i
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn
Vũ Đình Giang
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Chương trình đào tạo sau Đại học của Trường Đại học
Lâm nghiệp Việt nam, tôi thực hiện đề tài “Đánh giá một số tác động chủ
yếu của chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng ở huyện Tam Đường,
tỉnh Lai Châu (giai đoạn 2012-2015)”
Có được kết quả ngày hôm nay, tôi vô cùng biết ơn công sinh thành,
dưỡng dục của cha, mẹ, ơn dạy dỗ truyền đạt kiến thức chuyên môn của thầy,
cô Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, sự quan tâm, động viên khích lễ
của gia đình, người thân, bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Bùi Thế ĐồiNgười thầy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và truyền đạt những kiến thức quý
báu giúp tôi hoàn thiện Luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, khoa
đào tạo sau Đại học đã giúp đỡ nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được
thực hiện và hoàn thành Luận văn Thạc sỹ khoa học lâm nghiệp theo Chương
trình đào tạo Sau đại học.
Cảm ơn sự giúp đỡ của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh
Lai Châu, Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Tam Đường, Lãnh đạo UBND
các xã, các hộ gia đình trong khu vực nghiên cứu, bạn bè đồng nghiệp đã giúp
đỡ, cung cấp cho tôi những tài liệu, số liệu quý giá để hoàn thành luận văn.
Bản thân tôi tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn đề tài không thể
tránh khỏi những thiếu sót về nội dung, phương pháp và hình thức trình bày.
Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và bạn bè
đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Lai Châu, ngày
tháng 4 năm 2016
Tác giả
Vũ Đình Giang
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ ii
MỤC LỤC .................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................ vi
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1
Chương I. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...................................... 4
1.1. Những khái niệm về chi trả DVMTR................................................... 4
1.2. Chi trả Dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) trên thế giới .................... 4
1.2.1. Các hoạt động chi trả DVMTR ở Châu Mỹ................................... 6
1.2.2. Hoạt động chi trả DVMTR ở Châu Âu ......................................... 9
1.2.3. Hoạt động chi trả DVMTR ở Châu Á. ........................................ 10
1.2.4. Xu hướng mới trong phát triển DVMTR. .................................... 11
1.3. Tổng quan về chi trả DVMTR ở Việt Nam ........................................ 14
1.3.1. Cơ sở hình thành chỉ trả DVMTR ............................................... 14
1.3.2. Chính sách chi trả DVMTR ........................................................ 17
1.3.3. Một số nghiên cứu điểm về Chi trả DVMTR ở Việt Nam ........... 19
1.3.4. Vai trò hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế trong việc xây dựng
và thực hiện chính sách chi trả DVMTR ở Việt Nam ........................... 21
1.3.5. Cơ sở khoa học và thực tiễn của chính sách chi trả DVMTR. ..... 22
1.4. Kết luận rút ra phục vụ cho nghiên cứu Luận văn .................................. 23
Chương 2. MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..... 24
2.1. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................... 24
2.2. Đối tượng nghiên cứu: ....................................................................... 24
2.3. Phạm vi nghiên cứu. .......................................................................... 24
iv
2.4. Nội dung nghiên cứu ......................................................................... 24
2.4.1. Tình hình giao đất, giao rừng phục vụ thực hiện chính sách chi trả
DVMTR ở huyện Tam Đường. ............................................................. 24
2.4.2. Kết quả thực hiện chi trả dịch vụ môi trương rừng ở huyện Tam
Đường. ................................................................................................. 24
2.4.3. Một số tác động của chính sách chi trả DVMTR......................... 24
2.4.4. Đề xuất một số giải pháp trong thực hiện chính sách chi trả
DVMTR ............................................................................................... 25
2.5. Phương pháp nghiên cứu: .................................................................. 25
2.5.1. Quan điểm và phương pháp luận................................................. 25
2.5.2. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu: ................................... 27
2.5.3. Phương pháp xử lý số liệu........................................................... 27
2.6. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu ...................... 27
2.6.1. Điều kiện tự nhiên ...................................................................... 27
2.6.2. Về điều kiện kinh tế xã hội ......................................................... 29
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................... 31
3.1. Kết quả rà soát giao đất, giao rừng làm cơ sở để triển khai thực hiện
chính sách chi trả DVMTR. ...................................................................... 31
3.2. Quy trình thực hiện việc chi trả DVMTR tại huyện Tam Đường ....... 33
3.3. Xác định các nội dung (điều kiện) thực hiện chi trả DVMTR ............ 36
3.3.1. Đối tượng chi trả và mức chi trả DVMTR .................................. 36
3.3.2. Vai trò, nhiệm vụ của các bên tham gia trong việc thực hiện chính
sách chi trả DVMRT ............................................................................ 40
3.3.3. Vai trò trách nhiệm của các bên trung gian trong việc thực hiện
chính sách chi trả DVMTR ................................................................... 43
3.4. Kết quả thực hiện công tác chi trả DVMTR từ 2012-2015 ................. 45
3.4.1. Kết quả thực hiện thu tiền DVMTR ............................................ 45
v
3.4.2. Kết quả chi trả cho các đối tượng nhận khoán ............................. 46
3.5. Đánh giá đánh giá một số tác động của chính sách chi trả dịch vụ môi
trường....................................................................................................... 49
3.5.1. Tác động tích cực đến công tác bảo vệ và phát triển rừng, nâng cao
độ che phủ rừng .................................................................................... 49
3.5.2. Tác động của chính sách đến cải thiện sinh kế đối với bên nhận
khoán bảo vệ rừng ................................................................................ 52
3.5.3. Tác động của chính sách đến về môi trường; .............................. 53
3.5.4.Thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện chính sách chi trả
DVMTR. .............................................................................................. 55
3.6. Đề xuất một số giải pháp trong thực hiện chính sách chi trả DVMTR.
................................................................................................................. 60
3.6.1. Công tác tuyên truyền ................................................................. 60
3.6.2 Công tác chỉ đạo, điều hành ......................................................... 61
3.6.3. Cơ chế chính sách ....................................................................... 61
3.6.5. Công tác kiểm tra giám sát.......................................................... 63
3.6.6. Về phòng cháy, chữa cháy rừng .................................................. 63
3.6.7. Về phòng trừ sâu bệnh hại .......................................................... 64
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT
Nội dung
Trang
3.1 Kết quả rà soát giao rừng ở 14 xã để chi trả DVMTR
32
3.2 Các đối tượng được chi trả dịch vụ môi trường rừng
39
3.3 Tiền của các bên sử dụng DVMTR chi trả qua các năm
46
3.4 Kết quả chi trả tiền DVMTR qua các năm
48
3.5 Kết quả về công các quản lý và bảo vệ rừng
51
3.6 Thu nhập bình quân các hộ tham gia nhận khoán bảo vệ rừng
53
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là bộ phận không thể thay thế được của môi trường sinh thái;
rừng giữ vai trò cực kỳ quan trọng đối với đời sống con người. Ngoài việc
cung cấp gỗ, củi và các lâm sản khác, rừng có vai trò to lớn trong việc phòng
hộ, duy trì môi trường sống như điều hòa khí hậu, điều tiết nguồn nước, hạn
chế xói mòn, rửa trôi và hạn chế bão lụt, hấp thụ các bon, duy trì và bảo tồn
đa dạng sinh học… các chức năng này của rừng được hiểu là các giá trị môi
trường rừng.
Nhiều năm trước đây việc xem xét vai trò và giá trị của rừng mới chỉ
quan tâm đến giá trị sử dụng trực tiếp như cung cấp gỗ, củi và các lâm sản
khác… mà rừng tạo ra, còn giá trị gián tiếp (giá trị môi trường) mà rừng tạo ra
cho con người và cả xã hội chưa được chú trọng. Hiện nay xu thế tiếp cận của
thế giới đó là vai trò và giá trị của rừng phải được nhìn nhận một cách đầy đủ
hơn; mối quan hệ kinh tế giữa người bảo vệ, phát triển rừng và người sử dụng
các giá trị môi trường rừng được thiết lập. Điều đó có nghĩa là: “Người hưởng
lợi từ các dịch vụ của rừng đem lại cần có trách nhiệm phải trả tiền cho
người trực tiếp tham gia bảo vệ và phát triển rừng” nhằm tạo ra sự công
bằng, duy trì phát triển một cách bền vững nguồn tài nguyên rừng.
Ở Việt Nam, trong hai thập niên qua, ngành lâm nghiệp đã chứng kiến
những thay đổi đáng kể về chính sách và thực tiễn liên quan đến vấn đề này.
Từ mô hình quản lý rừng tập trung, với mục tiêu trọng tâm là khai thác tài
nguyên, đã chuyển đổi thành mô hình lâm nghiệp xã hội hoá, tập trung vào
bảo vệ môi trường, phát triển xã hội và thúc đẩy các doanh nghiệp lâm nghiệp
địa phương. Những thay đổi này thể hiện phản ứng của ngành lâm nghiệp
trước suy thoái tài nguyên rừng và sự kém hiệu quả của hệ thống quản lý rừng
tập trung. Chi phí cho hoạt động bảo tồn rừng là một gánh nặng tài chính đối
2
với Chính phủ. Trong những chương trình 327 hoặc 661 (Trồng mới 5 triệu
ha rừng), mặc dầu những kết quả về cải thiện vụ môi trường (DVMT) rừng đã
đem lại lợi ích cho nhiều người dân và doanh nghiệp ở vùng thượng nguồn và
vùng hạ nguồn, xong kinh phí cho bảo tồn và phát triển xã hội phần lớn lại là
do ngân sách Nhà nước gánh chịu.
Nhằm bảo tồn và phát triển rừng bền vững, tháng 4 năm 2008 Chính
phủ đã ban hành Quyết định 380/QĐ-TTg về chính sách thí điểm chi trả
DVMTR với mục tiêu nhằm tạo cơ sở cho việc xây dựng khung pháp lý về
chính sách chi trả DVMTR áp dụng trên phạm vi cả nước theo hướng xác
định rõ lợi ích, quyền hạn và nghĩa vụ của các đối tượng được chi trả và phải
chi trả DVMTR, thực hiện xã hội hoá nghề rừng, từng bước tạo lập cơ sở kinh
tế bền vững cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ môi trường và
các hệ sinh thái, nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ, đặc biệt là bảo
đảm nguồn nước cho sản xuất điện, nước và các hoạt động kinh doanh du
lịch. Sau 02 năm thực hiện và đánh giá kết quả của việc thực hiện thành công
chính sách chi trả DVMTR ở Lâm Đồng và Sơn La, Chính phủ đã phê duyệt
Nghị định số 99/2010/NĐ-CP về “Chính sách chi trả DVMTR” và có hiệu lực
từ ngày 01/11/2011. Nghị định này là khung pháp lý về chính sách chi trả
DVMTR áp dụng trên phạm vi toàn quốc.
Tam Đường là huyện vùng cao nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Lai
Châu, có diện tích tự nhiên là 68.737 ha; độ che phủ rừng đạt 45%, trong đó
diện tích đất có rừng là trên 29.150 ha, diện tích rừng khoanh nuôi tái sinh
trên 8.420 ha. Thực hiện chi trả DVMTR được huyện triển khai từ năm 2012,
bên cạnh một số khó khăn gặp phải, đến nay về cơ bản, chính sách này đã có
những thành công nhất định, đặc biệt là việc thay đổi nhận thức, nâng cao
trách nhiệm của các bên liên quan trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển
rừng, được xã hội đồng tình hưởng ứng. Để thấy rõ hơn những thành công và
3
phân tích những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của chương trình này,
nhất thiết phải có những đánh giá về mặt khoa học cũng như thực tiễn, nhằm
rút ra những bài học kinh nghiệm, cách làm phù hợp hơn với địa phương để
triển khai tốt hơn hoạt động này tại địa phương. Xuất phát từ thực tiễn và lý
luận trên, tôi thực hiện đề tài “Đánh giá một số tác động chủ yếu của chính
sách chi trả DVMTR ở huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu giai đoạn 20122015”.
4
Chương I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những khái niệm về chi trả DVMTR
Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (Payment for Ecosystem Services), viết tắt là
PES được xem là cơ chế nhằm thúc đẩy việc tạo ra và sử dụng các dịch vụ sinh
thái bằng cách kết nối người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ sinh thái.
Chi trả DVMT là một giao dịch trên cơ sở tự nguyện mà ở đó DVMT
được xác định cụ thể (hoặc hoạt động sử dụng đất để đảm bảo có được dịch
vụ này) đang được người mua (tối thiểu là một người mua) mua của người
bán (tối thiểu là một người bán) khi và chỉ khi người cung cấp DVMT đảm
bảo được việc cung cấp DVMT này” (Wunder 2005, p9).
Môi trường rừng bao gồm các hợp phần của Hệ sinh thái rừng: thực
vật, động vật, vi sinh vật, nước, đất, không khí, cảnh quan thiên nhiên. Môi
trường rừng có các giá trị sử dụng đối với nhu cầu của xã hội và con người,
gọi là giá trị sử dụng của môi trường rừng, gồm: bảo vệ đất, điều tiết nguồn
nước, phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng chống thiên tai, đa
dạng sinh học, hấp thụ và lưu giữ các-bon, du lịch, nơi cư trú và sinh sản của
các loài sinh vật, gỗ và lâm sản khác.
DVMTR là công việc cung ứng các giá trị sử dụng của môi trường rừng để
đáp ứng nhu cầu của xã hội và đời sống của nhân dân, bao gồm các loại dịch vụ
được quy định tại khoản 2, điều 4, Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ.
Chi trả DVMTR là quan hệ cung ứng và chi trả giữa bên sử dụng
DVMTR trả tiền cho bên cung ứng DVMTR (Điều 6, Nghị định 99/
2010/NĐ-CP của Chính phủ).
1.2. Chi trả Dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) trên thế giới
Chi trả DVMTR là một lĩnh vực hoàn toàn mới, trong những năm 90
của thế kỷ XX mới được các nước trên thế giới quan tâm thực hiện. Với
5
những giá trị và lợi ích bền vững của việc chi trả DVMTR đã thu hút được sự
quan tâm đáng kể của nhiều quốc gia, nhiều nhà khoa học và các nhà hoạch
định chính sách trên thế giới. Chi trả DVMTR đã nhanh chóng trở lên phổ
biến ở một số nước và được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật. Hiện nay
chi trả DVMTR được xem như một chiến lược dựa vào thị trường để quản lý
tài nguyên thiên nhiên, khuyến khích và chia sẻ các lợi ích trong cộng đồng
và xã hội.
Các nước phát triển ở Mỹ La Tinh đã áp dụng và thực hiện các mô
hình chi trả DVMTR sớm nhất. Ở Châu Âu chính phủ một số nước đã quan
tâm đầu tư và thực hiện nhiêu chương trình, mô hình DVMTR. Chi trả dịch
vụ rừng phòng hộ đầu nguồn hiện đang được thực hiện tại các quốc gia
Costa Rica, Ecuador, Bolivia, Ấn Độ, Nam Phi, Mexico và Hoa kỳ. Trong
hầu hết các trường hợp này, thực hiện tối đa hóa các dịch vụ rừng phòng hộ
đầu nguồn thông qua các hệ thống chi trả đều mang lại kết quả góp phần
giảm nghèo. Ở Châu Úc, Australia đã lập pháp hóa quyền phát thải cacbon
từ năm 1998, cho phép các nhà đầu tư đăng ký quyền sở hữu hấp thụ
cacbon của rừng.
Chi trả DVMTR cũng đã được phát triển và thực hiện thí điểm ở Châu
Á như Indonesia, Philippines, Trung quốc, Nepal và Việt Nam bước đầu đã
xây dựng được các chương trình chi trả DVMTR có quy mô lớn, chi trả cho
các chủ rừng để thực hiện các biện pháp bảo vệ rừng nhằm tăng cường cung
cấp các dịch vụ thủy văn, bảo tồn đa dạng sinh học, chống xói mòn, hấp thụ
cacbon, tạo cảnh quan du lịch sinh thái và đã thu được một số thành công nhất
định trong công cuộc bảo tôn đa dạng sinh học và xóa đói giảm nghèo cho
nhân dân vùng đầu nguồn.
Chi trả DVMTR đang được thử nghiệm ở một số nước trên thế giới,
Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ năm 2002 Trung tâm
6
nghiên cứu nông lâm thế giới (ICRAF) đã tích cực giới thiệu khái niệm chi
trả DVMTR (PES) vào Việt Nam. Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế
(IFAD) đã hỗ trợ dự án đền đáp cho người nghèo vùng cao cho các
DVMTR mà họ cung cấp tại Indonesia, Philippines, Nepal là “xây dựng cơ
chế mới để cải thiện sinh kế và an ninh tài nguyên cho cộng đồng nghèo
vùng cao ở Châu Á” thông qua xây dựng các cơ chế nhằm đền đáp người
nghèo vùng cao về các DVMTR họ cung cấp cho các cộng đồng trong nước
và trên phạm vi toàn cầu.
1.2.1. Các hoạt động chi trả DVMTR ở Châu Mỹ
- Tại Hoa Kỳ: Là quốc gia nghiên cứu và tổ chức thực hiện các mô
hình PES sớm nhất, ngay từ giữa thập kỷ 80, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã thực
hiện “Chương trình duy trì bảo tồn”, ở Hawai đã áp dụng chính sách mua lại
đất hoặc mua nhượng quyền để bảo tồn, bảo vệ rừng đầu nguồn, duy trì, cải
thiện nguồn nước mặt, nước ngầm, phục vụ đời sống sinh hoạt, phát triển du
lịch, nông nghiệp và các ngành nghề khác. Ở Oregon, Portland áp dụng chính
sách bảo tồn và phát triển cá Hồi và môi trường sinh thái của chúng. Từ việc
xác định và đầu tư đúng mục tiêu sẽ hình thành các dịch vụ hệ sinh thái, cụ
thể họ đã phát triển du lịch sinh thái, lấy dòng sông nơi cá Hồi đẻ là nơi tham
quan về sinh thái, lấy các khu rừng bi khai thác quá mức xưa kia là nơi giáo
dục cho học sinh, sinh viên và du khách vê ý thức bảo vệ rừng v.v… Ở New
York, chính quyền thành phố đã thực hiện các chương trình mua đất để quy
hoạch và bảo vệ rừng đầu nguồn va nhiều chương trình hỗ trợ cho các chủ đất
áp dụng các phương thức quản lý tốt nhất nhằm tích cực hạn chế các nguy cơ
ô nhiễm đối với nguồn cung cấp nước cho thành phố. Các hoạt động hỗ trợ
sản xuất cho chủ đất được đầu tư từ nguồn tiền nước bán cho người sử dụng
nước ở thành phố, kể cả du khách. Chính quyền thành phố đã lập ra công ty
7
phi lợi nhuận để tiếp thu nguồn kinh phí này và hỗ trợ cho các nông dân là
chủ đất đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho thành phố.
- Tại Costa Rica, năm 1996, thực hiện Chi trả DVMTR thông qua Quỹ
tài chính Quốc gia về rừng (FONAFIFO) đã chi trả cho các chủ rừng và các
khu bảo tồn để phục hồi, quản lý và bảo tồn rừng. FONAFIFO hoạt động như
một người trung gian giữa chủ rừng và người mua các dịch vụ hệ sinh thái.
Nguồn tài chính thu được từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm: thuế nhiên liệu
hóa thạch, bán tín chỉ cacbon, tài trợ nước ngoài và khoản chi trả từ các dịch
vụ hệ sinh thái. FONAFIFO và nhà máy thủy điện chi trả cho các chủ rừng tư
nhân cung cấp dịch vụ rừng phòng hộ đầu nguồn khoảng 45 USD/ha/năm cho
hoạt động bảo vệ rừng của mình và 116 USD/ha/năm cho phục hồi rừng [5].
Một số khách sạn tham gia vào cơ chế chi trả DVMTR để bảo vệ lưu vực. Cơ
sở của việc chi trả này là mối tương quan chặt chẽ giữa người cung cấp
DVMT nước do việc bảo vệ, duy trì cải thiện chất lượng nước và dòng chảy
với người hưởng lợi là ngành du lịch. Lý do là các hoạt động ngành du lịch
phụ thuộc rất lớn vào trữ lượng và chất lượng nước. Vì vậy từ năm 2005 một
số khách sạn chi trả hàng năm 45,5 USD cho mỗi ha đất của các chủ rừng địa
phương và trả 7% trong tổng số chi phí hành chính của mô hình DVMT. Tuy
nhiên cũng ở Cốt-xơ-ta Ri-ca “vẫn chưa có một cơ chế được thừa nhận chung
nào dựa vào lợi ích của mọi người được chi trả trực tiếp từ vẻ đẹp cảnh quan
và bảo tồn đa dạng sinh học”, gần đây tại Tan-za-ni-a có một nhóm công ty
du lịch đã liên kết cùng nhau làm hợp đồng với một làng nằm trong khu vực
đồng cỏ tại địa phương để bảo vệ các loài hoang dã chủ yếu thông qua chi trả
tài chính hàng năm [7].
- Tại Ecuador, năm 1999 Quỹ bảo tồn quốc gia (FONAG) được thành
lập các công ty nước đô thị ở Quito và Pimampiro xây dựng bằng cách áp phí
lên nước sinh hoạt. Theo đó, tất cả các đơn vị công cộng sử dụng nước dành
8
1% doanh thu đóng góp vào FONAG. Quỹ này được đầu tư cho việc bảo tồn
lưu vực đầu nguôn và chi trả trực tiếp cho các chủ rừng.
- Tại Colombia, những người sử dụng nước phục vụ công- nông
nghiệp ở thung lũng Cauca đã thành lập các hiệp hội để thu các khoản phí chi
trả tự nguyện cho các chủ rừng để cải thiện dòng chảy và giảm bồi lắng 0,5
USD/m3 nước thương phẩm [5].
- Tại Bolivia, hai công ty năng lượng Mỹ phối hợp với một tổ chức phi
chính phủ của Bolivia và Ủy ban bảo vệ thiên nhiên để tài trợ cho việc ngừng
khai thác gỗ và các hoạt động khác nhằm mở rộng diện tích và chất lượng của
Vườn Quốc gia Noel Kempff với mục đích tăng cường hấp thụ cacbon.
- Tại khu vực Trung Mỹ và Mexico, Chương trình về DVMT thủy
văn (PSA-H) là Chương trinh lớn nhất Châu Mỹ. PSA-H tập trung vào bảo
tồn các rừng tự nhiên bị đe dọa nhằm duy trì các dòng chảy và chất lượng
nước. Mexico đã thành lập quỹ lâm nghiệp năm 2002, thực hiện chi trả
DVMTR từ việc sử dụng đất. Ủy ban Lâm nghiệp Quốc gia ký hợp đồng với
chủ đất để quản lý nhằm duy trì các dịch vụ đầu nguồn. Ngoài ra người nông
dân ở Ugada và Mexico đã tiến hành liên kết với nhau để tham gia thị trường
cacbon quốc tế, bên mua là công ty sản xuất bao bì Teltra Pak có trụ sở tại
Vương quốc Anh. Nhóm nông dân này đã liên hệ với tổ chức phi chính phủ
Ecotrust có trụ sở tại Uganda, sau đó tổ chức này lại phối hợp với trung tâm
quản lý cacbon Edinburg. Theo hợp đồng, nhóm nông dân phải trồng cây bản
địa. Trong thời gian thực hiện Hợp đồng, những cây này sẽ hấp thụ được 57
tấn cacbon và họ sẽ nhận được 8 USD/tấn. Trong khi cây trồng đang lớn, họ
có thể nuôi dê dưới tán cây. Khi hợp đồng kết thúc, họ có thể sử dụng hoặc
bán số gỗ đó [5].
- Tại Brazil, Nhà nước phân bổ ngân sách cho các thành phố để bảo vệ
các khu rừng phòng hộ đầu nguồn và phục hồi diện tích rừng nghèo kiệt. Ở
9
Parana cũng như ở Minas Gerais, 5% doanh thu từ lưu thông hàng hóa và dịch
vụ (ICMS)- một loại thuế gián tiếp đánh vào tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ
được phân bổ cho các thành phố có cơ quan bảo tồn hay diện tích rừng cần
bảo vệ hoặc cho các thành phố cung cấp nước cung cấp nước cho các thành
phố lân cận [5]. Chính phủ cũng đã thực hiện “Chương trình ủng hộ môi
trường” trong đó, chi trả để thúc đẩy sự bền vững môi trường của khu vực
Amazon.
1.2.2. Hoạt động chi trả DVMTR ở Châu Âu
- Tại Pháp, Công ty Perrier Vittel (hiện nay do Nestlé sở hữu) phát
hiện ra rằng bỏ tiền đầu tư vào bảo tồn diện tích đất chăn nuôi sung quanh
khu vực đất gập nước sẽ tiết kiệm chi phí hơn là việc xây dựng nhà máy lọc
nước để giải quyết vấn đề chất lượng nước. Theo đó họ đã mua 600 mẫu đất
nằm trong khu vực sinh cảnh nhạy cảm và ký hợp đồng bảo tồn dài hạn với
nông dân trong vùng. Nông dân vùng đầu nguồn Rhine-Meuse ở miền đông
nam nước pháp được nhận tiền đền bù để chấp nhận giảm quy mô chăn nuôi
bò sửa trên đồng cỏ, nâng cao hiệu quả quản lý chất thải chăn nuôi và trồng
rừng ở những khu vực nước thẩm thấu nhạy cảm. Công ty Perrier Vittel chi
trả chất lượng nước cho mỗi trang trại nuôi bò sữa ở thượng lưu khoảng 230
USD/ha/năm, trong 7 năm Công ty đã chi trả số tiền là 3,8 triệu USD [5].
- Tại Đức, Chính phủ đã đầu tư một loạt chương trình để chi trả cho
các chủ đất tư nhân với mục đích thay đổi cách sử dụng đất của họ nhằm tăng
cường hoặc duy trì dịch vụ hệ sinh thái. Những dự án này bao gồm trợ cấp
cho sản xuất cà phê và ca cao trong bóng râm, quản lý rừng bền vững, bảo tồn
đất và cải tạo các cánh đồng chăn thả ở các nước Mỹ La tinh gồm Honduras,
Costa Rica, Colombia, Ecuador, Peru, Paraguay và Cộng hòa Dominica.
- Tại Chile, một số cá nhân khu vực tư nhân đã bỏ tiền đầu tư vào khu
vực bảo vệ tư nhân chỉ vì mục đích bảo tồn trên những diện tích có tính đa
10
dang sinh học cao. Việc chi trả được thực hiện trên nguyên tắc hoàn toàn tự
nguyện xuất phát từ ý nguyện muốn hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn của
Chính phủ tại những sinh cảnh có nguy cơ bị đe dọa [ 5].
1.2.3. Hoạt động chi trả DVMTR ở Châu Á.
Trong những năm gần đây, các Chương trình chi trả DVMTR đã được
phát triển và thực hiện thí điểm tại các nước Châu Á như Indonesia,
Philippines, Trung quốc, Ấn Độ, Nepal và Việt Nam nhằm xác định điều kiện
để thành lập cơ chế chi trả DVMTR. Đặc biệt là Indonesia và Philippines đã
có nhiều nghiên cứu điển hình về chi trả DVMTR đối với việc quản lý lưu
vực đầu nguồn.
Năm 1998, Trung quốc đã bổ sung và sửa đổi Luật quy định hệ thống
bồi thường sinh thái rừng. Triển khai thí điểm hệ thống bồi thường giai đoạn
2001-2004. Năm 2004, thành lập Quỹ bồi thường lợi ích sinh thái rừng.
Từ năm 2001-2006, nhiều nhà tài trợ cũng đã khảo sát khả thi các
Chương trình chi trả DVMTR ở Châu Á. Trong khuôn khổ hỗ trợ của Quỹ
Quốc tế và phát triển nông nghiệp (IFAD), Trung tâm Nông-Lâm thế giới
(ICRAF) đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về khái
niệm nâng cao nhận thức về chi trả DVMTR bằng chương trình chi trả cho
người nghèo vùng cao DVMT (RUPES) ở Châu Á. RUPES đang tích cực
thực hiện các Chương trinh thí điểm ở Indonesia, Philippines và Nepal. Tại
Indonesia, thiết lập cơ chế chuyển giao dịch vụ từ các chức năng rừng phòng
hộ đầu nguôn. Khách hàng của Công ty PDAM (40.000 hộ gia đình) ở
Mataram đồng ý trả 0,15-0,20 USD hàng tháng cho công tác bảo tồn chức
năng phòng hộ đầu nguồn tại huyện Tây Lombok.
Tại Bakun (Phillipines), Chính phủ công nhận các quyền sở hữu
không chính thức về đất đai do tổ tiên để lại. Việc được giao đất ở Bakun
được xem là hoạt động chi trả cho việc quản lý bên vững. Về phía cộng
11
đồng, tất cả mọi người đều được chi trả, hưởng lợi cho việc trao đổi cung
cấp dịch vụ đầu nguôn.
Tại Kulekhani (Nepal), Ban quản lý rừng địa phương và Ủy ban phát triển
thôn xây dựng kế hoạch quản lý và hoạt động. Kế hoạch này được coi là một văn
bản pháp lý, quy định về quản lý rừng và các biện pháp sử dụng đất hợp lý đối với
chi tra DVMTR. Hiệp hội điện lực quốc gia trả phí từ công trình thủy điện cho cộng
đồng vì các hoạt động bảo vệ rừng đầu nguồn và sử dụng đất bền vững.
Cho đến nay, có nhiều nghiên cứu về chi trả DVMTR đã được xây
dựng ở nhiều quốc gia. Từ các mô hình chi trả DVMTR ở các nước cho thấy,
quản lý bảo vệ đầu nguồn đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và bảo
vệ tài nguyên và đa dạng sinh học nhằm tạo nguồn tài chính bền vững và chia
sẻ lợi ích cho cộng đồng trong công tác bảo vệ rừng và hướng tới giảm nghèo.
1.2.4. Xu hướng mới trong phát triển DVMTR.
Trong những năm gần đây, trên phạm vi toàn cầu nhận thức về vai trò
và giá trị của rừng đã được nhìn nhận một cách đây đủ hơn đặc biệt là giá trị
môi trường rừng. Theo đó, rừng có tác dụng cung cấp các DVMT gồm: Bảo
tồn đa dạng sinh học, hấp thụ cacbon, bảo vệ đầu nguồn, vẻ đẹp cảnh
quan..v.v.. Cơ cấu giá trị cho các loại DVMT của rừng được các nhà khoa học
nghiên cứu xác định cho hấp thụ cacbon chiếm 27%, Bảo tồn đa dạng sinh
học chiếm 25%, bảo vệ đầu nguồn chiếm 21%, Vẻ đẹp cảnh quan chiếm 17%
và giá trị khác chiếm 10% [2]. Giá trị dịch vụ do hệ sinh thái rừng trên toàn
trái đất được ước tính là 33.000 tỷ USD/năm. Riêng ở Bristish Clumbia, rừng
đã giúp cộng đồng địa phương tránh được những chi phí xây dựng nha máy
lọc nước, ước tính khoảng 7 triệu USD/ nhà máy và 300.000 USD vận hành
mỗi năm [ 9].
Những kết quả trên cho thấy, giá trị của rừng là rất to lớn và đặc biệt là
giá trị môi trường đã và đang mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương và
12
quốc tế. Với tầm quan trọng này nhiều tổ chức, quốc gia đã hình thành cơ chế
khác nhau nhằm quản lý DVMT trên quan điểm coi DVMT là một loại hàng
hóa. Theo đó, các khái niệm và thuật ngữ được thừa nhận để chỉ sự thương
mại các DVMT như: chi trả (Payments), đền đáp (Reward), thị trường
(Market), bồi thường (Compensation) [5]. Đây là những xu hướng nhằm quản
lý PES và hướng tới phát triển bền vững đến sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài
hòa giữa ba mặt: Phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
1.2.4.1 Chi trả DVMTR về hấp thụ cacbon
Trong những thập kỷ gần đây, biển đổi khí hậu đã được nhận thức là
một trong những vấn đề toàn cầu mà con người phải đối mặt. Nhiều sáng kiến
đã được đưa ra nhằm ứng phó với mối đe dọa hiện hữu này và với lý giải rằng
một trong những nguyên chính của biến đổi khí hậu là nạn phá rừng và suy
thoái rừng. Nhằm đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Nghị định thư Kyoto
đã được thông qua vao 11/12/1997 va có hiệu lực ngày 16 /2/2005, đây là một
thỏa thuận quốc tế trong khuôn khổ Công ước chung của Liên hiệp quốc và
biến đổi khí hậu, trong đó yêu cầu một số nước công nghiệp và cộng đồng
Châu Âu phải cắt giảm phát thải khí nhà kính. Tổng lượng cắt giảm đến năm
2012, tương đương với trung bình 5% của năm 1990. Nghị định thư đặt ra
một số cơ chế thị trường nhằm giúp các nước tham gia đóng góp vào các nỗ
lực giảm phát thải, bao gồm: Mua bán chứng chỉ phát thải (thị trường
cacbon); cơ chế phát triển sạch (CDM); đồng thực hiện (JI). Thông qua các kỳ
hội nghị quyết định về “giảm phát thải từ mất rừng và suy thóa rừng (REDD)
đã được thông qua”. Tại COP 15 ở Cô-pen-ha-ghen, một bước phát triển của
REDD gọi là REDD+ được nhấn mạnh vì nó được ghi nhận từ vai trò của
quản lý rừng bền vững và tăng cường trữ lượng cacbon rừng [10]. CDM, JI,
REDD+ là ba cơ chế dự án phù hợp với thị trường cacbon cho phép các nước
công nghiệp cùng thực hiện dự án với các nước phát triển, trong khi CDM
13
bao gồm đầu tư cho các dự án phát triển bền vững giúp giảm thải ở các nước
đang phát triển.
- Thị trường cacbon tự nguyện: Áp dụng cho các công ty và cá nhân
quan tâm đến môi trường phải giảm phát thải khí nhà kính (KNK). Họ tự
nguyện mua để tài trợ cho các dự án sản xuất sạch hơn, bù cho phần phát thải
do các hoạt động phát thải của họ, gần đây thị trường này phát triển rất mạnh.
Tuy nhiên thị trường này không có cơ chế điều tiết chung đượ tiếp nhận trên
toàn cầu.
Năm 2009, NORAD (Cơ quan phát triển NaUy) cung cấp hỗ trợ tài
chính cho RECOFTC trong khuôn khổ sáng kiến rừng và khí hậu năm 2009Hỗ trợ xã hội dân sự để thực hiện dự án “Đào tạo và tăng cường năng lực cho
các bên có liên quan đến lâm nghiệp cấp cơ sở nhằm giảm phát thải do mất
rừng và suy thoái rừng (REDD) khu vực Châu Á Thái Bình Dương” hay gọi
tắt là dự án NORAD-REDD. Giai đoạn I (08/02/2009-7/2010) dự án được
thực hiện ở 03 nước Indonesia, Lào và Nepal. Giai đoạn II (08/2010-07/2013)
dự án được vận hành tại 04 nước thêm Việt Nam là nước đầu mối nữa ngoài
03 nước đã nêu trên. Mục tiêu tổng thể của dự án là “Các bên có liên quan
đến Lâm nghiệp cấp cơ sở khu vực Châu Á Thái Bình Dương tích cực đóng
góp vào thành công của cơ chế REDD+ và được vận dụng đầy đủ ưu điểm
của lợi do REDD+ mang lại đối với sự phát triển kinh tế- xã hội địa phương”.
Năm 2010, tổng cộng 131 triệu tấn CO2 đã được giao dịch qua thị
trường tự nguyện, với giá trị 424 triệu USD so với tổng số 98 triệu tấn CO2 và
515 triệu USD được giao dich trong năm 2009. Lượng CO2 được giao dịch
tăng 34% và số tiền nhận được cũng cao hơn. Theo báo cáo của Bloomberg
New nergy Finace, dự đoán năm 2011 lượng giao dịch trên thị trường sẽ là
213 triệu tấn. Báo cáo này dự báo sự tăng trưởng nhanh của thị trường giai
đoạn sau năm 2015, đạt tới 1,6 tỷ tấn năm 2020. Dự báo này dựa trên cơ sở là
14
một mạng lưới các thị trường quy chuẩn và thị trương bán quy chuẩn cấp khu
vực sẽ tăng lên và sẽ sử dụng cách tiếp cận thị trường tự nguyện [8].
1.3. Tổng quan về chi trả DVMTR ở Việt Nam
1.3.1. Cơ sở hình thành chỉ trả DVMTR
Việt Nam hiện có khoảng 13,38 triệu ha rừng, độ che phủ đạt 39,5%
[14] phân bố trên địa bàn 61 tỉnh, thành phố; Chiến lược phát triển lâm nghiệp
ở Việt Nam dự kiến đến năm 2020 đưa diện tích rừng đạt khoảng gần 16 triệu
ha, với tỷ lệ che phủ 47% [3]. Rừng có vai trò rất quan trọng trong đời sống
con người và sự phát triển bên vũng của quốc gia. Các hệ sinh thái rừng phát
triển tốt với đầy đủ chức năng và đang cung cấp những giá trị DVMT vô cùng
to lớn như: Bảo vệ phòng hộ đầu nguồn, điều tiết và duy trì nguôn nước, hấp
thụ và lưu giữ cacbon, tạo cảnh quan phục vụ cho dịch vụ, du lịch….nhưng
những năm trước đây chúng được coi là tài sản chung và được sử dụng miễn
phí cho toàn xã hội, trong khi đó việc duy trì và bảo vệ các hệ sinh thái rừng
thường chỉ được thực hiện bởi một nhóm nhỏ người, họ là những người lao
động trong ngành lâm nghiệp (là các chủ rừng) trực tiếp đầu tư vốn, công sức
để trồng, bảo vệ, gìn giữ và phát triển rừng nhưng họ chưa được hưởng những
lợi ích xứng đáng mà xã hội phải trả cho sự nỗ lực của họ. Trong khi xã hội,
cộng đồng, tổ chức và cá nhân không tham gia bảo vệ tái tạo rừng lại được
hưởng lợi từ các dịch vụ do rừng tạo ra. Ngày nay cộng đồng xã hội nhận thức
được rằng, các giá trị sử dụng của rừng tạo ra không còn là miễn phí. Chính vì
thế, cần có một cơ chế để bảo vệ và khuyến khích quyền lợi về kinh tế cho
những chủ rừng, đồng thời những người được hưởng lợi từ các dịch vụ hệ
sinh thái phải chi trả cho những người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển
các chức năng của hệ sinh thái đó.
Tư năm 2004 Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu xây dựng nền móng cho
một chương trình quốc gia về chi trả DVMTR. Trên cơ sở khung pháp lý Việt
15
Nam đã có như: Luật tài nguyên nước (1998),Luật đất đai (2003), Luật bảo vệ
và phát triển rừng (2004), Luật bảo vệ môi trường (2005) đều thừa nhận các
nhân tố của dịch vụ hệ sinh thái mang lại là bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ
cảnh quan, bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn và hấp thụ cacbon. Đặc biệt Điều
74 Luật đa dạng sinh học (2008) quy định “Tổ chức, cá nhân sử dụng
DVMTR liên quan đến đa dạng sinh học có trách nhiệm trả tiền cho tổ chức,
cá nhân cung cấp DVMTR” các khung pháp lí trên là tiền đề cho Việt Nam đã
sẵn sàng sử dụng một số công cụ tài chính và kinh tế cần thiết để thực thi hoạt
động chi trả DVMTR, tạo cơ sở pháp lý và kinh nghiệm thực tiễn bước đầu để
PES thực sự ứng dụng có hiệu quả rộng rãi ở Việt Nam. Đó chính là lí do Việt
Nam ban hành chính sách chi trả DVMTR theo đúng pháp luật. Hai trong
những văn bản quan trọng nhất là Quyết định số 380/TTg ngày 10/4/2008 của
Thủ tướng Chính phủ về thi điểm DVMTR ở 02 tỉnh (Lâm Đồng, Sơn La) và
Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ về thực hiện chi
trả DVMTR trên phạm vi cả nước. Dự án thí điểm về chi trả DVMTR đã
được triển khai tại tỉnh Lâm Đồng với sự hỗ trợ của tổ chức Winrock
Internationnal; tỉnh Sơn La với sự hỗ trợ của cơ quan hợp tác kỹ thuật CHLB
Đức (GTZ) và Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đầu tiên thực
hiện chi trả DVMTR ở Đông Nam Á.
- Các chương trình, dự án làm tiền để cho PES ở Việt Nam
Chương trình Bảo tồn Đa dạng sinh học vùng Châu Á (ARBCP) đã hỗ
trợ Chính phủ Việt Nam từ năm 2006, do Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn phối hợp với tổ chức Winrock Internationnal thực hiện thành công
Chương trình thí điểm về chi trả DVMTR, đã cải thiện sinh kế cho hơn
32.000 người dân nghèo nông thôn đồng thời tăng cường bảo tồn đa dạng sinh
học ở tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Phước và ở Việt Nam. Chương trình
hợp tác Việt Nam- Thụy Điển có vai trò quan trọng đầu tiên về phát triển lâm
16
nghiệp xã hội ở Việt Nam, cho đến nay các Chương trình này luôn đi đầu
trong phát triển LNXH ở nước ta.
Dự án trồng rừng quy mô nhỏ để hấp thụ khí CO2 được Cục Lâm
Nghiệp, Trường Đại học Lâm Nghiệp Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu sinh
thái và môi trường và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản cùng phối hợp xây
dựng. Dự án tiến hành tại Xuân Phong và Bắc Phong thuộc huyện Cao Phong,
tỉnh Hòa Bình.
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng là một Chương trình kinh tế, xã hội,
sinh thái trọng điểm của nhà nước Việt Nam theo đó sẽ trồng mới 5 triệu
hecta rừng và bảo vệ diện tích rừng hiện có trong thời kỳ từ năm 1998 đến
năm 2010 nhằm nâng cao độ che phủ rừng của Việt Nam.
Quyết định số 178/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ
về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê,
nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.
Thông tư liên tịch số 80/2003/TTLT/BNN-BTC ngày 03/9/2003 của
Bộ nông nghiệp va phát triển nông thôn, Bộ Tài chính về quyền lợi, nghĩa
vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất
lâm nghiệp.
Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 23/11/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng
trong buôn làng là đồng bào thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây Nguyên.
Thông tư số 38/2007/TT-BNN ngày 25/4/2007 của Bộ nông nghiệp và
PTNT về hướng dẫn trình tự, thủ tục giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng
cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn.
Dự án phát triển lâm nghiệp để cải thiện đời sống vùng Tây nguyên
(Flitch) do ngân hàng phát triển Châu Á tài trợ, được triển khai từ năm 2007
trên 6 tỉnh Tây nguyên: Đăk lăk; Đăk Nông; Gia Lai; Lâm Đồng; Kon Tum
17
và Phú Yên với mục đích góp phần giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách của các
hộ nghèo so với các hộ trung bình sống dựa vào rừng.
Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (NTPRCC), được thực hiện theo quyết định số 158/2008/QĐ-TTg ngày 02/12/2008
của Thủ tướng Chính phủ liên quan đến nội dung giao rừng, cho thuê rừng.
Nghị định số 113/2010/NĐ-CP ngày 03/12/2010 quy định về xác định
thiệt hại đối với môi trường, là một công cụ pháp lý quan trọng dựa trên
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền, bước đầu giúp tháo gỡ những
rào cản và thách thức về mặt pháp lý mà cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường khi giải quyết các vụ việc khởi kiện đòi hỏi bồi thường thiệt hại do
hành vi vi phạm pháp Luật môi trường gây ra.
Nghị định số 117/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày
24/12/2010 nhằm mục đích tạo một hành lang pháp lý thống nhất về tổ chức,
quản lý hệ thống rừng đặc dụng trên toàn quốc.
Với những Chương trình thực hiện nêu trên, qua nhiều năm thực hiện
và đạt được kết quả rất khả quan, cho thấy đây là những dự án tạo cơ sở pháp
lý và kinh nghiệm thực tiễn là tiền đề cho Việt Nam sẵn sàng thực hiện chính
sách PES thành công ở Việt Nam và có sức lan tỏa lớn trong khu vực.
1.3.2. Chính sách chi trả DVMTR
Năm 2007, Bộ NN &PTNT đã yêu cầu Chương trình bảo tồn đa dạng sinh
học vùng Châu Á giúp xây dựng một chính sách thí điểm về chi trả DVMTR ở
Việt Nam. Kết quả, ngày 10/4/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số
380/QĐ-TTg về “chính sách thí điểm chi trả DVMTR” với các hoạt động dự kiến
thực hiện đến hết tháng 12 năm 2010 nhằm tạo cơ sở cho việc xây dựng khung
pháp lý về chính sách chi trả DVMTR áp dụng trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở
những thí điểm ban đầu, Chính phủ Việt Nam đã tiến hành đánh giá giữa kỳ ở Hà
Nội tháng 3/2010 để đánh giá kết quả và quá trình thực hiện chính sách thí điểm
18
Quyết định số 380. Tư vấn của Winrock International đã tiến hành hỗ trợ cho
chính quyền Lâm Đồng đánh giá chính sách thí điểm bằng việc tiến hành khảo sát
kinh tế xã hội ở lưu vực Đa Nhim đối với các tổ chức quản lý và bảo vệ rừng; các
hộ dân (những người được chi trả PES); các công ty và các cá nhân sử dụng
DVMTR (những người chi trả PES) và các cơ quan chính quyền địa phương tham
gia trong việc thu, quản lý và chi trả PES. Sau 02 năm thực hiện và đánh giá kết
quả của việc thực hiện thành công chính sách chi trả DVMTR ở Lâm Đồng và
Sơn La là việc Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Nghị định số 99/2010/NĐ-CP
về “Chính sách chi trả DVMTR” và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/11/2011. Nghị
định này đã làm thay đổi cách nhìn và quản lý rừng ở Việt Nam, là một chiến lược
dựa vào thị trường để quản lý tài nguyên thiên nhiên nhằm huy động các nguồn
lực xã hội để bảo vệ và phát triển rừng; tạo điều kiện để ngành lâm nghiệp hoạt
động đúng quy luật của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, đồng thời tạo các nguồn tài
chính bền vững và tăng cường trách nhiệm của các bên liên quan trong công cuộc
bảo vệ rừng bền vững ở Việt Nam.
Chi trả DVMTR đang ngày càng nhận được nhiều mối quan tâm từ các
nha lập định chính sách lẫn các nhà khoa học như là một cơ chế để chuyển
các giá trị phi thị trường của môi trường thành các khuyến khích tài chính cho
người dân địa phương có vai trò cung cấp DVMT được mua bởi người mua
(là người hưởng lợi từ DVMT) khi và chỉ khi, người cung cấp (là người dân
sinh sống hoặc là chủ đất ở địa phương) đảm bảo cung cấp DVMT [ 6].
Cơ chế thực hiện chi trả DVMTR rất đơn giản: kết nối các nhà quản lý
rừng ở địa phương với người sử dụng DVMTR thông qua chi trả trả trực tiếp
(Wunder 2005). Những người sử dụng DVMTR ở vùng hạ lưu trả tiền cho
những người quản lý bảo vệ rừng[5]. Xác định “những người mua dịch vụ” là
Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) và Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn
(SAWACO) chi trả cho dịch vụ điều tiết nước và bảo vệ đất, các Doanh
19
nghiệp du lịch ở Lâm Đồng và Sơn La chi trả cho dịch vụ thẩm mỹ, cảnh
quan. Dựa vào các nghiên cứu của Winrock tiến hành đưa ra mức chi trả 20
đồng/KWh từ các cơ sở sản xuất thủy điện, 40 đồng/m3 nước sạch từ các
doanh nghiệp sản xuất nước sạch va 0,5-2% tổng doanh thu của các doanh
nghiệp du lịch và xác định “những người cung cấp dịch vụ”, quy định rằng cá
nhân, hộ, cộng đồng nông thôn được giao rừng sẽ là những người hưởng lợi
chính từ chính sách chi trả DVMTR.
Tính đến tháng 12/2010 các chi trả DVMTR tổng cộng là
87.067.200.000 đồng (tương đương 4,46 triệu USD) đã được thực hiện cho 22
Ban quản lý rừng và các doanh nghiệp lâm nghiệp và 9.870 hộ gia đình, trong
đó 6.858 là hộ dân tộ thiểu số, bảo vệ được 209.705 ha rừng. Trong năm
2010, mức chi trả trung bình trên hộ là 10,5 đến 12 triệu đồng (khoảng 540
đến 615 USD), tương đương mức tăng 3-4 lần so với các chi trả của Chính
phủ Việt Nam trước đây. Số vụ vi phạm lâm luật giảm 50% so với trước đây
trong vùng lưu vực Đa Nhim [12].
1.3.3. Một số nghiên cứu điểm về Chi trả DVMTR ở Việt Nam
Nghiên cứu đầu tiên về chi trả DVMTR ở Việt Nam do các nhà khoa
học tai trung tâm nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng (RCFEE) và các
đối tác nước ngoài như tổ chức Winrock quốc tế, trung tâm lâm nghiệp thế
giới, thực hiện và xuất bản ấn phẩm “Chi trả DVMT cho người dân vùng cao
về DVMTR mà họ cung cấp”. Nghiên cứu này đã góp phần lồng ghép PES
vào Luật Đa dạng sinh học, xây dựng các chính sách hỗ trợ cho chi trả
DVMTR và đặc biệt tập trung xác định mức chi trả của những người sử dụng
điện cho những người bảo vệ rừng đầu nguồn.
Chi trả DVMTR đã được thử nghiệm ở 2 tỉnh Lâm Đồng và Sơn La,
trong giai đoạn 2008-2010. Sau đó, Chính phủ đã phê duyệt một chính sách