Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Giải pháp góp phần đẩy mạnh thực hiện bảo hiểm y tế tự nguyện cảu nông dân thị xã tam điệp, tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 86 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sức khoẻ là vốn quý của mỗi con người là một trong những điều cơ bản
để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu và nhân tố quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ sức khoẻ và nâng
cao sức khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo trực tiếp đảm nhận nguồn lực
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là một trong những chính sách ưu
tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Trong nhiều năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện của nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn. Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến các vấn
đề xã hội với mục tiêu xuyên suốt từ chủ trương, chính sách đến các hoạt
động cụ thể. Bảo hiểm y tế (BHYT) là phạm trù kinh tế tất yếu của xã hội
phát triển, đóng vai trò quan trọng không những đối với người tham gia bảo
hiểm, các cơ sở y tế, mà còn là nhân tố quan trọng trong việc thực hiện chủ
trương xã hội hoá công tác y tế nhằm huy động nguồn tài chính ổn định, phát
triển đa dạng các thành phần tham gia khám bệnh, chữa bệnh cho nhân dân.
BHYT được thể hiện một số vai trò sau đây:
Thứ nhất, BHYT là nguồn hỗ trợ tài chính cho những người tham gia
khi bị ốm đau, bệnh tật, giúp họ giải toả được gánh nặng nay bằng việc chia
sẻ rủi ro, lấy số đông bù số ít.
Thứ hai, BHYT là một trong những nguồn cung cấp tài chính ổn
định cho cơ sở y tế.
Thứ ba, BHYT góp phần quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xã
hội hoá lĩnh vực y tế.
Thứ tư, BHYT góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong
chăm sóc sức khoẻ nhân dân, thể hiện rõ tính nhân đạo, cộng đồng xã hội sâu
sắc.



2

Với những vai trò trên của BHYT, việc mở rộng BHYT là một trong
những giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo an sinh xã hội, phát triển xã hội hoá y
tế, xây dựng nền y tế theo hướng công bằng và hiệu quả [1].
Mục tiêu chăm sóc sức khỏe của Bảo hiểm xã hội nói chung là sự huy
động đóng góp của các cá nhân và Nhà nước để hỗ trợ cho các dịch vụ y tế,
chia sẻ gánh nặng cho tài chính y tế, giảm gánh nặng chi phí điều trị. Bảo
hiểm y tế tự nguyện nói riêng được thực hiện dựa trên nguyên tắc “Cộng đồng
cùng chia sẻ rủi ro”.
Ngày 15 tháng 8 năm 1992 chính sách Bảo hiểm y tế ra đời ở Việt Nam
theo Nghị định số 299/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Trải qua 20 năm thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế đã khẳng định tính đúng
đắn chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, phù hợp với tiến trình đổi mới
đất nước. Bảo hiểm y tế còn góp phần đảm bảo sự công bằng trong khám
chữa bệnh; lao động, sử dụng lao động, nông dân,… ngày càng được chấp
nhận đầy đủ hơn về sự cần thiết của bảo hiểm y tế cũng như trách nhiệm đối
với cộng đồng xã hội. Đông đảo người lao động, người nghỉ hưu, mất sức, đối
tượng hưởng chính sách xã hội và một bộ phận người nghèo yên tâm hơn khi
ốm đau đã có chỗ dựa khá tin cậy là bảo hiểm y tế.
Chính sách tam nông (Nông nghiệp – Nông dân – Nông thôn) của Đảng
và Nhà nước là chủ trương lớn quan tâm tới khu vực hiện đang chiếm phần
lớn dân số và lao động đang sinh sống và hoạt động. Chăm sóc, bồi dưỡng và
phát huy nhân tố con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu cách
mạng Việt Nam.
Nông dân là người có thu nhập thấp trong xã hội chiếm hơn 70% trong
nông thôn hiện nay nhưng khi đi chữa bệnh thì nguồn tài chính hạn chế nên
việc khám chữa bệnh và điều trị là rất khó khăn, chỉ có một số nông dân là có
thẻ BHYT (khoảng 15% nông dân tham gia), số còn lại (khoảng 85%) còn



3

phải trả toàn bộ số tiền viện phí khi đi khám chữa bệnh như: tiền khám, thuốc,
vật tư y tế, tiền gường, máu, các chế phẩm từ máu và các dịch vụ khác, so với
thu nhập của nông dân thường quá tải .[10]
Thực trạng bảo hiểm y tế tự nguyện như thế nào? Trong đó, bảo hiểm y
tế tự nguyện nông dân ra sao? Những yếu tố nào ảnh hưởng tới việc sẵn lòng
tham gia mua bảo hiểm y tế tự nguyện của nông dân trong thị xã? Giải pháp
nào nhằm tăng cường tỷ lệ nông dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện? Để
giải quyết thỏa đáng những câu hỏi đã nêu trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Giải pháp góp phần đẩy mạnh thực hiện chương trình bảo hiểm y tế tự
nguyện của nông dân Thị xã Tam Điệp - Tỉnh Ninh Bình”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở xác định nhu cầu bảo hiểm y tế tự nguyện của nông dân trên
địa bàn nghiên cứu, luận văn sẽ đề ra các giải pháp nhằm tăng cường thu hút
nông dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện trên địa bàn thị xã Tam Điệp tỉnh Ninh Bình.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa được cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn bảo hiểm, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế;
- Đánh giá được thực trạng và nhu cầu bảo hiểm y tế tự nguyện của
nông dân trong thị xã;
- Chỉ ra được các nhân ảnh hưởng tới sự sẵn lòng tham gia bảo hiểm y
tế tự nguyện của nông dân trên địa bàn;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút nông dân tham gia
bảo hiểm y tế tự nguyện;
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu



4

- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là tình hình và kết quả triền khai
chương trình bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân trên địa bàn thị xã Tam
Điệp, tỉnh Ninh Bình.
- Đối tượng khảo sát của Luận văn là các hộ gia đình nông dân trên địa
bàn thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu nhu cầu và những
nhân tố ảnh hưởng tới sự tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện của nông dân trên
địa bàn nghiên cứu.
- Phạm vi về không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại các xã
thuần nông của thị xã, đó là các xã Quang Sơn, Yên Sơn và Yên Bình.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài điều tra, thu thập tài liệu có liên quan đến
nội dung nghiên cứu từ năm 2009 đến năm 2011. Số liệu khảo sát thực tiễn
được tiến hành vào thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2012.
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân
- Thực trạng và kết quả triển khai chương trình bảo hiểm y tế tự nguyện
đối với nông dân thị xã Tam Điệp
- Các nhân tố ảnh hưởng tới sự tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện của
nông dân trên địa bàn nghiên cứu
- Các giải pháp đẩy mạnh chương trình bảo hiểm y tế tự nguyện đối với
nông dân tại thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.


5

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các khái niệm, quan điểm liên quan đến bảo hiểm, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế.
1.1.1.1.Khái niệm và bản chất bảo hiểm
* Khái niệm về bảo hiểm:
“Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường
(theo quy định thống nhất) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường
hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia phải
nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”. [7]
Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người
bảo hiểm bằng cách nộp các khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người
tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người tham gia bảo hiểm lấy quỹ dự
trữ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham
gia.
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người
tham gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn
vốn cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
* Bản chất của bảo hiểm.
Thực chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong
nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh tại
nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm.
Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc “Số đông bù số ít”. Nguyên
tắc này được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù bảo hiểm cũng như
trong quá trình phân phối bồi thường, quá trình phân tán rủi ro.


6

Hoạt động bảo hiểm còn liên kết, gắn bó các thành viên trong xã hội

cùng vì lợi ích chung của cộng đồng, vì sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước.
“Số đông bù số ít” cũng thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và nhân văn sâu
sắc của xã hội trước rủi ro của mỗi thành viên [8].
1.1.1.2. Khái niệm, quan điểm về bảo hiểm xã hội (BHXH)
* Khái niệm:
Cho đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có một khái niệm
thống nhất về BHXH. Ở nước ta, theo Điều 3 của Luật bảo hiểm xã hội:
“Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc bị
chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.
Qua khái niệm về BHXH, ta thấy nổi lên hai điểm:
- BHXH được thực hiện theo quy định của pháp luật, nếu trước kia
BHXH được hình thành một cách tự phát, thì sau này sự tự phát đó đã được
thay thế bằng những chính sách, những quy định cụ thể của mỗi nước. Những
chính sách, những quy định này tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội và
chính trị của mỗi nước ở từng thời kỳ.
- Nguồn tài chính để thực hiện BHXH là sự đóng góp bắt buộc của
người được bảo hiểm, người sử dụng lao động và sự bảo trợ của Nhà nước.
Các nguồn hình thành này là hết sức quan trọng, nếu sự đóng góp bắt buộc
của người lao động và chủ sử dụng lao động tạo nên quỹ BHXH thì sự bảo trợ
của Nhà nước trong các trường hợp tỷ lệ lạm phát lên cao, sức mua của đồng
tiền bị giảm sút cũng không kém phần quan trọng để bảo toàn quỹ.
1.1.1.3. Khái niệm, quan điểm về bảo hiểm y tế (BHYT)
* Khái niệm:
Theo Điều 2, Luật Bảo hiểm y tế :


7


“Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực
hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật này”.
- Bảo hiểm y tế bắt buộc là hình thức bảo hiểm y tế được thực hiện trên
cơ sở bắt buộc của người tham gia.
- Bảo hiểm y tế tự nguyện là hình thức bảo hiểm y tế được thực hiện
trên cơ sở tự nguyện của người tham gia.
- Người bệnh bảo hiểm y tế là người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế bắt
buộc hoặc tự nguyện, khi khám, chữa bệnh được hưởng chế độ khám, chữa
bệnh và thanh toán chi phí khám, chữa bệnh theo quy định của cơ quan có
thẩm quyền.
* Một số nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm y tế
+ Quy luật số đông:
- Thông qua quy luật số đông, với việc thực hiện nghiên cứu trên một
mẫu đủ lớn có thể tính toán được xác suất tương đối chính xác khả năng xảy
ra trong thực thế của một biến cố.
- Do vậy, quy luật số đông là cơ sở khoa học quan trọng của hoạt động
bảo hiểm. Quy luật này giúp cơ quan bảo hiểm xác định xác suất rủi ro nhận
bảo hiểm, tính phí và quản lý quỹ dự phòng chi trả, đồng thời cũng là điều
kiện để đạt được tác dụng phân tán rủi ro.
- Trong BHYT quy luật số đông được biểu hiện số đông bù số ít, người
khoẻ hỗ trợ người yếu, người trẻ hỗ trợ người già và trẻ em.
+ Chia sẻ tổn thất:
- BHYT là một cơ chế trong đó số đông cá nhân đóng góp phí BHYT
để hình thành nên quỹ BHYT. Phí đóng góp BHYT là một khoản tiền nhỏ so
với phúc lợi mà người được BHYT nhận được và mức phí phù hợp với đóng
góp của nhiều người.


8


- Nguyên tắc chia sẻ rủi ro dựa trên cơ sở là tất cả phần đóng góp tạo
thành quỹ BHYT để có thể đủ chi phí cho những người hưởng quyền lợi khi
xảy ra ốm đau.
+ Tính bình đẳng của các rủi ro:
Để đảm bảo công bằng về quyền lợi của mọi người khi tham gia BHYT
cần phải có những quy định về phúc lợi. Tính công bằng được thể hiện thông
qua hàng loạt các quy định về quyền lợi và trách nhiệm.
+ Cơ sở tính phí BHYT:
Phí đóng góp BHYT được tính toán căn cứ vào tần suất KCB, tỷ lệ
người tham gia BHYT, chi phí và lãi đầu tư.
+ Có đóng có hưởng:
Đóng theo thu nhập hưởng theo thực tế khi không may bị ốm đau phải
tới các cơ sở KCB để khám và điều trị bệnh.
+ Không hoàn lại:
Người tham gia BHYT nếu không đi khám chữa bệnh trong thời gian
thẻ có giá trị sử dụng thì không được hoàn lại phí đã đóng (Nguồn: Sổ tay
tuyên truyền bảo hiểm y tế tự nguyện năm 2006).
* Đối tượng tham gia
Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày
14/8/2009 của Liên Bộ Tài chính - Bộ Y tế đối tượng tham gia BHYT tự
nguyện bao gồm:
- Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức;
- Người lao động nghỉ việc đang hưởng chế độ ốm đau theo quy định
của pháp luật về bảo hiểm xã hội do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa
trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành;


9


- Học sinh, sinh viên đang theo học tại các nhà trường trừ những người
tham gia BHYT theo đối tượng khác;
- Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và
diêm nghiệp;
- Thân nhân người lao động làm công hưởng lương theo quy định của
pháp luật về tiền lương, tiền công; xã viên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể.
* Mức đóng và giảm đóng bảo hiểm y tế
Theo điều 6, Thông tư số 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày 14/8/2009
- Mức đóng BHYT của các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 5
Thông tư số 09/2009/TTLT-BYT-BTC:
Mức đóng hằng tháng đối với đối tượng tham gia BHYT tự nguyện từ
ngày 01/01/2010 bằng 4,5% mức lương tối thiểu hiện hành.
- Việc giảm mức đóng BHYT đối với trường hợp tham gia bảo hiểm y
tế theo hộ gia đình bao gồm toàn bộ người có tên trong sổ hộ khẩu và đang
sống chung trong một nhà và đối tượng quy định tại khoản 23 Điều 12 Luật
bảo hiểm y tế có từ hai thân nhân trở lên tham gia, mức đóng của các thành
viên như sau:
+ Người thứ nhất đóng bằng mức quy định;
+ Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 90%, 80%, 70%
mức đóng của người thứ nhất.
+ Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 60% mức đóng của người thứ
nhất.
* Quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế
Theo Điều 7, mức hưởng bảo hiểm y tế đối với các trường hợp quy
định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 22 Luật bảo hiểm y tế.
- Thời điểm thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng được quy định như sau:


10


+ Đối với người tự nguyện tham gia bảo hiểm y tế mà đóng bảo hiểm
y tế liên tục kể từ lần thứ hai trở đi thì thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng kể từ
ngày đóng bảo hiểm y tế; thời hạn sử dụng ghi trên thẻ từ ngày đầu tiên của
tháng.
+ Đối với người tự nguyện tham gia bảo hiểm y tế mà đóng bảo
hiểm y tế lần đầu hoặc đóng bảo hiểm y tế không liên tục thì thẻ bảo hiểm y tế
có giá trị sử dụng sau 30 ngày, kể từ ngày đóng bảo hiểm y tế; riêng đối với
quyền lợi về dịch vụ kỹ thuật cao thì thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng sau
180 ngày, kể từ ngày đóng bảo hiểm y tế; thời hạn sử dụng ghi trên thẻ từ
ngày đầu tiên của tháng.
- Người tham gia bảo hiểm y tế khi đi khám, chữa bệnh theo quy định
tại các Điều 26, 27 và 28 Luật bảo hiểm y tế thì được quỹ bảo hiểm y tế thanh
toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi được hưởng như sau:
 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh tại tuyến xã;
 100% mức chi phí của một lần khám bệnh, chữa bệnh không phải thực
hiện cùng chi trả quy định tại điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị định số
62/2009/NĐ-CP thấp hơn 15% mức lương tối thiểu hiện hành. Khi Nhà
nước thay đổi mức lương tối thiểu thì mức chi phí này được điều chỉnh
từ ngày áp dụng mức lương tối thiểu mới.
 80% chi phí khám bệnh, chữa bệnh, phần còn lại do người bệnh tự
thanh toán với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
 Trường hợp tự chọn thầy thuốc, tự chọn buồng bệnh thì chỉ được quỹ
bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo giá dịch vụ
hiện hành của nhà nước áp dụng cho cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đó và
theo mức hưởng quy định tại Điều 22 Luật bảo hiểm y tế và Điều 7
Nghị định này.


11


- Người tham gia bảo hiểm y tế khi đi khám bệnh, chữa bệnh theo quy
định tại các Điều 26, 27 và 28 Luật bảo hiểm y tế có sử dụng dịch vụ kỹ thuật
cao, chi phí lớn thì được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí trong phạm vi
được hưởng 80% chi phí đối với các đối tượng khác nhưng không vượt quá
40 tháng lương tối thiểu cho một lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật đó.
- Quỹ BHYT thanh toán 50% chi phí của thuốc điều trị ung thư, thuốc
chống thải ghép ngoài danh mục quy định của Bộ Y tế nhưng đã được phép
lưu hành tại Việt Nam theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (sau đây
gọi là cơ sở y tế) theo mức hưởng quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số
62/2009/NĐ-CP và Điều 9 Thông tư này đối với các trường hợp: Người bệnh
tham gia BHYT liên tục từ đủ 36 tháng trở lên.
- Trường hợp khám bệnh, chữa bệnh không đúng cơ sở y tế đăng ký
khám bệnh, chữa bệnh ban đầu, không theo tuyến chuyên môn kỹ thuật: được
quỹ BHYT thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Nghị định số
62/2009/NĐ-CP. Việc xem xét, xác định tình trạng trái tuyến, vượt tuyến
chuyên môn kỹ thuật và phân hạng bệnh viện, kể cả cơ sở y tế công lập và
ngoài công lập để quyết định áp dụng mức thanh toán, thực hiện theo quy
định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
 70% chi phí đối với trường hợp khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh đạt tiêu chuẩn hạng III và không vượt quá 40 tháng
lương tối thiểu cho mỗi lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn;
 50% chi phí đối với trường hợp khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh đạt tiêu chuẩn hạng II và không vượt quá 40 tháng
lương tối thiểu cho mỗi lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn;
 30% chi phí đối với trường hợp khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh đạt tiêu chuẩn hạng I, hạng Đặc biệt và không vượt quá 40 tháng
lương tối thiểu cho mỗi lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn.



12

- Trường hợp khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế không ký hợp đồng
khám bệnh, chữa bệnh BHYT; đi khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế có ký
hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh BHYT nhưng không đủ thủ tục khám bệnh,
chữa bệnh theo quy định tại Điều 28 Luật BHYT: người bệnh tự thanh toán
chi phí khám bệnh, chữa bệnh với cơ sở y tế, sau đó mang chứng từ đến Bảo
hiểm xã hội để thanh toán. Căn cứ dịch vụ kỹ thuật mà người bệnh được cung
cấp, tuyến chuyên môn kỹ thuật của cơ sở y tế và chứng từ hợp lệ, Bảo hiểm
xã hội thanh toán cho người bệnh theo chi phí thực tế nhưng mức tối đa
không vượt quá mức quy định tại điểm 1 Phụ lục 2 ban hành kèm theo Thông
tư số 09/2009/TTLT-BYT-BTC.
- Trường hợp đi khám bệnh, chữa bệnh ở nước ngoài: người bệnh tự
thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh, sau đó mang chứng từ đến Bảo
hiểm xã hội để thanh toán theo chi phí thực tế nhưng mức tối đa không vượt
quá mức quy định tại điểm 2 Phụ lục 2 ban hành kèm theo Thông tư số
09/2009/TTLT-BYT-BTC.
- Người tham gia bảo hiểm y tế khi đi khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ
sở y tế ngoài công lập được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán theo mức hưởng
quy định tại Điều 22 Luật bảo hiểm y tế và quy định tại các khoản 1, 2 và 3
điều này theo giá dịch vụ áp dụng đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
công lập tương đương tuyến chuyên môn kỹ thuật.
* Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm y tế:
Theo Điều 33 Luật BHYT nguồn hình thành quỹ gồm:
+ Tiền đóng bảo hiểm y tế theo quy định của Luật này.
+ Tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm y tế.
+ Tài trợ, viện trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
+ Các nguồn thu hợp pháp khác.



13

* Quản lý quỹ bảo hiểm y tế: Theo Điều 34 Luật BHYT quy định quản
lý như sau:
+ Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất, công khai,
minh bạch và có sự phân cấp quản lý trong hệ thống tổ chức bảo hiểm y tế.
+ Chính phủ quy định cụ thể việc quản lý quỹ bảo hiểm y tế; quyết định
nguồn tài chính để bảo đảm việc khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế trong
trường hợp mất cân đối thu, chi quỹ bảo hiểm y tế.
* Sử dụng quỹ bảo hiểm y tế: Theo Điều 35 Luật BHYT về sử dụng quỹ
BHYT. Quỹ bảo hiểm y tế được sử dụng cho các mục đích sau đây:
+ Thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế;
+ Chi phí quản lý bộ máy tổ chức bảo hiểm y tế theo định mức chi hành
chính của cơ quan nhà nước;
+ Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm y tế theo nguyên tắc
an toàn, hiệu quả;
+ Lập quỹ dự phòng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Quỹ dự
phòng tối thiểu bằng tổng chi khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế của hai
quý trước liền kề và tối đa không quá tổng chi khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế của hai năm trước liền kề.
+ Trường hợp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có số thu
bảo hiểm y tế lớn hơn số chi khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế thì được
sử dụng một phần kết dư để phục vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế
tại địa phương.
+ Chính phủ quy định cụ thể Điều này.
* Quyền của người tham gia bảo hiểm y tế: Theo Điều 36 Luật BHYT
và sử dụng quỹ BHYT.
+ Được cấp thẻ bảo hiểm y tế khi đóng bảo hiểm y tế.



14

+ Lựa chọn cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu theo
quy định tại khoản 1 Điều 26 của Luật này (khoản 1 Điều 26 của Luật BHYT:
Người tham gia bảo hiểm y tế có quyền đăng ký khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế ban đầu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến xã, tuyến huyện hoặc
tương đương; trừ trường hợp được đăng ký tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
tuyến tỉnh hoặc tuyến Trung ương theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Trường hợp người tham gia bảo hiểm y tế phải làm việc lưu động
hoặc đến tạm trú tại địa phương khác thì được khám bệnh, chữa bệnh ban
đầu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với tuyến chuyên môn kỹ
thuật và nơi người đó đang làm việc lưu động, tạm trú (theo quy định của
Bộ trưởng Bộ Y tế).
+ Được khám bệnh, chữa bệnh.
+ Được tổ chức bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh
theo chế độ bảo hiểm y tế.
+ Yêu cầu tổ chức bảo hiểm y tế, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế và cơ quan liên quan giải thích, cung cấp thông tin về chế độ bảo
hiểm y tế.
+ Khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm y tế.
* Những trường hợp không được hưởng BHYT
Theo Điều 23 Luật bảo hiểm y tế, các trường hợp không được hưởng
bảo hiểm y tế. Cụ thể như sau:
+ Chi phí trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 21 đã được ngân
sách nhà nước chi trả.
+ Điều dưỡng, an dưỡng tại cơ sở điều dưỡng, an dưỡng.
+ Khám sức khỏe;
+ Xét nghiệm, chẩn đoán thai không nhằm mục đích điều trị.



15

+ Sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, nạo
hút thai, phá thai, trừ trường hợp phải đình chỉ thai nghén do nguyên nhân
bệnh lý của thai nhi hay của sản phụ.
+ Sử dụng dịch vụ thẩm mỹ.
+ Điều trị lác, cận thị và tật khúc xạ của mắt.
+ Sử dụng vật tư y tế thay thế bao gồm chân tay giả, mắt giả, răng giả,
kính mắt, máy trợ thính, phương tiện trợ giúp vận động trong khám bệnh,
chữa bệnh và phục hồi chức năng.
+ Khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng đối với bệnh nghề
nghiệp, tai nạn lao động, thảm họa.
+ Khám bệnh, chữa bệnh trong trường hợp tự tử, tự gây thương tích.
+ Khám bệnh, chữa bệnh nghiện ma túy, nghiện rượu hoặc chất gây
nghiện khác.
+ Khám bệnh, chữa bệnh tổn thương về thể chất, tinh thần do hành vi vi
phạm pháp luật của người đó gây ra.
+ Giám định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
+ Tham gia thử nghiệm lâm sàng, nghiên cứu khoa học.
* Nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm y tế: Theo Điều 37 Luật
BHYT quy định nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm y tế:
+ Đóng bảo hiểm y tế đầy đủ, đúng thời hạn.
+ Sử dụng thẻ bảo hiểm y tế đúng mục đích, không cho người khác
mượn thẻ bảo hiểm y tế.
+ Thực hiện các quy định tại Điều 28 của Luật này khi đến khám bệnh,
chữa bệnh (Cụ thể như sau: 1. Người tham gia bảo hiểm y tế khi đến khám
bệnh, chữa bệnh phải xuất trình thẻ bảo hiểm y tế có ảnh; trường hợp thẻ bảo
hiểm y tế chưa có ảnh thì phải xuất trình thẻ bảo hiểm y tế cùng với giấy tờ
chứng minh về nhân thân của người đó; đối với trẻ em dưới 6 tuổi chỉ phải



16

xuất trình thẻ bảo hiểm y tế; 2. Trường hợp cấp cứu, người tham gia bảo hiểm
y tế được khám bệnh, chữa bệnh tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào
và phải xuất trình thẻ bảo hiểm y tế cùng với giấy tờ quy định tại khoản 1 điều
này trước khi ra viện; 3. Trường hợp chuyển tuyến điều trị, người tham gia
bảo hiểm y tế phải có hồ sơ chuyển viện của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh).
+ Trường hợp khám lại theo yêu cầu điều trị, người tham gia bảo hiểm
y tế phải có giấy hẹn khám lại của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
+ Chấp hành các quy định và hướng dẫn của tổ chức bảo hiểm y tế, cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh khi đến khám bệnh, chữa bệnh.
+ Thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh ngoài phần chi phí do quỹ bảo hiểm y tế chi trả.
1.1.2. Chương trình BHYT tự nguyện cho nông dân ở Việt Nam
1.1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của BHYT Việt Nam:
Ngày 15 tháng 8 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã
ra Nghị định số 299/HĐBT ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế, khai sinh ra
Chính sách Bảo hiểm y tế tại Việt Nam. Chính sách này có hiệu lực từ ngày
01 tháng 10 năm 1992 trên phạm vi cả nước. Mức đóng BHYT bắt buộc đối
với người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước là 10% tiền lương, các đối
tượng khác là 3%, trong đó cơ quan (hoặc chủ sử dụng lao động) đóng 2/3,
người lao động đóng 1/3.
Ngày 06 tháng 6 năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 47/CP
sửa đổi Điều 7, Điều 8 và Điều 10 về mức đóng BHYT cho phù hợp với tình
hình thực tế. Mức đóng BHYT bắt buộc thống nhất là 3%.
Ngày 03 tháng 8 năm 1998, Chính phủ đã ra Nghị định số 58/1998/CP
ban hành Điều lệ BHYT mới, bổ sung thêm nhiều đối tượng tham gia BHYT
bắt buộc như: người có công với cách mạng, cán bộ xã, phường, thị trấn, đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp không thuộc biên chế Nhà nước, cán bộ y tế



17

cơ sở, giáo viên mầm non, nhà trẻ, thân nhân sỹ quan quân đội đang tại ngũ
và chính sách chăm sóc sức khoẻ người nghèo thông qua thông qua hình thức
mua thẻ BHYT cho họ. Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định
58/1998/CP ngày 13 tháng 8 năm 1998 đã thay thế Điều lệ ban hành kèm theo
Nghị định 299/HĐBT và Nghị định số 47/CP trước đây.
Năm 2002, sau khi sáp nhập với Bảo hiểm xã hội, một số điều trong
Điều lệ BHYT ban hành theo Nghị định số 58 đã bị bãi bỏ. Tuy nhiên, nội
dung cơ bản về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia BHYT vẫn thực hiện
theo Điều lệ BHYT ban hành năm 1998.
Ngày 16 tháng 5 năm 2005, Chính phủ ra Nghị định số 63/2005/NĐ-CP,
ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế. Điều lệ này thay thế Điều lệ BHYT ban hành
kèm theo Nghị định số 58/1998/CP và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7
năm 2005.
Ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ban hành Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12, gồm 10
chương và 52 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009.
Ngày 27 tháng 7 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định số
62/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và Hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Bảo hiểm y tế. Ngày 14 tháng 8 năm 2009, liên bộ Y tế - Tài chính có
Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thực hiện bảo
hiểm y tế.
Ngày 14 tháng 8 năm 2009, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số
10/2009/TT-BYT, ngày 14 tháng 8 năm 2009, hướng dẫn đăng ký khám, chữa
bệnh ban đầu và chuyển tuyến khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Qua 20 năm thực hiện chính sách BHYT, số người tham gia BHYT
ngày càng tăng mạnh. Kết quả cấp thẻ BHYT tính đến ngày 30 tháng 6 năm

2010, cả nước có 52.961.000 người có thẻ BHYT, trong đó : Nhóm người lao


18

động 9.125.000 người; Nhóm do ngân sách Nhà nước 7.153.000 người;
Nhóm người nghèo và cận nghèo 14.965.000 người; Nhóm trẻ em dưới 6 tuổi
8.125.000; Nhóm học sinh, sinh viên 9.890.000 người; Nhóm tự nguyện
3.703.000 người. Nguồn thu BHYT ngày càng trở thành nguồn tài chính quan
trọng cho các cơ sở khám chữa bệnh; chính sách BHYT được đông đảo nhân
dân đồng tình ủng hộ, đây là những tiền đề quan trọng để tiến tới BHYT toàn
dân.[10]
1.2.2.2 Chương trình BHYT tự nguyện cho nông dân ở Việt Nam
Ngày 22/11/2012, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW
về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Bảo hiểm xã hội, Bảo
hiểm y tế giai đoạn 2012-2020”. Nghị quyết đã nêu ra 4 quan điểm: Khẳng
định bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ
cột chính của chính sách an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội. Đồng thời mở rộng và hoàn
thiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, có bước đi, lộ trình
phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; phát triển hệ thống bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đồng bộ với các dịch vụ xã hội, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia
và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Cùng với đó, quan
điểm trong Nghị quyết cũng nhấn mạnh bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế phải
theo nguyên tắc có đóng, có hưởng, quyền lợi tương ứng với nghĩa vụ, có sự
chia sẻ giữa các thành viên, bảo đảm công bằng và bền vững của hệ thống bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Thực hiện tốt các chế độ, chính sách bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể,
tổ chức xã hội, doanh nghiệp và mỗi người dân. Cùng với các quan điểm,

Nghị quyết cũng chỉ ra 4 nhiệm vụ và giải pháp mà các địa phương, các cấp,
các ngành cần phải thực hiện. Trong đó tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác


19

tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế. Nâng cao chất lượng dịch vụ và công tác thực hiện các chế độ,
chính sách, đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước vè bảo hiểm xã hội và
bảo hiểm y tế.
Thực hiện Luật bảo hiểm y tế nói chung, bảo hiểm y tế tự nguyện nói
riêng, các tỉnh, thành phố trong cả nước đã bám sát những Thông tư, văn bản
hướng dẫn thi hành luật của các bộ có liên quan để thực hiện và đảm bảo
quyền lợi cho người bệnh có tham gia bảo hiểm y tế. [10]
Theo Điều 3, Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2009
của Chính phủ quy định đối tượng tham gia và mức hưởng của nhóm bảo
hiểm y tế tự nguyện được quy định như sau:
* Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện
Đối tượng tự nguyện tham gia BHYT theo quy định tại Điều 51 Luật
BHYT và khoản 2 Điều 2 Nghị định số 62/2009/NĐ-CP, bao gồm:
- Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức;
- Người lao động nghỉ việc đang hưởng chế độ ốm đau theo quy định
của pháp luật về BHXH do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài
ngày do Bộ Y tế ban hành;
- Học sinh, sinh viên đang theo học tại các nhà trường, trừ những người
tham gia BHYT theo đối tượng khác;
- Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và
diêm nghiệp;

- Thân nhân người lao động làm công hưởng lương theo quy định của
pháp luật về tiền lương, tiền công; xã viên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể;


20

- Đối tượng quy định tại các điểm a, d và đ khoản 1 Điều này thực hiện
theo địa giới hành chính; các đối tượng quy định tại các điểm b và c khoản 1
điều này thực hiện theo đơn vị cơ quan, trường học;
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam hướng dẫn cụ thể việc cấp thẻ BHYT cho
các đối tượng, bảo đảm tính liên tục khi chuyển từ hình thức tự nguyện sang
thực hiện theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế.
* Mức đóng BHYT tự nguyện
Từ ngày 01 tháng 01 năm 2012, mức đóng hằng tháng của đối tượng
quy định tại khoản 22 Điều 12 Luật Bảo hiểm y tế (bảo hiểm y tế tự nguyện)
bằng 4.5% mức lương tối thiểu. Theo khoản 6 Điều 3 của Nghị định này,
trường hợp đối tượng quy định tại khoản 20 và khoản 22 Điều 12 Luật Bảo
hiểm y tế, tham gia bảo hiểm y tế thao hộ gia đình, bao gồm toàn bộ người có
tên trong sổ hộ khẩu và đang sống chung trong một nhà và đối tượng quy định
tại khoản 23 Điều 12 Luật bảo hiểm y tế có từ 2 thân nhân trở lên, tham gia,
mức đóng của các thành viên như sau:
- Người thứ nhất đóng bằng mức quy định
- Người thứ hai, thứ ba và thứ tư đóng lần lượt bằng 90%, 80%, 70%
mức đóng của người thứ nhất
- Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 60% mức đóng của người thứ nhất.
* Mức hưởng: 80% chi phí khám, chữa bệnh; phần còn lại do người
bệnh tự thanh toán với cơ sở khám, chữa bệnh.
Ngày 06 tháng 01 năm 2012, tại Hà Nội, Bộ Y tế và BHXH Việt Nam
đã tổ chức hội nghị tổng kết, đánh giá 3 năm thực hiện Luật bảo hiểm y tế và
định hướng sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT. Tại hội nghị đã

đánh giá những thành công và một số tồn tại như sau:
- Những thành công
Sau 3 năm triển khai thực hiện, Luật BHYT đã từng bước đi vào cuộc
sống, đã tác động tích cực đến chính sách BHYT tại Việt Nam, khằng định


21

tính đúng đắn và phù hợp trong lưạ chọn chính sách tài chính y tế. Có thể nói,
chính sách BHYT có vai trò quan trọng, đóng góp về tài chính và thực hiện
được định hướng công bằng, hiệu quả và phát triển của hệ thống chăm sóc
sức khỏe nước ta, phù hợp với định hướng chính sách tài chính y tế của Đại
hội đồng Tổ chức y tế thế giới và xu thế của các nước trong khu vực.
Những quy định trong Luật khi thực hiện đã tác động đến nhiều mặt
của đời sồng, kinh tế - xã hội và mọi tầng lớp nhân dân. Đặc biệt chính sách
BHYT đã góp phần tạo nên sự sông bằng trong chăm sóc sức khỏe, nhất là
với nhóm người nghèo, cận nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi.
Sau khi Luật Bảo hiểm y tế đi vào cuộc sống, số người tham gia bảo
hiểm y tế đã tăng nhanh. Tính đến tháng 10/2012, cả nước đã có trên 57 triệu
người tham gia, tăng 8 triệu người so với năm 2010. Năm 2012, ước số
ngươid tham gia bảo hiểm y tế là 59,164 triệu người, tăng hơn 2 triệu người
so với năm 2011, tỷ lệ bao phủ khoảng 65% dân số; 2 453 cơ sở khám, chữa
bệnh đã ký hợp đồng khám, chữa bệnh cho người có thẻ bảo hiểm y tế, tăng
6% so với năm 2010. Người tham gia bảo hiểm y tế được tiếp cận dịch vụ ở
tất cả các tuyến y tế theo nhu cầu chăm sóc sức khỏe và bệnh tật. Năm 2011,
đã có 114 triệu lượt người đi khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế (8,9 triệu người
điều trị nội trú và 105,5 triệu người điều trị ngoại trú) với tần suất khám, chữa
bệnh bình quân 2,02 lần/người/năm.[9]
- Những tồn tại
Quá trình thực hiện Luật Bảo hiểm y tế cũng đang bộc lộ nhiều bất cập

và vướng mắc. Việc mở rộng và phát triển đối tượng tham gia BHYT cha] đạt
như mục tiêu đề ra, tỷ lệ tham gia BHYT chưa đầy đủ, tính tuân thủ pháp luật
chưa cao, cho nên vẫn còn 35% số dân chưa tham gia BHYT. Trong số này có
các nhóm đối tượng phải tham gia BHYT theo lộ trình quy định nhưng không
tham gia đầy đủ. Công tác mở rộng đối tượng tham gia BHYT tự nguyện
cũng gặp nhiều khó khăn do người dân chỉ tham gia khi mắc bệnh mạn tính,


22

có chi phí chữa trị cao. Chính quyền các cấp ở một số nơi chưa quan tâm
đúng mức trong phối hợp tuyên truyền với cơ quan BHXH, người dân thiếu
thông tin về bảo hiểm y tế, nhiều người không biết phải mua thẻ bảo hiểm y tế
ở đâu hoặc quyền lợi của mình ra sao.[9]
1.2. Thực tiễn và kinh nghiệm tổ chức BHYT tự nguyện cho nông dân
1.2.1. Kinh nghiệm tổ chức BHYT tại một số nước trên thế giới
1.2.1.1. Bảo hiểm y tế tại Đài Loan
Bảo hiểm y tế tại Đài Loan được thực hiện từ năm 1995 theo hình thức
BHYT bắt buộc theo luật với tất cả mọi người dân. Tỷ lệ bao phủ hiện nay là
99% dân số (23 triệu người tham gia). Mức đóng, quyền lợi của người tham
gia BHYT được thống nhất trên toàn lãnh thổ Đài Loan.
Quỹ BHYT được hình thành từ các nguồn chính: từ đóng góp của
người lao động, chủ sử dụng lao động, Chính phủ. Ngoài ra một số lợi tức thu
được từ xổ số, thuế thuốc lá cũng được bổ sung cho nguồn Quỹ BHYT.
Mức đóng BHYT hiện tại là 5,17% thu nhập. Tuỳ theo từng nhóm đối
tượng mà mức đóng/hỗ trợ của Chính phủ khác nhau. Ví dụ: người lao động
trong các doanh nghiệp tư nhân tự đóng 30%, người sử dụng lao động đóng
60%, Chính phủ hỗ trợ 10%. Trong khi đó nhóm đối tượng thuộc các đơn vị
của nhà nước thì tỷ lệ đóng tương ứng là 30%, 70%, 0%. Nhà nước cũng có
chính sách hỗ trợ đóng 100% đối với các đối tượng có thu nhập thấp, cựu

chiến binh và quân nhân tại ngũ
Tình hình thu chi quỹ: Từ năm 2001 đến 2006, thu – chi quý BHYT ở
trạng thái cân bằng; từ năm 2007 đến 2009 đã xảy ra tình trạng bội chi quỹ;
năm 2010 dư 18 tỷ NT$. [6]
1.2.1.2. Bảo hiểm y tế ở Pháp
Hệ thống an sinh xã hội của Pháp được xây dựng từ những năm 1945 1946, ngay sau khi Chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc. Mục đích của hệ
thống này là bảo đảm cho người dân trong mọi hoàn cảnh đều có thể có


23

những phương tiện cần thiết để tồn tại trong những điều kiện chấp nhận được.
Hệ thống an sinh xã hội của Pháp bao gồm các quỹ BHYT (bệnh tật thông
thường, bệnh nghề nghiệp và cả trường hợp tai nạn lao động), quỹ dành cho
người già, quỹ dành cho trợ cấp gia đình và quỹ cho trợ cấp thất nghiệp.
Nghĩa là xã hội đặt ra một mức sống tối thiểu nào đó, nếu khả năng của anh
không đạt được mức đó thì Nhà nước sẽ hỗ trợ để anh có quyền được sống
với đúng phẩm giá con người và không phải quá lo sợ về một tương lai bấp
bênh, mờ mịt.
Chế độ BHYT ở Pháp có tính bắt buộc và độc quyền. Bắt buộc vì toàn
dân và cả những người nước ngoài cư trú tại Pháp đều phải đóng góp vào hệ
thống BHYT này, không có sự chọn lựa nào khác. Độc quyền vì mặc dù các
công ty tư nhân đứng ra phụ trách việc thu, quản lý và phân phát lại quỹ BHYT
nhưng họ hoạt động cho Nhà nước và hoàn toàn không có sự cạnh tranh của
các công ty khác. Về chi phí khám bệnh thì quỹ sẽ chi từ 35 - 70%, chi phí
thuốc men thì từ 15 - 100%, do đó hầu như mọi người vẫn phải mua thêm bảo
hiểm sức khỏe ở ngoài để tất cả các chi phí khám chữa bệnh được hoàn lại
100%. Trong lĩnh vực bảo hiểm sức khỏe thì có sự tự do cạnh tranh, các công
ty bảo hiểm thỏa sức đưa ra các sản phẩm hấp dẫn để thu hút khách hàng.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ bảo hiểm y tế tại Pháp đó là:

- Bắt buộc và độc quyền
- Phòng ngừa lạm dụng [5]
1.2.2. Kinh nghiệm về BHYT tại Việt Nam
* Kinh nghiệm về BHYT tự nguyện ở tỉnh Quảng Ngãi
Năm 2004, tỉnh Quảng Ngãi bắt đầu triền khai thí điểm BHYT tự
nguyện nhân dân tại thị xã Quảng Ngãi và các huyện Tư Nghĩa, Đức Phổ, Sơn
Hà, với 409 người tham gia. Đến nay, loại hình BHYT này đã được triển khai
trên khắp địa bàn tỉnh.


24

Theo số liệu thống kê tại BHXH tỉnh, năm 2009 toàn tỉnh có 28.368
người tham gia BHYT, năm 2010: 32.786 người; năm 2011: 46.602 người và
đến hết quý I năm 2012 đã có 19.955 người tham gia BHYT. Trong đó có một
số địa phương số người tham gia BHYT tăng mạnh như: Thành phố Quảng
Ngãi, các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa... Điều này chứng tỏ chính
sách BHYT đã dần đi vào cuộc sống và trở thành nhu cầu không thể thiếu của
người dân. Chính sách BHYT ngày càng trở thành nhu cầu thiết yếu và không
còn xa lạ đối với người dân. Việc đăng ký tham gia BHYT cũng đơn giản, dễ
dàng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, công tác triển khai
BHYT cho đối tượng tự nguyện nhân dân trên địa bàn cũng còn gặp phải khó
khăn, vướng mắc nhất định như: đối tượng tham gia BHYT chưa mang tính
cộng đồng cao, rất nhiều người chỉ khi ốm đau, bệnh tật mới mua thẻ BHYT.
Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự an toàn của Quỹ BHYT cũng như
mất đi tính cộng đồng, chia sẻ của chính sách này.
Công tác khám, chữa bệnh BHYT tại các cơ sở có lúc, có nơi còn nhiều
bất cập; một số quy định thanh toán BHYT chưa phù hợp với nhu cầu thực tế
trong khám và điều trị; mức phí BHYT hằng năm tăng theo mức lương tối

thiểu chung cũng gây khó khăn đối với nhóm đối tượng này. [4]
* Kinh nghiệm về BHYT tại tỉnh Thái Nguyên
Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên chủ động phối hợp với Sở Giáo dục
- Đào tạo, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh, cùng các ngành liên quan họp bàn và
ký kết văn bản hướng dẫn liên ngành về việc thực hiện BHYT cho các đối
tượng thuộc cơ quan của mình quản lý.
Đại lý thu BHYT tự nguyện của các nhóm đối tượng này là các trường
học, các tổ chức đoàn thể ở cấp xã, phường. Các đại lý thu có nhiệm vụ phối
hợp cùng cơ quan BHXH tuyên truyền, hướng dẫn hội viên của mình tham


25

gia BHYT tự nguyện, cụ thể là: giải đáp cho hội viên về quyền lợi và trách
nhiệm của việc tham gia BHYT.
Năm 2003, phát hành được 114.687 thẻ, số tiền thu là 4.506.640.000
đồng. Trong đó, học sinh, sinh viên 113.147 người, số tiền thu 4.377.370.000
đồng, đạt tỷ lệ trên 60% so với số học sinh toàn tỉnh; nhân dân 1.540 người,
số tiền thu 129.270.000 đồng. Năm 2004, số thẻ BHYT tự nguyện phát hành
được 166.026 thẻ, số tiền thu là 7.806.828.500 đồng, vượt kế hoạch trên
200%. Trong đó, học sinh, sinh viên 134.156 người, số tiền thu 5.179.180.000
đồng, đạt tỷ lệ trên 70% so với số học sinh hiện có; nhân dân 31.870 người, số
tiền thu 2.627.648.500 đồng, so với năm 2003, số người tham gia tăng là
14,48%, số tiền thu tăng là 73,3%. khó khăn, vướng mắc.
Bên cạnh những thuận lợi, trong quá trình triển khai thực hiện BHYT tự
nguyện cho nhóm đối tượng thuộc các đoàn thể nhân dân cũng gặp không ít khó
khăn vướng mắc. Đó là: Nhận thức của một số lãnh đạo chính quyền cơ sở về
BHYT tự nguyện còn hạn chế, đặc biệt là ở cấp xã, phường và trường học.
Mặt khác, việc khám chữa bệnh theo chế độ BHYT còn có những bất

cập, một số cơ sở KCB trên địa bàn chưa thấy được trách nhiệm của mình
trong việc chăm sóc sức khoẻ cho người có thẻ BHYT, thái độ phục vụ của
một số thầy thuốc còn thờ ơ với người bệnh và có sự phân biệt đối xử giữa
bệnh nhân có thẻ BHYT với bệnh nhân tự nộp viện phí. Từ đó đã làm cho
người bệnh thiếu sự tin tưởng vào việc khám chữa bệnh theo chế độ
BHYT.[5]


×