Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Tuyên truyền về thị trường chứng khoán trên truyền hình việt nam (khảo sát kênh VTC, VTV1, INFOTV, HanoiTV và HTV9) (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.3 KB, 33 trang )

VŨ THỊ TUYẾT MINH

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


VŨ THỊ TUYẾT MINH


TUYÊN TRUYỀN VỀ TTCK TRÊN TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM

TUYÊN TRUYỀN VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
TRÊN TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM (KHẢO SÁT KÊNH
VTC, VTV1, INFOTV, HanoiTV VÀ HTV9)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH BÁO CHÍ


2009

Hà Nội - 2009


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..........................................................................5
DANH MỤC BẢNG BIỂU ........................................................................................... 5
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 6

1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài........................................................... 7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................... 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 11


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 11
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ................................................ 11
6. Phương pháp luận nghiên cứu ............................................................ 12
7. Kết cấu luận văn ................................................................................ 12
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN TTCK TRÊN TRUYỀN
HÌNH ..................................................................................................13

1.1. Một số vấn đề về thông tin, tuyên truyền .......................................... 13
1.1.1. Khái niệm tuyên truyền ........................................................................13
1.1.2. Khái niệm thông tin .............................................................................15
1.1.3 Tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin, tuyên truyền của báo chí .......17
1.2. TTCK và phân loại thông tin về TTCK ............................................ 20
1.2.1 Lịch sử ra đời TTCK .............................................................................20
1.2.2 Chức năng TTCK đối với nền kinh tế ...................................................22
1.2.3 Phân loại thông tin trên TTCK .............................................................24
1.3. Yêu cầu về việc tuyên truyền TTCK trên truyền hình ........................ 25
1.3.1 Đối tượng tuyên truyền về thị trường chứng khoán trên truyền hình ..........25
1.3.2 Một số yêu cầu tuyên truyền về TTCK trên truyền hình .......................27
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TUYÊN TRUYỀN VỀ TTCK TRÊN TRUYỀN
HÌNH .................................................... Error! Bookmark not defined.

2.1 Lịch sử ra đời của truyền hình về tài chínhError! Bookmark not defined.


2.1.1 Truyền hình về tài chính trên thế giới ....Error! Bookmark not defined.
2.1.2 Truyền hình chứng khoán ở Việt Nam ....Error! Bookmark not defined.
2.1.2.1 Kênh VTV1 ....................................Error! Bookmark not defined.
2.1.2.2 Kênh InfoTV (VCTV9)..................Error! Bookmark not defined.
2.1.2.3 Đài truyền hình kỹ thuật số VTC ...Error! Bookmark not defined.


2.1.2.4 Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội (HanoiTV)Error! Bookmark not define
2.1.2.5 Đài phát thanh và truyền hình thành phố Hồ Chí Minh
(HTV9).........................................Error! Bookmark not defined.
2.2. Nội dung tuyên truyền của các chương trình về TTCK trên truyền hìnhError! Bookmark not

2.2.1. Truyền hình góp phần phổ biến kiến thức về TTCK đến nhà đầu tưError! Bookmark not
2.2.2 Truyền hình góp phần tuyên truyền những chính sách của nhà
nước, cơ quan quản lý tới công chúng Error! Bookmark not defined.
2.2.3 Tuyên truyền thông tin về diễn biến thị trườngError! Bookmark not defined.
2.2.3.1 Tuyên truyền thông tin phiên giao dịchError! Bookmark not defined.
2.2.3.2 Tuyên truyền những thông tin khác về TTCK (thông tin
doanh nghiệp, thông tin quốc tế…)Error! Bookmark not defined.
2.3. Đặc thù hình thức việc tuyên truyền TTCK trên truyền hìnhError! Bookmark not
2.3.1 Chia nhỏ màn hình................................. Error! Bookmark not defined.
2.3.2 Sử dụng ngôn ngữ phi văn tự ................. Error! Bookmark not defined.
2.3.3 Mầu sắc chủ đạo là mầu xanh và mầu vàngError! Bookmark not defined.
2.3.4. Sử dụng nhiều MC trong một chương trìnhError! Bookmark not defined.
2.3.5. Nhạc nền sôi động ................................ Error! Bookmark not defined.
2.3.6 Ba thể loại chủ yếu là tin, phóng sự và phỏng vấnError! Bookmark not defined.
2.4. Nhận xét, đánh giá chung về các chương trình tuyên truyền về
TTCK trên truyền hình Việt Nam ........ Error! Bookmark not defined.
2.4 .1 Một vài nhận xét về chất lượng tuyên truyềnError! Bookmark not defined.
2.4.1.1 Tính chính xác ............................... Error! Bookmark not defined.
2.4.1.2 Tính cập nhật ................................. Error! Bookmark not defined.
2.4.1.3 Tính định hƣớng ............................ Error! Bookmark not defined.

2.4.2 Thực trạng tỷ lệ người xem trên các chương trình tiêu biểuError! Bookmark not d


2.4.3 Ưu-nhược điểm của các chương trình tuyên truyền về TTCK trên

truyền hình ........................................... Error! Bookmark not defined.
2.4.3.1 Ƣu điểm ......................................... Error! Bookmark not defined.
2.4.3.2 Nhƣợc điểm ................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ TUYÊN TRUYỀN
VỀ TTCK TRÊN TRUYỀN HÌNH ......... Error! Bookmark not defined.

3.1. Sự phát triển của TTCK đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả tuyên truyềnError! Bookmark not d
3.2 Định hướng phát triển chương trình tuyên truyền về TTCK trên
truyền hình ......................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.1 Nắm vững chỉ đạo tuyên truyền về TTTCKError! Bookmark not defined.
3.2.2 Kết hợp nhiều biện pháp trong việc nâng cao hiệu quả tuyên
truyền về TTCK ................................... Error! Bookmark not defined.

3.2.3 Vận dụng sáng tạo kinh nghiệm truyền hình tài chính thế giớiError! Bookmark no
3.3 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền TTCK trên
truyền hình .......................................... Error! Bookmark not defined.
3.3.1 Đối với độ ngũ thực hiện chương trình . Error! Bookmark not defined.
3.3.2 Đối với lãnh đạo các Đài truyền hình ... Error! Bookmark not defined.
3.3.3 Đối với cơ quan quản lý thị trường ....... Error! Bookmark not defined.
3.3.4 Đối với các doanh nghiệp ...................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ............................................................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 29
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Nxb:

Nhà xuất bản


Hnx:

Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

HoSE:

Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh

TTCK:

Thị trƣờng chứng khoán


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Thống kê lịch phát sóng, thời lƣợng các chƣơng trình truyên truyền về
TTCK trên VTV1, VTC, InfoTV, HanoiTV và HTV9
Bảng 2.2: Mô hình hóa mẫu màn hình chia nhỏ nhất hiện nay
Bảng 2.3: Mẫu màn hình Bản tin thị trƣờng 24h -VTV1
Bảng 2.4:Tỷ lệ ngƣời xem Bản tin tài chính (sáng) - VTV1
Bảng 2.5: Tỷ lệ ngƣời xem Bản tin tài chính (tối)- VTV1
Bảng 2.6 : Tỷ lệ ngƣời xem Bản tin Việt Nam và các chỉ số (tối) -VTV1
Bảng 2.7: Tỷ lệ ngƣời xem Bản tin Việt Nam và các chỉ số (trƣa) - VTV1


MỞ ĐẦU
1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài
Tính thời sự
Thị trƣờng chứng khoán (TTCK) là thị trƣờng tài chính cao cấp, một thị

trƣờng của thông tin và niềm tin. Thông tin trên TTCK là yếu tố sống còn, có thể
tác động trực tiếp đến những biến động trên thị trƣờng, nói cách khác là ảnh hƣởng
trực tiếp, ngay lập tức đến quyết định và sự thành bại của nhà đầu tƣ.
Minh bạch hóa thông tin hiện đang đƣợc coi là vấn đề hết sức bức xúc của
TTCK Việt Nam với 9 năm non trẻ so với ý thức thông tin hàng trăm năm của
TTCK trên thế giới. Vì thế hiện nay những kênh thông tin về TTCK từ các
nguồn chính thống từ cơ quan quản lý, doanh nghiệp và đặc biệt từ các phƣơng
tiện truyền thông đại chúng ngày càng đang khá đa dạng để đáp ứng nhu cầu
này.
Nhanh chóng chỉ đạo vấn đề này, ngày 25/3/2008, Thủ tƣớng giao Bộ Thông tin
và Truyền thông chỉ đạo các báo, đài đƣa tin khách quan, chính xác góp phần cho
ngƣời dân hiểu rõ chủ trƣơng chính sách của Nhà nƣớc về phát triển TTCK theo công
văn số1909/VPCP-KTTH V/v các biện pháp ổn định TTCK
Cùng với đó, Thủ tƣớng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng đã phê duyệt “Đề
án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020” thì
truyền thông cho thị trƣờng này là vấn đề bức thiết đặt ra với các loại hình báo chí nói
chung và truyền hình nói riêng. Theo đề án này, TTCK sẽ là thành phần chủ đạo để
đƣa thị trƣờng vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trƣờng tài chính Việt
Nam. Đến năm 2020, thị trƣờng vốn Việt Nam sẽ phát triển tƣơng đƣơng thị trƣờng
các nƣớc trong khu vực.
Theo tiến sĩ Vƣơng Quân Hoàng, Nghiên cứu viên cao cấp Bộ môn Tài
chính, Trung tâm Emile Bernheim, ĐHTH Bruxelles thì các quyết định tốt trong
đầu tƣ ngày nay còn đƣợc gọi là: Các quyết định đầy đủ thông tin, nguyên văn
tiếng Anh: "Well-informed decisions." Các phƣơng tiện truyền thông đại chúng
với lợi thế của mình đã làm đƣợc gì và phải làm gì cho các nhà đầu tƣ, cho
TTCK, thị trƣờng vốn và cho cả nên kinh tế thì không thể chần chừ hay không


quy chuẩn.
Với hàng loạt các kênh truyền hình nhƣ hiện nay việc tuyên truyền về TTCK

càng cần phải lƣu tâm và thể hiện sao cho chất lƣợng chƣơng trình xứng đáng với số
lƣợng chƣơng trình đang có và sẽ còn phát triển mạnh trong tƣơng lai.
Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển và biến động của thị trƣờng, các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng cũng tăng cƣờng thông tin về TTCK. Riêng về truyền hình hiện
trên hầu hết các kênh từ VTV1, HanoiTV, HTV, truyền hình kỹ thuật số VTC,
truyền hình cáp Việt Nam đều có những chƣơng trình riêng biệt tuyên truyền về
TTCK.
Tuy nhiên, nói về thông tin chứng khoán trên các phƣơng tiện thông tin đại
chúng, dù nhiều về số lƣợng (ngoài hệ thống chƣơng trình về chứng khoán trên
các kênh VTV1, HanoiTV, HTV thì có hẳn 2 kênh riêng biệt về tài chính là
VTC8 và InfoTV (VCTV9) nhƣng nội dung vẫn chƣa sâu, chƣa kỹ và chƣa thực
sự sát với đối tƣợng tuyên truyền. Nhiều thông tin, nhiều chƣơng trình dẫn đến
sự trùng lập và ít bản sắc của các chƣơng trình về chứng khoán trên các kênh
khác nhau.
Thứ hai, tuy cùng thông tin về TTCK nhƣng các bản tin trên truyền hình
cũng có những đặc thù, khu biệt với báo in, báo điện tử hay phát thanh. Vì vậy
làm rõ đặc thù này cũng là cách để các nhà làm truyền hình có thể tuyên truyền
tốt hơn về TTCK.
Trƣớc nhu cầu “thông tin chứng khoán” và nâng cao chất lƣợng của các
chƣơng trình truyền hình tác giả xin lựa chọn đề tài: Tuyên truyền về thị
trƣờng chứng khoán trên truyền hình Việt Nam (Khảo sát kênh VTC, VTV1,
InfoTV, HaNoiTV và HTV9).
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu, tìm hiểu thông tin về TTCK đã có mầm
mống từ đầu thập kỷ 90. Từ khi Uỷ ban chứng khoán Nhà nƣớc thành lập theo
nghị định 75/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2006 thì những thông tin mang tính
chất tuyên truyền về lĩnh vực này thực sự đƣợc quan tâm và bắt đầu triển khai
chủ động.



Hiện theo thống kê trong nƣớc hiện nay có khoảng 200 đầu sách nghiên
cứu về TTCK. Tiêu biểu, ngay từ năm 1991, các tác giả Đặng Quốc Tuyến,
Trịnh Trọng Nghĩa, Đặng Thị Luận đã biên soạn cuốn “Chứng khoán và TTCK :
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới” (Viện Khoa học Tài chính - Bộ Tài
chính xuất bản). Nội dung cuốn sách về TTCK và lịch sử phát triển; các khái
niệm cơ bản về TTCK; kinh nghiệm hoạt động TTCK ở các nƣớc kinh tế phát
triển; vai trò của TTCK ở các nƣớc chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng và điều
lệ chứng khoán ở Liên Xô.
Sang năm 1993, tác giả Nguyễn Ngọc Minh dịch cuốn “Những kiến thức
cơ bản về chứng khoán và môi giới chứng khoán” của Học viện Tài chính Nữu
ƣớc (Mỹ) (Nhà xuất bản thế giới xuất bản).
Sang năm 1994, sách về chứng khoán đƣợc xuất bản nhiều hơn, tác giả
Nguyễn Công Nghiệp xuất bản cuốn “TTCK : Trò chơi và những thủ pháp làm
giàu”. Một số nội dung chính của tác phẩm là đôi nét về đặc điểm của TTCK.
Những thủ đoạn, bí quyết làm giàu của những kẻ tham gia trò chơi chứng
khoán, luật chơi của trò chơi này.
Và đây cũng là cuốn sách đầu tiên chỉ những ứng dụng, bí quyết trong
TTCK với quan niệm về “trò chơi chứng khoán”.
Về luận án, hiện tại Thƣ viện quốc gia có lƣu chiểu khoảng 50 luận án
nghiên cứu về TTCK. Sớm nhất, năm 1995, tác giả Lê Thị Tuyết Hoa nghiên
cứu về “Các giải pháp nhằm thực hiện các điều kiện hình thành TTCK tại Việt
Nam”. Tác phẩm nghiên cứu lý luận TTCK và thực trạng kinh tế - xã hội Việt
Nam về kinh tế - con ngƣời, pháp lý... để tìm và đƣa ra những kiến nghị về các
giải pháp thực hiện các điều kiện hình thành TTCK ở VIệt Nam.
Cùng năm, tác giả Lê Hoàng Nga hoàn thành đề tài “Thiết lập cơ chế hoạt
động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên TTCK”. Nội dung chính là về
TTCK và vai trò của hệ thống ngân hàng trên TTCK. Thực trạng và cơ chế hoạt
động của hệ thống ngân hàng trên TTCK. Cơ chế hoạt động của hệ thống ngân
hàng Việt Nam trên TTCK.

Nhƣ vậy, tuy sách, luận án hay các tài liệu bài viết về TTCK khá nhiều
nhƣng cho đến nay những tác phẩm đó nghiên cứu thị trƣờng chủ yếu dƣới góc


độ tài chính.
Ở trong nƣớc, về thông tin TTCK trên báo chí có một số công trình:
- Khóa luận "TTCK qua Báo chí" của Đoàn Mai Anh K40, sinh viên khoa
báo chí trƣờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn.
- Khóa luận “Thông tin chứng khoán trên Báo chí Việt Nam” của sinh viên
Phạm Thị Hằng K47 hệ tại chức khoa báo chí trƣờng Đại học khoa học xã hội
và nhân văn.
- Khóa luận “Thông tin chứng khoán trên báo chí Việt Nam” của Phạm
Thị Thuỷ (K47 Hà Nội hệ tại chức) khoa báo chí trƣờng Đại học khoa học xã
hội và nhân văn.
- Khóa luận “Cách tiếp cận và xử lý thông tin chứng khoán của phóng viên
kinh tế ở Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Minh Anh, K48 chính quy khoa báo chí
trƣờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn.
- Luận văn “Thông tin tuyên truyền về chứng khoán và TTCK (Khảo sát
tạp chí chứng khoán từ 1997-2003)” của tác giả Nguyễn Cao Cầm, Học viện
Báo chí và tuyên truyền, ngƣời hƣớng dẫn TS Phạm Tất Thắng, năm 2004.
Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu tài liệu, tác giả đã lƣợc dịch một số tác
phẩm của một số tác giả nƣớc ngoài, tiêu biểu là “Media firms: structures,
operations and performances”, nhà xuất bản Lawrence Erlbaum Associates,
năm 2002, biên soạn Robert G.Picard, Trƣờng kinh tế và quản trị kinh doanh
Turku, Phần Lan và “The options course: High Profit & Low Stress Trading
Methods” Nhà xuất bản Wigley, tái bản lần 2 năm 2005 của tác giả George
A.Fontanills.
Việc tiếp cận với các tài liệu gốc này vẫn mang tính hạn chế nhƣng cũng
đủ để minh chứng cho việc phát triển khá mạnh những tác phẩm nghiên cứu về
vấn đề này trên thế giới.

Nhƣ vậy, ở nhiều khía cạnh khác nhau bƣớc đầu mảng đề tài này đã đƣợc
khai thác. Tuy nhiên trên thực tế hiện chƣa có một công trình nào nghiên cứu
trên về việc tuyên truyền về TTCK trên truyền hình và từ đó đƣa ra những giải
pháp thực tiễn là nâng cao chất lƣợng chƣơng trình nhƣ ở luận văn thực hiện.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Đƣa ra đƣợc các giải pháp nhằm nâng cao việc tuyên truyền về TTCK trên
truyền hình trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ:
Thứ nhất, hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về TTCK và tuyên
truyền về TTCK trên truyền hình
Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động tuyên truyền về TTCK trên cơ sở
khảo sát các chƣơng trình trên một số kênh truyền hình.
Thứ ba, đề ra giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động của thông tin
tuyên truyền về TTCK trên truyền hình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng: Khảo sát việc tuyên truyền về TTCK trên một số kênh VTV1,
HanoiTV và HTV9, truyền hình kỹ thuật số VTC và InfoTV (VCTV9- truyền
hình cáp Việt Nam).
Cụ thể, tập trung vào một số chƣơng trình:
- Việt Nam và các chỉ số; Bản tin tài chính; Chứng khoán cuối tuần
(VTV1).
- Bữa sáng doanh nhân, Hàn thử biểu, Tâm chấn (VTC8)
- Bản tin trƣớc giờ mở cửa, Bản tin chứng khoán Info, Sàn chứng khoán
Info (InfoTV)
- Bản tin chứng khoán và đầu tƣ (HanoiTV).
- Bản tin kinh tế tài chính 24H (HTV9)
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu chung về các chƣơng trình tuyên truyền

về TTCK trên truyền hình từ năm 2006 và tập trung khảo sát sâu vào một số
chƣơng trình cụ thể (trên cách kênh VTV1, VTC, InfoTV, HanoiTV và HTV9)
từ tháng 7/2007 và đặc biệt từ quý III/2009 (tháng 8,9,10) đến nay.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về lý luận: Đề tài đặt nhiệm vụ và nghiên cứu cơ sở lý luận cho việc tuyên
truyền về TTCK nhƣ nghiên cứu tâm lý đối tƣợng tuyên truyền, cách phân loại
thông tin trên thị trƣờng tài chính và rút ra những yêu cầu về chất lƣợng khi


tuyên truyền về TTCK trên truyền hình. Kết quả nghiên cứu của đề tài là đóng
góp những cơ sở lý thuyết chung nhất vào hoạt động tuyên truyền về TTCK trên
truyền hình.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là đóng góp tích cực,
đem lại cái nhìn toàn cảnh về những chƣơng trình truyền hình về TTCK hiện
nay trên các kênh khảo sát tiêu biểu đã đƣợc chọn lọc đại diện cho hầu hết việc
tuyên truyền về TTCK trên truyền hình.
Từ những kết luận cụ thể đề tài đƣa ra những kiến nghị để nâng cao hiệu
quả thông tin tuyên truyền về một lĩnh vực đặc thù nhƣ TTCK trên truyền hình
cho các đối tƣợng (đối tƣợng đƣợc tuyên truyền (các doanh nghiệp); cơ quan
quản lý thị trƣờng và bản thân những ngƣời làm chƣơng trình).
6. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài dựa trên phƣơng pháp tiếp cận hệ thống nguyên lý tuyên truyền của
Đảng. Xuất phát từ phân tích và tổng hợp hoạt động thực tiễn rút ra những vấn đề
mang tính quy luật cho nên đề tài sử dụng phƣơng pháp phân tích tổng hợp và
logic. Phƣơng pháp khái quát hoá cũng đƣợc sử dụng để hỗ trợ.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu,kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn đƣợc
kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tuyên truyền TTCK trên truyền hình
Chương 2: Thực trạng tuyên truyền về TTCK trên truyền hình

Chương 3: Giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả tuyên truyền về thị
trƣờng chứng khoán trên truyền hình.


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN TTCK TRÊN
TRUYỀN HÌNH

1.1. Một số vấn đề về thông tin, tuyên truyền
1.1.1. Khái niệm tuyên truyền
Theo Plêkhanốp thì Tuyên truyền là truyển bá ý kiến nhiều ngƣời cho ít
ngƣời).
Theo PGS.TS Tạ Ngọc Tấn, Tuyên truyền là hoạt động nhằm truyền bá
trong quần chúng nhân dân những tƣ tƣởng nền tảng, những quan điểm chính
yếu của hệ tƣ tƣởng của chế độ, nhằm hình thành một bức tranh đặc trƣng về thế
giới về lịch sử vận động của xã hội.
Ở nghĩa rộng, tuyên truyền đƣợc hiểu là toàn bộ các hình thức hoạt động của
công tác tƣ tƣởng, vận động quần chúng nhân dân. Ở một nghĩa hẹp hơn “Tất cả
các hoạt động nhằm truyền bá một tri thức, một ý niệm cụ thể nào đó”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: Đế quốc Mỹ không những chiến
tranh xâm lƣợc bằng quan dự, chúng còn chiến tranh bằng tuyên truyền, rằng
Tuyên truyền là một thứ vũ khí sắc bén cho địch chống lại ta. Chính vì vậy Hồ
Chủ tịch yêu cầu: Chúng ta phải đánh thắng địch về tuyên truyền cũng nhƣ Bộ
đội ta đánh thắng địch về mặt quân sự.


Trong tác phẩm “Làm gì”, Lê Nin đã đƣa ra một hình dung rõ ràng về nội
dung khái niệm tuyên truyền “ Ngƣời tuyên truyền phải nói nhiều ý, mang đến
cho công chúng những tri thức sâu sắc có tính bản chất. Trên cơ ở đó tác động
vào thế giới quan của con ngƣời, vào quá trình hình thành những quan niệm

niềm tin và ý chí của mỗi thành viên trong xã hội”. Ngƣời đã yêu cầu: Tờ báo là
ngƣời tuyên truyền, cổ động và tổ chức tập thể”.
Hoạt động tuyên truyền của báo chí chúng ta có nhiệm vụ truyền bá, giải
thích cho toàn xã hội những quan điểm đƣờng lối, chính sách quyết định cả
Đảng, Nhà nƣớc ta, là sự vận dụng sáng tạo, cụ thể học thuyết Mác-Lê Nin viết
vào việc xác định đƣờng hƣớng, vận dụng và giải quyết các nhiệm vụ cách
mạng việt Nam. Nội dung tuyên truyền hệ tƣ tƣởng Mác-Lê Nin và tuyên truyền
đƣờng lối chính sách của Đảng, Nhà nƣớc, hòa quyện đan xen làm tiền đề cho
nhau.
Yêu cầu đặt ra đối với việc tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc là phân tích lý giải các cơ sở khoa học, thực tiễn một cách thuyết
phục, hƣớng dẫn các khả năng thực hiện, làm cho quần chúng nhân dân hiểu
biết, tin tƣởng và tự giác chấp hành tạo ra các điều kiện tinh thần tƣ tƣởng cho
các cuộc vận động xã hội rộng lớn nhằm giải quyết các nhiệm vụ xây dựng và
phát triển kinh tế-xã hội. Phƣơng hƣớng quan trọng hàng đầu của hoạt động
tuyên tryền trên báo chí là hình thành các quan điểm khái quát về thời đại. Trên
cở sở phƣơng pháp luận khoa học, báo chí phân tích, đánh giá nhận định tính
chất khuynh hƣớng vận động các mâu thuẫn cơ bản của từng khu vục và thế
giới, từng lĩnh vực hoạt động và toàn bộ đời sống xã hội, mối quan hệ, tác động
giữa các quốc gia, các khu vực, các giai cấp và lực lƣợng xã hội. Bằng sự tổng
kết, đánh giá đó báo chí hình thành trong công chúng nhân dân những quan
điểm cơ bản về thời đại và thế giới thực. Đó là một tiền đề quan trọng cho việc
củng cố lý tƣởng và định hƣớng xây dựng chế độ mới. Những tri thức đó đồng
thời là điều kiện cho quần chúng xem xét, đánh gia đúng đắn các hiện tƣợng, sự
kiện đang diễn ra xung quanh và định hƣớng hoạt động của họ một cách hợp lý.
Về bản chất, hành động tuyên truyền nhằm hình thành nền tảng cho ý thức


xã hội, bộ phận duy lý của đời sống tinh thần con ngƣời. Hoạt động tuyên truyền
với nội dung chủ yếu là tập trung sự quan tâm vào dƣ luận xã hội-bộ phận linh

động dễ biến đổi nhất của ý thức xã hội.
1.1.2. Khái niệm thông tin
Theo Philipppe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách "Bùng nổ truyền
thông"

1

khái niệm thông tin có hai hƣớng nghĩa: Thứ nhất là, nói về một hành

động cụ thể để tạo ra một hình thái (frome), thứ hai là, nói về sự truyền đạt một ý
tƣởng, một khái niệm hay biểu tƣợng. Hai hƣớng nghĩa này cùng tồn tại, một
nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức và truyền đạt. Nó
thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức.
Theo quan điểm của triết học, thông tin là một hiện tƣợng vốn có của vật
chất, là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất. Nội dung của thông tin
chính là những thuộc tính, tính chất vốn có của sự vật với các sự vật hiện tƣợng
đƣợc bộc lộ ra, thể hiện thông qua tác động qua lại của sự vật ấy với sự vật
khác. Thông tin luôn gắn với quá trình phản ánh. Những dấu ấn để lại chính là
những thông tin của hệ thống vật chất này đối với hệ thống vật chất khác. Phản
ánh của vật chất là phản ánh thông tin, không có thông tin chung chung mà
thông tin là thông tin về sự vật này đối với sự vật khác.
Theo Từ điển tiếng Việt thì thông tin với nghĩa là động từ là truyền tin cho
nhau để biết; và với nghĩa danh từ là điều được truyền đi cho biết, tin truyền đi
(ví dụ bài báo có lƣợng thông tin cao) 2
Nhƣ vậy, thông tin đƣợc hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội
dung thông tin; Thứ hai, đó là phương tiện thông báo, báo tin.
Cách hiểu này phù hợp với khái niệm thông tin nêu trong phần mở đầu
“Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010” ban hành kèm theo Quyết định
số 219/2005/QĐ - TTg ngày 9/9/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ: "Thông tin
được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, là công cụ để điều

hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng
1

Philipppe Breton, Serge Proulx (1996), Bùng nổ truyền thông, Nxb. Văn hoá - Thôngtin, Hà Nội.

2

NXB Đà Nẵng (2002), Trung tâm Từ điển học.


giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là nguồn cung cấp tri thức mọi
mặt cho công chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội".
Đặc biệt, Chiến lược phát triển thông tin đã nêu lên một luận điểm quan
trọng về vai trò của thông tin trong đời sống xã hội: Sự chênh lệch về trình độ
phát triển thông tin giữa các nƣớc là một đặc điểm về quy mô và trình độ phát
triển trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ. Nƣớc nào không vƣợt qua
đƣợc những thách thức về thông tin, nƣớc đó mất cơ hội phát triển và có nguy
cơ mất khả năng tự chủ. Thiếu thông tin, sẽ gặp khó khăn trong việc đƣa ra các
quyết định hoặc các quyết định sẽ bị sai lệch, thiếu cơ sở khoa học, không thực
tiễn và trở nên kém hiệu quả.
Thông tin báo chí
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một
hiện tƣợng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức của
con ngƣời. Thông tin là một hiện tƣợng vốn có của thế giới vật chất. Theo các
nhà nghiên cứu, lần đầu tiên thông tin đƣợc con ngƣời chú ý về mặt ý nghĩa xã
hội của nó và đƣợc đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những năm 20 - 30
của thế kỷ XX. Và từ đây, "Thông tin chính là những cái mới khác với những
điều đã biết" 3
Thông tin là chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng phƣơng
tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo. Thực hiện chức

năng thông tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự kiện
của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã
hội.
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lƣợng thông tin, báo chí có cách
riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp xã
hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó đã
khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và năng
động nhất mà không một hình thái ý thức xã hội nào có đƣợc.

3

Lê Thị Duy Hoa (1999), Tạp chí Triết học, số 01 (107), tháng 2/1999.


Nhƣ vậy, thông tin báo chí cũng đƣợc hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tƣ tƣởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực
cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng trong tự nhiên và xã hội đƣợc
báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con ngƣời.
Thứ hai, đó là phƣơng tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới công chúng.
Trong hoạt động báo chí, thông tin là mục đích chủ yếu. Thông tin trở
thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn cứ việc phân loại theo phƣơng
thức thể hiện, ngƣời ta chia thông tin báo chí thành các loại hình: Thông tin
bằng chủ yếu chữ viết (báo in); thông tin chủ yếu bằng tiếng nói (phát thanh);
thông tin chủ yếu bằng hình ảnh (truyền hình); thông tin trên mạng internet (đa
phƣơng tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ "thông tin" có nhiều dạng khác nhau: có
khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi là một
chƣơng trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác phẩm
trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ
trên các tờ báo... đều chứa đựng thông tin.

Thuật ngữ "Thông tin" trong hoạt động báo chí còn có có cách hiểu rộng
hơn, chúng còn đƣợc hiểu nhƣ một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ
tác phẩm, hay hệ thống những tin tức... là thông tin.
Đảng và Nhà nƣớc ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò của thông
tin. Đây không chỉ là phƣơng tiện cung cấp thông tin, cung cấp tri thức, là một
trong những công cụ giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành đất nƣớc mà còn là
nơi để phản hồi những thông tin từ nhân dân đối với đƣờng lối, chủ trƣơng,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, góp phần quan trọng thực hiện
dân chủ hoá trong đời sống xã hội. Thông tin thực sự là công cụ cung cấp tri
thức, dự báo sự phát triển đồng thời cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển. Đời
sống nhân dân đƣợc cải thiện, trình độ dân trí ngày càng đƣợc nâng cao nên nhu
cầu thông tin của nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn.
1.1.3 Tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin, tuyên truyền của báo chí
Chất lƣợng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con ngƣời, một sự vật.


Chất lƣợng theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, là hai mặt có mối quan
hệ biện chứng của mỗi sự vật, hiện tƣợng. Chất là tính quy định vốn có của các
sự vật và hiện tƣợng, là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính, những yếu tố
cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự vật và hiện
tƣợng khác. Lƣợng là tính quy định của sự vật và hiện tƣợng về mặt quy mô,
trình độ phát triển của nó, biểu thị con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành
nó. Quá trình thay đổi về lƣợng tạo điều kiện cho chất đổi và ngƣợc lại, khi chất
mới ra đời, nó lại tạo ra một lƣợng mới phù hợp với nó. Quy luật những thay đổi
về lƣợng dẫn đến những thay đổi về chất và ngƣợc lại là một trong ba quy luật
cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này nói lên cách thức của sự vận
động và phát triển của sự vật và hiện tƣợng.
Trong hoạt động báo chí, nhận thức về chất lƣợng thông tin song song với
nhận thức về chức năng và đối tƣợng phản ánh của báo chí. Muốn có nhận thức
đúng đắn về thông tin, cần xác định đƣợc mục đích hoạt động của báo chí, đồng

thời phải nêu lên định hƣớng có tính nguyên tắc cho những hoạt động thực tiễn
của một nền báo chí. Sự định hƣớng rõ ràng sẽ trang bị cho nhà báo phƣơng
pháp thông tin và biết cách vận dụng thông tin có hiệu quả để thực hiện chức
năng của báo chí.
Một hƣớng quan trọng trong cách tiếp cận thông tin báo chí là mỗi chƣơng
trình, mỗi tác phẩm phải đƣợc xem xét kỹ lƣỡng trong hệ thống những mối quan
hệ giữa báo chí và công chúng. Tác phẩm báo chí là điểm trung gian trong mối
quan hệ: Nhà báo - Tác phẩm - Công chúng. Tác phẩm báo chí khi đƣợc đăng
tải, phát sóng, mới chỉ dừng lại ở thông tin tiềm năng, vì thông tin đó chƣa chắc
đã đƣợc công chúng tiếp nhận. Ngƣời làm báo phải tìm mọi cách biến thông tin
tiềm năng thành thông tin hiện thực. Tính chất thực tiễn của thông tin là tiêu
chuẩn để đánh giá giá trị của thông tin cao hay thấp, tức là có mang đến cho
công chúng những thông tin phù hợp với nhu cầu của họ không và có khả năng
chuyển thông tin tiềm năng thành thông tin hiện thực không.
Lý luận báo chí truyền thông đã chỉ ra các tiêu chí đánh giá chất lƣợng
thông tin, cũng nhƣ khả năng tuyên truyền đó là tính độc đáo, tính đại chúng và


tính hợp thời (đúng lúc).
- Tính độc đáo của thông tin, là cái mới mà công chúng chƣa biết. Nhƣng
cái mới không phải là cái duy nhất thể hiện tính độc đáo. Cùng với sự đòi hỏi tất
yếu của cái mới, có thể tái hiện thông tin cũ đã bị lãng quên, giúp cho công
chúng có thêm tƣ liệu để nhận thức tốt hơn sự kiện mới. Tuy nhiên, những thông
tin đƣợc nhắc lại sẽ vô bổ, thậm chí có hại khi cái mới, cái độc đáo bị chìm đi
trong một loạt cái cũ; khi cái cũ không đóng vai trò bổ sung mà lại cản trở việc
nhận thức cái mới.
- Tính đại chúng (dễ hiểu) giúp cho công chúng nhận thức nội dung tác
phẩm tƣơng ứng với ý đồ tác giả, đòi hỏi ngôn ngữ của báo chí (chữ viết, lời
nói, hình ảnh…) và cách viết, cách thể hiện... phải đƣợc công chúng nhận thức
đầy đủ. Nếu không thực hiện đƣợc nguyên tắc này sẽ dẫn đến tình trạng là công

chúng không hiểu đƣợc tác phẩm.
- Tính hợp thời (đúng lúc) đòi hỏi tác phẩm báo chí xuất hiện đúng lúc, đáp
ứng đƣợc nhu cầu của công chúng và sự quan tâm của họ trong thời điểm đó thì
tác phẩm sẽ có giá trị hơn, tạo sự hứng thú, hấp dẫn công chúng. Lƣợng thông
tin còn phụ thuộc vào tính thời điểm của nó. Trong thời đại ngày nay, lƣợng
thông tin phụ thuộc một cách quyết định vào tính kịp thời, đúng lúc, nhanh
nhạy. Báo chí làm đƣợc những điều trên sẽ làm tăng giá trị của thông tin, nếu
thông tin chậm, hiệu quả sẽ ngƣợc lại và lƣợng của nó sẽ bằng không.
Tiêu chí đánh giá tác phẩm báo chí chất lƣợng cao đã đƣợc các cơ quan
quản lý nhà nƣớc quy định cụ thể, đó là: "Những tác phẩm mang lại hiệu quả
thiết thực cho toàn xã hội hoặc một vùng miền, địa phương; có nhiều tìm tòi,
phát hiện những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày; có nội dung
phù hợp, hấp dẫn người đọc, người nghe, người xem; phù hợp với quan điểm
chỉ đạo, tuyên truyền, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước". 4
Cơ sở lý luận báo chí truyền thông cũng chỉ ra rằng, tác phẩm báo chí là

4

Thông tƣ số 17/2007/TTLT/BVHTT - BTC ngày 14/6/2007 của Liên bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Tài chính
hƣớng dẫn thực hiện hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lƣợng cao ở Trung ƣơng và địa phƣơng giai đoạn 2006 - 2010.


một chỉnh thể, bao gồm hai yếu tố nội dung và hình thức. Hai yếu tố này có mối
quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ, chi phối lẫn nhau tạo nên chất lƣợng tác
phẩm báo chí. Tác phẩm báo chí còn đƣợc hiểu rộng hơn, đó là cả trang báo, số
báo, tờ báo, chuyên mục, chƣơng trình phát thanh, truyền hình... Do đó tiêu chí
đánh giá chất lƣợng thông tin báo chí phải coi trọng cả hai yếu tố nội dung và
hình thức thông tin.
Hoạt động báo chí là hoạt động có ý thức và mục đích của con ngƣời, bởi

vậy yêu cầu về tính hiệu quả báo chí phải đƣợc đặt lên hàng đầu. Hiệu quả báo
chí là việc vận dụng các quy luật, các nguyên tắc, hình thức, phƣơng thức hoạt
động báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm đạt
mục đích đặt ra. Để báo chí hoạt động hiệu quả, trƣớc hết nội dung thông tin phải
phong phú, mang lại cho công chúng một lƣợng thông tin mới, phản ánh đúng, kịp
thời, đi vào những vấn đề thiết thực nhất mà công chúng đang quan tâm hoặc đang
thiếu thông tin, phải thỏa mãn nhu cầu mỹ cảm, tác động sâu sắc đến tình cảm và
suy nghĩ của đối tƣợng. Về hình thức, thông tin báo chí phải đƣợc chuyển tải bằng
các hình thức tác phẩm và phƣơng pháp thể hiện thuyết phục, dễ hiểu. Nó không
chỉ làm cho công chúng thích thú mà còn khơi gợi đƣợc sự suy nghĩ theo hƣớng
đúng và thúc đẩy hành động tích cực của họ.. .
1.2. TTCK và phân loại thông tin về TTCK
1.2.1 Lịch sử ra đời TTCK
TTCK đƣợc xem là đặc trƣng cơ bản, là biểu tƣợng của nền kinh tế hiện
đại. Ngƣời ta có thể đo lƣờng và dự tính sự phát triển kinh tế qua diển biến trên
TTCK.
Là một bộ phận cấu thành của thị trƣờng tài chính, TTCK đƣơc hiểu một
cách chung nhất, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán ,trao đổi các chứng khoán
- các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc mua bán trao
đổi này đƣợc thƣc hiện theo những quy tắc nhất định .
TTCK không phải ngay từ đầu đã có những giao dịch toàn cầu phức tạp
nhƣ hiện nay.


Cho đến năm 1531, định chế đầu tiên hao hao nhƣ một sở giao dịch mới ra
đời tại Antwerp, Bỉ. Tuy vậy, ở TTCK đầu tiên này không hề có cổ phiếu.
Thay vì mua bán cổ phiếu công ty (những thứ khi ấy còn chƣa tồn tại),
ngƣời môi giới và cho vay tập trung lại đây để giao dịch các món nợ của công
ty, chính phủ và thậm chí cả cá nhân.
Mọi chuyện thay đổi vào những năm 1600, khi cả Anh, Pháp và Hà Lan

đều cử hạm đội đến Đông Ấn. Do ít nhà thám hiểm trang trải đủ cho một chuyến
hải thƣơng, các công ty trách nhiệm hữu hạn đƣợc thành lập để huy động tiền từ
nhà đầu tƣ, những ngƣời này sẽ đƣợc chia lợi nhuận đoàn tƣơng ứng với phần
vốn góp.
Hình thức tổ chức kinh doanh này cũng đòi hỏi phải đƣợc quản lý rủi ro.
Theo báo Imperial Gazetteer của Ấn Độ, các chuyến hải hành đầu tiên của
Anh đến Ấn Độ Dƣơng không thành công, tàu đắm còn tài sản cá nhân của
những ngƣời đi huy động vốn bị chủ nợ tịch thu.
Điều đó khiến một nhóm thƣơng nhân London lập nên một công ty vào
tháng 9/1599, giới hạn trách nhiệm của mỗi thành viên theo số tiền họ đầu tƣ.
Nếu chuyến hải hành thất bại, luật pháp chỉ có thể tịch biên số tiền trên.
Nữ hoàng Anh cho phép nhóm thƣơng nhân này hoạt động trong vòng 15
năm, và đặt tên cho công ty là “Thống đốc và nhóm thƣơng nhân London giao
thƣơng với Đông Ấn” (hay đơn giản là “Công ty Đông Ấn”).
Hình thức trách nhiệm hữu hạn đã phát huy tác dụng tốt, cho đến năm
1609, vua James I đã cho phép nhiều công ty thƣơng nghiệp nữa hoạt động và
thúc đẩy giao thƣơng tại các quốc gia Châu Âu có bờ biển khác.
Công ty Đông Ấn Hà Lan là công ty đầu tiên cho phép ngƣời ngoài mua cổ
phiếu ghi danh theo một tỷ lệ nhất định. Họ cũng là công ty đầu tiên phát hành
cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng qua Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam
năm 1602.
Ở Việt Nam, để thực hiện đƣờng lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH
– HĐH) đất nƣớc, duy trì nhịp độ tăng trƣởng kinh tế bền vững và chuyển dịch
mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hƣớng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đòi


hỏi phải có nguồn vốn lớn cho đầu tƣ phát triển.
Vì vậy, việc xây dựng TTCK ở Việt Nam đã trở thành nhu cầu bức xúc và
cấp thiết nhằm huy động các nguồn vốn trung, dài hạn ở trong và ngoài nƣớc vào
đầu tƣ phát triển kinh tế thông qua chứng khoán nợ và chứng khoán vốn.

Thêm vào đó, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc với sự hình
thành và phát triển của TTCK sẽ tạo môi trƣờng ngày càng công khai và lành
mạnh hơn.
Ngày 10/07/1998 Thủ tƣớng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐCP về Chứng khoán và TTCK cùng với Quyết định thành lập hai (02) Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán (TTGDCK) tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Sự ra đời của TTCK Việt Nam đƣợc đánh dấu bằng việc đƣa vào vận hành
Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực
hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000.
Tại Hà Nội, thì do chƣa hội đủ các yếu tố nên mãi đến tháng 3/2005, sàn
giao dịch mới đƣợc khai trƣơng.
Về mặt khái niệm, TTCK là một thị trƣờng mà ở nơi đó ngƣời ta mua bán,
chuyển nhƣợng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, đó có
thể là TTCK tập trung hoặc phi tập trung. Tính tập trung ở đây là muốn nói đến
việc các giao dịch đƣợc tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất.
Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán (
Stock exchange). Tại Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), các giao dịch đƣợc
tập trung tại một địa điểm; các lệnh đƣợc chuyển tới sàn giao dịch và tham gia
vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch.
TTCK phi tập trung còn gọi là thị trƣờng OTC (over the counter). Trên thị
trƣờng OTC, các giao dịch đƣợc tiến hành qua mạng lƣới các công ty chứng
khoán phân tán trên khắp quốc gia và đƣợc nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá
trên thị trƣờng này đƣợc hình thành theo phƣơng thức thoả thuận.
1.2.2 Chức năng TTCK đối với nền kinh tế
Huy động vốn đầu tƣ cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tƣ mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền


nhàn rỗi của họ đƣợc đƣa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp
phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở
các địa phƣơng cũng huy động đƣợc các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và

đầu tƣ phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
Cung cấp môi trƣờng đầu tƣ cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trƣờng đầu tƣ lành mạnh với các
cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trƣờng rất khác nhau
về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tƣ có thể lựa chọn loại
hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK các nhà đầu tƣ có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở
hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng
thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với
ngƣời đầu tƣ. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tƣ.
TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các
chứng khoán giao dịch trên thị trƣờng càng cao.
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp đƣợc phản ánh
một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động
của doanh nghiệp đƣợc nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi
trƣờng cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích
áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Tạo môi trƣờng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy
bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tƣ đang mở rộng,
nền kinh tế tăng trƣởng; ngƣợc lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu
hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK đƣợc gọi là phong vũ biểu của nền
kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách
kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính
phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài
ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào



TTCK nhằm định hƣớng đầu tƣ đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh
tế.
Với những chức năng nhƣ vậy, qua 9 năm hoạt động, TTCK đóng góp vai
trò quan trọng đối với nền kinh tế. Báo chí là công cụ “tuyên truyền tập thể, cổ
động tập thể và tổ chức tập thể” đã chọn TTCK làm đối tƣợng để tuyên truyền.
1.2.3 Phân loại thông tin trên TTCK
Thị trƣờng tài chính thành ba bộ phận: Thứ nhất, thị trƣờng vốn: nhằm huy
động vốn dài hạn mà chủ yếu là thông qua TTCK; Thứ hai, thị trƣờng tiền tệ: thị
trƣờng vốn ngắn hạn; Thứ ba, thị trƣờng hối đoái.
Hiện nay, tuyên truyền về TTCK thƣờng đƣợc các nhà làm truyền hình
lồng ghép trong hệ thống thông tin về thị trƣờng tài chính. Lý do của việc này
có thể do sự khó phân định rạch ròi về các thị trƣờng vì có sự tác động qua lại
và tƣơng hỗ lẫn nhau.
Theo khảo sát và kinh nghiệm từ các chuyên gia từ Dow Jones Thông tin
kinh tế chia làm 3 loại: Tin tài nguyên, tin chứng khoán và tin tiền.
Tin tài nguyên (tin hàng hóa): Bao gồm tin tài nguyên thiên nhiên, nhiên
liệu khoáng sản, đất đai; và hƣởng lợi từ điều kiện tự nhiên (lúa gạo, nông sản,
cao su….)
Tin chứng khoán: Tin liên quan đến doanh nghiệp, hoạt động của doanh
nghiệp cổ phần, tin kinh tế vĩ mô, xuất nhập khẩu…chính sách ảnh hƣởng đến
doanh nghiệp, huy động vốn của doanh nghiệp…
Các loại tin còn lại không thuộc 2 nhóm trên đƣợc gọi là tin tiền: tin đầu tƣ
cơ sở hạ tầng, công du, điều tiết giá cả, tin bão lụt…
Trong hệ thống này tin tài nguyên đƣợc xem là tin quan trọng nhất. Tuy
nhiên mức độ ảnh hƣởng, khả năng phản ứng của thị trƣờng là chậm. Tin chứng
khoán là tin có mức độ ảnh hƣởng, phản ứng tức thời nhanh nhất.
Trƣớc đây nhóm tin tài nguyên dƣờng nhƣ ít đƣợc ai quan tâm ( kể cả
những nhà đầu tƣ tham gia trong các tổ chức, định chế tài chính), nó chỉ phục vụ
doanh nghiệp tham gia khai thác tài nguyên là chính. Tuy nhiên từ sau khủng
hoảng, và sự nỗ lực của các tổ chức, giới đầu tƣ chú ý nhiều hơn loại tin này và

nó sức ảnh hƣởng khá mạnh đến TTCK Việt Nam.


Về tin tiền nhƣ chuyến công du của các quan chức đƣợc báo chí, truyền
hình đƣa tin trong các chƣơng trình thời sự. Thực tế cần nhìn sâu hơn ở những
thông tin này để phân tích tìm ra lợi ích đạt đƣợc.
Những thông tin nhƣ bão lụt, thiên tai, tƣởng chừng nhƣ tin xã hội tuy
nhiên đây cũng là tin kinh tế nếu chúng ta khai thác ở gốc độ tài chính. Ví dụ:
Hạn hán, nhà máy thủy điện không thể phát điện, gây thiệt hại và tài chính cho
doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp tham gia trên TTCK – giá chứng khoán sẽ
phản ánh ảnh hƣởng này có thể ngay lập tức ( khi nhà đầu tƣ hiểu rõ) hoặc khi
có BCTC niên độ (sau một thời gian) do đó bị lãng quên.
Cách chia thông tin này là cơ sở cho những ngƣời làm truyền hình về
TTCK có những nhận thức rõ ràng và khu biệt thông tin về TTCK để phục vụ
mục đích tuyên truyền. Ngoài ra, để hiểu thị trƣờng tài chính và thông tin các
loại có thể tƣơng tác qua lại với nhau và đặt chúng trong mối quan hệ phù hợp
để tuyên truyền.
1.3. Yêu cầu về việc tuyên truyền TTCK trên truyền hình
1.3.1 Đối tượng tuyên truyền về thị trường chứng khoán trên truyền hình
Trƣớc khi bàn về tuyên truyền về TTCK thì cần khẳng định rõ, đối tƣợng
tuyên truyền về TTCK trên các loại phƣơng tiện truyền thông đại chúng là công
chúng của nó (với truyền hình là khán giả truyền hình), cụ thể xác định là các
nhà đầu tƣ trên thị trƣờng, các chủ doanh nghiệp và cả các cơ quan quản lý thị
trƣờng.
Riêng với các nhà đầu tƣ, một đòi hỏi của thị trƣờng là các nhà đầu tƣ phải
có một trình độ văn hóa, tƣ duy, cũng nhƣ một đầu óc phán đoán nhạy bén với
các “thông số” trên thị trƣờng. Nhƣng ít ai biết đƣợc “văn hóa truyền thống” dân
tộc, đã ảnh hƣởng không nhỏ đến tâm lý và khả năng “làm kinh tế” của họ. Các
nhà đầu tƣ đã vô tình “ứng dụng”các đặc trƣng văn hóa “nông nghiệp-làng xã”
vào hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó, đã hình thành cái văn hóa mà các

chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh,hình thành nên những kiểu


×