nghĩa địa như trẻ nhỏ. Trẻ em đã được Thêm
sức được tổ chức lớn hơn nhưng cũng hết sức gọn nhẹ. Tang lễ dành
cho hàng giáo sĩ, tu sĩ, các ông bà cố (cha mẹ của các linh mục, tu sĩ)
được tổ chức long trọng, có sự tham dự của rất đông hàng giáo phẩm
và giáo dân. Những thánh lễ này thường có đồng tế.
Theo lệ Kẻ Sặt, người lỗi đạo (ly dị, lấy vợ/chồng khác, tự tử,…)
không được đưa lên nhà thờ làm thánh lễ an táng mà chỉ được hưởng
thánh lễ do Ban hành giáo hàng khu thực hiện tại gia đình và vẫn được

14


chôn cất tại nghĩa địa. Trước đây những trường hợp này còn không
được tín hữu đưa tang.
3.2.1.2. Cúng giỗ
* Bàn thờ tổ tiên: Tại Kẻ Sặt, việc thiết lập bàn thờ tổ tiên của
gia đình chủ yếu từ những năm 1990 trở lại đây, thường thờ những

người quá cố trực hệ như ông bà, bố mẹ, anh em. Không có bàn thờ
riêng cho những người chết trẻ.
* Các ngày giỗ: Người quá cố được nhiều gia đình ở Kẻ Sặt tổ
chức các lễ giỗ vào các dịp chính như sau: những ngày đầu sau khi
mất, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu, giỗ hết, giỗ thường niên. Trong lễ
giỗ đầu và giỗ hết, người Công giáo ở Kẻ Sặt xin lễ, thăm mộ, tổ
chức bữa cơm và tổ chức mời những người đã đi viếng đến dự đọc
kinh cho người quá cố. Sau 3 năm, có nhà tiếp tục tổ chức cúng giỗ
nhưng cũng có nhà chỉ xin lễ trên nhà thờ.
* Lễ giỗ linh mục, tu sĩ: Vì linh mục, tu sĩ là người của giáo
hội, có đời sống tận hiến và độc thân nên khi họ chết, giáo hội đứng
ra làm chủ sự, gia đình của họ chỉ tham dự tang lễ.
* Thờ cúng tổ tiên trong gia đình vào các ngày lễ lớn
- Lễ Kỳ hồn: Ở Kẻ Sặt, việc xây sửa mộ thường được tiến hành
từ tháng 10 để đến lễ Kỳ hồn kịp có diện mạo mới đón lễ. Những
người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này để
viếng mộ gia tiên và sum họp với gia đình. Việc lau chùi, quét dọn,
nhổ cỏ, dọn lại bát hương, trang trí bằng các loại hoa, nến, đèn
điện,… thường được làm từ sáng sớm trong ngày mồng 1 và 2/11.
Ngoài mộ người thân, mộ của “linh hồn mồ côi” cũng được chăm
sóc. Sát giờ làm lễ, nghĩa địa rực rỡ như một vườn hoa: Nghĩa địa –
Vườn thánh – Nơi chờ đợi ngày phục sinh của các Kitô hữu.

15


- Tết Nguyên đán: Dịp cuối năm, ngoài thăm mộ, bàn thờ tổ
tiên được lau chùi, dọn dẹp sạch sẽ, có lọ hoa tươi, mâm ngũ quả.
Những người thuộc chi dưới mang quả cau, nay thường là hoa quả
hoặc bánh kẹo gọi là có “cơi trầu nguyện kinh”, đến thắp hương đọc

kinh cho tổ tiên ở nhà trưởng họ. Ngày mồng 2 Tết đến nhà thờ để
cùng hiệp dâng Thánh lễ cầu cho tổ tiên.
- Trong Hôn nhân: Trong lễ ăn hỏi, lễ vật ăn hỏi được đưa lên
bàn thờ gia tiên nhà gái để kính cáo về việc hôm nay có người đưa lễ
vật đến xin con gái về làm dâu. Cô dâu chú rể cùng nhau thắp hương,
vái lễ trước bàn thờ gia tiên nhà gái. Trong lễ cưới, nghi thức kính
cáo gia tiên ở nhà trai và nhà gái cũng được thực hiện trang nghiêm,
thành kính.
3.2.2. Thờ cúng tổ tiên ở dòng họ
3.2.2.1. Nhà thờ họ
Hiện nay, Kẻ Sặt có xu hướng các gia đình dựng nhà thờ tổ bắt
đầu từ việc dựng nhà thờ cho gia đình mình. Họ thờ những người gần
nhất với mình như ông bà, cha mẹ với mong muốn dần phát triển trở
thành một nhà thờ tổ sau này. Có nhà dựng nhà gỗ cổ truyền như của
gia đình ông V.V.Đ và P.V.S theo phong cách kiến trúc nhà từ
đường của người Việt truyền thống. Các vật dụng trong nhà, mô típ
hoa văn trang trí cũng theo phong cách dân gian: long ly quy phượng
hóa, dơi, chữ phúc, chữ đức,….
- Thờ cúng tổ họ: Tùy từng gia đình, dòng họ mà việc cúng tổ
được thực hiện như thế nào. Có dòng họ, ngày giỗ của người bậc cao
nhất trong họ không được tổ chức chung mà tự từng nhà tổ chức đọc
kinh hoặc xin lễ nhà thờ. Có dòng họ tổ chức giỗ chung rất thân mật,
quy tụ đông con cháu, là dịp để cố kết dòng họ.
3.2.2.2. Tìm mộ tổ
16


Trước năm 1951, ở Kẻ Sặt chưa có nghĩa địa riêng để chôn cất
người quá cố nên các gia đình chôn ở ruộng táng mả. Hiện nay, một
số dòng họ tại giáo xứ Kẻ Sặt có xu hướng lập khu lăng mộ riêng,

quy tập những mộ phần thuộc họ tộc mình. Có dòng họ trước đây do
không chăm sóc được mộ phần, một thời gian bị mất mộ nên họ phải
đi tìm. Như một chi thuộc họ Chu ở đây đã tiến hành tìm mộ tổ 3 lần
mới tìm được mộ và tổ chức bốc mộ này như một đám tang.
3.2.2.3. Gia phả dòng họ
Hiện Kẻ Sặt không còn họ tộc nào có gia phả nên một số dòng
họ đang xúc tiến việc lập lại gia phả, bắt đầu bằng việc lập sơ đồ gia
phả của chi tộc mình. Có họ đã xác lập chính xác các mối quan hệ,
thứ bậc của tộc họ thì lập bảng ghi họ tên, ngày sinh, ngày mất treo
cạnh bàn thờ tổ tiên để tiện cho tổ chức giỗ cũng như nhận họ hàng.
Có gia phả đang được viết nhưng phải dừng lại bởi kỳ vọng của
người viết quá lớn, với mong muốn không chỉ gồm các thông tin
chung của một bản gia phả người Việt truyền thống mà còn ghi các
thông tin tôn giáo, như: ngày rửa tội, ngày xưng tội rước lễ lần đầu,
linh mục nào thực hiện,…
3.2.3. Thờ cúng tổ tiên ở cấp cộng đồng
3.2.3.1. Cấp giáo xứ
Thánh quan thày giáo xứ Kẻ Sặt là Đức Mẹ Mân Côi, lễ kính
chính vào ngày 7 tháng 10 hàng năm nhưng Đức Mẹ Mân Côi cũng
là quan thày của giáo phận, nên lịch kính của giáo xứ có thay đổi
hàng năm, tùy thuộc vào lịch kính của giáo phận. Các hội đoàn, giáo
dân đều nhộn nhịp chuẩn bị cho lễ kính được sốt sắng. Mở đầu thánh
lễ, cộng đồng giáo xứ Kẻ Sặt tổ chức rước Đức Mẹ Mân Côi và các
Thánh đi một vòng đã định rồi về đến nhà thờ. Các chức việc, mỗi
người tay cầm một nén hương lên thắp tại lư hương lớn đặt trước bàn
17


thờ rồi mới bắt đầu thánh lễ phụng vụ theo nghi thức Công giáo.
Ngoài ra, trong tháng Mân Côi, mỗi tuần, một giáo khu sẽ phụ trách tổ

chức rước kiệu đi theo vành đai của từng khu.
Lễ kính thánh quan thày giáo khu, quan thày các hội đoàn cũng
được tổ chức long trọng, nhiệt tình.
3.2.3.2. Giỗ tổ Hùng Vương
Ngày giỗ tổ Hùng Vương, giáo xứ không tổ chức thánh lễ giỗ
Tổ nhưng Ban hành giáo và một số giáo dân Kẻ Sặt tham dự tích cực
vào lễ giỗ tổ Hùng Vương do giáo hạt Hải Dương tổ chức từ năm
2007 đến nay. Lễ giỗ tổ chức ở sân nhà thờ giáo xứ Hải Dương với
các trang trí gợi mở tính dân tộc và Công giáo như hình ảnh vua
Hùng, trống đồng, ngai thờ, chấp kích sơn son thếp vàng, cờ ngũ sắc,
cờ Tổ quốc, cờ Hội thánh... Những người tham gia nghi thức tế lễ
đều mặc trang phục truyền thống Việt Nam. Ban Tế gồm 1 chủ lễ, 2
chấp sự và 1 thông tán làm lễ dâng hương, hoa, lễ vật, đọc văn tế và
châm lửa hóa. Sau nghi thức tôn kính Quốc tổ là thánh lễ cầu cho
Quốc Thái Dân An bên trong nhà thờ.
3.3. So sánh thờ cúng tổ tiên của người Việt Công giáo ở
giáo xứ Kẻ Sặt với một số giáo xứ đạo khác
Giáo hội Công giáo Việt Nam có những quy định về nghi thức
thực hiện thờ cúng tổ tiên chung nhưng từng nơi lại áp dụng các quy
định đó một cách linh hoạt phù hợp với phong tục tập quán của địa
phương. Chính vì vậy, sẽ có một số sự giống và khác nhau về lễ thức
tại các giáo xứ khác nhau, như: cách thức tổ chức những người giúp kẻ
liệt, quy định về tiếng chuông tử, đưa tang, sử dụng người chấp hiệu,
quy định vắt khăn khi cha mẹ mất mà con chưa kịp về, sử dụng nhạc
hiếu, thực hiện địa táng hay hỏa táng, cách tổ chức giỗ, tập tục an táng
người lỗi đạo, dịp Tết Nguyên đán, thờ cúng tổ họ, lập gia phả, đặt lệ
18


cúng hậu cho mình,… giữa giáo xứ Kẻ Sặt với giáo họ Nỗ Lực (Phú

Thọ), giáo họ Tử Nê (Bắc Ninh), giáo xứ Phùng Khoang (Hà Nội),
giáo xứ Chợ Mới, Bắc Thành (Khánh Hòa), giáo xứ Trực Hùng, Phú
Nhai, Thánh Thể (Nam Định), giáo xứ Lai Ổn (Đồng Nai), làng Lưu
Phương (Ninh Bình), làng Văn Hải, làng Đốc Sơ (Thừa Thiên – Huế).
Tiểu kết chương 3
Ở gia đình, người Kẻ Sặt tôn kính tổ tiên thể hiện qua các nghi
thức cho người sắp mất, tang ma, bàn thờ tổ tiên, cúng giỗ, các lễ tết
như lễ Kỳ hồn, Tết Nguyên đán, hôn nhân,... Họ vừa thực hiện theo
các nghi thức Công giáo vừa thực hiện các nghi thức truyền thống
của người Việt như: lập bàn thờ tang, sử dụng các hình thức khử mùi
hôi truyền thống cho thi hài, viếng, đưa một số đồ dùng của người
quá cố vào trong quan tài, tang phục, dùng nhạc bát âm đưa tiễn
người quá cố,… Bên cạnh đó, việc thờ kính tổ tiên ở dòng họ được
thể hiện qua xu hướng xây dựng các hình thức thờ tổ, nhà thờ họ, tìm
mộ tổ, gia phả dòng họ, giỗ tổ họ. Ở cấp cộng đồng, ngoài tổ chức lễ
kính thánh quan thày của giáo xứ, của hội đoàn một cách trọng thể,
những năm gần đây vào các dịp giỗ Tổ Hùng Vương, giáo dân Kẻ
Sặt tham dự lễ giỗ Tổ Hùng Vương tại giáo xứ Hải Dương một cách
tích cực, phản ánh tâm thức nguồn cội của con người Việt Nam.
Chương 4: GIÁ TRỊ, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐẶT RA
VÀ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP
4.1. Giá trị của thờ cúng tổ tiên trong đời sống người Việt
Công giáo ở Kẻ Sặt
- Thờ cúng tổ tiên là trở về với cội nguồn văn hóa dân tộc, vừa
có giá trị tâm linh, vừa có giá trị đạo đức mà vẫn giữ được giáo lý
Công giáo.
- Thờ cúng tổ tiên đã bổ sung, làm phong phú thêm đời sống đạo.
19



- Sau công đồng Vatican II, việc báo hiếu tổ tiên đi vào gia
phong, nếp sống đạo gắn liền với bổn phận trần thế.
- Thờ cúng tổ tiên đã cố kết con người theo 3 cấp: gia đình – họ
tộc – cộng đồng, làng xã. Thờ cúng tổ tiên không chỉ củng cố quan hệ
huyết thống trong gia đình, dòng họ mà còn khẳng định vai trò cố kết
cộng đồng khi xem xét ở khía cạnh thờ thần chung của cộng đồng
như thánh quan thày của hội đoàn, giáo xứ và đặc biệt là thờ Quốc
Tổ Hùng Vương.
- Công giáo qua thờ cúng tổ tiên đã hội nhập với văn hóa truyền
thống dân tộc, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc.
4.2. Những biến đổi về thờ cúng tổ tiên của người Việt Công
giáo ở giáo xứ Kẻ Sặt
4.2.1. Các yếu tố tác động đến sự biến đổi
Thờ cúng tổ tiên ở giáo xứ Kẻ Sặt chịu ảnh hưởng của hai tác
động chính:
- Những thay đổi trong Giáo hội Công giáo: Giáo hội Công giáo
Rôma sau Công đồng Vatican II đã có những cải cách căn bản với 2
điểm thống nhất là Canh tân và Nhập thế. Giáo hội Công giáo Việt
Nam ra Thư chung năm 1980 xác định "Sống phúc âm giữa lòng dân
tộc” đã mở ra nhiều hoạt động thời kỳ mới, trong đó có tính đến yếu
tố văn hóa dân tộc.
- Tác động của xã hội đương đại: Toàn cầu hoá, khu vực hóa tác
động mạnh mẽ đến các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa. Trong không
gian xã hội - văn hoá đó, "tính lưỡng diện văn hoá" của người Việt được
thể hiện rõ nét, vừa có sự mất đi vừa có sự thêm vào những yếu tố, sắc
thái văn hoá mới. Điều này đã tác động đến tâm lý, ý thức, lối sống và
cả việc thực hành tôn giáo hiện nay, trong đó có vấn đề thờ cúng tổ tiên.
4.2.2. Những biến đổi về thờ cúng tổ tiên
20



- Về tang ma: Tang lễ của người Công giáo Kẻ Sặt cơ bản vẫn
giữ nguyên ý nghĩa và tang thức truyền thống của Giáo hội nhưng đã
có một số thay đổi, như: hiện nay họ vái lạy xác; thắp hương; lập bàn
thờ tang; không phân biệt tiền đi viếng và tiền xin lễ; dân làng đi đưa
tang người lỗi đạo; chôn cất tập trung thi hài tại nghĩa địa; hạ huyệt
đều bằng vải; được phép hỏa táng; vai trò của giáp và ngõ chuyển
sang hàng Khu; cho một số vật dụng thường dùng của người quá cố
vào quan tài; vật dụng khác được gói ghém lại và mang trôi sông;
trong một số trường hợp, có người còn thả một vài đồng tiền xuống
huyệt, bỏ tổ tôm vào,...
- Về giỗ chạp: Ngày nay, đại đa số các gia đình Kẻ Sặt đều lập
bàn thờ gia tiên, đặt một số đồ ăn ngọt như hoa quả, rượu, bia, nước
giải khát, bánh kẹo đủ lên bàn thờ và tổ chức giỗ chạp.
- Phục hồi việc họ: diễn ra mạnh mẽ ngày càng mạnh mẽ bằng
việc xây nhà thờ, viết gia phả, lập khu lăng mộ riêng, quy tập những
mộ phần thuộc họ tộc mình, nhất là mộ tổ.
- Thờ cúng tổ tiên cấp cộng đồng: Người Công giáo ở Kẻ Sặt
trước đây hầu như không quan tâm đến lễ Giỗ tổ Hùng Vương. Cho
đến nay, vào dịp Quốc tổ, giáo dân Kẻ Sặt lại lên giáo hạt Hải Dương
tham dự lễ giỗ Tổ.
4.3. Một số vấn đề đang đặt ra
Thờ cúng tổ tiên ở Kẻ Sặt hiện nay ngoài những mặt tích cực,
còn có một số vấn đề cần đặt ra. Đó là sự thờ ơ của một số người khi
đặt bàn thờ gia tiên nhưng không lưu tâm, bàn thờ phủ bụi, đồ thờ
đơn giản đại khái, một năm chỉ thắp hương 1 vài lần vào ngày giỗ và
tết, gây nên sự lạnh lẽo trên bàn thờ. Ngược lại, một số gia đình tổ
chức tang ma, giỗ chạp, xây dựng mồ mả linh đình mang tính hình
thức, ganh đua phô trương về tiền tài, danh vọng, địa vị và không ít
21



lãng phí, làm biến dạng ý nghĩa nhân văn sâu sắc là báo hiếu các bậc
tiền nhân. Ngoài ra, mặt trái của xu hướng trở lại văn hóa cổ truyền
là sự phục hồi một số yếu tố “mê tín dị đoan” đã và đang len lỏi làm
mất ý nghĩa truyền thống thờ cúng tổ tiên do sự hiểu biết mơ hồ về
giáo lý và cách thực hành.
4.4. Kiến nghị và giải pháp nhằm phát huy các giá trị của
thờ cúng tổ tiên để góp phần phát triển bền vững cộng đồng giáo
dân ở Kẻ Sặt
- Các tổ chức Công giáo, chức sắc và giáo dân cần xây dựng
những hướng dẫn cụ thể hơn nữa để cùng thực hiện, tránh sự ganh
đua; đồng thời nâng cao ý thức tự giác của mỗi cá nhân về ý nghĩa,
mục đích của tôn kính tổ tiên, đảm bảo tính kế thừa về văn hóa tâm
linh, tinh thần, đạo đức cao đẹp uống nước nhớ nguồn của dân tộc để
tránh việc làm lấy lệ hoặc sa đà vào những quan niệm, thực hành “mê
tín dị đoan” núp bóng văn hóa dân gian.
- Cần mở rộng hơn sự giao lưu với anh chị em đồng tộc ngoài
Công giáo để có thể tìm hiểu thêm trong việc phục hồi gia phả,
chung tay xây dựng nhà thờ tổ...
- Cần có sự quy hoạch lại nghĩa địa, quy định đồng nhất huyệt
mộ từ khuôn mẫu rộng sâu, cao, cách thức xây cất đến vị trí xây cất.
- Nâng cao tinh thần đạo hiếu từ hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ
được nâng lên thành hiếu với dân, với nước; lòng nhân ái được nhân
lên thành chủ nghĩa nhân đạo; tính cộng đồng cần được kết hợp với
chủ nghĩa tập thể,…
- Với bản thân cộng đồng Công giáo, để tiếp tục xu thế chuyển
biến, thích nghi, cập nhật hóa phải chăng tiếng nói từ bên trong là
thực sự cần thiết cho sự tiến bộ của một cộng đồng vốn có xu hướng
khép kín.

22


Tiểu kết chương 4
Cho đến nay, thờ cúng tổ tiên đã và đang trở thành một trong
những nhu cầu tâm linh không thể thiếu đối với người Công giáo ở
giáo xứ Kẻ Sặt, nhằm gắn kết các thành viên trong cả ba chiều kích
không gian: nhà – làng – nước. Với sự cởi mở của Giáo hội Công
giáo, các hình thức thờ cúng, kính nhớ tổ tiên của người Công giáo ở
Kẻ Sặt đã có sự phục hồi, biến đổi, mở rộng, tiến gần trở lại với văn
hóa truyền thống của dân tộc. Song song với đó là việc khắc phục
những hạn chế và phát huy những giá trị cao đẹp truyền thống trong
thờ cúng tổ tiên, giúp cho việc hội nhập văn hóa thông qua thờ cúng
tổ tiên của Công giáo ngày càng lan tỏa, xây dựng cộng đồng với nếp
sống văn minh, hiện đại theo tinh thần “tốt đời đẹp đạo”.
KẾT LUẬN
1. Thờ cúng tổ tiên trong cộng đồng giáo dân Công giáo Việt
Nam nói chung, giáo xứ Kẻ Sặt nói riêng có cơ sở nền tảng của giáo
lý Công giáo, không mâu thuẫn với căn tính tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt. Từ sau Công đồng Vatican II, giáo hội Công
giáo đề cao lòng đạo đức bình dân, coi trọng gia đình, tinh thần hiếu
đễ, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình…
2. Thông qua tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Công giáo và
Công giáo ngày càng hội nhập sâu vào văn hóa truyền thống Việt
Nam. Sau một thời gian dài cấm thờ cúng tổ tiên của Công giáo,
người Công giáo ở Kẻ Sặt một mặt vẫn giữ được niềm tin tôn giáo
của mình, mặt khác vẫn giữ được những giá trị tốt đẹp của văn hóa
dân tộc, đồng thời ngày càng có khuynh hướng hội nhập vào thực
hành trở lại văn hóa truyền thống của người Việt.


23


×