BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-------------------
NGUYỄN HUY TUẤN
NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN
QUY HOẠCH LÂM NGHIỆP HUYỆN PHÙ YÊN - TỈNH SƠN LA
CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60 62 60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ SỸ VIỆT
Hà Nội, 2010
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù bao gồm tất cả các
hoạt động gắn liền với sản xuất hàng hóa và dịch vụ từ rừng như các hoạt
động quản lý bảo vệ, gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản xuất, chế biến lâm
sản và các dịch vụ môi trường rừng. Ngành Lâm nghiệp có vai trò quan trọng
trong việc cung cấp lâm sản cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội,
đồng thời góp phần bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần
xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo an ninh quốc phòng. Vì vậy cần phải tiến
hành quy hoạch lâm nghiệp nhằm bố cục hợp lý về mặt không gian tài nguyên
rừng và bố trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh doanh theo cấp quản lý
lãnh thổ và quản lý sản xuất khác nhau, làm cơ sở cho lập kế hoạch, định
hướng cho sản xuất kinh doanh lâm nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu lâm sản
cho nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác, quy hoạch lâm nghiệp là tổ chức
kinh doanh rừng toàn diện và hợp lý nhằm khai thác tài nguyên rừng và phát
huy những tính năng có lợi khác của rừng một cách bền vững phục vụ yêu cầu
về lâm sản của nền kinh tế quốc dân, đời sống nhân dân, xuất khẩu cũng như
duy trì các tính năng và tác dụng có lợi khác của rừng như phòng hộ bảo vệ
đất, giữ nước và bảo vệ môi trường sinh thái.
Phù Yên là một huyện miền núi của tỉnh Sơn La với lợi thế về tiềm
năng đất đai, có tổng diện tích tự nhiên là 123.268 ha, trong đó diện tích đất
rừng là 53.174,9 ha. Đây là nguồn tài nguyên quý giá và phong phú nhất của
địa phương. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua do khai thác và sử dụng rừng
chưa hợp lý, hoạt động săn bắn và khai thác gỗ trái phép vẫn thường xuyên
xảy ra làm cho diện tích và chất lượng rừng của huyện ngày một suy giảm,
thiếu ổn định, hạn hán, lũ lụt xảy ra hàng năm, gây nhiều thiệt hại cho hoạt
2
động sản xuất nông lâm nghiệp, dẫn đến tình trạng kinh tế chậm phát triển,
đời sồng nhân dân nghèo nàn lạc hậu.
Những năm gần đây, cùng với tiến trình phát triển kinh tế của cả nước
và của tỉnh, kinh tế xã hội huyện Phù Yên đã đạt được những kết quả nhất
định. Mặc dù vậy, sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Phù Yên trong thời
gian qua vẫn còm chậm, chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của huyện,
đặc biệt về tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp, cho đến nay huyện Phù Yên
vẫn thuộc trong 61 huyện nghèo thuộc chương trình giảm nghèo nhanh và bền
vững của Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ. Nhằm góp phần
phát triển lâm nghiệp gắn liền với phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn miền
núi, trong những năm gần đây Nhà nước đã ban hành một số chủ trương chính
sách mới có tác động một cách sâu sắc đến công tác quy hoạch lâm nghiệp
như: Chương trình 327, chương trình dự án 661; Nghị định số 163/1999/NĐCP ngày 16/11/1999; Luật bảo vệ và phát triển rừng; Nghị định số
23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006; Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày
05/2/2007; Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006; Thông tư số
05/2008/TT-BNN ngày 14/01/2008 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về hướng
dẫn lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng...
Xuất phát từ những vấn đề trên, việc nghiên cứu đề xuất phương án quy
hoạch lâm nghiệp hợp lý, có cơ sở khoa học sẽ góp phần quản lý tài nguyên
rừng bền vững, đóng góp tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời
sống của nhân dân các dân tộc làm nghề rừng, thực hiện xoá đói, giảm nghèo
và đưa kinh tế - xã hội và đưa kinh tế xã hội miền núi phát triển hoà nhập với
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là hết sức cần thiết. Đây cũng là
lý do chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu đề xuất một số nội dung cơ bản
quy hoạch lâm nghiệp huyện Phù Yên - tỉnh Sơn La“ trong khuôn khổ một
Luận văn tốt nghiệp cao học tại Trường Đại học Lâm nghiệp.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Quy hoạch lâm nghiệp là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng
thể phát triển nông thôn và thuộc phạm trù của quy hoạch vùng. Do đó công
tác quy hoạch lâm nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch phát
triển nông thôn nhằm tránh sự trồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành và
tuân thủ theo các nguyên tắc và định hướng của quy hoạch vùng. Thực chất
của công tác quy hoạch nói chung là tổ chức không gian và thời gian phát
triển chung cho kinh tế, xã hội, môi trường hoặc một ngành hoặc một lĩnh vực
sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại, phát
triển thì nhất thiết phải tiến hành quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý, mà
trong đó công tác điều tra cơ bản phục vụ cho quy hoạch phát triển phải được
đi trước một bước.
1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ
Quy hoạch vùng lãnh thổ là thuộc loại hình quy hoạch tổng thể, đa
ngành ở tầm vĩ mô nhằm khai thác một cách toàn diện và hiệu quả các nguồn
tài nguyên sẵn có trong một vùng lãnh thổ, bao gồm tài nguyên thiên nhiên,
tài nguyên nhân văn và các công trình văn hóa, xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật
để phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Tuy nhiên,
do đặc thù và trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi vùng và mỗi quốc gia
mà nội dung đề cập trong công tác quy hoạch vùng cũng có những điểm khác
nhau.
1.1.1.1. Quy hoạch vùng ở Liên Xô
Ở Liên Xô trước đây, công tác quy hoạch vùng hay còn gọi là quy
hoạch vùng sản xuất nông nghiệp lấy việc nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc
điểm tự nhiên kinh tế xã hội của mỗi vùng làm nguyên tắc chủ đạo để phân bố
4
lực lượng sản xuất. Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân
bố lực lượng sản xuất cho mỗi vùng trong quá khứ và hiện tại là tiền đề để
xác định khả năng tiềm tàng và tương lai phát triển của vùng đó. Từ đánh giá
sức lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đi tới nhận định. Phân bố lực
lượng sản xuất hợp lý là một trong các điều kiện cơ bản để nâng cao năng suất
lao động tích luỹ nhiều của cải vật chất cho xã hội, không ngừng phát triển
sản xuất và văn hoá của đất nước. Sự phân bố lực lượng sản xuất được xác
định theo các nguyên tắc sau:
Phân bố lực lượng sản xuất có kế hoạch trên toàn lãnh thổ của đất
nước, tỉnh, huyện, nhằm thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động
của tất các vùng trong quá trình tái sản xuất mở rộng.
Kết hợp tốt lợi ích của Nhà nước và nhu cầu phát triển kinh tế của từng
tỉnh và từng huyện. Đưa các xí nghiệp công nghiệp đến gần nguồn nguyên
liệu để hạn chế chi phí vận chuyển.
Kết hợp chặt chẽ các ngành kinh tế quốc dân ở từng vùng, từng huyện
nhằm nâng cao năng suất lao động và sử dụng hợp lý tiềm năng thiên nhiên.
Tăng cường toàn diện tiềm lực kinh tế và quốc phòng bằng cách phân bổ hợp
lý và phát triển đồng đều lực lượng sản xuất ở các vùng, huyện [17].
1.1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây
Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ nhằm mục đích sử dụng một cách
hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước và bố trí hợp lý các hoạt động của con
người nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng, xây dựng đồng bộ môi trường
sống. Theo đó lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng sau:
- Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ.
- Lãnh thổ thiên nhiên không có nông thôn, sự tác động của con người
vào đây rất ít.
5
- Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới giao thông nông
thôn, có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát.
- Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn
nhưng có sự tác động đặc biệt của con người.
- Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới giao thông và có sự
can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
- Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con
người.
Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước, tiến hành quy hoạch lãnh
thổ cho các địa phương. Đồ án quy hoạch lãnh thổ địa phương là thể hiện quy
hoạch chi tiết các liên hiệp trong công nghiệp và liên hiệp công nông nghiệp
và giải quyết các vấn đề sau:
- Cụ thể hoá, chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp.
- Phối hợp giữa sản xuất công nghiệp nông nghiệp và công nghiệp với
mục đích liên kết theo ngành dọc.
- Xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ lợi ích công cộng và sản
xuất.
- Tổ chức hợp lý mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp
trong phạm vi hệ thống nông thôn.
- Bảo vệ môi trường thiên nhiên và tạo điều kiện tốt nhất cho nhân dân
lao động ăn, ở, nghỉ ngơi.
1.1.1.3. Quy hoạch vùng ở Pháp
Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ ở Pháp được thực hiện theo quan
điểm hệ thống các mô hình quy hoạch vùng lãnh thổ của M.Thénevin
(M.Pierre Thénevin). Trong mô hình quy hoạch vùng này, người ta đã nghiên
cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội
6
bộ vùng, có quan hệ với các vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình
là một bài toán quy hoạch tuyến tính với các thành phần chính sau:
Các hoạt động sản xuất:
- Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và
trồng trọt công nghiệp với các mức độ thâm canh cao độ, thâm canh trung
bình và cổ điển (truyền thống).
- Hoạt động khai thác rừng gồm khai thác chế biến gỗ, bột giấy, vận
chuyển, dịch vụ thương mại.
- Nhân lực phân theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông
nghiệp, lâm nghiệp.
- Cân đối xuất nhập, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc về diện
tích đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực...
Quy hoạch vùng đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng thêm
giá trị sản phẩm của xã hội theo phương thức mô hình hoá trong điều kiện
thực tiễn của vùng so sánh với vùng xung quanh và nước ngoài.
1.1.1.4. Quy hoạch vùng lãnh thổ của Thái Lan
Ở Thái lan, công tác quy hoạch phát triển vùng được chú ý từ những
năm 1970 của thế kỷ trước. Hệ thống phạm vi quy hoạch được tiến hành theo
3 cấp: Quốc gia, vùng, địa phương.
Vùng được coi như là một phần lãnh thổ của đất nước có nhũng nét đặc
trưng phân bố dân cư, khí hậu, địa hình,... khác biệt với các vùng khác.
Quy mô diện tích của một vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích của
đất nước.
Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,
phải phối hợp với chính quyền, địa phương nhằm giải quyết 2 vấn đề sau:
7
- Thứ nhất: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng,
những mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch
vùng được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.
- Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của
vùng, các kế hoạch vùng được đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc
gia.
Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý nhà nước,
phải phối hợp với Chính phủ và chính quyền địa phương.
1.1.2. Quy hoạch sản xuất lâm nghiệp
Sự phát sinh của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh
tế tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển nên khối
lượng gỗ yêu cầu ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa
phương phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn
thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu
hoạch lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý
luận quy hoạch lâm nghiệp và điều chế rừng đã được hình thành trong hoàn
cảnh như vậy.
Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc
"Khoanh khu chặt luân chuyển", có nghĩa là đem trữ lượng hoặc diện tích tài
nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh
khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức này phục vụ
cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn.
Sau cách mạng công nghiệp, vào thế kỷ 19 phương thức kinh doanh
rừng chồi được thay bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai
thác dài. Và phương thức "Khoanh khu chặt luân chuyển" nhường chỗ cho
phương thức "Chia đều" của Hartig. Hartig đã chia chu kỳ khai thác thành
8
nhiều thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến
năm 1816 xuất hiện phương pháp phân kỳ lợi dụng của H.Cotta. Cotta chia
chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng
chặt hàng năm.
Sau đó phương pháp "Bình quân thu hoạch" ra đời. Quan điểm phương
pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời
vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ 19
xuất hiện phương pháp "Lâm phần kinh tế" của Judeich, phương pháp này
khác với phương pháp "Bình quân thu hoạch" về căn bản, Judeich cho rằng
những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ được đưa vào
diện khai thác. Hai phương pháp "bình quân thu hoạch" và "lâm phần kinh tế"
chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác
nhau.
Phương pháp "Bình quân thu hoạch" và sau này là phương pháp "Cấp
tuổi" chịu ảnh hưởng của "Lý luận rừng tiêu chuẩn", có nghĩa là yêu cầu rừng
phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích và trữ lượng, vị trí và
đưa các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay phương pháp kinh
doanh rừng này được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phòng
phú. Còn phương pháp "Lâm phần kinh tế" và hiện nay là phương pháp "Lâm
phần" không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm
phần tiến hành phân tích xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh, phương
thức điều chế rừng. Cũng từ phương pháp này còn phát triển thành "Phương
pháp kinh doanh lô" và "phương pháp kiểm tra" [18].
Tại Châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ vai
trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm
1929 bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai trong đó có quy định
nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo xây dựng kế hoạch sử dụng đất
9
đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này đã xác định các diện
tích cho sử dụng đất lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí [43].
Năm 1946, Jack G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại
đất đai với tên “phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây cũng là tài
liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất.
Tại vùng Rhodesia trước đây nay là Cộng hoà Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã
xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch
cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Tạp chí
“East African Journal for Agriculture Forestry” đã xuất bản nhiều bài báo về
quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam Châu phi. Năm 1966, Hội Đất học của Mỹ và
Hội nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá
khả năng của đất và ứng dụng trong quy hoạch sử dụng đất.
Năm 1967 Hội đồng nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với FAO tổ
chức nhiều hội nghị về phát triển nông thôn và quy hoạch sử dụng đất. Các
hội nghị này khẳng định rằng quy hoạch vùng nông thôn trong đó quy hoạch
cho các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi… cũng như
quy hoạch cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông phải dựa trên cơ sở quy hoạch
đất đai.
Năm 1976 tác giả Haber (Đức) đã cho xuất bản tài liệu “khái niệm về
sử dụng đất khác nhau” đây được coi là lý thuyết sinh thái về quy hoạch sử
dụng đất quan trọng trong nông lâm nghiệp dựa trên quan điểm về mối quan
hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như tính ổn định của chúng
với năng suất và khả năng điều chỉnh.
Vấn đề lập kế hoạch sử dụng và quản lý tài nguyên đất cũng được các
nhà khoa học ở các quốc gia đặc biệt quan tâm. Khởi đầu, công tác lập kế
hoạch được xây dựng bằng cách tiếp cận một chiều từ trên xuống dưới. Tuy
nhiên, phương pháp này sớm bộc lộ những nhược điểm của nó, thiếu vắng sự
10
đóng góp của cộng đồng dân cư sở tại dẫn đến hiệu quả không cao. Về sau
những nghiên cứu về quy hoạch và quản lý rừng cộng đồng ở Nepal đã chứng
tỏ ưu thế của cách tiếp cận mới, đó là cách tiếp cận lấy người dân làm trung
tâm trong công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển cộng đồng.
Dựa trên những kết quả thực tiễn ở Ấn Độ, cuối những năm 70 đến đầu
những năm 80 của thể kỷ trước, nhiều Quốc gia trên thế giới các phương pháp
điều tra, đánh giá truyền thống dần được thay thế bằng phương pháp điều tra
đánh giá có sự tham gia của người dân (PRA) và đánh giá nông thôn (RRA).
Phương pháp này nhanh chóng thể hiện được ưu thế và hiệu quả nổi trội của
nó trong việc điều tra, đánh giá lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất nói
chung và đất lâm nghiệp nói riêng.
Năm 1985 đã có hai cuộc Hội nghị quốc tế RRA tại Ấn Độ, đến nay có
hơn 30 nước đã và đang áp dụng PRA vào việc phát triển các lĩnh vực. Ở
chương trình Hội thảo quốc tế tại Việt Nam (1998) cũng đã đề cập một cách
chi tiết khái niệm về sự tham gia và đề xuất các chiến lược quy hoạch sử dụng
đất cũng như giao đất. Ngày nay PRA và RRA đã dần dần được hoàn thiện,
thể hiện được vai trò không thể thiếu của nó trong mọi hoạt động thuộc lĩnh
vực lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Quy hoạch vùng chuyên canh (QH vùng chuyên canh cây trồng)
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, nhà nước đã quy hoạch các vùng
chuyên canh lúa ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các
vùng rau thực phẩm cho các thành phố lớn, các vùng cây công nghiệp ngắn
ngày (hàng năm): Vùng bông Thuận Hải, vùng đay Hải Hưng, vùng thuốc lá
Quảng An - Cao Bằng, Ba Vì - Hà Sơn Bình, Hữu Lũng - Lạng Sơn, Nho
Quan - Hà Nam Ninh, vùng Mía Vạn Điểm, Việt Trì, Sông Lam, Quảng
Ngãi,... Các vùng cây công nghiệp dài ngày (lâu năm): Vùng Cao su Sông Bé,
11
Đồng Nai, Buôn Hồ - Đắc Lắc, Chư Pả - Gia Lai Kon Tum (hợp tác với Liên
Xô trước đây, Cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bungari), vùng chè ở
Hoàng Liên Sơn, Mộc Châu, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hà Tuyên, Lâm Đồng, Gia
Lai - Kon Tom, vùng Dâu Tằm Bảo Lộc - Lâm Đồng [17].
1.2.2. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cấp huyện
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cấp huyện là một loại hình
quy hoạch tổng hợp, đa ngành với các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện, căn cứ vào
dự án phát triển và phân bố lực lượng sản xuất và phân vùng nông nghiệp tỉnh
(hoặc thành phố) đã được phê duyệt, xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục
tiêu phát triển nông nghiệp và xây dựng các biện pháp nhằm thực hiện được
các mục tiêu đó theo hướng chuyên môn hoá, tập trung hoá kết hợp phát triển
tổng hợp nhằm thực hiện 3 mục tiêu nông nghiệp là giải quyết lương thực,
thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu ổn định.
- Hoàn thiện phân bổ sử dụng đất đai cho các đối tượng sử dụng đất
nhằm sử dụng đất đai được hiệu quả, đồng thời bảo vệ và nâng cao được độ
phì nhiêu của đất.
- Tạo điều kiện để ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông
nghiệp.
- Tính toán vốn đầu tư cơ bản và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp
theo quy hoạch.
Đối tượng của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cấp huyện là
toàn bộ đất đai, ranh giới hành chính huyện [18].
1.2.3. Quy hoạch lâm nghiệp
1.2.3.1. Một số nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của quy hoạch
lâm nghiệp
a. Quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp:
12
Ở Việt Nam, trong thời kỳ Pháp thuộc các công trình nghiên cứu đánh
giá và quy hoạch sử dụng đất được các nhà khoa học Pháp nghiên cứu đánh
giá và quy hoạch. Từ năm 1955-1975, công tác điều tra phân loại đã được
tổng hợp một cách có hệ thống trong phạm vi toàn miền Bắc. Nhưng đến sau
năm 1975 các số liệu nghiên cứu về phân loại đất mới được thống nhất. Xung
quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều công trình khác triển khai thực hiện
trên các vùng sinh thái (Ngô Nhật Tiến, 1986; Đỗ Đình Sâm, 1994;…). Tuy
nhiên những công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên
cứu cơ bản, thiếu biện pháp đề xuất cần thiết cho việc sử dụng đất, công tác
điều tra phân loại chưa đi sâu gắn liền với công tác sử dụng đất. Những thành
tựu về nghiên cứu đất đai trong giai đoạn trên là cơ sở quan trọng góp phần
vào việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả
trong cả nước. Tuy nhiên ở nước ta vấn đề quy hoạch sử dụng đất mới chỉ
được nghiên cứu và ứng dụng ở cấp vĩ mô với những kết quả nghiên cứu còn
tản mạn, chưa có sự phân tích tổng hợp thành cơ sở lý luận để có thể áp dụng
vào thực tiễn.
Công trình “sử dụng đất tổng hợp và bền vững” của tác giả Nguyễn
Xuân Quát (1996) đã phân tích tình hình sử dụng đất đai cũng như mô hình sử
dụng đất tổng hợp bền vững, mô hình khoanh nuôi và phục hồi rừng ở Việt
Nam. Đồng thời đề xuất tập đoàn cây trồng thích hợp cho các mô hình sử
dụng đất sau này [21].
Công trình “Đất rừng Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Bình đã đưa
ra những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những đặc
điểm cơ bản của đất rừng Việt Nam [20].
Năm 1996 tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges đã thử nghiệm phương pháp
quy hoạch sử dụng đất có người dân tham gia tại Quảng Ninh đã đề xuất 6
13
nguyên tắc và các bước cơ bản trong quy hoạch sử dụng đất trong đó cấp xã
đóng vai trò phát triển trong phương pháp quy hoạch [23].
Chương trình Dự án phát triển lâm nghiệp xã hội sông Đà đã nghiên
cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm
nghiệp tại hai xã của huyện Yên Châu tỉnh Sơn La và huyện Tủa Chùa tỉnh
Lai Châu trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Với cách làm
6 bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị chính để quy hoạch, giao đất lâm
nghiệp và áp dụng cách tiếp cận lâm nghiệp xã hội đối với cộng đồng dân tộc
vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt.
Năm 1997, tác giả Trần Hữu Viên hướng dẫn tài liệu về quy hoạch sử
dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân, đã kết hợp
phương pháp quy hoạch sử dụng đất trong nước và một số dự án quốc tế đang
áp dụng tại một số vùng có dự án tại Việt Nam, trong đó tác giả đã trình bày
về khái niệm và nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch sử dụng đất và giao đất có
người dân tham gia [22].
Chương trình phát triển nông thôn miền núi giai đoạn 1996-2000 trên
phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ đã tiến
hành thử nghiệm quy hoạch phát triển nông thôn lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở
xây dựng kế hoạch phát triển cấp thôn và hộ gia đình.
Năm 1999-2000, từ kết quả nghiên cứu sinh tác giả Nguyễn Bá Ngãi
cùng nhóm tư vấn của dự án khu vực lâm nghiệp Việt Nam - ADB đã nghiên
cứu thử nghiệm phương pháp quy hoạch, xây dựng tiểu dự án cấp xã. Mục
tiêu là đưa ra một phương pháp quy hoạch nông lâm nghiệp cấp xã có sự tham
gia của người dân để xây dựng dự án nông lâm nghiệp cho 50 xã của tỉnh
Thanh Hoá, Gia Lai, Phú Yên và Quảng Trị.
1.2.3.2. Quy hoạch lâm nghiệp
14
Quy hoạch lâm nghiệp áp dụng ở nước ta ngay từ thời Pháp thuộc. Như
việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, sản xuất củi. Điều chế rừng
thông theo phương pháp hạt đều...
Đến năm 1955-1957, tiến hành sơ thám và mô tả ước lượng tài nguyên
rừng. Năm 1958-1959 tiến hành thống kế trữ lượng rừng Miền Bắc. Mãi đến
năm 1960-1964, công tác quy hoạch lâm nghiệp mới được áp dụng ở Miền
Bắc. Từ năm 1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được
tăng cường và mở rộng. Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với
lực lượng điều tra quy hoạch rừng của Sở Lâm nghiệp không ngừng cải tiến
phương pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp của nước ngoài cho phù hợp với
trình độ và điều kiện tài nguyên rừng ở nước ta. Tuy nhiên so với lịch sử phát
triển của các nước khác thì quy hoạch lâm nghiệp Việt Nam hình thành và
phát triển muộn hơn nhiều. Vì vậy, những nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã
hội, kỹ thuật và tài nguyên rừng làm cơ sở cho công tác này ở nước ta đang
trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp dụng [18].
1.2.3.4. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp
a. Quy hoạch lâm nghiệp cho cấp quản lý sản xuất kinh doanh
Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh bao
gồm: Quy hoạch Tổng công ty lâm nghiệp, Công ty lâm nghiệp; quy hoạch
lâm trường; quy hoạch lâm nghiệp cho các đối tượng khác (quy hoạch cho các
khu rừng phòng hộ; quy hoạch các khu rừng đặc dụng và quy hoạch phát triển
sản xuất nông lâm nghiệp cho các cộng đồng làng bản và trang trại lâm
nghiệp hộ gia đình). Các nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý
sản xuất kinh doanh là khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị và
thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất lâm nghiệp mà lựa chọn các nội
dung quy hoạch cho phù hợp.
b. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ
15
Ở nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành
chính: Từ toàn quốc tới tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (thành
phố, thị xã, quận) và xã (phường, thị trấn). Để phát triển, mỗi đơn vị đều phải
xây dựng phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch
phát triển các ngành sản xuất và quy hoạch dân cư, phát triển xã hội...
Ở những đối tượng có tiềm năng phát triển lâm nghiệp thì quy hoạch
lâm nghiệp là một vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc phát triển nghề rừng
nói riêng và góp phần phát triển kinh tế-xã hội nói chung trên địa bàn.
- Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc
Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc là quy hoạch phát triển sản xuất lâm
nghiệp trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản
bao gồm: Xác định phương hướng nhiệm vụ chiến lược phát triển lâm nghiệp
toàn quốc. Quy hoạch đất đai tài nguyên rừng theo các chức năng (sản xuất,
phòng hộ và đặc dụng). Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài
nguyên rừng hiện có. Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái sinh tự nhiên và
trồng rừng), thực hiện nông lâm kết hợp. Quy hoạch lợi dụng rừng, chế biến
lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ. Quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển
nghề rừng, phát triển lâm nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng
giao thông vận tải. Xác định tiến độ thực hiện.
Do đặc thù khác với các ngành kinh tế khác, cho nên thời hạn quy
hoạch lâm nghiệp thường được thực hiện trong thời gian 10 năm và các nội
dung quy hoạch được thực hiện tuỳ theo các vùng kinh tế.
- Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh
Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh giải quyết những vần đề: Xác định
nhiệm vụ, phương hướng phát triển trong phạm vi tỉnh, căn cứ vào phương
hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, căn cứ quy hoạch lâm
nghiệp toàn quốc đồng thời căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của
16
tỉnh. Tiến hành quy hoạch đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh theo 3 chức năng:
Rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, căn cứ vào phương hướng
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, căn cứ vào điều kiện đất đai tài
nguyên rừng, đồng thời căn cứ vào nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt
khác. Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài nguyên rừng hiện có.
Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái sinh tự nhiên và trồng rừng) thực hiện
nông lâm kết hợp. Quy hoạch lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn với thị
trường tiêu thụ. Quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển nghề rừng, phát triển
lâm nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Xác
định tiến độ thực hiện.
- Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện
Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện về cơ bản các nội dung quy hoạch
lâm nghiệp cũng tương tự như quy hoạch lâm nghiệp tỉnh, tuy nhiên nó được
thực hiện cụ thể, chi tiết hơn và được tiến hành trên phạm vi địa bàn huyện.
Quy hoạch lâm nghiệp huyện đề cập giải quyết các vấn đề sau:
Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển tổng thể kinh tế - xã hội
của huyện, căn cứ vào phương án phát triển lâm nghiệp của tỉnh và điều kiện
tự nhiên, kinh tế - xã hội, đặc biệt là điều kiện tài nguyên rừng của huyện để
xác định phương hướng nhiệm vụ phát triển trên địa bàn huyện.
Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng tài nguyên rừng hiện có.
Quy hoạch các biện pháp tái sinh; trồng rừng, khoanh nuôi phục hồi
rừng tự nhiên. Quy hoạch thực hiện nông lâm kết hợp và sản xuất hỗ trợ trên
đất lâm nghiệp.
Quy hoạch khai thác lợi dụng lâm đặc sản, chế biến lâm sản gắn liền
với thị trường tiêu thụ.
Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp, quy hoạch đất lâm nghiệp cho
các thành phần kinh tế trong huyện, tổ chức phát triển lâm nghiệp xã hội.
17
Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải.
Xác định tiến độ thực hiện.
Thời gian quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện thường là 10 năm. Các nội
dung quy hoạch lâm nghiệp cũng cần phải phù hợp với phương hướng phát
triển kinh tế - xã hội chung của từng tiểu vùng trong huyện.
- Quy hoạch lâm nghiệp cấp xã
Xã là đơn vị hành chính nhỏ nhất, đơn vị cơ bản quản lý và tổ chức sản
xuất lâm nghiệp trong các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân. Quy hoạch
lâm nghiệp trên địa bàn xã cần chi tiết cụ thể hơn và được tiến hành trong thời
gian 5-10 năm. Quy hoạch lâm nghiệp xã thường tiến hành các nội dung sau:
Điều tra các điều kiện cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất lâm nghiệp
như: Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện tài nguyên rừng.
Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, căn cứ vào quy
hoạch cấp huyện và các điều kiện cơ bản của xã, xác định phương hướng
nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trên địa bàn xã. Quy hoạch đất đai trong xã
theo ngành và theo đơn vị sử dụng. Xác định rõ mối quan hệ giữa các ngành
sử dụng đất đai trên địa bàn xã. Căn cứ vào phương hướng phát triển các điều
kiện về nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu khác (nếu có) phân chia đất lâm
nghiệp theo 3 chức năng sử dụng: Sản xuất, phòng hộ, đặc dụng. Quy hoạch
các nội dung sản xuất kinh doanh lợi dụng từ rừng, bố trí không gian tổ chức
các biện pháp kinh doanh lợi dụng rừng: Bảo vệ và nuôi dưỡng rừng hiện có,
trồng rừng và tái sinh phục hồi rừng, nông lâm kết hợp, khai thác, chế biến
các loại lâm sản, đặc sản phục vụ nhu cầu của địa phương và thị trường, quy
hoạch các nội dung sản xuất hỗ trợ. Quy hoạch tổ chức sản xuất cho các thành
phần kinh tế trong xã gắn với phát triển lâm nghiệp xã hội. Quy hoạch xây
dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, các công trình phục vụ sản xuất và đời
sống. Ước tính đầu tư và hiệu quả: Ước tính đầu tư lao động tiền vốn, vật tư
18
thiết bị. Hiệu quả đầu tư cần được đánh giá đầy đủ trên các mặt kinh tế - xã
hội, môi trường. Xác định tiến độ thực hiện.
Về cơ bản nội dung quy hoạch cho các cấp quản lý lãnh thổ từ toàn
quốc đến tỉnh, huyện, xã là tương tự như nhau. Tuy nhiên mức độ giải quyết
khác nhau vệ chiều sâu và chiều rộng tuy theo các cấp.
1.2.3.5. Đánh giá ban đầu về vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam
Những năm 1990 đến nay, cùng với sự hợp tác của các nhà khoa học và
tổ chức quốc tế, nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu và thử nghiệm về
quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt là quy hoạch lâm nghiệp. Từ những nghiên
cứu đó, có thể rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
Tuy có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều dự án thực hiện quy hoạch
lâm nghiệp cấp địa phương. Song những thử nghiệm này đều chưa được tổng
kết đánh giá và phát triển thành phương pháp luận.
Phương pháp quy hoạch sử dụng đất trong nông lâm nghiệp chưa thật
sự thống nhất tại các địa phương.
Phương pháp quy hoạch có sự tham gia của người dân mới được áp
dụng trong công tác quy hoạch sử dụng đất tuy đã đạt được một số thành công
nhưng chưa được tổng kết nên chưa xây dựng được phương pháp chung thống
nhất cho quy hoạch nông lâm nghiệp.
Thiết sự phối kết hợp giữa ngành nông lâm nghiệp với các thành phần
kinh tế khác trong việc xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất dẫn tới
việc lúng túng, chồng chéo trong sử dụng đất ở nhiều địa phương.
Thiếu các nghiên cứu cơ bản hỗ trợ cho công tác quy hoạch lâm nghiệp
ở từng địa phương, cụ thể là một số vấn đề cần tiến hành nghiên cứu trước
tiên như: đánh giá tiềm năng đất đai, nghiên cứu chiến lược thị trường tiêu thụ
nông lâm sản, nghiên cứu tập đoàn cây trồng,… dẫn tới tính khả thi của
phương án quy hoạch lâm nghiệp không cao.
19
Nội dung quy hoạch nông lâm nghiệp tuy đã xác định tương đối rõ ràng
ở một số nghiên cứu và chương trình, dự án nhưng vẫn còn nhầm lẫn giữa
quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch lâm nghiệp. Chưa xác định rõ mối quan
hệ giữa quy hoạch cấp xã với quy hoạch cấp trên, tính thống nhất và tính
riêng rẽ giữa quy hoạch cấp xã với quy hoạch cấp thôn bản.
Cơ sở khoa học cho quy hoạch sử dụng đất cấp xã chưa rõ ràng, thực
tiễn về quy hoạch cấp xã chưa có nhiều để tổng kết và đánh giá, phương án
khả thi chưa cao. Vì vậy nhiều vấn đề đang đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.
Theo Chiến lược phát triển lâm nghiệp Quốc gia giai đoạn 2006-2020,
một trong những tồn tại mà Bộ Nông nghiệp và PTNT đánh giá "Công tác
quy hoạch nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp
chặt chẽ với quy hoạch của các ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và
thiếu tính khả thi...[32]. Đây là nhiệm vụ nặng nề và cấp bách đối với ngành
lâm nghiệp của nước ta hiện nay.
1.2.3.6. Chính sách của Nhà nước liên quan đến quy hoạch lâm nghiệp
- Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
nếu: "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp
luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các
tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài".
- Luật Đất đai năm 2003 quy định rõ 3 loại đất (đất nông nghiệp, đất
phi nông nghiệp, đất chưa sử dụng) và 6 quyền sử dụng đất (được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên
đất; hưởng các lợi ích do công trình của nhà nước về bảo vệ, cải tạo đất nông
nghiệp; được nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất
nông nghiệp; được nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền
sử dụng đất hợp pháp của mình; khiếu lại, tố cáo, khởi đơn kiện về những
20
hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác
vi phạm pháp luật về đất đai) [25].
- Luật Bảo vệ và phát triển rừng phân định rõ 3 loại rừng (rừng phòng
hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất) làm cơ sở cho quy hoạch lâm nghiệp [26].
- Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ về thi
hành Luật bảo vệ và phát triển rừng. Tại chương II, III, IV và Chương V quy
định về việc quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; giao rừng, cho
thuê rừng, thống kê, kiểm kê theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; tổ chức quản
lý rừng, bảo vệ rừng, phát triển rừng và sử dụng rừng [15].
- Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2010 của Thủ tướng
Chính phủ về ban hành quy chế quản lý rừng. Quy định về việc tổ chức quản
lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản
xuất, bao gồm diện tích có rừng và diện tích không có rừng đã được nhà nước
giao, cho thuê hoặc quy hoạch cho lâm nghiệp [32].
- Quyết định số 61/2005/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và PTNT về
quy định tiêu chí phân cấp rừng phòng hộ [6].
Khi quy hoạch sử dụng đất phải thu thập nhu cầu sử dụng đất cho các
mục đích của các đơn vị hành chính trực thuộc, trong quy hoạch sử dụng đất
của mỗi cấp phải thể hiện phương án phân bổ quỹ đất đối với diện tích thuộc
nhiệm vụ quy hoạch của cấp mình [13].
Việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải đồng bộ
với việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và phải căn cứ vào quy hoạch sử
dụng đất của địa phương.
Huyện Phù Yên đã xây dựng được quy hoạch sử dụng đất đai giai đoạn
2001-2010, hàng năm đều tiến hành thống kê và định kỳ 5 năm thực hiện
công tác kiểm kế theo dõi biến động các loại đất. Trên cơ sở tổng quan lâm
nghiệp tỉnh năm 1995 và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện
21
Phù Yên 1996-2010 [35], huyện đã tiến hành rà soát sắp xếp lại tổ chức và
hoạt động sản xuất kinh doanh lâm nghiệp trên địa bàn và đồng thời triển khai
một số dự án phát triển lâm nghiệp trên địa bàn huyện: Dự án 219, Dự án 372,
Dự án 747, Dự án 1382, Dự án 661; Dự án trồng rừng nguyên liệu giấy… Tuy
nhiên đến nay công tác quy hoạch lâm nghiệp trên địa bàn huyện chưa được
quan tâm chỉ đạo xây dựng, để thực hiện việc quản lý diện tích đất lâm nghiệp
trên địa bàn huyện theo đúng các quy định hiện hành, đồng thới xây dựng quy
hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng sau khi kết thúc Dự án 661 vào
năm 2010 là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu quản lý và thực tiễn chỉ đạo sản
xuất lâm nghiệp tại địa phương giai đoạn 2011-2020.
22
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Quy hoạch phát triển lâm nghiệp huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La giai đoạn
2011-2020.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xây dựng cơ sở khoa học cho quy hoạch phát triển lâm nghiệp tại
huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.
- Đề xuất một số nội dung cơ bản cho quy hoạch lâm nghiệp huyện Phù
Yên, tỉnh Sơn La giai đoạn 2011-2020.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu: Huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ diện tích rừng và đất lâm nghiệp
thuộc huyện Phù Yên - tỉnh Sơn La.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Nhằm thực hiện các mục tiêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu các nội
dung sau:
2.3.1. Nghiên cứu cơ sở quy hoạch lâm nghiệp của huyện Phù Yên
- Cơ sở pháp lý: Tìm hiểu các Luật, văn bản dưới luật và các chủ
trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước có liên quan đến công
tác quy hoạch lâm nghiệp…
- Phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến công tác
quy hoạch lâm nghiệp huyện Phù Yên.
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất đai tài nguyên rừng huyện, thực trạng
hoạt động sản xuất lâm nghiệp và quy hoạch lâm nghiệp huyện Phù Yên.
23
- Những dự báo cơ bản: Dân số, lao động, nhu cầu sử dụng tài nguyên
rừng, môi trường… đến năm 2020.
2.3.2. Đề xuất một số nội dung cơ bản cho quy hoạch lâm nghiệp
huyện Phù Yên đến năm 2020
- Quan điểm, định hướng quy hoạch lâm nghiệp huyện Phù Yên đến
năm 2020.
- Quy hoạch sử dụng đất huyện Phù Yên.
- Quy hoạch 3 loại rừng huyện Phù Yên.
- Quy hoạch đất lâm nghiệp theo chủ quản lý.
- Quy hoạch các biện pháp kinh doanh rừng.
- Quy hoạch biện pháp lợi dụng tổng hợp rừng.
- Bố trí tiến độ thực hiện quy hoạch lâm nghiệp huyện Phù Yên.
- Ước tính nhu cầu đầu tư, hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường.
- Đề xuất một số giải pháp thực hiện quy hoạch: Về tổ chức, quản lý
quy hoạch, cơ chế chính sách, nghiên cứu khoa học công nghệ và đào tạo phát
triển nguồn nhân lực…
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
2.4.1.1. Sử dụng phương pháp kế thừa các tài liệu có chọn lọc nhằm
thu thập các nguồn tài liệu thứ cấp hiện có trên địa bàn, bao gồm:
- Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh.
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh, huyện.
- Các thể chế, chính sách và quy định của tỉnh, huyện có liên quan.
- Các chỉ tiêu, định mức kinh tế, kỹ thuật hiện hành.
- Các số liệu, tài liệu về tự nhiên, kinh tế - xã hội và tài nguyên rừng.
24
2.4.1.2. Khai thác, sử dụng các loại bản đồ hiện trạng về sử dụng đất,
quy hoạch 3 loại rừng, bản đồ phân cấp phòng hộ, phân bố tài nguyên rừng,
bản đồ thổ nhưỡng của huyện và tỉnh.
2.4.1.3. Sử dụng phương pháp khảo sát thực địa, bổ sung, kiểm tra
thông tin
- Sử dụng phương PRA (đánh giá nông thôn có sự tham gia) để điều
tra, phân tích về hiện trạng quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên rừng, vai trò
và mức độ tham gia của người dân địa phương trong công tác quản lý tài
nguyên rừng, những thuận lợi và khó khăn hiện nay trong bảo vệ và phát triển
tài nguyên rừng cũng như nhu cầu, nguyện vọng của người dân trong sản xuất
và đời sống…[19].
- Sử dụng phương pháp phúc tra thực địa để cập nhật số liệu về số và
chất lượng tài nguyên rừng thông qua phương pháp ô tiêu chuẩn điển hình xác
lập ở các trạng thái rừng trồng và rừng tự nhiên theo quy trình sau đây:
+ Điều tra trữ lượng rừng tự nhiên: Lập ô tiêu chuẩn có diện tích
S=1.000m2 (25x40), ô tiêu chuẩn được đặt tại các vị trí có tính đại diện cao,
địa hình trong ô tương đối đồng nhất. Tiến hành đo điếm các chỉ tiêu sau: Đo
đếm D1.3 (cm) bằng thước kẹp kính theo 2 chiều Đông - Tây, Nam - Bắc; đo
Hvn và hdc bằng thước đo cao Blume-less hoặc bằng sào thẳng có chiều dài 5-7
m. Điều tra tình hình sinh trưởng của cây theo 3 cấp: Tốt, Trung bình và Xấu.
+ Điều tra trữ lượng rừng trồng: Như rừng tự nhiên, lập 3 ô tiêu chuẩn
điểm hình với diện tích mỗi ô S=500 m2 (20x25m), sau đó tính các chỉ tiêu về
đường kính, chiều cao: D1.3; Hvn…
+ Điều tra tình hình tái sinh, nguồn gốc tái sinh: Lập ô tiêu chuẩn điểm
hình (S= 25 m2) 4 ô bốn góc, 1 ô ổ giữa và tiến hành đo đếm các chỉ tiêu như
chiều cao, chất lượng… Ngoài ra trong ô tiêu chuẩn còn tiến hành điều tra cây
tái sinh bằng phương pháp 5 ô dạng bản với diện tích mỗi ô dạng bản là 4 m2,