Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Nghiên cứu lượng sinh khối và khả năng hấp thụ carbon của rừng trồng cây bản địa thuần loài tại cầu hai phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------

NGUYỄN ANH THƯ

NGHIÊN CỨU LƯỢNG SINH KHỐI
VÀ KHẢ NĂNG HẤP THỤ CARBON CỦA RỪNG TRỒNG
CÂY BẢN ĐỊA THUẦN LOÀI TẠI CẦU HAI – PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI - 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯƠNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------

NGUYỄN ANH THƯ

NGHIÊN CỨU LƯỢNG SINH KHỐI
VÀ KHẢ NĂNG HẤP THỤ CARBON CỦA RỪNG TRỒNG
CÂY BẢN ĐỊA THUẦN LOÀI TẠI CÂU HAI – PHÚ THỌ


Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60. 62. 60

LUÂN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HOÀNG KIM NGŨ
.

HÀ NỘI - 2010


Lưu ý: Gáy cuốn bìa cứng luận văn chính được thiết kế như sau:
Ngành Lâm học:
Nguyễn Anh Thư

Luận văn thạc sỹ Khoa học lâm nghiệp

năm 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề môi
trường bức xúc trên phạm vi toàn cầu, bao gồm: sự biến đổi khí hậu (BĐKH),
suy thoái đa dạng sinh học, suy thoái tài nguyên nước ngọt, suy thoái tầng
ôzôn, suy thoái đất và hoang mạc hóa, ô nhiễm các chất hữu cơ độc hại khó
phân huỷ…Những vấn đề này có mối tương tác lẫn nhau và đều ảnh hưởng
trực tiếp tới cuộc sống con người cũng như sự phát triển của xã hội [9]. Trong
đó, biến đổi khí hậu đang là mối quan tâm hàng đầu ở mọi quốc gia trên thế
giới bởi những hậu quả nghiêm trọng của nó làm tổn hại đến tất cả các thành

phần của môi trường sống như: nước biển dâng cao, gia tăng hạn hán, ngập
lụt, thay đổi các kiểu khí hậu, gia tăng các loại bệnh tật, thiếu hụt nguồn nước
ngọt, sự suy giảm đa dạng sinh học và gia tăng các hiện tượng khí hậu cực
đoan (WWF). Tuy nhiên các hiện tượng đó mới chỉ là những hậu quả trước
mắt mà con người có thể nhìn thấy được, còn trong tương lai, hậu quả của sự
BĐKH là vô cùng to lớn, không thể lường trước, thậm chí đe dọa đến sự sinh
tồn của nhiều loài sinh vật trên trái đất.
Nguyên nhân trực tiếp gây ra biến đổi khí hậu là hiện tượng nóng lên
toàn cầu mà một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra hiện tượng này là
sự phát thải quá mức khí nhà kính (KNK) vào khí quyển. Kể từ thời kỳ tiền
công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng ngày càng nhiều
năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt),
qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng nhiều các chất khí gây hiệu ứng nhà
kính, làm tăng hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của
trái đất [15]. Các khí nhà kính chủ yếu là: carbonic (CO2), Mêtan (CH4), Ôxit
nitơ, Hydrofluorocarbon (HFCs), Perfluorocarbon (PFCs) và Sunphua hexafuorit
(SF6) (UNFCCC,2005c). Theo ước tính của IPCC, CO2 chiếm tới 60%
nguyên nhân của sự nóng lên toàn cầu, nồng độ CO2 trong khí quyển đã tăng


2

28% từ 288 ppm lên 366 ppm trong giai đoạn 1850- 1998 (IPCC, 2000). Ở
giai đoạn hiện nay, nồng độ khí CO2 tăng khoảng 10% trong chu kỳ 20 năm
và đạt 379 ppm vào năm 2005 (UNFCCC, 2005b).
Sự tăng lên của các khí nhà kính dẫn đến gia tăng hiệu ứng nhà kính
của lớp khí quyển đã tạo ra một lượng bức xạ cưỡng bức với độ lớn trung
bình là 2,3w/m2 làm cho trái đất nóng lên. Theo Báo cáo đánh giá lần thứ 4
của IPCC, đến cuối thế kỷ XXI, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển sẽ đạt
540- 970 ppm theo các kịch bản khác nhau về phát thải khí nhà kính, và như

vậy, nhiệt độ trung bình toàn cầu sẽ tăng lên tương ứng là 2,0 – 4,5oC, mực
nước biển trung bình sẽ tăng lên từ 0,18 – 0,59m so với cuối thế kỷ 20. Dự
tính đến năm 2100, nhiệt độ sẽ tăng khoảng 3oC. Mực nước biển trung bình
có thể tăng 35cm vào năm 2050, 50cm vào năm 2070 và dự tính đến 2100 có
thể tăng khoảng 1m [15]. Tuy nhiên, BĐKH gây ra các hậu quả của không
đồng đều trên toàn cầu. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới năm 2007, Việt
Nam là một trong năm nước sẽ phải chịu hậu quả nặng nề nhất của BĐKH
(Dasgupta et al.,2007). Theo các kịch bản biến đổi khí hậu, ở Việt Nam, nhiệt
độ trung bình năm sẽ tăng thêm 2oC vào năm 2050 và 2,5oC vào năm 2070 so
với trung bình thời kỳ 1961 – 1990.
Để chống lại sự nóng lên toàn cầu, tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất ở
Rio de Janeiro, cộng đồng quốc tế đã thỏa thuận và ban hành Công ước khung
của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (United Nations Framework
Convention on Climate Change ) (UNFCCC,1992). Công ước này đã được cụ
thể hoá bằng nghị định thư Kyôtô năm 1997. Nội dung quan trọng của Nghị
định thư là đưa ra chỉ tiêu giảm phát thải khí nhà kính có tính ràng buộc pháp
lý đối với các nước phát trển và cơ chế giúp các nước đang phát triển đạt
được sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững thông qua thực hiện
“Cơ chế phát triển sạch” (CDM). Trong tình hình đó, ngành lâm nghiệp đã


3

chứng minh vai trò quan trọng của mình – không chỉ là một ngành kinh tế mà
hơn hết là khả năng phòng hộ và bảo vệ môi trường - đặc biệt là khả năng cân
bằng một số chất khí trong không khí như CO2 và O2 nhờ sự quang hợp và
tích lũy CO2 trong gỗ và trong đất lâu dài của cây xanh.
Bên cạnh đó, vào tháng 12 năm 2009, hội nghị Thượng đỉnh thế giới về
BĐKH tại Copenhaghen – Đan Mạch đã kết thúc trong sự thất vọng của nhiều
bên tham gia khi chỉ đưa ra Hiệp ước Copenhaghen không mang tính ràng

buộc pháp lý càng chứng tỏ việc định giá rừng đã và đang trở thành một đòi
hỏi bức bách, không thể chậm trễ. Nhận thức được điều này, Việt Nam đã tích
cực tham gia các chương trình về biến đổi khí hậu của quốc tế - trong đó có
việc phê chuẩn Công ước khung Liên hợp quốc vào tháng 11 năm 1994 và
Nghị định thư Kyoto tháng 9 năm 2002.
Việc định lượng khả năng hấp thụ carbon của rừng là một phần quan
trọng trong định lượng giá trị môi trường của rừng. Tuy nhiên không phải cây
rừng nào cũng có khả năng hấ p thu ̣ carbon như nhau. Hiện nay, về vấn đề
này, các nhà khoa học Việt Nam mới chỉ chủ yếu nghiên cứu các loài cây
trồng rừng phổ biến như thông, keo, bạch đàn, …và các cây trồng rừng ngập
mặn, trong khi đó cây bản địa là một đối tượng quan trọng trong các chiến
lược phát triển lâm nghiệp của nhiều địa phương thì mới chỉ được tập trung
nghiên cứu ở lĩnh vực thống kê tài nguyên rừng và đánh giá kết quả trồng
rừng, những nghiên cứu về sinh khối cũng như khả năng hấp thu và cố định
carbon của rừng trồng cây bản địa hầu như chưa được quan tâm.
Xuất phát từ thực trạng đó, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
lượng sinh khối và khả năng hấp thụ carbon của rừng trồng cây bản địa
thuần loài tại Cầu Hai- Phú Thọ” nhằm đóng góp thêm hiểu biết mới về vai
trò giảm phát thải khí nhà kính của các cây rừng và kiểu rừng ở Việt Nam
cũng như trên thế giới còn rất ít được nghiên cứu.


4

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu sinh khối và khả năng lưu giữ carbon của rừng
1.1.1. Trên thế giới
- Nghiên cứu về sinh khối rừng
Sinh khối được xác định là tất cả các chất hữu cơ ở dạng sống và chết

(còn ở trên cây) ở trên hoặc ở dưới mặt đất (Brown (1997); Ponce – Hernandez
(2004)) [35]. Sinh khối là đơn vị đánh giá năng suất của lâm phần. Mặt khác,
để có được số liệu về hấp thụ carbon, khả năng và động thái quá trình hấp thụ
carbon của rừng, người ta phải tính từ sinh khối của rừng. Chính vì vậy, nghiên
cứu sinh khối chính là cái gốc, là nền móng cho việc nghiên cứu trữ lượng
carbon của rừng.
Đầu thế kỷ XIX, các nghiên cứu về sinh trưởng và dự đoán sản lượng
rừng được hình thành và phát triển ở Châu Âu đã mở đầu cho lịch sử của Cơ
chế phát triển sạch trong lâm nghiệp. Sự phát triển của khoa học sản lượng
rừng gắn liền với tên tuổi của những người đã khai sinh ra nó như: Baur,
Breymann Cotta, Danckemam, Draudt, Weise...Mỗi tác giả đều có những cách
tiếp cận và giải quyết vấn đề khác nhau. Nhưng họ đều có chung mục đích là
tìm hiểu những quy luật sinh trưởng, sự liên quan giữa sinh trưởng và sản
lượng rừng vào không gian dinh dưỡng, quy luật kết cấu lâm phần, đặc tính di
truyền của loài cây, kết hợp với những thành tựu khoa học tự nhiên để mô
phỏng những quy luật đó bằng mô hình toán học. Qua các công trình nghiên
cứu đó, một kết luận được rút ra mang tính kinh điển là sinh trưởng, tăng
trưởng, sinh khối, năng suất có quan hệ chặt chẽ với nhau và phụ thuộc chặt
chẽ với chiều cao, đường kính [25]. Liebig J. (1862) lần đầu tiên đã định
lượng về sự tác động của thực vật tới không khí và phát triển thành định luật


5

“tối thiểu” và định luật này đã được Mitscherlich E.A. phát triển thành luật
“năng suất”(1954) (dẫn theo Võ Đại Hải - 2008) [7].
Lieth H. (1964) đã thể hiện năng suất trên toàn thế giới bằng bản đồ
năng suất, đồng thời sự ra đời của chương trình sinh học quốc tế “IBP” (1964)
và chương trình sinh quyển con người “MAB” (1971) đã tác động mạnh mẽ
tới việc nghiên cứu sinh khối [45]. Những nghiên cứu trong giai đoạn này tập

trung vào các đối tượng đồng cỏ, savan, rừng rụng lá, rừng mưa thường xanh
như nghiên cứu của Duyiho; Dajoz (1971)...
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng các tác giả chỉ đi sâu
nghiên cứu vào mối quan hệ giữa sinh khối và các chỉ tiêu khác ở một số loài
đơn lẻ mà chưa đánh giá được giá trị tổng hợp của nhiều loài có tác động
trong một khu vực nhất định như: Golley F.B & cộng sự (1962) (Vũ Đoàn
Thái, dẫn, 2003) đã nghiên cứu sinh khối rừng Đước đỏ (Rhizophora mangle)
tự nhiên mở đầu cho rất nhiều công trình nghiên cứu về sinh khối rừng ngập
mặn sau này ở nhiều nơi trên thế giới; Ferreira (1973) với công trình nghiên
cứu “sản lượng gỗ khô của rừng trồng Thông ở Braxin”; Pitaya-petmak của
Thái Lan (1976); Das và Ramakrisham (1987) nghiên cứu phân tích sinh khối
năng suất rừng trồng ở Đông Bắc Ân Độ; Năm 2000, Gifford đã tính được
mật độ sinh khối cho các kiểu rừng ở Australia.
Do đó công trình “Sinh khối và năng suất sơ cấp rừng thế giới – World
forest biomass and primary production data” của Canell M.G.R được cho là
tác phẩm kinh điển và quy mô nhất về sinh khối rừng kể từ khi công bố năm
1982 đến tận ngày nay, trong đó tập hợp 600 công trình đã được xuất bản về
sinh khối khô thân, cành, lá, và một số thành phần, sản phẩm sơ cấp của hơn
1200 lâm phần thuộc 46 nước trên thế giới (dẫn theo Võ Đại Hải - 2008) [7].
Whittaker R.H (1961, 1966) [51, 52], Mark P.L (1971) [46] cho rằng "Số đo
năng suất chính là số đo về tăng trưởng, tích luỹ sinh khối ở cơ thể thực vật


6

trong quần xã" và theo Rodel D.Lasco (2002), mặc dù rừng chỉ che phủ 21%
diện tích bề mặt trái đất nhưng sinh khối thực vật của nó chiếm đến 75% so
với tổng sinh khối thực vật trên cạn và lượng tăng trưởng sinh khối hàng năm
chiếm 37% [49].
Tổng kết lại, các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu sinh

khối rừng theo 3 hướng chủ yếu:
i) Dựa vào mối liên hệ giữa sinh khối với kích thước của cây hoặc của
từng bộ phận cây theo dạng hàm toán học nào đó thông qua việc điều tra một
số nhân tố như đường kính, chiều cao, cấp đất, tuổi, mật độ…phương pháp
này được phần đông các nhà khoa học sử dụng để điều tra sinh khối rừng như
Schumarcher, Spurr, Prodan, Alder, Abadie; Tritton và Hornbeck (1982),
Smith và Brand (1983), Grier và cộng sự(1989), Reichel (1991)...; Burton V.
Barner và cộng sự, 1998 cũng xác định sinh khối của bộ phận trên mặt đất
theo hướng tiếp cận này (dẫn theo Võ Đại Hải - 2008) [7]. Newbuold P.J.
(1967) đề nghị phương pháp “cây mẫu” để nghiên cứu sinh khối và năng suất
của quần xã từ các ô tiêu chuẩn. Phương pháp này được chương trình quốc tế
“IBP” thống nhất áp dụng.
Đáng chú ý là trong những năm gần đây các phương pháp nghiên cứu
định lượng, xây dựng các mô hình dự báo sinh khối cây rừng đã được áp dụng
thông qua các mối quan hệ giữa sinh khối cây với các nhân tố điều tra cơ bản,
dễ đo đếm như đường kính ngang ngực, chiều cao cây, giúp cho việc dự đoán
sinh khối được nhanh hơn, đỡ tốn kém hơn.
Phương pháp lấy mẫu rễ để xác định sinh khối cũng được mô tả bởi
Shurrman và Geodewaaen (1971), Moore (1973) Gadow và Hui (1999),
Oliveira và cộng sự (2000), Voronoi (2001), Mc kenzie và cộng sự (2001) [7].
Bộ phận cây bụi và những cây tầng dưới của tán rừng đóng góp một phần
quan trọng trong tổng sinh khối rừng. Catchpole và Wheeler (1992) đã đưa ra


7

bốn phương pháp chủ yếu sau đây để ước tính sinh khối cho bộ phận này: (1)Lấy mẫu toàn bộ cây (quadrats); (2)- phương pháp kẻ theo đường; (3)- phương
pháp mục trắc; (4)- phương pháp lấy mẫu kép sử dụng tương quan [7].
ii) Phương pháp điều tra gián tiếp
Một số tác giả như Trasnean (1926), Huber (1952), Monteith (1960 1962), Lemon (1960 - 1987), Inone (1965 - 1968),... đã dùng phương pháp

dioxit carbon để xác định sinh khối. Theo đó sinh khối được đánh giá bằng
cách xác định tốc độ đồng hoá CO2.
Hai nhà khoa học Aruga và Maidi (1963) đã đưa ra phương pháp
“Chlorophyll” để xác định sinh khối thông qua hàm lượng Chlorophyll trên
một đơn vị diện tích mặt đất vì hàm lượng này là một chỉ tiêu biểu thị khả
năng của hệ sinh thái hấp thụ các tia bức xạ hoạt động quang tổng hợp (dẫn
theo Đặng Trung Tấn – 2001) [25].
Edmonton. Et. Al đề xướng phương pháp Oxygen năm 1968 nhằm định
lượng oxygen tạo ra trong quá trình quang hợp của thực vật màu xanh. Từ đó
tính ra được năng suất và sinh khối rừng.
iii) Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ viễn thám
và hệ thống thông tin địa lý (GIS) với các công cụ như: ảnh hàng không, ảnh
vệ tinh, laze, rada, hệ thống định vị toàn cầu (GPS)... được sử dụng trong điều
tra sinh khối và đo đếm lượng carbon trong hệ sinh thái và biến đổi của chúng.
Tiên phong là P.S.Roy, K.G.Saxena và D.S.Kamat (Ấn Độ, 1956) trong công
trình “Đánh giá sinh khối thông qua viễn thám” đã nêu tổng quát vấn đề sản
phẩm sinh khối và việc đánh giá sinh khối bằng ảnh vệ tinh.
-Nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của rừng
Rừng là bể chứa carbon khổng lồ của trái đất và khả năng hấp thụ
carbon của thực vật đã được quan tâm từ rất sớm. Trên cơ sở các phương
pháp tiếp cận về xác định sinh khối rừng nêu trên, các nhà khoa học đã nghiên


8

cứu khả năng hấp thụ carbon cho các đối tượng khác nhau và đã thu được các
kết quả rất đáng kể.
Các nhà khoa học đã cố gắng xác định quy mô của các vùng dự trữ
carbon toàn cầu và sự đóng góp của rừng vào các vùng dự trữ cũng như
những thay đổi về lượng carbon được dự trữ như: Bolin (1977); Post,

Emanuel và cộng sự (1982); Detwiler và Hall (1988); Dixin, Brown (1994);
Brown, Hall và cộng sự (1996); Malhi, Baldocchi (1999)…[7].
Từ những nghiên cứu trong lĩnh vực này, Woodwell đã đưa ra bảng
thống kê lượng carbon theo kiểu rừng. Theo đó, tổng lượng carbon ở lục địa là
547 tỷ tấn,và lượng carbon được lưu giữ trong kiểu rừng mưa nhiệt đới là cao
nhất (340 tỷ tấn), chiếm hơn 62% tổng lượng carbon trên bề mặt trái đất,
trong khi đó đất trồng trọt chỉ chứa khoảng 7 tỷ tấn  1% (dẫn theo Phạm Tuấn
Anh - 2007) [2]. Điều đó chứng tỏ rằng, việc chuyển đổi đất rừng sang đất
nông nghiệp sẽ làm mất cân bằng sinh thái, gia tăng lượng khí phát thải gây
hiệu ứng nhà kính.
Khả năng lưu trữ carbon của rừng nhiệt đới châu Á là đối tượng quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu như: Brown và cộng sự (năm 1980); Paml C.A
và cộng sự (1986), Houghton R.A(1991). Kết quả nghiên cứu của Brawn
(1991); Murdiyarso D. (1995); Joyotee Smith và Sara J.Scherr (2002) đã định
lượng được lượng carbon lưu giữ trong các kiểu rừng nhiệt đới và trong các
loại hình sử dụng đất ở Brazil, Indonesia và Cameroon. Theo nghiên cứu của
Lasco năm 2003 cũng cho thấy rừng trồng thương mại cây mọc nhanh tích lũy
được 0,5 – 7,82 tấn C/ha/năm tùy theo loài cây và tuổi [49]. Khi nghiên cứu
lượng carbon lưu trữ trong rừng trồng nguyên liệu giấy, Romain Pirard (2005)
đã tính lượng carbon lưu trữ dựa trên tổng sinh khối tươi trên mặt đất, thông
qua lượng sinh khối khô (không còn độ ẩm) bằng cách lấy tổng sinh khối tươi


9

nhân với hệ số 0.49, sau đó nhân sinh khối khô với hệ số 0.5 để xác định
lượng carbon lưu trữ trong cây (theo Lê Huy Bá – 2001) [3].
Năm 1994, Brown và Pearce đưa ra các số liệu đánh giá lượng carbon
và tỷ lệ thất thoát đối với rừng nhiệt đới. Đối với rừng nhiệt đới, có tới 50%
lượng carbon dự trữ trong thảm thực vật và 50% dự trữ trong đất [35].

Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về khả năng hấp thụ carbon của
rừng trên toàn thế giới, tiêu biểu phải kể đến:
Brown và cộng sự (1996) [34] đã ước lượng tổng lượng carbon mà hoạt
động trồng rừng trên thế giới có thể hấp thu tối đa trong vòng 50 năm (1995 2000) là khoảng 60 - 87 Gt C, với 70% ở rừng nhiệt đới, 25% ở rừng ôn đới
và 5% ở rừng cực bắc (Cairns et al., 1997) [36]. Tính tổng lại rừng trồng có
thể hấp thu được 11 - 15% tổng lượng CO2 phát thải từ nguyên liệu hoá thạch
trong thời gian tương đương. Tổng lượng hấp thu dự trữ carbon của rừng trên
toàn thế giới khoảng 830 Pg C, trong đó carbon trong đất lớn hơn 1,5 lần
carbon dự trữ trong thảm thực vật (Brown, 1997) [34].
Năm 1999, một nghiên cứu về lượng phát thải carbon hàng năm và
lượng carbon dự trữ trong sinh quyển được Malhi và Baldocchi thực hiện.
Theo các tác giả này thì sự phát thải từ các hoạt động của con người (như đốt
nhiên liệu hóa thạch,…) tạo ra 7,1 ±1,1 Gt C/năm đi vào khí quyển, 46% còn lại
trong khí quyển, khi đó 2,0 ± 0,8 Gt C/năm được chuyển vào đại dương; 1,8 ± 1,6
Gt C/năm được giữ trong bể trữ carbon trái đất (dẫn theo Võ Đại Hải - 2008) [7].
Công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống về lượng
carbon tích luỹ của rừng được thực hiện bởi Ilic (2000) và Mc Kenzie (2001)
Theo Mc Kenzie (2001), carbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở
bốn bộ phận chính: thảm thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây
và đất rừng. Việc xác định lượng carbon trong rừng thường được thực hiện
thông qua xác định sinh khối rừng [47].


10

Theo Schimel và cộng sự, trong chu trình carbon toàn cầu, lượng
carbon lưu trữ trong thực vật thân gỗ và trong lòng đất khoảng 2.5Tt, trong
khi đó khí quyển chỉ chứa 0.8Tt (dẫn theo Phạm Tuấn Anh - 2007) [2].
Khí quyển = 760


Tích lũy 3.3±0.2

Hấp thụ của đại
dương 2.3 ± 0.8

Hấp thụ bề mặt 0.7± 1.0
Hô hấp và cháy=60

Rửa trôi=0.8

Nhiên liệu hóa
thạch và hoạt
động công nghiệp
6.3±0.6

Trao đổi
không khí
đại dương
= 90

Đất=2000 Thực vật
= 500
Đại dương = 39000

Trầm tích=0.2
Hữu cơ và khoáng
chất chứa C > 6000

Hình 1.1: Sơ đồ Chu trình carbon toàn cầu (Theo Schimel, 2001)
Theo chu trình trên, trong tổng số 6.3Gt – 6.6Gt lượng carbon thải ra từ

các hoạt động của con người, có khoảng 0.7Gt – 1.7Gt được hấp thụ bởi các
hệ sinh thái bên trên bề mặt trái đất. Và hầu hết lượng carbon trên trái đất
được tích lũy trong sinh khối cây rừng, đặc biệt là rừng mưa nhiệt đới.
Y. Morikawa đã tính khối lượng carbon chiếm 50% khối lượng sinh
khối khô, phương pháp này đã được trung tâm Hợp tác Quốc tế và xúc tiến
Lâm nghiệp Nhật Bản (JIFPRO) áp dụng (dẫn theo Võ Đại Hải - 2008) [7].
Trong các nghiên cứu về sự biến động carbon sau khai thác rừng phải
kể đến các công trình của Lasco. Theo Rodel D. Lasco (2002), lượng carbon
tích luỹ bởi rừng chiếm 47% tổng lượng carbon trên trái đất, nên việc chuyển
đổi đất rừng thành các loại hình sử dụng đất khác có tác động mạnh mẽ đến
chu trình carbon. Các hoạt động lâm nghiệp và sự thay đổi phương thức sử


11

dụng đất, đặc biệt là sự suy thoái rừng nhiệt đới là một nguyên nhân quan
trọng làm tăng lượng CO2 trong khí quyển, ước tính có khoảng 1,6 tỷ tấn/năm
trong tổng số 6,3 tỷ tấn khí CO2/năm được phát thải ra do các hoạt động của
con người. Vì vậy, khả năng lưu giữ carbon của rừng nhiệt đới và sự biến
động của nó có ý nghĩa rất to lớn trong việc hạn chế quá trình biến đổi khí hậu
toàn cầu [48].
Tổng kết lại, các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu lượng
carbon lưu trữ của rừng theo các hướng tiếp cận chủ yếu sau:
+ Tiếp cận thứ nhất: Phương pháp sinh khối - Tính toán và dự báo khối
lượng sinh khối khô của rừng/đơn vị diện tích (tấn/ha) tại thời điểm cần thiết
trong quá trình sinh trưởng. Từ đó tính lượng carbon tồn trữ trong vật chất hữu
cơ của rừng; Tại Trung Quốc có Lý Ý Đức (1999) áp dụng và từ lâu người ta đã
dùng phương pháp sinh khối để xác định lượng carbon tích luỹ của rừng – đó
cũng chính là phương pháp điều tra tài nguyên rừng truyền thống [54].
+ Tiếp cận thứ hai: Phương pháp đốt tươi và đốt khô các mẫu chất thứ

cấp dùng để phân tích hàm lượng carbon của Rayment và Higginsin(1992)
bằng oxi tinh khiết trong môi trường nhiệt độ cao và chuyển toàn bộ carbon
thành carbonoxit, sau đó carbonoxit được tách ra bằng máy dò của dòng Heli
tinh khiết. Các loại oxit khác ( nitơ, lưu huỳnh,...) được tách ra từ dòng khí.
Hàm lượng carbon được tính toán bằng phương pháp không tán sắc của vùng
quang phổ hồng ngoại. Phân tích hàm lượng carbon bằng hai phương pháp
phét sắc ký của dòng khí và quang phổ khối (Giford, 2000).
+ Tiếp cận thứ ba: Dùng quan hệ tương quan giữa W – V để xác định
lượng W tinh làm cơ sở để tính lượng carbon tích lũy của rừng.
+ Tiếp cận thứ tư: Phương pháp thể tích - Căn cứ vào thể tích là chính
để tính lượng carbon tích lũy của rừng (IEEAF, 2002); Căn cứ vào thể tích thực
tế để xác định lượng carbon bình quân của những loài cây chủ yếu.


12

+ Tiếp cận thứ năm: Phương pháp xác định qua điều tra chất hữu cơ đất
và Phương pháp tách qua đường carbon cơ sở.
1.1.2. Ở Viê ̣t Nam
Việt Nam là một nước đang phát triển, quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước diễn ra mạnh mẽ đã cải thiện đời sống cho người dân
nhưng đồng thời cũng làm gia tăng những vấn đề bức xúc về môi trường.
Theo số liệu kiểm kê KNK quốc gia ở Việt Nam năm 1994, tổng phát thải khí
nhà kính tương đương 103,8 triệu tấn CO2, bình quân theo đầu người khoảng
1,4 triệu tấn. Do đó, Việt Nam không được xếp vào phụ lục 1 của thế giới,
nghĩa là việc phát thải CO2 vào khí quyển còn quá nhỏ so với mặt bằng chung
của thế giới, nên chưa bắt buộc phải giảm. Đây chính là cơ hội để các nước
phát triển đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các dự
án CDM trong lâm nghiệp.
- Nghiên cứu sinh khối và năng suất rừng

So với những vấn đề nghiên cứu khác trong lĩnh vực lâm nghiệp,
nghiên cứu về sinh khối rừng ở nước ta được tiến hành khá muộn (khoảng
cuối thập kỷ 80), mặc dù các công trình nghiên cứu tiến hành khá tản mạn và
chưa có hệ thống nhưng các nghiên cứu này cũng đã đem lại những kết quả
rất có ý nghĩa và để lại nhiều dấu ấn [7]. Các công trình nghiên cứu chỉ tập
trung vào một số đối tượng nhất định như: Rừng ngập mặn (Nguyễn Hoàng
Trí, 1986; Đặng Trung Tấn, 2001); Thông (Ngô Đình Quế, 1971; Lê Hồng
Phúc, 1996; Nguyễn Ngọc Lung và Ngô Đình Quế, Viên Ngọc Nam &
Nguyễn Dương Thụy, 1991; Nguyễn Văn Bé, 1999); Keo lá tràm (Vũ Văn
Thông; 1998; Hoàng Văn Dưỡng, 2000)... Hà Văn Tuế (1994) cũng trên cơ sở
phương pháp “cây mẫu” của Newboul P.J (1967) nghiên cứu năng suất, sinh
khối một số quần xã rừng trồng nguyên liệu giấy tại vùng trung du Vĩnh Phú [29].
Tuy nhiên, việc nghiên cứu sinh khối của các tác giả trên mới chỉ tìm ra


13

mối quan hệ giữa các bộ phận cây để từ đó đánh giá khả năng đem lại giá trị
về gỗ của cây rừng mà chưa hướng vào nghiên cứu lợi ích môi trường. Từ khi
Cơ chế phát triển sạch được thông qua và thực sự trở thành một cơ hội mới
cho ngành lâm nghiệp thì những nghiên cứu về sinh khối rừng ở nước ta bắt
đầu nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học. Trong đó, đối
tượng nghiên cứu chính vẫn là các loài Thông, Keo, Bạch đàn.
Trong khoảng thời gian từ năm 2003 – 2005, Ngô Đình Quế và các
cộng tác viên đã tiến hành nghiên cứu xây dựng tiêu chí, chỉ tiêu trồng rừng
theo cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam và bước đầu đã đánh giá khả năng hấp
thụ carbon thực tế của một số loại rừng trồng ở Việt Nam: Thông nhựa, Keo
lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn Uro [20].
Nguyễn Ngọc Lung (2004) đã nghiên cứu sinh khối rừng trồng Thông
ba lá để làm cơ sở tính toán khả năng cố định carbon của loài cây này. Đây

được coi là công trình nghiên cứu có ý nghĩa khoa học cao bởi tác giả đã xây
dựng được một số hàm tương quan mang tính chất định lượng trong việc xác
định sinh khối tạo tiền đề xây dựng các dự án AR – CDM sau này [12].
Theo Nguyễn Văn Dũng (2005), rừng trồng Thông mã vĩ thuần loài 20
tuổi có tổng sinh khối tươi (trong cây và vật rơi rụng) là 321,7- 495,4 tấn/ha,
tương đương với lượng sinh khối khô là 173,4 - 266,2 tấn. Rừng Keo lá tràm
trồng thuần loài 15 tuổi có tổng sinh khối tươi (trong cây và trong vật rơi
rụng) là 251,1 - 433,7 tấn/ha, tương đương với lượng sinh khối khô thân là
132,2 - 223,4 tấn/ha [5].
Vũ Tấn Phương (2006) khi nghiên cứu về sinh khối cây bụi thảm tươi
tại Đà Bắc - Hòa Bình; Hà Trung, Thạch Thành, Ngọc Lặc - Thanh Hóa cho
kết quả: Sinh khối tươi biến động rất khác nhau giữa các loại thảm tươi cây
bụi: Lau lách có sinh khối tươi cao nhất, khoảng 104 tấn/ha, tiếp đến là trảng
cây bụi cao 2- 3 m có sinh khối tươi đạt khoảng 61 tấn/ha. Các loại cỏ như cỏ


14

lá tre, cỏ tranh và cỏ chỉ (hoặc cỏ lông lợn) có sinh khối biến động khoảng 2231 tấn/ha. Về sinh khối khô: lau lách có sinh khối khô cao nhất, 40 tấn/ha; cây
bụi cao 2-3 m là 27 tấn/ha; cây bụi cao dưới 2 m và tế guột là 20 tấn/ha; cỏ lá
tre 13 tấn/ha; cỏ tranh 10 tấn/ha; cỏ chỉ, cỏ lông lợn 8 tấn/ha [18].
Nguyễn Ngọc Lung và Nguyễn Tường Vân (2004) đã sử dụng biểu quá
trình sinh trưởng và biểu Biomass để tính toán sinh khối rừng [12].
Lý Thu Quỳnh (2007) với công trình “Nghiên cứu sinh khối và khả
năng hấp thụ carbon của rừng Mỡ (Manglietia conifera Dandy) trồng tại
Tuyên Quang và Phú Thọ” đã dựa trên lượng sinh khối và carbon hấp thụ
được để đưa ra các phương trình tương quan giúp cho việc nghiên cứu sinh
khối và khả năng hấp thụ carbon của rừng Mỡ được dễ dàng hơn [22].
- Nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của rừng
Một điểm khá chung của các công trình nghiên cứu về lượng carbon

hấp thụ của rừng là hầu hết các tác giả thường thiết lập mối quan hệ giữa
lượng carbon tích lũy của rừng với các nhân tố điều tra cơ bản như đường
kính, chiều cao vút ngọn, mật độ, tuổi... cụ thể như Nguyễn Tuấn Dũng
(2005) đã lập phương trình cho 2 loài Thông mã vĩ và Keo lá tràm; Ngô Đình
Quế (2005) đã xây dựng mối quan hệ cho các loài Thông nhựa, Keo lai, Keo
tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn Uro; Vũ Tấn Phương (2006) xây dựng các
phương trình quan hệ cho Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn
Urophylla, Quế. Đây là những cơ sở quan trọng cho việc xác định nhanh
lượng carbon tích lũy của rừng trồng nước ta thông qua điều tra một số nhân
tố đơn giản.
Khả năng hấp thụ carbon của rừng tự nhiên cũng được quan tâm nghiên
cứu. Vũ Tấn Phương (2006) đã nghiên cứu trữ lượng carbon theo các trạng
thái rừng. Kết quả nghiên cứu cho biết: rừng giàu có tổng trữ lượng carbon
694,9 - 733,9 tấn CO2/ha; rừng trung bình 539,6-577,8 tấn CO2/ha; rừng


15

nghèo 387,0-478,9 tấn CO2/ha; rừng phục hồi 164,9 - 330,5 tấn CO2/ha và
rừng tre nứa là 116,5 - 277,1 tấn CO2/ha; đồng thời tính toán trữ lượng carbon
trong sinh khối thảm tươi cây bụi tại Hòa Bình và Thanh Hóa là 20 tấn/ha với
lau lách; 14 tấn/ha với cây bụi cao 2-3 m; khoảng 10 tấn/ha với cây bụi dưới
2m và tế guột; 6,6 tấn/ha với cỏ lá tre; 4,9 tấn/ha với cỏ tranh; cỏ chỉ, cỏ lông
lợn là 3,9 tấn/ha [18]. Đây là một kết quả nghiên cứu rất quan trọng không
những chỉ đóng góp cho phương pháp luận nghiên cứu sinh khối cây bụi thảm
tươi mà còn là căn cứ khoa học để xây dựng kịch bản đường cơ sở cho các dự
án trồng rừng CDM sau này.
Nguyễn Ngọc Lung, Nguyễn Tường Vân đã sử dụng công thức tổng
quát của quá trình quang hợp để tính ra hệ số chuyển đổi từ sinh khối khô
sang CO2 đã hấp thụ là 1,630/1. Căn cứ vào biểu quá trình sinh trưởng và biểu

Biomass các tác giả tính được 1 ha rừng Thông 60 tuổi ở cấp đất III chứa
đựng 707,75 tấn CO2 [12].
Theo Hoàng Xuân Tý (2004), nếu tăng trưởng rừng đạt 15 m3/ha/năm,
tổng sinh khối tươi và chất hữu cơ của rừng sẽ đạt được xấp xỉ 10 tấn/ha/năm
tương đương 15 tấn CO2/ha/năm, với giá thương mại CO2 tháng 5/2004 biến
động từ 3-5 USD/tấn CO2, thì một ha rừng như vậy có thể đem lại 45-75 USD
(tương đương 675.000 - 1.120.000 đồng Việt Nam) mỗi năm [30].
Trung tâm sinh thái rừng và môi trường trong đề tài nghiên cứu định
giá rừng đã đưa ra ước tính carbon thông qua đường kính cây rừng cho 5 loài
cây trồng rừng là Acacia mangium, A.auriculiformis; A.hybrid; Pinus
assoniana và P.merkusii [10]. Võ Đại Hải (2009) cũng đã có nghiên cứu và
lập các mối quan hệ để ước tính carbon hấp thụ trong rừng trồng bạch đàn [7].
Phạm Tuấn Anh (2007) khi nghiên cứu năng lực hấp thụ CO2 của rừng
tự nhiên lá rộng thường xanh tại Tuy Đức – ĐăkNông đã tiếp cận theo từng
loài cây trong rừng tự nhiên như Chò xót, Trâm,... Trên cơ sở này, năm 2009,


16

Bảo Huy đã phát triển phương pháp nghiên cứu ước tính trữ lượng carbon
trong các bể chứa ở các hệ sinh thái rừng tự nhiên Việt Nam [2].
1.2. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Dẻ đỏ (Castanaopsis hystrix A.DC.)
- Đặc điểm nhận biết
Cây gỗ lớn thường xanh, cao 25 – 30m, đường kính có thể tới 1m.
Cành non phủ lông nâu vàng. Lá hình trứng trái xoan hoặc ngọn giáo, dài 7 –
12cm rộng 2 – 3.5cm, đầu nhọn dần, đuôi nêm rộng; mép lá nguyên hoặc phía
đầu có 3- 4 răng cưa; mặt dưới lá phủ lông hoặc vẩy nâu vàng; gân bên 10 14 đôi. Cuống là dài 0,8mm.
Hoa tự đực hình bông đuôi sóc cuống hoa tự phủ lông. Hoa cái mọc lẻ
trong đấu và rải rác trên bông. Đấu hình cầu thường nứt 4, đường kính liền

gai 3 – 4cm, gai hình kim nhọn, hợp ở gốc thành từng bó, che kín đấu. Quả
kiên hình trứng, đường kính 0.8 – 1.5cm, không phủ lông.
- Đặc tính sinh học và sinh thái học
Mùa hoa tháng 4 – 5, quả rụng tháng 11 – 12. Cây 15 tuổi bắt đầu ra
hoa kết quả.
Dẻ gai đỏ là loài cây trung sinh, lúc nhỏ cần che bóng. Tái sinh tự nhiên
tốt dưới tán rừng. Sau 5 tuổi cây mọc tương đối nhanh. Cây thường phân bố ở
độ cao 300 – 1500m.
- Phân bố địa lý
Có thể gặp Dẻ gai đỏ ở các tỉnh Sơn La, Lào Cai, Hà Nội, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Gia Lai, Kon Tum, Phú Khánh, Lâm Đồng...
- Giá trị
Lõi gỗ lớn màu nâu đỏ, giác nhạt hơn. Thớ gỗ khô, khi khô hơi nứt rạn.
Gỗ dễ làm, khó mối mục, thích hợp để xây dựng, đóng tầu thuyền, làm nông
cụ. Vỏ và đấu giàu tanin. Hạt có thể ăn được.


17

1.2.2. Sồi phảng (Castanopsis cerebrina)
- Đặc điểm nhận biết
Cây gỗ nhỡ, cao 20- 25m, đường kính có thể tới 80cm, thân thẳng phân
cành cao, có múi, gốc có bạnh vè nhỏ. Vỏ mỏng màu xám nhạt. Cành thẳng,
tỉa cành tự nhiên tốt, mỗi năm có 2 vòng cành. Lá đơn mọc cách, có lá kèm
sớm rụng, lá hình trứng ngược hoặc ngọn giáo, dài 17 – 18cm, rộng 4-8 cm
đầu có mũi nhọn ngắn, đuôi hình nêm, mép lá ở 3/4 phía đầu có răng cưa
nhọn; gân bên 16 – 20 đôi kéo dài tới đỉnh răng cưa. Màu sắc 2 mặt lá phân
biệt rõ, mặt trên xanh thẳm, mặt dưới phủ lông ngắn màu gỉ sắt óng ánh.
Cuống lá dài 1.5 – 2cm. Rễ cọc ngắn không ăn sâu, hệ rễ bên thường rộng
hơn đường kính tán lá. Cây có khả năng liền rễ.

Hoa đơn tính cùng gốc, bông đuôi sóc đực, dựng đứng nghiêng, bao
hoa 6, nhị 10 – 12, bông đuôi sóc cái dài 5 – 6cm, hoa cái thưa trải đều trên
bông. Đấu có cuống ngắn 0,4cm; đường kính 1,7 – 1,8cm bọc 1/2 – 2/3 quả,
phía trong phủ nhiều lông mịn, phía ngoài phủ lông vàng óng ánh. Vẩy trên
đấu thưa, hình thuôn dài, xếp thành nhiều hàng không đều. Quả hình trụ đầu
có mũi nhọn ngắn, dễ rời khỏi đấu, dài 2.5cm, đường kính 1.5cm; sẹo phẳng
hoặc hơi lồi, đường kính 0.6 – 0.7 cm. Khi chín quả màu nâu vàng.
- Đặc tính sinh học và sinh thái học
Cây có nhịp điệu sinh trưởng trong năm, mỗi năm đổi ngọn một lần.
Cây mọc tương đối nhanh, ở tuổi 15 cao trung bình 15m, đường kính 18cm.
Cây thường xanh, ra hoa tháng 4 – 6, quả chín tháng 4 – 5 năm sau, chu
kỳ sai quả 2 năm. Tái sinh hạt và chồi tốt.
Cây ưa sáng, lúc nhỏ thích hợp với độ tàn che 0.5 – 0.6; là cây tiên
phong nơi còn tính chất đất rừng. Sồi phảng thường phân bố trên đồi cao 300
– 800m có đất feralit phát triển trên sa thạch hoặc phiến thạch.


18

- Phân bố địa lý
Phân bố rộng trong rừng nhiệt đới ẩm thường xanh ở các tỉnh trung du
miền Bắc và các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.
- Giá trị
Gỗ rắn, không mối mọt, độ thon nhỏ, thường được dùng làm nhà, làm
trụ mỏ và các đồ dùng hàng ngày. Cây kích thước lớn thường bị rỗng ruột.
1.2.3. Re hương (Cinnamomum iners Reinw.)
- Đặc điểm nhận biết
Cây gỗ nhỡ cao 15 – 20m. Thân thẳng, tròn đầu, vỏ thường nứt vẩy
vuông cạnh. Cành non màu xanh lục, hơi vuông cạnh ở chỗ đính lá. Toàn thân
có mùi thơm. Lá đơn mọc gần đối, ít khi mọc cách, phiến lá hình trứng trái

xoan hay trái xoan dài, đầu nhọn dần, đuôi nêm rộng hoặc gần tròn, dài 8 –
20cm, rộng 3- 12cm. Lá có 3 gân gần gốc gần song song nổi rõ ở cả 2 mặt.
Cuống lá nhẵn dài 1cm. Hệ rễ hỗn hợp, rễ cọc và rễ bên đều phát triển.
Hoa tự xim viên chùy ở nách lá. Hoa lưỡng tính màu xanh vàng nhạt, 4
vòng nhị, bao phấn 4 ô mở bằng nắp, nhị thoái hóa 3, hình tam giác. Quả hạch
hình trụ hay hình trái xoan dài, dài 1 – 1.5cm, đế hình chậu hoa bọc một phần
quả.
- Đặc tính sinh học và sinh thái học
Re hương sinh trưởng trung bình. Mùa hoa tháng 2 – 3, quả chín tháng
7 -8. Thường mọc tự nhiên nơi đất ẩm, tơi xốp. Tái sinh hạt tốt dưới độ tàn
che 0.4. Khả năng tái sinh chồi mạnh.
- Phân bố địa lý
Phân bố rộng ở các nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, cây mọc rải rác
trong các rừng thứ sinh thuộc hầu hết các tỉnh.
- Giá trị
Gỗ tương đối tốt, màu nâu vàng nhạt, không phân biệt giác lõi, có mùi
thơm nhẹ, có thể đóng đồ dùng. Các bộ phận của cây có thể cất tinh dầu thơm.
Vỏ nhớt, thường bị bóc làm hương.


19

1.3. Nhận xét và đánh giá chung
Điểm qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới
đề tài nghiên cứu cho thấy các công trình nghiên cứu trên thế giới được tiến
hành khá đồng bộ ở nhiều lĩnh vực từ nghiên cứu cơ bản cho tới các nghiên
cứu ứng dụng, trong đó nghiên cứu sinh khối và khả năng hấp thụ carbon của
rừng được nhiều tác giả quan tâm trong những năm gần đây; các phương pháp
nghiên cứu cũng khá đa dạng và được hoàn thiện dần, đặc biệt là đã ứng dụng
phương pháp mô hình hóa để biểu diễn các mối quan hệ giữa sinh khối và

lượng các bon tích lũy với các chỉ tiêu điều tra, giúp cho việc ứng dụng vào
thực tiễn nhanh và thuận lợi.
Ở nước ta, nghiên cứu về sinh khối và năng suất rừng mặc dù còn ít
nhưng cũng có bề dày lịch sử. Các kết quả nghiên cứu bước đầu đã cung cấp
những thông tin cần thiết về sinh khối và lượng carbon tích lũy ở một số dạng
rừng trồng các loài cây chủ yếu như Keo, Bạch đàn, Thông,... và các loại rừng
ngập mặn. Lĩnh vực nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon ở nước ta vẫn còn là
một vấn đề mới mẻ và rất cần sự quan tâm của các nhà khoa học. Nhìn chung,
số lượng các công trình nghiên cứu còn rất ít, nội dung nghiên cứu tập trung
vào xác định khả năng hấp thụ carbon, xác định tiêu chí rừng CDM.
Những nghiên cứu về sinh khối và lượng carbon tích lũy của rừng trồng là
hết sức cần thiết nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc phát triển rừng trồng
theo cơ chế phát triển sạch và định giá rừng ở nước ta. Tuy nhiên, đối với rừng
cây bản địa thuần loài thì có rất ít các công trình nghiên cứu cả về sinh khối cũng
như khả năng lưu giữ carbon. Trong khi đó, cây bản địa là đối tượng định hướng
trồng rừng quan trọng của nước ta, do đó các nghiên cứu khoa học nói chung cũng
như nghiên cứu về lượng sinh khối và khả năng hấp thụ carbon của loại rừng này
là vô cùng cần thiết.


20

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu khoa học: góp phần vào những nghiên cứu về lượng sinh
khối và khả năng tích lũy carbon của cây rừng.
- Mục tiêu thực tiễn: Xác định lượng sinh khối và carbon lưu trữ của
rừng Re hương (Cinnamomum iners Reinw.), Dẻ đỏ (Castanaopsis hystrix

A.DC.) và Sồi phảng (Castanopsis cerebrina) trồng thuần loài.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Rừng Re hương, Dẻ đỏ và Sồi phảng trồ ng thuầ n loài 12 tuổi, mật độ
1150 cây/ha ta ̣i trung tâm nghiên cứu thực nghiệm lâm sinh Cầu Hai - Phú Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung:
Đề tài tiến hành nghiên cứu rừng trồng Re hương, Dẻ đỏ và Sồi phảng
tại thời điểm điều tra, không nghiên cứu hiện trạng thảm thực vật trước khi
trồng rừng và diễn biến rừng trước thời điểm điều tra, không nghiên cứu về
lượng carbon trong đất rừng.
Đề tài thực hiê ̣n nghiên cứu đối với các bô ̣ phâ ̣n rễ, thân, cành, lá, không
nghiên cứu các bô ̣ phâ ̣n như: hoa, quả, ha ̣t.
+ Về địa điểm: trung tâm nghiên cứu thực nghiệm lâm sinh Cầu Hai Phú Thọ.


21

2.3. Nội dung nghiên cứu.
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung nghiên cứu
một số nội dung sau:
- Nghiên cứu sinh khối cây cá lẻ;
- Nghiên cứu sinh khối lớp cây bụi – thảm tươi và vật rơi rụng;
- Nghiên cứu tổng sinh khối lâm phần;
- Nghiên cứu lượng carbon tích luỹ trong cây cá lẻ;
- Nghiên cứu lượng carbon tích luỹ trong lớp cây bụi – thảm tươi và vật
rơi rụng;
- Nghiên cứu tổng lượng carbon tích luỹ trong lâm phần.
Toàn bộ các bước trong quá trình nghiên cứu được thể hiện tóm tắt trong
sơ đồ sau:



22

Tài liệu
tham khảo

Lựa chọn cây tiêu chuẩn,
vị trí ô tiêu chuẩn và
kiểu rừng chủ yếu

Xác định lượng sinh
khối cây tiêu chuẩn

Phân bố D/N
trong ÔTC

Tình trạng rừng
khu vực nghiên cứu

Xác định tỷ lệ C trong
các bộ phận của cây

Phương trình lượng sinh
khối cây tiêu chuẩn

Phân bố rừng
chủ yếu của
khu vực


Lượng sinh khối
lâm phần

Lượng C tích tụ
trong lâm phần

Lượng sinh khối của
rừng trong khu vực

Lượng C tích tụ của
rừng trong khu vực

LƯỢNG SINH KHỐI
VÀ CARBON CỦA
RỪNG TRONG KHU
VỰC NGHIÊN CỨU

Hình 2.1: Sơ đồ tiến trình nghiên cứu
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm và cách tiếp cận đề tài
Rừng đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại sự biến đổi khí hậu
toàn cầu do ảnh hưởng của nó đến chu trình tuần hoàn carbon. Rừng trao đổi


×