Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

giáo án ngữ văn 9 tổng hợp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.68 KB, 32 trang )

“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

CHƯƠNG 1:
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong xu thế hiện nay, vấn đề cập nhật thông tin và đổi mới luôn đặt
lên hàng đầu. Đồng thời đất nước ta đang trên con đường đổi mới với nền
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế. Nó đòi hỏi một
sự phát triển toàn diện về kinh tế - văn hoá - xã hội của toàn đất nước. Trước
vấn đề đó, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm tới văn hoá giáo dục bởi giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Với mục tiêu trên, bộ giáo dục và đào tạo.
Chính vì điều đó trong quá trình giảng dạy giữa giáo viên và học sinh,
giữa học sinh với nhau cần gây hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động và
sáng tạo trong học tập.
Hơn nữa đây là năm học tiếp tục hưởng ứng “Đổi mới công tác quản lý
và nâng cao chất lượng giáo dục”Vì một nền giáo dục không ngừng đổi mới
và nâng cao chất lượng, trường THCS An Hải đã và đang chỉ đạo một cách
tích cực hướng tới hoàn thiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng dần
chất lượng giáo dục huyện nhà. Đối với mỗi giáo viên cần xác định vài trò
trách nhiệm của mình luôn năng động, sáng tạo tìm những giải pháp tốt nhất
để góp phần nâng dần chất lượng của nhà trường ngày một tốt hơn. Trong
chương trình THCS thì môn Ngữ Văn góp phần không nhỏ trong sự phát
triển tư duy, sáng tạo và hình thành nhân cách của học sinh, là môn học tạo
tiền đề để học sinh học những môn học khác tốt, bởi cách lập luận tốt trong
khi nói, viết, sự cảm thụ trong văn chương và những vấn đề trong cuộc sống.
-Về Mục tiêu môn học: Môn Ngữ văn THCS có vị trí đặc biệt trong việc thực
hiện mục tiêu chung của trường THCS: Góp phần hình thành những con
người có trình độ học vấn, có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu, quý trọng
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải


1

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới
những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ
phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái ác, cái xấu. Đó là những con người biết
rèn luyện để có tính độc lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm
thụ các giá trị chân - thiện - mỹ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học.
-

Từ mục tiêu đó cần rèn luyện cho học sinh năng lực cảm thụ, bình giá

các tác phẩm văn chương là điều vô cùng quan trọng. Chỉ có con đường này
mới giúp các em tích cực, chủ động trong hoạt động học, hoạt động tự học.
Học sinh THCS chỉ có thể thấy, hiểu, hứng thú với môn học khi đã biết cách
tự cảm nhận nó tự thấy giá trị của tác phẩm chứ không phải là “buộc”.
Qua thực tế giảng dạy trong trường, khi gặp phải các tác phẩm trữ tình,
đặc biệt là thơ, học trò thường mắc một lỗi rất cơ bản, rất sơ đẳng: Hầu hết
các em đều diễn xuôi tác phẩm hoặc suy luận một cách nặng lý trí, chủ quan
để tìm ra giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm.
-

Một lần nữa đã thôi thúc bản thân tôi thấy đây là một vấn đề cần phải

được đề cập là: Chất lượng thực của học sinh học môn Ngữ văn THCS.
Xuất phát từ những lý do trên mà bản thân tôi luôn có ý thức rèn

luyện cho học sinh, kỹ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong
giờ học tác phẩm trữ tình. Đó cũng là lí do mà bản thân tôi chọn đề tài: “ Rèn
luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ
văn khối 9 ”.
1.2.MỤC ĐÍCH – PHẠM VI ĐỀ TÀI:
1. 2.1. Mục đích:
Qua việc xây dựng đề tài nhằm mục đích giúp giáo viên trong trường
( đối với giáo viên dạy môn Ngữ văn ) có cơ sở trong việc xác định nội dung
và chương trình dạy bồi dưỡng và dạy phụ đạo để nâng dần chất lượng giáo
dục trong nhà trường nói chung, trường THCS An Hải nói riêng. Đồng thời
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

2

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

giúp học sinh biết cách cảm thụ tác phẩm thơ trữ tình một cách sâu sắc về nội
dung và nghệ thuật tác phẩm một cách tốt nhất.
1.2.2. Phạm vi nghiên cứu:
Qúa trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và nâng dần chất
lượng của nhà trường cụ thể là việc dạy trên lớp chính thức, dạy bồi dưỡng
học sinh giỏi và dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém trong trường THCS.
1.2.3. Phạm vi áp dụng:
Trường THCS An Hải

CHƯƠNG 2:

NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Quan điểm lý luận về khoa học văn chương:
Các nhà lý luận văn học đều cho rằng: Một “Tác phẩm văn học là một
chỉnh thể nghệ thuật- nghệ thuật của ngôn từ”. Chỉnh thể ấy được xây dựng
dựa trên nhiều yếu tố vừa mang tính chất đặc trưng lại vừa rất riêng theo
phong cách cá nhân. Mỗi tác phẩm văn học là một sáng tạo độc đáo. Vì vậy
nhà văn phản ánh tất cả các góc cạnh của cuộc sống xã hội, thiên nhiên, con
người ... trong tác phẩm của mình. Những cuộc sống ấy luôn được phản ánh
qua lăng kính của nhà văn. Người đọc, “đồng sáng tạo”với nhà văn, người
đọc “sáng tạo lại” tác phẩm. Chỉ có qua bạn đọc thì tác phẩm văn chương
mới có cuộc sống thực của nó. Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh
có nói: “ Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta
những tình cảm ta sẳn có ”.
Một tác phẩm văn chương luôn mang một tư tưởng của con người (nhà
văn). Trong cái chỉnh thể hoàn chỉnh trong cái nghệ thuật ngôn từ ấy bao hàm
nhiều yếu tố: Nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Muốn hiểu tư tưởng
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

3

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

của nhà văn, hiểu nội dung (có tình cảm, cảm xúc) của tác phẩm thì bạn đọc
phải cần rất nhiều tri thức, kỹ năng: Tri thức về lịch sử - xã hội, tri thức về tác
giả, tri thức xuất xứ tác phẩm ... và nói chung tri thức trong và ngoài văn bản

tác phẩm, còn kỹ năng thì phải có: Kỹ năng đọc, đọc hiểu, phân tích, so sánh,
tổng hợp, khái quát, liên hệ, tưởng tượng ... Và điều đặc biệt quan trọng là
phải có kiến thức về nghệ thuật văn chương, có kỹ năng khai thác vẻ đẹp của
nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Nghệ thuật cái làm cho tư tưởng, nội
dung của tác phẩm thăng hoa, lấp lánh. Nói vậy tức là thơ, đặc biệt là thơ trữ
tình luôn được tạo ra cảm xúc, tình cảm, rung động mãnh liệt của tác giả
trước cuộc sống, thiên nhiên và con người. Do đó thơ là những tác phẩm văn
chương được tổ chức ngôn từ vô cùng đặc biệt và đẹp đẽ. Chỉ có thể hiểu
được cảm xúc, rung động của tác giả, thì mới đồng cảm và yêu mến tác phẩm
được.
1.2. Quan điểm của chương trình, sách giáo khoa ngữ văn mới:
Trong chương trình môn Ngữ văn có một nội dung rất lớn trong số các
văn bản được dựa vào là các tác phẩm trữ tình. Có thể nói, sự kế thừa chương
trình sách giáo khoa Ngữ văn cũ, cùng với sự đổi mới, chọn lọc của chương
trình, sách giáo khoa mới, đã giữ được những tác phẩm thơ trữ tình độc đáo,
có giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu và phù hợp với học sinh. Đặc biệt: Chương
trình Ngữ văn THCS mới được xây dựng theo kết cấu hai vòng: Vòng 1- lớp
6 - 7; Vòng 2 - lớp 8- 9. Ở vòng 1 chỉ có kiểu văn thuyết minh (có các văn
bản văn học và văn bản nhật dụng tương ứng), là học sinh chưa được tiếp xúc
và làm quen, còn tất cả 5 kiểu văn bản: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận,
điều hành học sinh đã được rèn luyện những kỹ năng cơ bản về nghe - đọc nói - viết; đã được rèn luyện kỹ năng và tri thức tạo lập và lĩnh hội 5 kiểu văn
bản này. Trong chương trình Ngữ văn lớp 7, có rất nhiều các tác phẩm văn
học phục vụ cho việc dạy và học về văn bản biểu cảm. Các tác phẩm đó đều
là những tác phẩm thuộc thể loại trữ tình. Vậy thì: Nếu học sinh có kỹ năng
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

4

Trường



“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

phân tích, cảm thụ, bình giá các tác phẩm trữ tình (Kiểu văn bản biểu cảm)
thông qua đặc trưng nghệ thuật của nó thì các em cũng có thể dễ dàng cảm
nhận vẻ đẹp của yếu tố trữ tình trong các văn bản thuộc phương thức biểu đạt
khác. Đặc biệt học sinh lớp 9 - lớp cuối cấp bắt buộc phải có những kiến
thức, kỹ năng cơ bản, nền tảng về phân tích, cảm thụ, bình giá thơ trữ tình.
Muốn đem đến cho học sinh sự hứng thú khi học các bài thơ trữ tình này,
muốn cho các em hiểu thấu và yêu mến giá trị tư tưởng của các tác phẩm đó,
trước hết phải cho các em có kỹ năng bình giá các giá trị nghệ thuật làm nên
vẻ đẹp ấy. Chúng ta phải cho các em thấy các tác phẩm đó đẹp một phần lớn
là do được tạo ra của các nhà thơ. Các tác phẩm này là những thành tựu thơ
ca của nhiều thời đại văn học. Các tác phẩm thơ trữ tình này có tác dụng vô
cùng to lớn trong việc rèn luyện kỹ năng cảm thụ văn chương cho học sinh,
trong việc bồi đắp tình yêu văn chương và làm phong phú tâm hồn các em.
Nhưng đã là tác phẩm có giá trị thì luôn luôn có những đặc điểm nghệ thuật
rất đặc sắc. Đây là những điểm vô cùng khó khăn đối với hầu hết học sinh
trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương. Đối với học sinh giỏi, với yêu cầu
cao hơn thì điều này càng phức tạp. Bởi vậy, việc cung cấp cho học sinh kiến
thức đầy đủ về nghệ thuật thơ trữ tình và rèn luyện cho các em kỹ năng phát
hiện, cảm thụ vẻ đẹp, thấy giá trị của các hình thức nghệ thuật này trong việc
bộc lộ tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của tác giả (Hay nhân vật trữ tình) là điều
vô cùng cần thiết.
Xuất phát từ quan điểm lý luận về khoa học văn chương từ quan điểm
của chương trình sách giáo khoa mới là rèn luyện cho học sinh có kỹ năng
học tập và thực hành các tác phẩm thơ trữ tình đặc biệt trong thực tế giảng
dạy ở trường THCS, vấn đề dạy học văn chương cho đối tượng học sinh trong
chương trình mới thì việc phải rèn luyện cho học sinh có kỹ năng cơ bản để

cảm thụ văn chương nghệ thuật chính là nhiệm vụ mà bất kỳ thầy cô giáo nào

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

5

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

khi dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường đều phải chú trọng. Đây cũng
chính là nhiệm vụ mà sáng kiến kinh nghiệm tôi đề cập tới.

2.THỰC TRẠNG
2.1.Thực trạng công tác dạy và học tác phẩm trữ tình ở trường thcs
hiện nay:
Như phần trên đã nêu: “ Sáng kiến kinh nghiệm ” này được xây dựng
dựa trên quan điểm đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn mà cụ thể
lĩnh vực đề cập ở đây là: Học sinh học Ngữ văn để biết nghe, đọc, nói, viết
tốt; biết sử dụng thành thạo Tiếng Việt của dân tộc, đồng thời, rất quan trọng
là các em phải được rèn luyện kỹ năng cảm thụ nghệ thuật văn chương. Học
sinh chủ động học tập môn Ngữ văn, tự cảm thụ tác phẩm theo sự sáng tạo
nội dung của mình khi được trao phương tiện và phương pháp tiếp cận tác
phẩm. Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn, việc quan tâm đầu tư, chú
trọng đúng mức tới việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh của giáo viên chưa
thực sự có tính chiều sâu.

2.2. Những yếu tố chủ quan và khách quan:

Đơn vị Trường THCS An Hải là một trường có nhiều thầy cô giáo trẻ,
có rất nhiều nỗ lực, cố gắng của các cấp, chính quyền, đoàn thể và nhân dân ở
địa phương, song do mặt bằng kinh tế của nhân dân còn thấp ( số hộ trên địa
bàn xã vẫn còn nhiều hộ nghèo) nên việc đầu tư cho việc học tập và giáo dục
con em còn rất hạn chế. Một vài năm trở lại đây, có sự thay đổi căn bản, có sự
quan tâm chu đáo của các cấp, nhà trường đã có tiến bộ nhất định nhưng công
tác giáo dục nâng dần chất lượng còn gặp rất nhiều khó khăn.

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

6

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

-

Về phía giáo viên: Giáo viên nhiệt tình, năng nổ có kinh nghiệm được

giảng dạy theo đúng chuyên ngành đào tạo, luôn có ý thức học hỏi đặc biệt
trong vấn đề đổi mới phương pháp nâng cao kết quả học tập của học sinh.
-

Về phía học sinh: Do điều kiện kinh tế và trình độ dân trí còn hạn chế,

đa số học sinh các em ít có điều kiện tiếp xúc và giao lưu với bên ngoài nên
chưa ý thức được vai trò và ý nghĩa của việc học tập với bản thân, nên ngoài

thời gian học tập trên lớp, khi về nhà hầu hết các em không có ý thức tự học.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến đa số học sinh còn thiếu về kỹ năng tổ
chức, tư duy phân tích và bình giá tác phẩm văn học dẫn tới việc cảm thụ
nghệ thuật, kỹ năng tự giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp xã hội hạn chế.
Có thể nói, bên cạnh một số học sinh có thể và bước đầu đã đáp ứng
được yêu cầu, mục tiêu học tập của bộ môn thì rất nhiều học sinh hạn chế về
kỹ năng bình giảng và phân tích thơ trữ tình trong giờ học Ngữ văn và mắc
các lỗi khi phân tích và cảm thụ thơ trữ tình.
Qua quan sát thực tế, học sinh ở tất cả các khối lớp nói chung và đặc
biệt là lớp 9 nói riêng, có thể nhận thấy rằng: Hứng thú học tập bộ môn Ngữ
văn của các em học sinh là ít. Các kỹ năng cơ bản, cần thiết và các kỹ năng
được rèn luyện thông qua môn học thì nhiều học sinh chưa rèn luyện được.
Chưa thể đáp ứng yêu cầu, mục tiêu môn học đề ra, chưa biết cách khai thác
các yếu tố nghệ thuật của tác phẩm văn học.
-

Trong quá trình nghiên cứu như đã nói ở trên, việc dạy học và học tập

đối với môn Ngữ văn cần được nhìn nhận sâu sắc và nghiêm túc. Thể hiện ở
kết quả điều tra khảo sát thực tiễn cụ thể sau đây:
2.3. Kết quả khảo sát trước khi nghiên cứu, áp dụng:
Khảo sát trên đối tượng học sinh của lớp 9D trường THCS An Hải cho thấy.
2.3.1. Kĩ năng phân tích, bình giá:

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

7

Trường



“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

Tổng

Thời điểm

số học

khảo sát

sinh

Trước khi

25

Sai lỗi phân

Phân tích,

Phân tích,

tích, bình

bình giảng

bình giảng


giảng

đúng

20

5

tốt
0

nghiên cứu

80 %

20 %

2.3.2. Thái độ, hứng thú với môn học:
Tổng

Thời điểm

Số HS

khảo sát

25

Trước khi
nghiên cứu


Thái độ
Không
thích
10

Thích
5

40 %

20 %

Rất

Bình

Không

thích

thường

ý kiến

5

3

2


20%

12 %

8%

2.3.3. Quan điểm bản thân:
Từ thực tế tình hình trên tôi mạnh dạn đưa ra một số quan điểm và một
số vấn đề cần giải quyết sau:
Đối với giáo viên dạy Ngữ văn, phải làm sao qua từng bài, từng tiết,
từng tác phẩm cụ thể có thể đúc rút được phương pháp rèn kỹ năng cho học
sinh thật nhẹ nhàng, phù hợp, thiết thực và hiệu quả. Người giáo viên phải
biết được kỹ năng mình và kỹ năng của trò. Muốn thế phải thật sự đổi mới
phương pháp dạy trên lớp. Thầy thật sự là người thiết kế hệ thống các hoạt
động, học trò thi công và cuối cùng thầy và trò cùng kiểm tra, đánh giá kiết
quả. Dạy Ngữ văn theo tinh thần mới (trong đó có việc rèn kỹ năng phân tích,
cảm thụ, bình giá tác phẩm thơ trữ tình) phải triệt để quán triệt quan điểm tích
hợp (tích hợp ngang, tích hợp dọc, tích hợp đồng tâm…); tận dụng ưu thế của
phương pháp đọc - hiểu văn bản; vận dụng thật sáng tạo hệ thống câu hỏi
đọc- hiểu văn bản.
2.3.4. Nhiệm vụ cần giải quyết:
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

8

Trường



“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

Trước hết phải thấy việc nâng cao nhận thức của học sinh về các yếu
tố nghệ thuật thơ trữ tình. Thơ trữ tình chỉ trở nên có giá trị nội dung tư tưởng
và cả giá trị nghệ thuật, chỉ có thể hay, đẹp, thậm chí trở thành kiệt tác khi nó
có được các yếu tố hình thức nghệ thuật sâu sắc, độc đáo để biểu đạt nội
dung. Những hình thức đó là: Từ ngữ, hình ảnh, hình tượng, tu từ, câu, vần,
nhịp, không gian, thời gian … học sinh phải nắm được kiến thức cơ bản có
tính chất nền tảng và sâu sắc về các yếu tố nghệ thuật này.
Từ đó, học sinh phải có được hai nhóm kỹ năng cần thiết sau: Kỹ năng
nhận biết biểu hiện của các yếu tố nghệ thuật thơ trữ tình qua văn bản và
ngoài văn bản. Kỹ năng cảm nhận tác dụng (giá trị nghệ thuật) của các yếu tố
nghệ thuật này. Trong hai nhóm này thì nhóm thứ hai có vai trò quan trọng
đặc biệt. Đây là nhóm kỹ năng có ý nghĩa quyết định đến việc cảm thụ giá trị
của tác phẩm thơ trữ tình.
Dưới đây sẽ là giải pháp cụ thể để giải quyết được các vấn đề cơ bản đưa ra
trong báo cáo sáng kiến kinh nghiệm:
-

Các yếu tố hình thức nghệ thuật cần chú ý khi phân tích thơ trữ tình.

+

Đặc trưng của thơ trữ tình và các lỗi cần tránh khi phân tích và cảm

thụ thơ trữ tình.
+

Một số yếu tố hình thức nghệ thuật cần chú ý khi cảm thụ phân tích


thơ trữ tình.

3.CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ:
Đứng trước thực trạng về giảng dạy của giáo viên và học tập của các học
sinh đối với môn Ngữ văn ở THCS như đã nói trên; lấy lí luận khoa học giáo
dục và đặc trưng nghệ thuật văn chương soi vào thực tiễn ấy. Bản thân tôi
thấy cần thiết đặt vấn đề này thành vấn đề cần xem xét thật nghiêm túc. Trên
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

9

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

cơ sở mạnh dạn đưa ra các giải pháp khoa học - Nghệ thuật, áp dụng vào
ngay việc giảng dạy hàng ngày của một giáo viên Ngữ Văn, bản thân tôi
mong muốn cho việc dạy và học thơ trữ tình đạt kết quả cao, đúng đặc trưng
của loại hình văn chương phổ biến này. Dưới đây là các giải pháp mới bản
thân tôi đã áp dụng vào giảng dạy phân môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS ,
cụ thể là:
3.1. Đặc trưng của thơ trữ tình và các lỗi cần tránh khi phân tích và
cảm thụ thơ trữ tình:
3.1.1. Đặc trưng thơ trữ tình:
Thơ là một hình thái nghệ thuật rất đặc biệt - nó là hình thái đặc biệt
trong nghệ thuật ngôn ngữ - Văn chương. Thơ trữ tình mang đặc trưng nổi bật
là: Nó luôn hàm chứa bên trong ngôn ngữ của một hệ thống cảm xúc, tâm

trạng tình cảm và cách thể hiện tình cảm, cảm xúc và trọng tâm. Trong các
tác phẩm tự sự, kịch … cũng có yếu tố cảm xúc, tâm trạng, nhưng cách thể
hiện lại hoàn toàn khác với các thơ trữ tình. Đó là những tâm trạng, cảm xúc
của tác giả được thể hiện một cách gián tiếp thông qua hệ thống nhân vật, tư
liệu, biến cố, chi tiết của truyện …Trái lại, trong thơ trữ tình, tác giả bộc lộ
một cách trực tiếp cảm xúc của mình: Khi ta đọc đoạn thơ:
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường.
(Ánh trăng - Nguyễn Duy)
“Vầng trăng đi qua ngõ - như người dưng qua đường” câu thơ viết như
không mà nghe xót xa, nghẹn ngào. Cái sự quên sự nhớ ấy xưa trong thơ đã
nói nhiều, nếu như hoàn cảnh sống làm cho con người quên đi cái vầng trăng

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

10

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

tình nghĩa những năm ở rừng ấy thì cũng là điều tự nhiên, tạo điều kiện cho
tác giả suy ngẫm lại.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể

Như là sông là rừng
Nỗi ăn năn cuối bài thơ “trăng cứ tròn vành vạnh - kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc - đủ cho ta giật mình” là một nỗi ăn năn nhân bản,
thức tỉnh tâm linh, làm đẹp con người.
3.1.2. Các lỗi cần tránh khi cảm thụ và phân tích thơ trữ tình:
Khi đã nắm được các đặc trưng cơ bản của thơ trữ tình như trên, sẽ
giúp học sinh (cả giáo viên) tránh các lỗi cơ bản sau:
-

Chỉ phân tích và cảm thụ nội dung tư tưởng được phản ánh trong bài

thơ, bỏ qua tác dụng của hình thức nghệ thuật. Đây thực chất chính là việc
diễn văn xuôi lại bài thơ mà thôi.
-

Có chú ý đến nghệ thuật, nhưng đã tách rời nó khỏi nội dung tư tưởng

của tác phẩm. Tức là người phân tích đưa nghệ thuật phân tích tất cả trước
hoặc sau khi đã phân tích một nội dung.
3.2. Một số yếu tố hình thức nghệ thuật cần chú ý khi cảm thụ, phân tích
thơ trữ tình:
Khi phân tích thơ trữ tình, khi rèn cho học sinh kỹ năng phân tích thơ
trữ tình qua hình thức nghệ thuật của nó, cần thấy rõ các yếu tố cơ bản sau:
3.2.1. Nhịp điệu thơ:
Nhịp điệu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với thơ trữ tình, nó giúp
nhà thơ bộc lộ tốt hơn, rõ ràng hơn về tình cảm, cảm xúc. Nếu biết khai thác
tốt tác dụng của nhịp điệu trong thơ trữ tình thì việc cảm thụ và phân tích có
tác dụng rất lớn.
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải


11

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

Muốn nắm bắt nhịp điệu từng bài thơ, cần phải đọc rõ, ngân vang để làm
toát lên nhịp điệu và hình ảnh thơ. Sau đó, điều quan trọng nữa là nắm chắc
cách ngắt và tạo nhịp từng thể loại thơ: Thơ lục bát nhịp thường mềm mại,
uyển chuyển, thanh thoát; thơ thất ngôn bát cú nhịp trang trọng, hài hoà, chặt
chẽ, nhịp thơ tự do lại đa dạng và phong phú, thơ 7 chữ lại khoa trương tạo
nên cảm hứng lãng mạn, vừa mạnh mẽ vừa khoáng đạt. Bằng âm điệu nhẹ
nhàng trong sáng, nhiều câu thơ thể hiện một thứ ngôn ngữ đậm chất văn
xuôi với giọng điệu rất riêng biệt:
Không có kính, ừ thì có bụi
… Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Không có kính, ừ thì ướt áo …

( Phạm Tiến Duật )

Cần phải hiểu rõ: Nhịp điệu thơ được chi phối bởi tâm trạng của tác
giả. Tâm trạng vui, sôi nổi, phấn khởi thì nhịp điệu thơ sôi nổi, rạo rực chứa
đựng niềm tin và hi vọng
Trong khi phân tích các bài thơ trữ tình, ta cần đặc biệt quan tâm tới
cách ngắt nhịp trong mối quan hệ với cảm xúc tác giả. Thấy được tác dụng
của nhịp điệu cũng chính là ta đã thấy được tâm trạng và hiểu được cõi lòng
tác giả. Cần chú ý tới tất cả các loại dấu câu để có thể tìm ra và cảm nhận
được vẻ đẹp trong nhịp thơ.
3.2.2. Vần thơ:

Tiếng Việt của chúng ta rất giàu nhạc tính - hệ thống vần điệu và thanh
điệu là những yếu tố cơ bản tạo nên nhạc tính đó của Tiếng Việt nói chung và
Văn học Tiếng Việt nói riêng, đặc biệt là trong thơ. Vần hiểu một cách đơn
giản và chính xác là một âm không có thanh điệu hoặc do nguyên âm kết hợp
với phụ âm tạo nên. Ví dụ ”Tan”, ”lan”, ”tràn” đều có chung vần ”an”, ”le
te”, ”lập loè”, ”nhè” đều có chung vần ”e”... như vậy, trong thơ, gieo vần tức
là lặp lại một vần hoặc một cái vần nghe giống nhau giữa các tiếng ở những
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

12

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

vị trí nhất định. Đó là sự phối hợp âm thanh trong từng câu hoặc cả bài, đó là
sự cộng hưởng âm của các từ có cùng vần và thanh (Bằng hoặc trắc)... .
Căn cứ vào vị trí hiệp vần mà người ta chia ra vần chân và vân lưng:
Vần lưng là nói hiệp vần đứng giữa câu; vần chân là nối hiệp vần đứng cuối
câu .
Bên cạnh vần điệu, Tiếng Việt còn đa dạng về thanh điệu, với sáu
thanh, chúng ta có thể nâng cao, hạ thấp giọng làm cho lời nói trầm bổng và
hấp dẫn. Loại vần bằng luôn cho thanh “huyền” và thanh “không” đảm nhận.
Vần trắc là do các thanh còn lại tạo nên nguyên tắc, trong câu thơ, bài thơ thì
các vần bằng- trắc đan xen liên tục theo cách nào đó. Nhưng khi muốn diễn
đạt một cung bậc tình cảm nào đó nhà thơ lại dùng liên tiếp một vần.
3.2.3. Từ ngữ và các biện pháp tu từ:
Đây là yếu tố cơ bản và cực kỳ quan trọng trong hình thức nghệ thuật

của thơ trữ tình. Bởi vì mọi nội dung đều phải được biểu lộ qua từ ngữ mà
không có con đường nào khác.
a. Từ ngữ
Trước hết, khi phân tích một tác phẩm văn học, ta phải chú ý đầu tiên tới
từ ngữ. Trước tiên cần phải có một vốn từ phong phú, nắm được nghĩa của từ
và đặc biệt câu hỏi:
+ Tại sao tác giả dùng từ này mà không dùng từ khác ?
+ Tại sao từ này lại xuất hiện nhiều ?
+ Có thể thay thế từ ấy bởi từ khác không ?
+ Cần phân tích từ nào, chữ nào trong câu ấy ?
Khi phân tích, ngoài việc hiểu ý nghĩa của câu, cả đoạn và cả bài thơ, thì
chúng ta cần phải hiểu lựa chọn các từ ngữ điển hình để phân tích. Tránh
phân tích tất cả - từ không đặc sắc cũng phân tích, từ đặc sắc lại phân tích quá
ít; hoặc nghiêm trọng hơn là không chú ý phân tích từ ngữ.
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

13

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

Khi phân tích thơ trữ tình cần hiểu rõ: Từ ngữ Tiếng Việt rất giàu hình
ảnh, mang màu sắc tu từ hoc và cực kỳ đa dạng về nghĩa từ loại, chỉ có khai
thác hết từ ngữ thì mới thấy được những cảm xúc, tâm trạng sâu kín của tác
giả. Chẳng hạn trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tác giả Nguyễn
Du dã sử dụng một hệ thống từ láy: Thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu,
xanh xanh, ầm ầm, tạo nên âm điệu hiu hắt trầm buồn ghê sợ.

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
b.Về tu từ
Ngôn ngữ trong thơ trữ tình được chắt lọc từ ngôn ngữ trong cuộc sống
hàng ngày, nó là ngôn ngữ nghệ thuật. Có thể nói, việc sử dụng tu từ vô cùng
đa dạng, nên trong quá trình cảm thụ, đọc - hiểu thơ trữ tình cần vận dụng
thật tốt các hiểu biết về từ học để khai thác tác phẩm.
Vấn đề đặt ra ở đây là: Làm sao cho học sinh nắm chắc các biện pháp và
phương tiện tu từ. Nói chung tất cả các biện pháp tu từ đều có điểm chung là
sử dụng ngôn từ làm phương tiện. Về các biện pháp tu từ, học sinh phải nắm
chắc kiến thức và có kỹ năng khai thác tác dụng của:
- Tu từ ngữ âm
- Tu từ ngữ nghĩa
- Tu từ vựng
- Tu từ cú pháp
- Tu từ văn bản

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

14

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.


Chẳng hạn, đây là lối ẩn dụ rất độc đáo trong bài thơ: Khúc hát ru
những em bé lớn trên lưng mẹ.
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”.
Hình ảnh ”Mặt trời” ở câu thơ thứ hai có ý nghĩa tượng trưng hoá. Con là
mặt trời của mẹ. Con là hạnh phúc vừa ấm áp vừa thiêng liêng của đời mẹ.
Chính con đã góp phần sưởi ấm lòng tin yêu, ý chí của mẹ trong cuộc sống.
Mặt trời con cứ trẻ trung cứ ngày một rực rỡ trên thế gian này.
Hoặc là, lối so sánh độc đáo trong bài thơ: Ánh trăng
“Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng”
Học sinh phải hiểu về tu từ nhưng như vậy không đủ để các em vận
dụng khai thác trong tác phẩm văn chương. Bởi vậy bắt buộc giáo viên phải
rèn kỹ cho các em trong các giờ đọc- hiểu văn bản, các giờ học bồi dưỡng,
phụ đạo, các chủ đề tự chọn .... Chỉ có như vậy việc phân tích thơ trữ tình
mới có hiệu quả.
3.2.4. Không gian và thời gian trữ tình trong thơ:
Đây là yếu tố khá quan trọng và có tác dụng lớn, không thể xem nhẹ
hay bỏ qua trong quá trình phân tích thơ trữ tình bởi vì: Không gian và thời
gian là nơi nhân vật trữ tình xuất hiện và bộc lộ cảm xúc
Học sinh có thể nhận các tín hiệu về thời gian, không gian qua từ ngữ. Tuy
vậy nếu không thể hiểu trực tiếp thì lại cần huy động kiến thức ngoài từ ngữ,

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải


15

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

thậm chí là ngoài văn bản. Thời gian, không gian có thể xác định rõ (sớm,
chiều, đêm, bến đò, trong rừng, vườn hoa…).
Hoặc không xác định rõ cụ thể (Bây giờ, bao giờ, bao năm, ở đâu
đó…). Bởi vậy khi đọc câu thơ, người đọc cần chú ý xem xét, xem nhà văn
miêu tả đó của nhà thơ có dụng ý gì đặc biệt, không gian, thời gian ấy có ý
nghĩa gì và nói được nội dung sâu sắc gì?
3.2.5. Các yếu tố khác:
- Dấu câu, cách dùng câu:
Thông thường, các loại dấu câu và cách dùng câu trong thơ ngoài tác
dụng diễn đạt là chính, nếu được vận dụng sáng tạo lại có tác dụng biểu cảm
cao.
Dấu câu trong thơ trữ tình được sử dụng thật đa dạng và sáng tạo. Các
em cần biết đặt dấu câu trong mối quan hệ với các tín hiệu nghệ thuật khác,
với các câu, ý đoạn và nội dung toàn bài, để hiểu rõ tác dụng biểu cảm của
nó.
Ví dụ : Bài thơ “ Đồng chí” nếu như sáu dòng đầu có thể xem là sự lí giải của
tình đồng chí thì dòng thứ bảy có cấu trúc hết sức đặc biệt ( chỉ một từ dấu
chấm than “Đồng chí!”) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh
tình cảm giữa những người lính.
Về cách dùng câu: Trong thơ trữ tình được sử dụng kết hợp với các loại dấu
câu sáng tạo để biểu lộ cảm xúc. Nhà thơ sáng tạo câu theo từng trạng thái
cảm xúc.

- Hình ảnh, hình tượng.
Hình ảnh, hình tượng trong một tác phẩm trữ tình là điều độc đáo và
sáng tạo rất riêng của từng tác giả, trong tác phẩm cụ thể. Người ta hay nói:
Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, có tính hình tượng. Điều đó nghĩa là: Một bài

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

16

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

thơ trữ tình, tình cảm không chỉ được biểu lộ qua yếu tố nghệ thuật như đã
nói, mà còn được biểu lộ bởi những hình ảnh ngôn ngữ độc đáo.
Ví dụ “ Đầu súng trăng treo” đó là hình ảnh được nhận ra từ những đêm
hành quân phục kích của chính tác giả phong phú. Súng và trăng gần và xa,
thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ… Đó
là các mặt bổ sung cho nhau, hài hoà với nhau của cuộc đời người lính cách
mạng. Xa hơn đó cũng thể xem là biểu tượng cho thơ ca kháng chiến - nền
thơ ca kết hợp chất hiện thực và lãng mạn.
3.3. Quy trình thực hiện giải pháp mới ( rèn luyện kỹ năng phân tích thơ
trữ tình thông qua hình thức nghệ thuật cho giáo viên và học sinh):
3.3.1. Giáo viên
Muốn rèn cho học sinh có kỹ năng cảm thụ và phân tích thơ trữ tình
đúng với đặc trưng về hình thức nghệ thuật của nó trước hết, bản thân giáo
viên phải có đầy đủ nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề, có đủ kiến thức
về nghệ thuật thơ trữ tình và có kỹ năng phân tích tốt.

-

Giáo viên thường xuyên vận dụng việc dạy học thơ trữ tình một cách

sáng tạo và linh hoạt. Các phương pháp cảm thụ, phân tích văn chương cần
được chú trọng thật đúng đắn. Nhất thiết, khi phân tích phải đi từ hình thức
nghệ thuật của tác phẩm đến nội dung tư tưởng tác giả, tức là đi “văn đến ý”.
-

Giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo về phương tiện dạy học, có kỹ

năng và thao tác thuần thục khi sử dụng phương tiện thiết bị dạy học.
-

Giáo viên phải thiết kế bài giảng khoa học có hệ thống câu hỏi hợp lí.

-

Sử dụng ngôn ngữ trong sáng, chuẩn xác, sinh động, dễ hiểu, tác phong

thân thiện gần gũi tạo hứng thú học tập cho học sinh.
3.3.2. Học sinh
Trước hết cần cho các em làm quen dần từ lý thuyết nghệ thuật văn
chương, rồi quan sát mẫu và cuối cùng là thực hành, luyện tập. Bản thân học
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

17

Trường



“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

sinh chưa ý thức đầy đủ về sự quan trọng của các hình thức nghệ thuật thơ trữ
tình. Nên trong các bài giảng trên lớp giáo viên khéo léo rèn và nhắc nhở học
sinh điều này.
Tăng cường cho học sinh luyện tập, thực hành theo lý thuyết thông qua việc
hướng dẫn tự học và ra các bài tập ở nhà cho học sinh.
Vấn đề phát huy tính tự giác, tính tự chủ, tự nguyện để rồi tự học luôn
có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của việc rèn luyện kỹ năng cho học
sinh.
Học sinh ngoài việc nhận thức, khai thác tốt các tác phẩm trong chương trình,
còn cần được mở rộng, đào sâu thêm để các em có thể vận dụng trong quá
trình tự học. Và vấn đề là phát huy hết khả năng, năng khiếu của các em.
Có thể thể hiện cụ thể cách áp dụng phương pháp và nội dung rèn kỹ
năng phân tích, cảm thụ, bình giá thơ trữ tình cho học sinh trong một tiết học
cụ thể qua giáo án lên lớp như sau:

3.4. Giáo án thực nghiệm:

SANG THU

Văn bản:

( Hữu Thỉnh )
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
*Trọng tâm kiến thức kĩ năng:
I. Kiến thức:
-


Giúp học sinh hiểu được:

Phân tích được những cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh về sự

biến đổi đất trời từ cuối hạ sang đầy thu.
II. Kỹ năng:
-

Rèn luyện kỹ năng cảm thụ năng lực phân tích, bình thơ ca.

III. Thái độ:
-

Có tình cảm yêu mến, tự hào vẻ đẹp thiên nhiên đất trời, biết rung động

tinh tế trước sự biến đổi của thiên nhiên đất trời.
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

18

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

B. CHUẨN BỊ:
Giáo viên: Chuẩn bị chân dung tác giả Hữu Thỉnh. Các hình ảnh về mùa thu,
một số tác phẩm thơ nói về mùa thu của các tác giả khác…

Học sinh: Soạn bài, đọc và tìm hiểu các tài liệu có liên, sưu tầm các hình ảnh
về mùa thu…
C. PHƯƠNG PHÁP:
-

Phương pháp phân tích tổng hợp, liên hệ thực tế, vấn đáp, giảng bình...

-

Cách thức tổ chức: Hướng dẫn học sinh khai thác văn bản theo đặc điểm

thơ.
D. TIẾN TRÌNH GIỜ DẠY:
I. Ổn định tổ chức:
II. Kiểm tra bài cũ:
-

Đọc thuộc lòng bài thơ "Viếng lăng Bác" (Viễn Phương).

-

Bài thơ gợi cho em cảm nhận cảm xúc của tác giả khi ra viếng lăng

Bác như thế nào?
III. Bài mới:
1. Giới thiệu bài
2. Giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh về phong cảnh mùa thu.
? Bức tranh vẽ hình ảnh gì?




Đất nước Việt Nam chúng ta, đặc biệt là Miền Bắc, một năm có 4 mùa

rõ rệt: Xuân, hạ thu, đông. Vào thời điểm chuyển mùa, thiên nhiên vạn vật
cũng đều có sự thay đổi rõ rệt và đó cũng là nguồn sáng tạo nghệ thuật cho
các nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm tinh tế. Mùa thu đã đi vào thơ ca, nhạc hoạ
rất nhiều, là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ. Chúng ta đã biết đến
chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, "Đây mùa thu tới" (Xuân Diệu),… Hôm
nay, thầy trò chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu nét cảm nhận mới lạ của nhà
thơ Hữu Thỉnh khi đất trời chuyển sang thu qua văn bản "Sang thu"…

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

19

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

HOẠT ĐỘNG CỦA

HOẠT ĐỘNG CỦA

NỘI DUNG CẦN ĐẠT

GIÁO VIÊN
*/ Hoạt động 1: Giáo


HỌC SINH
- Nguyễn Hữu Thỉnh

I. TÌM HIỂU CHUNG

viên hướng dẫn học

(1942), quê ở huyện Tam

1. Tác giả:

sinh tìm hiểu tác giả,

Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Nguyễn Hữu Thỉnh

tác phẩm.

- Năm 1963, ông gia nhập

(1942), quê Vĩnh Phúc.

? Căn cứ vào phần chuẩn

quân ngũ vào binh chủng

- Ông là nhà thơ thường

bị bài ở nhà và phần chú


Tăng – Thiết giáp rồi trở

viết về đề tài con người và

thích  trong SGK, em

thành cán bộ văn hoá,

cuộc sống ở nông thôn về

hãy trình bày những hiểu

tuyên huấn trong quân đội

mùa thu

biết của mình về tác giả

và bắt đầu sáng tác thơ.

Hữu Thỉnh?

- Ông đã tham gia BCH

GV giới thiệu chân dung

Hội Nhà văn Việt Nam

Hữu Thỉnh.


các khoá III, IV, V. Từ
năm 2000, Hữu Thỉnh là
Tổng thư ký Hội nhà văn
Việt Nam.
- Ông là nhà thơ thường
viết về đề tài con ngời và
cuộc sống ở nông thôn về

2. Tác phẩm:
- Sáng tác vào gần cuối
1977, in lần đầu trong báo
“Văn nghệ”
- Trích tập thơ “Từ chiến
hào đến thànhphố”

mùa thu
- Bài thơ được tác giả
sáng tác vào cuối năm
? Bài thơ được sáng
tác vào thời gian nào?

1977, in lần đầu tiên trên
báo Văn nghệ.
- Bài thơ được viết vào

? Thời gian sang thu

thời điểm giao mùa hạ


được miêu tả ở vùng nào

với mùa thu ở vùng đồng

của nước ta?

bằng Bắc Bộ.

? Nêu xuất xứ của bài

- Trích từ trong tập "Từ

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

20

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

thơ?

chiến hào đến thành phố".
- 2 học sinh đọc.
- Chùng chình cố ý đi

Hoạt động 2: GVHD HS


chậm lại, không muốn đi

đọc- hiểu văn bản.

nhanh…

II. Đọc - hiểu văn bản:

GV: Hướng dẫn học sinh

1.Đọc, giải thích từ khó:

đọc: Giọng nhẹ nhàng,

a) Đọc:

khoan thai, nhịp chậm,
trầm lắng.
GV: Đọc mẫu một đoạn
→ gọi 2 – 3 học sinh đọc
⇒ RKN, nhận xét giọng
đọc của học sinh, chú ý
sửa cách đọc cho h/sinh.
- Giáo viên hướng dẫn
học sinh tìm hiểu các từ

b) Giải thích từ khó:

khó trong SGK


(SGK – 57)

? Chùng chình nghĩa là
gì?
? Bài thơ được viết theo
thể thơ nào? Xác định
cách nhắt nhịp chủ yếu

2. Kết cấu:
- Thể thơ: 5 chữ.

- Thể thơ: 5 chữ.

- Ngắt nhịp: 2/3; 3/2.

- Ngắt nhịp: 2/3; 3/2.

của bài?
? Em đã học các tác

- Ông đồ (Vũ Đình Liên)

phẩm thuộc thể thơ 5 chữ

- Đêm nay Bác không ngủ

- Phương thức biểu đạt:

nào?


(Minh Huệ)…

Miêu tả + Biểu cảm.

? Văn bản này được viết

- Phương thức biểu đạt:

theo phương thức biểu

Biểu cảm

đạt chính nào?

+ Miêu tả.

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

21

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

? Xác định bố cục của bài

- Bố cục: 3 phần (Theo 3


thơ?

khổ thơ)

3- Bố cục: 3 phần

GV: Cả bài thơ là những

+ Đoạn 1: Tín hiệu báo

III. Phân tích văn bản:

quan sát, và cảm nhận

thu về (khổ 1).

1. Khổ 1: Tín hiệu báo thu

của tác giả về thiên nhiên

+ Đoạn 2: Quang cảnh

về.

vào thu, từng khổ nối tiếp

đất trời sang thu(khổ 2)

nhau đều như vậy nên


+ Đoạn 3: Biến đổi trong

chúng ta cũng có thể

lòng cảnh vật (khổ 3).

không cần phải chia

- Học sinh đọc.

đoạn.
Hoạt động 3: HDHS PT
văn bản.
GV: Gọi h/sinh đọc khổ 1.
? Tác giả đã cảm nhận
được "Mùa thu hình
như đã về" từ tín hiệu
nào của thiên nhiên?
? Em hiểu Gió se là gió
như thế nào?
? Từ "Bỗng" diễn tả
trạng thái nào của sự
cảm nhận?
? Từ kinh nghiệm trong
thực tế, em hiểu gì về thời
điểm hương ổi thơm nồng
phả vào gió se?
? Em hiểu hương ổi phả

- Nhà thơ chợt nhận ra tín

hiệu mùa thu về qua sự
cảm nhận:
+ Hương ổi, gió se.
- Gió hơi lạnh và khô (se
lạnh) → gió đặc trưng của
mùa thu.
- Từ Bỗng có phần ngạc
nhiên, bất ngờ trước sự
thay đổi của thời tiết tác
động đến cảm giác bản

- Hương ổi: mùa ổi chín
rộ
- Gió se: gió heo may
nhẹ, khẽ, khô và hơi lạnh.

thân.
- Hương ổi: Đầu mùa thu,
cuối tháng 7, tháng 8, lúc
này mùa ổi chín rộ.

vào gió se nghĩa là gì?
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

22

Trường



“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

? Có thể thay từ "Phả"

- Từ phả có thể thay bằng

- Phả vào: toả vào, trộn

bằng từ nào khác?

từ thổi, đưa, bay, lan,

lẫn

? Tại sao tác giả lại dùng

tan…

→ Mùi hương ổi toả vào

từ phả mà không dùng

- Từ phả thể hiện sự đột

trong gió se làm thức dậy

các từ tương tự?

ngột, gợi cảm giác hương


cả không gian vườn ngõ.

thơm nồng nàn hấp dẫn
của những vườn cây sum
suê trái ngọt ở nôn thôn
Việt Nam.
? Câu thơ Sương chùng
chình qua ngõ có nghĩa
là gì?

- Sương chùng chình

- Chùng chình: gần nghĩa
với dềnh dàng, đủng đỉnh,
chầm chậm, lững thững…

GV: Tác giả đã nhân hoá

→ Nhân hoá, hạt sương
cũng có tâm hồn, có cảm
nhận về mùa thu đang
đến.

làn sương nó đi qua ngõ
nhà có vẻ cố ý chậm hơn
mọi ngày. Những giọt

- Thể hiện tâm trạng ngỡ

sương nhỏ ly ti giăng mắc


ngàng, cảm xúc bâng

nhẹ nhàng như cố ý chậm

khuâng, cảm nhận tinh tế

lại thong thả nhẹ nhàng

của tác giả, tâm hồn thi sỹ

chuyển động chậm chậm

biến chuyển nhịp nhàng

sang thu. Hạt sương cũng

với phút giao mùa của

như có tâm hồn, có cẩm

cảnh vật, có chút gì đó

nhậ riêng thong thả qua

chưa thật rõ ràng trong

ngưỡng cửa của mùa thu

cảm nhận, chưa thực sự


vậy…

tin…

? Em có nhận xét gì về

- Cảm nhận ban đầu của

cách dùng từ Bỗng, và

nhà thơ về cảnh sang thu

→ Tâm trạng ngỡ ngàng,

hình như của tác giả?

của đất trời, thiên nhiên

cảm xúc bâng khuâng.

? Qua đây em cảm nhận

được cảm nhận từ những

Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

- Bống, hình như.


23

Trường


“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

được điều gì từ tâm hồn

gì vô hình: Hương ổi, gió;

⇒Yêu thiên nhiên, thời

của nhà thơ khi đất trời

mờ ảo: Sương; nhỏ hẹp và

tiết thu và cuộc sống làng

chuyểằnt hạ sang thu?

gần gũi: ngõ.

quê.

- Sông, Cánh chim, Đám

2) Khổ 2: Quang cảnh đất

mây.


trời sang thu:

- Dềnh dàng: Sự chậm

- Sông – dềnh dàng

được cảm nhận từ những

chạp, thong thả → dòng

→ Nhân hoá, con sông

biểu hiện không gian

sông thướt tha, mềm mại,

duyên dáng thướt tha,

nào?

hiền hoà chơi một cách

mềm mại, khoan thai, hiền

? Dềnh dàng nghĩa là

nhàn hạ, thanh thản, gợi

hoà thanh thản.


gì?

lên vẻ đẹp êm dịu của bức

GV: Gọi học sinh đọc
khổ 2.
? Đất trời sang thu

tranh thiên nhiên mùa

- Chim vội vã: Tránh rét

? Tại sao những cánh

thu…

→ Tín hiệu của mùa thu.

chim lại bắt đầu vội vã? ?

- Những cánh chim bắt

Cánh chim vội vã báo

đầu vội vã đi tìm về tổ

hiệu điều gì?

trong những buổi hoàng


? Tác giả viết "Có đám

hôn, không còn nhởn nhơ

mây mùa hạ, Vắt nửa

rong chơi trong tiết trời

mình sang thu" có ý

mùa hạ, cánh chim bay về

nghĩa gì? Thực tế có điều

phương nam tránh rét…

này hay không?

- Gợi hình ảnh làn mây

? Qua đây em có cảm

mỏng nhẹ, kéo dài – một

nhận như thế nào về bức

vẻ đẹp của bầu trời bắt

tranh không gian mùa thu


đầu chuyển sang thu.

được tái hiện trong khổ

→ Tác giả không chỉ cảm

thơ thứ hai của bài?

nhận bằng thị giác mà còn

- Đám mây mùa hạ vắt
nửa mình sang thu.

⇒ Sự liên tưởng thú vị,
một hình ảnh đầy chất thơ
mới mẻ, gợi cảm. Hình
ảnh làn mây mỏng nhẹ,
kéo dài của mùa hạ còn
sót lại, vẻ đẹp của bầu trời
sang thu.

bằng cả tâm hồn
thực tế nhạy cảm, yêu
Giáo viên: Trần Đức Nhân
THCS An Hải

24

Trường



“ Rèn luyện kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm thơ trữ tình trong giờ học ngữ văn khối 9 ”.

thiên nhiên tha thiết.
⇒ Qua đó ta cảm nhận
được hồn thơ giàu xúc
cảm, thiết tha với quê
hương đất nước của nhà
thơ.

3) Khổ 3: Biến đổi trong

GV: Gọi học sinh đọc

- Còn nắng: Vẫn còn bao

lòng cảnh vật - Còn nắng:

khổ 3

nhiêu nắng;

Vẫn còn bao nhiêu nắng;

? Con người còn cảm

- Mưa và sấm: đã vơi dần,

thấy những biếu hiện


bớt bất ngờ;

khác biệt nào của thời tiết

- Nắng cuối mùa hạ vẫn

khi chuyển từ mùa hạ

còn nồng ấm, còn sáng

sang mùa thu?

nhưng đã nhạt dần

- Mưa và sấm: đã vơi
dần, bớt bất ngờ;

- Hàng cây đứng tuổi: già

? Em hiểu về cái nắng

→ Mùa hạ có những cơn

của thời điểm giao mùa

mưa rào bất ngờ chợt đến,

này như thế nào?


chợt đi nhưng giờ đã thưa

? Theo em, nét riêng của

dần, ít dần…

thời điểm giao mùa hạ -

-Hai câu cuối bài.(HS

nhiên, liên tưởng đến thay

thu được tác giả thể hiện

bình )

đổi của đời người.

đặc sắc nhất qua hình

-Theo nhóm, nhận xét.

ảnh câu thơ nào?Vì sao?

-Lúc sang thu, bớt đi

Tác giả sử dụng biện

những tiếng sấm bất ngờ.


pháp tu từ nào?(HS thảo

(Có thể hiểu hàng cây

luận nhóm ) GV chia lớp

không còn bị bất ngờ, bị

4 nhóm(3’)

giật mình vì tiếng

* Hoạt động 4: Hướng

sấm nữa).

những thay đổi của mùa
hạ sang thu của thiên

4. TỔNG KẾT:
a. Nghệ thuật:
- Thể thơ 5 chữ, nhịp thơ
- Hình ảnh chọn lọc mạng

? Những nét đặc sắc về

đậm nét đặc trưng của sự

Nghệ thuật của văn bản
THCS An Hải


→ Hình ảnh ẩn dụ: Từ

chậm, âm điệu nhẹ nhàng.

dẫn tổng kết

Giáo viên: Trần Đức Nhân

đi

25

Trường


×