Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Thực trạng cung cấp dịch vụ và nhận thức, thái độ, thực hành của phụ nữ có con dưới 24 tháng tuổi về làm mẹ an toàn tại huyện mai sơn, tỉnh sơn la năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.84 KB, 91 trang )

Bộ YTẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH

CAO XUÂN BÌNH

THỤC TRẠNG CUNG CÁP DỊCH vụ
VÀ NHẢN THỨC, THÁI ĐÔ, THƯC HÀNH CỦA PHU NỮ
CÓ CON DƯỚI 24 THÁNG TUỔI VỀ LÀM MẸ AN TOÀN
TẠI HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA NĂM 2014

LUẬN ÁN BÁC Sĩ CHUYÊN KHOA CẤP II

THÁI BÌNH2014


Bộ YTÉ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH

CAO XUÂN BÌNH

THƯC TRANG CUNG CẤP DICH vu

••••

VÀ NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ, THỤC HÀNH CỦA PHỤ NỮ
CÓ CON DƯỚI 24 THÁNG TUỎI VÈ LÀM MẸ AN TOÀN
TAI HUYÊN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA NĂM 2014

Chuyên ngành: Quản lý Y tế
Mã số: CK. 62 72 76 05


LUẬN ÁN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA CÁP II

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguvễn Quốc Tiến


2. TS. Nguyễn Xuân Bái
Lời đâu tiên em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý đào
tạo Sau đại học, Khoa Y tế công cộng cùng các thầy giáo, cô giảo Trường Đại học
Y - Dược Thải Bình dã tận tình hướng dần và tạo điểu kiện thuận lợi để em hoàn
thành khoú học.
Em xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Nguyễn Quốc Tiến, Phó hiệu trưởng
Trường Đại học Y - Dược Thủi Bình; TS Nguyền Xuân Bái, Trưởng phòng Quán lý
đào tạo Sau đại học, Trường Đại học Y - Dược Thải Bình, là những người Thầy đã
trực tiếp, tận tình hướng dần, giúp đỡ em hoàn thành luận án tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn các đồng chỉ Lãnh đạo, cản bộ, công chức của Sở
Y tế Sơn La dã tạo điều kiện, dộng viên, chia sẻ, hỗ trợ trong công việc để tôi được
tham gia khoủ học.
Xin chân thành cảm ơn dồng chí Giám đốc và cản bộ viên chức Trung tâm
Y tể huyện Mai Sơn; cán bộ y tế các Trạm y tế xã, thị trấn trực thuộc Trung tâm y
tế huyện Mai Sơn đã phối hợp điều tra và cung cấp thông tin để tôi hoàn thành
luận án.
Xin được cảm ơn tới gia đình và các anh, chị em học viên trong lớp Bác sỹ
chuyên khoa cấp II, chuyên ngành Quán lý y tế ba tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai
Châu, những người đã luôn bên tôi để động viên, chia sẻ kinh nghiệm học tập,
khuyến khích tôi trong thời gian học tập./.
Thải Bình, tháng 12 năm 2014
Cao Xuân Bình
Tôi xin cam đoan Luận án nghiên cứu này là công trình do bủn thân tôi



chủ trì, phối hợp với cán bộ viên chức Trung tâm Y tế huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
thực hiện việc điều tra thu thập thông tin. Được sự hướng dẫn, giúp dỡ của các
Thầy giáo, Cô giáo Trường Đại học Y - Dược Thái Bình để hoàn thành Luận án.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong báo cáo này hoàn toàn trung thực theo kết
quả điều tra./.
Thái Bình, tháng 12 năm 2014

Cao Xuân Bình


DANH MUC CÁC CHỮ VIẾT TẮT •
AIDS

BCS
BLTQĐTD
BPTT

Acquired Immunodeficiency Syndrome (Hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải)

BV

Bao cao su

CCDV

Bệnh lây truyền qua đường tình dục

CSSKSS


Biện pháp tránh thai

CSYT

Bệnh viện

CTVDS

Cung cấp dịch vụ

CQG

Chăm sóc sức khoẻ sinh sản

DCTC

Cơ sở y tế

HIV
ICM

Cộng tác viên dân số Chuẩn Quốc gia Dụng cụ tứ cung
Human Immunodeficiency Virus (Vi rút gây suy giảm miền
dịch ở người)

KHHGĐ

Liên đoàn hộ sinh quốc tế Kế hoạch hoá gia đình Làm mẹ an


LMAT

toàn

MMR

Maternal Mortality Ratio (Tỷ suất tử vong mẹ)

NHT

Nạo hút thai

NKĐSS

Nhiễm khuẩn đường sinh sản

PNCT

Phụ nữ có thai

SHTD

Sinh hoạt tình dục

TYT

Trạm y tế

TVM


Tử vong mẹ

TVSS

Tử vong sơ sinh

UNFPA

United Nations Population Fund (Quỳ dân số Liên hợp quốc)

WHO

World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)

YTTB

Y tế thôn bản


MUC LUC
••

Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
DANH MỤC BIÉU ĐÒ

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHU LUC
••


Trang



Trang


9
ĐẬT VẨN ĐÈ
Sức khỏe sinh sản luôn là mối quan tâm của ngành y tế và cả cuộc đời
người phụ nữ bởi sự liên quan và dề đưa đến những nguy cơ về sức khỏe. Phần lớn
gánh nặng sức khỏe cua phụ nữ đều liên quan tới tình dục và sinh sản đặc biệt là
đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Làm mẹ an toàn (LMAT) được hiểu là tất cả phụ nữ đều được nhận sự chăm
sóc cần thiết để được hoàn toàn khoẻ mạnh trong suốt thời gian mang thai, khi sinh
đẻ và sau đẻ, bao gồm cả điều trị cấp cứu sản khoa hoặc khi có tai biến xảy ra [9].
Nhưng hiện nay đôi khi chúng ta vẫn chưa quan tâm đúng mức đến chăm sóc sức
khỏe sinh sản đế người phụ nữ thực hiện chức năng sinh sản một cách an toàn.
Những tai biến của quá trình mang thai và sinh con là nguyên nhân hàng đầu dẫn
tới tử vong và thương tật cho phụ nữ ở độ tuổi 15-49 tại hầu hết các nước đang
phát triển. Vì vậy nếu được chăm sóc tốt hơn trong khi mang thai, khi sinh con và
có cơ hội tiếp cận nhiều hơn tới dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản (CSSKSS) thì
có khả năng làm giảm tử vong mẹ một cách đáng kể.
Tại Việt Nam, năm 2009, “Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ sinh sản” được Bộ Y tế ban hành, đây là tài liệu hướng dần cho nhân viên
y tế các tuyến triển khai thực hiện các dịch vụ chuẩn về chăm sóc sức khoẻ sinh
sản, nhằm hạn chế đến mức tối đa các tai biến trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn [5].
Năm 2011 Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sán

Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Mục tiêu tổng thể cúa Chiến lược này là đảm bảo
mọi nam giới, phụ nữ và vị thành niên đều được tiếp cận với các thông tin và dịch
vụ CSSKSS có chất lượng. Sự khác biệt giữa các vùng dân cư trong việc tiêp cận
các thông tin và dịch vụ CSSKSS có chât lượng cân được loại bỏ [14].


1
0
Trong những năm qua công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân nói chung và
công tác CSSKSS nói riêng đã đạt được những thành tích đáng khích lệ. Hệ thống
các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ trẻ em, Kế hoạch hoá gia đình
(KHHGĐ) được mở rộng, với chất lượng ngày càng cao, tình hình sức khoẻ bà mẹ
trẻ em được cải thiện đáng kể [7]. Bên cạnh việc ban hành các quy định, chính
sách về chăm sóc sức khỏe sinh sản, cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sinh sản thì việc nâng cao kiến thức, thực hành của phụ nữ và những
mối liên quan ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ
đặc biệt là phụ nữ ở vùng sâu vùng xa, dân tộc ít người là điều cần thiết.
Trong những năm gần đây, đã có khá nhiều nghiên cứu tìm hiểu kiến thức,
thái độ, thực hành của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ với hàng loạt các vấn đề xã hội
có liên quan. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ tập trung vào nghiên cứu thực
trạng mà có rất ít nghiên cứu đánh giá sự thay đổi kiến thức cũng như thực hành
của nhóm phụ nừ.
Với ý nghĩa như vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu:
ì) Đánh giá thực trạng nguồn lực cung cấp dịch vụ làm mẹ an toàn của các
trạm y tế xã huvện Mai Sơn tinh Son La, năm 2014.
2) Mô tả nhận thức, thực hành và khả năng tiếp cận dịch vụ làm mẹ an toàn
của phụ nữ cỏ con dưới 24 tháng tuổi tại địa bàn nghiên cứu.
Chương 1
TÓNG QUAN TÀI LIỆU


1.1.
Môt sô khái
niêm • •
Khái niệm về sức khoe’ sinh sản
é

Năm 1994, Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển họp tại Cairô, thủ đô
nước Ai cập đã đưa ra định nghĩa về sức khoẻ sinh sản: “Sức khoè sinh sản là trạng


1
1
thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội, không chi đơn thuần là không có
bệnh tật hoặc tàn phế của hệ thống sinh sản [41]. Điều này cũng hàm ý là mọi
người, kể cả nam và nữ, đều có quyền được nhận thông tin và tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khoổ, các biện pháp kế hoạch hoá gia đình an toàn, có hiệu quả và
chấp nhận được theo sự lựa chọn của mình, đám bảo cho người phụ nữ trải qua
quá trình thai nghén và sinh đé an toàn, tạo cho các cặp vợ chồng cơ may tốt nhất
để sinh được đứa con lành mạnh”.
Làm mẹ an toàn
é

Làm mẹ an toàn (LMAT) được hiểu là tất cả phụ nữ đều được nhận sự
chăm sóc cần thiết để được hoàn toàn khoẻ mạnh trong suốt thời gian mang thai,
khi sinh đẻ và sau đẻ, bao gồm cả điều trị cấp cứu sản khoa hoặc khi có tai biến
xảy ra. Điều này có thể được hiểu là các bà mẹ cần được cung cấp các dịch vụ
trước sinh như: Khám thai, tiêm phòng uốn ván, uống viên sắt, tư vấn chăm sóc
sức khoe cho cho cả mẹ và thai nhi; khi sinh con các bà mẹ cần được cán bộ y tế
đờ đẻ và tư vấn chăm sóc sức khoẻ và nuôi con bằng sữa mẹ; trong 28 ngày đầu
sau sinh được khám lại cho cả mẹ và con [9],

Chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản
Chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) là dịch vụ tuân
theo quy trình kỳ thuật được quy định trong Chuẩn Quốc gia về các dịch vụ
CSSKSS, đáp ứng được nhu cầu và mong đợi của khách hàng, đảm bảo sự hài lòng
của khách hàng đồng thời giúp những nhà cung cấp dịch vụ đạt được kết quả cao,
được khách hàng tin tưởng, vì thế động viên người cung cấp dịch vụ tích cực hơn
đế không ngừng nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ [9].
Thuốc thiết yếu chăm sóc sức khỏe sinh sản tại tuyến xã
Thuốc thiết yếu là những thuốc đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của đại
đa số nhân dân; được đàm bảo bàng chính sách thuốc quốc gia, gắn liền với nghicn


1
2
cứu, sản xuất, phân phối thuốc với nhu cầu thực tế chăm sóc sức khỏe nhân dân;
luôn sẵn có bất kỳ lúc nào với chất lượng đảm bào, đủ số lượng cần thiết, dưới
dạng bào chế phù hợp, an toàn, giá cả hợp lý. Phù hợp với mô hình bệnh tật,
phương tiện kỳ thuật, trình độ cán bộ chuyên môn phù hợp của tuyến sử dụng [11],
Danh mục thuốc thiết yếu trong CSSKSS (theo Thông tư số 45/2013/TTBYT của Bộ Y tế ban hành danh mục thuốc thiết yếu tân dược lần thứ VI): Thuốc
giảm đau, tiền mê, nhóm không chứa Opi và có chứa Opi; thuốc kháng sinh, thuốc
hạ huyết áp; thuốc sát khuẩn và khứ khuẩn; thuốc chống co thắt; thuốc tăng, giảm
co bóp tử cung; nhóm vi ta min và chất khoáng; nhóm thuốc tránh trai; các nhóm
thuốc khác, dịch truyền, thuốc điều trị sốt rét[ 11],
1.2.

Đặc điểm dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản tại trạm y tế xã
Thủ tướng Chính phù đã có những quy định về tổ chức, về chế độ chính

sách đối với y tế cơ sở. Trong đó, các trạm y tế (TYT) xã được xác định là đơn vị
kỳ thuật đầu tiên tiếp xúc với dân, nằm trong hệ thống y tế Nhà nước, có nhiệm vụ

thực hiện các dịch vụ kỳ thuật chăm sóc sức khỏe ban đầu, phát hiện dịch sớm,
chữa các bệnh và đỡ đẻ thông thường, vận động nhân dân thực hiện các biện pháp
kế hoạch hóa gia đình (K.HHGĐ), vệ sinh phòng bệnh, tăng cường sức khỏe [8],
Các TYT xã giữ vai trò thực sự quan trọng trong việc đáp ứng nhu câu
CSSKSS cho người dân. Một điều đã được minh chứng là năng lực cung cấp dịch
vụ (CCDV), tính sẵn có và khả năng tiếp cận của dịch vụ với người dân là những
thành tổ quan trọng ánh hướng đến chất lượng CCDV tại các cơ sở y tế trong đó có
các TYT xã [5], [8]. Nằm trong hệ thống CSSKSS của cả nước, các TYT xã có
những khó khăn riêng trong việc đáp ứng các dịch vụ y tế nói chung và dịch vụ
CSSKSS nói ricng. Như được trình bày trong Báo cáo công tác y tế năm 2008 của
Bộ Y tế, chính sách đãi ngộ, tuyển dụng đối với cán bộ y tế còn nhiều bất cập, dẫn
tới khó khăn trong thu hút cán bộ phục vụ tại vùng khó khăn, tuyến cơ sở. Bên


1
3
cạnh đó, nhu cầu đầu tư cho y tế lớn, yêu cầu của nhân dân ngày càng cao nhưng
nguồn lực đầu tư cho y tế còn hạn chế.
Nhân lực của TYT xã giai đoạn trước năm 2001 được xác định tại Quyết
định số 58/TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 03/02/1994 là từ 3-6 biên
chế trong một TYT, từ 4 người trở lên phụ thuộc vào dân sổ hoặc vùng núi, hoặc
vùng cao của từng xã. Từ năm 2001 đến nay, bố trí nhân lực và các hoạt động của
TYT xã được quy định trong Chuẩn Quốc gia về Y tế xã giai đoạn 2001-2010 và
Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 của Bộ Y tế và Bộ
Nội vụ hướng dẫn định mức biên chế trong các cơ sở y tế nhà nước, trong đó đáng
chú ý là: TYT xã tối thiểu có 5 cán bộ, tối đa có 10 cán bộ; cần có bác sỹ hoặc y sỳ
đa khoa (đồng bằng phải có bác sỹ); nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản, nhi (đồng bằng phải
có nữ hộ sinh trung học hoặc y sỹ sản, nhi); y tá (đồng bằng phải có y tá trung học
trở lên).
Sau một thời gian triển khai thực hiện, nhiều TYT xã đã được xây dựng mới

hoặc nâng cấp, cán bộ y tế được bố sung. Theo thông báo của Bộ Y tế, năm 2007
cả nước đã có 10.834 TYT, chiếm 98,8% tổng số xã/phường/thị trấn, về số lượng
cán bộ y tế, toàn quốc có 52.540 người hiện đang công tác tại các TYT xã, bình
quân 4,9 người/trạm. Tỷ lệ TYT xã có bác sỳ là 67,4%; tỷ lệ TYT xã có y sỹ sản,
nhi hoặc nữ hộ sinh đạt 93,6% [ 10].
Tại Sơn La, theo số liệu báo cáo thống kê của Sở Y tế, đến ngày 31 tháng 12
năm 2013 toàn tỉnh có 204 trạm y tế xã, phường, thị trấn (gọi chung là xã); về
nguồn nhân lực tại các trạm y tế xã, phường, thị trấn có tổng số cán bộ viên chức
1320 đạt tỷ lệ 6,5 cán bộ trên 01 trạm y tế. Trong đó Bác sĩ: 132, Y sĩ 436 (trong đó
y sĩ sản nhi 47, chiếm 10,8% trong tổng số y sĩ), Hộ sinh 245 (trong đó cử nhân hộ
sinh 3, hộ sinh trung học 180, hộ sinh sơ học 62), Điều dưỡng 385 (trong đó cử
nhân điều dưỡng 2, điều dưỡng trung cấp 232, điều dưỡng sơ cấp 150). Trong 24


1
4
xã, phường, thị trấn có 78 xã (38,24%) đạt chuẩn quốc gia về Y tế xã giai đoạn
2001-2010 [43].
1.3.

Tử vong mẹ, tử vong sơ sinh và kiến thức, thực hành của phụ nữ về

làm mẹ an toàn
1.3.1. Tử vong mẹ và tử vong sơ sinh
Tử vong mẹ
Tử vong mẹ hiện đang là một vấn đề y tế công cộng đáng quan tâm và lo
ngại trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Ớ các nước
này, mang thai và sinh đẻ là những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, bệnh tật và
tàn tật ở phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ (15-49). Tử vong trong nhóm tuổi này chiếm
ít nhất (18%) tổng số gánh nặng bệnh tật toàn cầu, cao hơn bất kỳ vấn đề sức khỏe

đơn lẻ nào khác. Trong bản báo cáo “Ước lượng tử vong mẹ năm 2005” của Tổ
Chức Y tế thế giới và Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra rằng, trung bình cứ mỗi phút
trôi qua thì có một phụ nữ tử vong do các nguyên nhân liên quan đến thai sản.
Theo ước tính năm 2005, tỷ suất tử vong mẹ (MMR) trên phạm vi toàn thế giới
vẫn còn rất cao (MMR=400). Con số này cao nhất ở khu vực cận Sahara
(MMR=900), tiếp đến là châu Phi (MMR=820), khu vực Nam Á (MMR=490). Tại
các khu vực đang phát triển tỉ lệ này vân cao hơn tỉ lệ chung trên thê giới
(MMR=450). Tỷ suât tử vong mẹ tại khu vực Đông Nam Á (MMR=300) thấp hơn
so với tỷ suất chung của khu vực các nước đang phát triển [63],
Tỷ suất tử vong mẹ có sự khác biệt rõ ràng giữa các nước giàu và nước
nghèo và giữa các châu lục với nhau. Tỷ suất tử vong mẹ ở các nước phát triển là
9/100.000, đối lập sâu sắc với tỷ suất tử vong mẹ lên đến 450/10.000 tại các nước
đang phát triển. Có tới 99% số các trường hợp từ vong mẹ xảy ra ở các nước đang
phát triển, nhiều nhất ở khu vực châu Phi và Nam Á. Ngay trong cùng một châu
lục, sự khác biệt về tỷ suất tứ vong mẹ cũng khá rõ rệt. Tại khu vực châu Á, tỷ suất


1
5
tử vong mẹ cao nhất thuộc về khu vực Nam Á (MMR=490), trong khi tại khu vực
Đông Á con số này chi là (MMR=50). Công bố của Liên Hợp Quốc cũng chỉ ra:
Nhóm phụ nữ 15 tuổi có nguy cơ tử vong do biến chứng liên quan đến thai sản cao
nhất ờ Nigeria (1/7), và nguy cơ thấp nhất ở Ireland (1/48.000) [63], [64],
Các số liệu thống kê đã chỉ ra rằng tỷ suất tử vong mẹ tính chung trên toàn
cầu giảm chậm đồng thời cho thấy tỷ lệ giảm này chủ yếu chỉ diễn ra ở các khu
vực đã có sẵn mức độ tử vong mẹ tương đối thấp, như khu vực Đông Á (MMR
năm 1990 và 2005 lần lượt là 95 và 50), trong khi đó tỷ lệ tử vong mẹ giảm rất
chậm ở những khu vực mà trước đó tỷ lệ tử vong đã cao sẵn, chẳng hạn như khu
vực Cận Sahara (MMR năm 1990 và 2005 lần lượt là 920 và 900) [63], Việc giảm
này quá chậm đế đạt được mục tiêu thiên niên kỷ là đến năm 2015 tỉ lệ này giảm

75% so với năm 1990.
Nguyên nhân gây ra tử vong mẹ bao gồm cả nguyên nhân trực tiếp và gián
tiếp trong đó các nguyên nhân trực tiếp gây tử vong mẹ chiếm 80% các trường hợp
tử vong mẹ trên thế giới [64]. Các nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tử vong mẹ là các
tai biến sản khoa trong giai đoạn thai sản (thời kỳ mang thai, chuyển dạ và sau
sinh), do can thiệp sản khoa, chẩn đoán sai, điều trị không đúng. Cụ thê như băng
huyêt, nhiêm trùng, tiên sản giật/sản giật, đẻ khó, nạo hút thai không an toàn, chửa
ngoài tử cung, tắc mạch ối và các trường hợp tử vong có liên quan đến gây mê do
mồ lấy thai,... trong đó nguyên nhàn gây tử vong mẹ nhiều nhất là băng huyết. Đây
là nguyên nhân chính gây ra tứ vong mẹ ở các nước đang phát triển, chiếm hơn
25% tổng số ca tử vong. Nhiễm khuẩn sau đẻ là nguyên nhân quan trọng xếp thứ 2
cùa chết mẹ ở các nước đang phát triển, chiếm đến 20% tổng số ca chết mẹ [64],
Tử vong mẹ do nguyên nhân gián tiếp là những trường hợp tử vong do
những bệnh hiện tại hoặc đã mắc từ trước và phát triển nặng lên trong quá trình
mang thai mà không phải do nguyên nhân sản khoa trực tiếp mà do hậu quả của


1
6
việc mang thai. Ví dụ như bệnh gan, thiếu máu, sốt rét, bệnh tim, lao, thận, AIDS
và uốn ván. Các nguyên nhân gián tiếp này chiếm khoảng 20% các trường hợp tử
vong mẹ trên thế giới [64],
Bên cạnh đó, các yếu tố góp phần tác động đến tử vong mẹ là các thực hành
tim kiếm sự chăm sóc trong thời kỳ mang thai, sinh đẻ và giai đoạn sau sinh như
chậm trễ đến các cơ sở chăm sóc thích hợp, chậm trễ trong việc chẩn đoán, điều trị
ớ cơ sở y tế, sự sẵn có và chất lượng chăm sóc tại cơ sở y tế mà người phụ nữ có
thể tiếp cận. Như vậy, trình độ kỳ thuật, điều kiện cơ sở vật chất, dịch vụ chăm sóc
y tế thiếu thốn, lạc hậu cùng với các thói quen và kiến thức hạn chế của các bà mẹ
trong khi mang thai và khi sinh là những yếu tổ ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình
sức khỏe bà mẹ.

Tại Việt Nam, kết quả rà soát tại 17 tỉnh cho thấy tổng số có 122 ca tử vong
mẹ trong năm 2007-2008. Tỷ suất tử vong mẹ sau khi hiệu chỉnh là 119/100.000 ca
sinh sống. Tỷ lệ tử vong mẹ tính trên 100.000 phụ nữ 15-49 tuổi tại 14 tỉnh là 8,2.
Nguyên nhân trực tiếp hàng đầu gây tử vong mẹ là băng huyết (43,4%), tiếp theo
là sản giật/tiền sản giật (10,7%). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tỷ suất tử vong
mẹ của nhóm phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên (283/100.000 ca sinh sông) cao gâp 4
lân nhóm sinh 1 -2 con; ở nhóm kêt thúc thai nghén tại nhà rất cao (156/100.000 ca
sinh sống) và cao gấp 5 lần so với nhóm kết thúc thai nghén tại trạm y tế và bệnh
viện (32/100.000 ca sinh sống) [19].
Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế và tổng cục thống kê, trong thời gian từ
năm 1990 đến năm 2002 tỷ lệ tử vong mẹ giảm từ 200/100.000 trẻ đổ sống xuống
còn 91/100.000. Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm từ 45,1% năm 1994 xuống
còn 26% năm 2000 [22], Tuy đã đạt được những kết quả đáng kể nhưng trên thực
tế công tác CSSKSS cũng còn những tồn tại cần khắc phục. Kết quả điều tra cơ
bán về dịch vụ CSSKSS tại 12 tỉnh UNFPA tài trợ do Trung tâm nghiên cứu Dân


1
7
số và sức khoẻ nông thôn, Trường Đại học Y Thái Bình thực hiện năm 2003 dưới
sự chỉ đạo của Bộ Y tế với sự phối họp của Uỷ ban Dân số gia đình và trẻ em cho
thấy một số thực trạng về cung cấp dịch vụ CSSKSS cần phải được quan tâm.
Theo sổ liệu điều tra của Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ, trong số các sản phụ tử
vong có 65% không đến khám thai lần nào, 22% chỉ đến khám thai một lần và
13% khám thai 2 lần trở lên. Như vậy có thể thấy ý thức chưa chú trọng đến việc
thăm khám thai định kỳ theo hướng dẫn của nhà chuyên môn là một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tử vong đối với sản phụ. Minh chứng thêm cho nhận
định này là con số 63% trường họp sản phụ tử vong là do điều trị chậm, cao nhất
trong số các nguyên nhân chù quan dẫn đến từ vong. Các nguyên nhân tử vong mẹ
(cao) khác có thể kể đến là: Chuyển tuyến chậm (60%), phát hiện dấu hiệu chậm

(53%) [30].
Tỷ số tử vong mẹ trong những năm gần đây đã giảm mạnh, từ mức
233/100.000 trẻ đẻ sống năm 1990 xuống còn 69/100.000 trẻ đẻ sống năm 2009
[10]. Tuy nhiên, các kết quả điều tra cũng cho thấy vẫn còn sự chênh lệch rất lớn
về tỷ số TVM giữa các vùng miền, đặc biệt là khu vực miền núi phía Bắc và khu
vực Tây nguyên so với vùng đồng bằng. Kết quả điều tra Tử vong mẹ (TVM) ở
Việt Nam 2006-2007 do Viện Chiên lược và Chính sách y tế - Bộ Y tế thực hiện
cho thấy tỷ số TVM ở khu vực miều núi (108/100.000 trẻ đẻ sống) cao hơn khoảng
3 lần so với vùng đồng bàng (36/100.000 trẻ đẻ sống). Tương tự, điều tra TVM tại
14 tính miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do Trường Đại học Y Thái Bình tiến
hành cho thấy tỷ sổ TVM là 119/100.000 trẻ đẻ sống, cao gần gấp 2 lần so với toàn
quốc, trong đó cao nhất là vùng Tây Bắc (242/100.000 trẻ đẻ sống), tiếp đến là Tây
Nguyên (108/100.000 trẻ đẻ sống) và Đông Bắc (86/100.000 trẻ đẻ sống) [10].
Tử vong sơ sinh
Bên cạnh tử vong mẹ, tử vong sơ sinh (TVSS) cũng đang là một vấn đề hết


1
8
sức đáng quan tâm. Theo ước tính của WHO, năm 2000 trên toàn thế giới có hơn 4
triệu trường hợp TVSS, trong đó có trên 2,5 triệu trường hợp TVSS ở châu Á. Tại
12 nước khu vực Đông và Đông Nam Á, ước tính mỗi năm có khoảng 647.000 trẻ
tử vong trong giai đoạn sơ sinh. Một nửa trong số đó là tử vong trong vòng 24h
đầu và 75% xảy ra trong tuần đầu sau sinh. Tổng số tử vong sơ sinh chiếm đến 2/3
số tử vong trẻ dưới 1 tuổi [63], Cũng tương tự như nhiều nước đang phát triển khác
trên thế giới, ở phần lớn các nước trong khu vực Đông và Đông Nam Á, tỷ lệ giảm
tử vong sơ sinh cũng xảy ra rất chậm trong khi tỉ lệ tử vong trẻ trên 1 tháng tuổi
giảm một cách đáng kể. Vì thế đế đạt được mục tiêu thiên niên kỷ cũng vần là điều
khó khăn với nhiều nước trong khu vực. Bên cạnh đó, chỉ ở một số ít nước đang
phát triển có các hệ thống đăng ký khai sinh là có đủ thông tin cung cấp cho việc

ước lượng chính xác tử vong sơ sinh, hoặc những thành tố trước, sau của nó. Ớ
những nước không có đủ thông tin cho việc ước lượng tử vong sơ sinh thì con số
báo cáo thường thấp hơn con số thực tế dẫn đến việc không đánh giá đúng tầm
quan trọng của tử vong sơ sinh và thiếu sự quan tâm thích đáng.
Tương tự như trên, các nguyên nhân tử vong thời kỳ sơ sinh ở khu vực các
nước đang phát triển thường được đo lường một cách nghèo nàn, nên các nguyên
nhân thường được xác định chỉ tập trung vào ngạt khi sinh, các nhiễm khuẩn nặng,
các biến chứng của đẻ non và uốn ván.
Sức khỏe trẻ sơ sinh liên quan chặt chẽ đến sức khỏe bà mẹ, nhiều trường
hợp tử vong sơ sinh sớm liên quan đến việc chăm sóc trong đẻ. Một số yếu tố dẫn
đến tử vong mẹ cũng có thc là nguyên nhân gây hại cho thai nhi hoặc sơ sinh.
Chuyển dạ tắc nghẽn và kéo dài ở bà mẹ dần đến ngạt sơ sinh hoặc thai chết trong
tử cung. Sản giật và cháy máu trước đẻ cũng là những nguyên nhân đe doạ đến sự
sống của thai nhi. Các nhiễm khuấn trong quá trình mang thai hoặc khi sinh có thế
dần đến nhiễm khuẩn thai nhi hoặc sơ sinh. Vì vậy, một số can thiệp thiết yếu để


1
9
giám TVM và giám TVSS là cần thiết.
Theo tông điều tra dân số và nhà ở, tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm
nhanh từ 44,4%0 năm 1990 xuống còn 16/%0 năm 2008-2009. Tuy nhiên, tỷ suất
chết trẻ em dưới 1 tuồi ở nông thôn cao hơn đáng kể so với thành thị; ở vùng núi
cao hơn nhiều so với vùng đồng bằng. Theo kinh nghiệm từ các cuộc điều tra, tử
vong sơ sinh chiếm khoảng 70-75% số tử vong trẻ dưới 1 tuổi. Với cách ước tính
này, tỷ suất TVSS ở Việt Nam năm 2010 vào khoảng 12/100.000 trẻ đẻ sống; tỷ
suất TVSS ước tính này cũng phù hợp với báo cáo mức độ và xu hướng tử vong trẻ
em của các tổ chức Liên hợp quốc công bố tháng 10 năm 2011 [31], [32], Các cuộc
điều tra gần đây cũng cho thấy sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền và nhóm dân
tộc: Tỷ suất TVSS ở nông thôn miền núi cao hơn 2 lần so với nông thôn vùng đồng

bằng; ở các dân tộc ít người cao hơn gấp 2 lần so với người Kinh. Nguyên nhân do
mẹ không đi khám thai lần nào 15% TVSS toàn quốc và 25% TVSS tại các tỉnh
miền núi, tỷ lệ tương ứng đối với đẻ tại nhà là 20% và 31,5%; nguyên nhân do cơ
sở y tế chậm cấp cứu, chuyển tuyến cũng chiếm 11% tổng số trường hợp TVSS
[10].
1.3.2. Kiến thức và thực hành của phụ nữ về làm mẹ an toàn
Vấn đề LMAT là một trong những nội dung được các nhà hoạch định chính
sách và chuyên môn quan tâm và đề xuất nhiều giải pháp từ thập kỷ trước. Mục
tiêu của LMAT là làm giám tỷ lệ tứ vong và bệnh tật của bà mẹ và trẻ sơ sinh, vấn
đề giảm tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh cũng đã được thế giới công nhận là một
trong 6 mục tiêu phát triền của thế kỷ 21. Sáng kiến LMAT đã được hơn 100 quốc
gia và các tổ chức quốc tế chọn làm chương trình hành động [20]. Tuy nhiên, qua
các công trình nghiên cứu về sức khoẻ bà mẹ có liên quan đén thai nghén và sinh
đẻ cho thấy, tý lệ được chăm sóc trước, trong và sau khi sinh khác nhau tuỳ theo
từng vùng, từng nước.


2
0
Theo thống kê của WHO, ở các nước đang phát triển, có tới một phần ba
phụ nữ có thai không được chăm sóc y tế khi mang thai, 60% cuộc sinh đẻ không
được thực hiện ở cơ sở y tế, và chỉ 60% các cuộc đẻ được cán bộ y tế đỡ. Tại
Bangladesh, theo kết quả điều tra cơ bản, đa số phụ nữ đã sinh tại nhà (84%) [49].
Tại Nepal, có những vùng có tới 90% số ca sinh tại nhà [63].
Một nghiên cứu cho thấy, 94% phụ nữ ở khu vực thành thị đã sinh con tại
CSYT, tỷ lệ này gấp 1,4 lần so với những phụ nữ sống ớ vùng nông thôn và gấp tới
3 lần so với những vùng sâu, vùng xa [34],
Kết quả phỏng vấn kiến thức và thực hành về LMAT 240 bà mẹ sinh con tại
nhà ở Nepal năm 2006 cho thấy, có 140 bà mẹ (58,3%) chủ định sinh ở nhà và 100
(41,7%) không chủ định sinh ở nhà nhưng do một số lý do đã khiến họ phải thực

hiện cuộc sinh đẻ tại nhà. Trong số 240 ca sinh, chỉ có 6,2% được đỡ bởi CBYT
trong khi đó có 38 (15,8%) bà mẹ đã sinh một mình. 57,9% trẻ sơ sinh được bú
trong vòng 1 giờ đầu sau sinh và 85,4% được bú trong vòng 24 giờ [63].
Một nghiên cứu tương tự tại Nigeria được thực hiện vào năm 2008 cho
thấy, trong số 300 bà mẹ sinh tại nhà được phỏng vấn, 66,7% trường hợp chủ định
sinh tại nhà và 33,3% còn lại không chủ định. 13,4% cuộc sinh được CBYT đỡ và
15,7% trường họp sinh một mình. 65,3% trẻ sơ sinh được bú trong vòng một giờ
sau sinh và 95,7% trong vòng 24 giờ [63],
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, các kết quá thống kê cho thấy các
nội dung LMAT ở nước ta đã được thực hiện tốt thông qua các chỉ số như số lần
khám thai, tỷ lệ phụ nữ sinh con được cán bộ y tế đỡ. Tỷ lệ phụ nữ có thai được
quán lý thai (khám thai ít nhất 1 lần) tăng từ 75,6% năm 2000 lên 94,2% năm
2008. Tỷ lệ phụ nữ đẻ được khám thai 3 lần trở lèn trong thai kỳ đã tăng từ 69,7%
lên 86,5% và tỷ lệ phụ nữ đẻ được CBYT đỡ năm 2008 là 94,7% [35]. Theo số liệu
Niên giám thống kê y tế năm 2010, 93,5% phụ nữ có thai được tiêm chủng uốn ván


2
1
từ 2 lần trở lên, 97,09% đẻ được CBYT chăm sóc và 87,78% được khám sau sinh
[31 ].
Tuy vậy, các chỉ số này rất khác nhau giữa các vùng, tốt hơn ở khu vực
thành thị so với các vùng sâu, vùng xa nơi có điều kiện kinh tế xã hội còn khó
khăn. Tỷ lệ khám thai ít nhất 3 lần trong thời gian mang thai ở những khu vực
vùng sâu, vùng xa có tăng lên trong những năm gần đây song cũng chỉ đạt khoảng
50%. Một thống kê năm 2006 cho thấy, nhóm phụ nữ thuộc nhóm hộ gia đình
nghèo, nhóm dân tộc thiểu số có xác suất không được khám thai cao gấp 3,06 lần
(95% CI 1,27-7,41) và không được CBYT đỡ đẻ cao gấp 6,27 lần (95% CI 2,3716,6) so với nhóm không nghèo [17].
Tỷ lệ thấp phụ nữ khám thai đủ số lần theo quy định và sinh con tại CSYT
thường tập trung ở những tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên.

Các lý do được đưa ra bao gồm đường xa, chi phí tốn kém. Bên cạnh đó, phong tục
tập quán của đồng bào cũng có ảnh hưởng tới lựa chọn địa điểm sinh của đồng
bào: Người dân tộc thích đẻ tại nhà, không thích khám cán bộ y tế là nam giới. Sự
khác biệt về ngôn ngừ cũng khiển người phụ nữ dân tộc thiểu số không hiểu được
các nội dung truyền thông và tư vấn về
LMAT và chăm sóc sơ sinh, khiên cho họ không có được những thông tin cho sự
lựa chọn phù hợp [ 17].
Kết quả nghiên cứu về kiến thức và thực hành của 1.942 phụ nữ nuôi con
<1 tuổi thực hiện trên địa bàn 14 tinh của Việt Nam được thực hiện vào tháng
5/2009 cho thấy: 77,7% phụ nữ biết về số lần cần khám thai trong một thai kỳ; tuy
nhiên, chỉ có 57,1% phụ nữ đã khám thai từ 3 lần trở lên; lý do chủ yếu là họ thấy
không cần thiết phải khám thai (35,7%), tiếp đến là không biết phải đi khám thai
(29,5%). Đa số phụ nữ lựa chọn trạm y tế và cơ sở y tế tư nhân là nơi khám thai
(46,8% và 24,5% theo thứ tự). Tỷ lệ phụ nữ biết các dấu hiệu nguy hiểm đối với bà


2
2
mẹ và thai nhi trong kỳ thai nghén rất thấp, chỉ ở mức dưới 50%. Tỷ lệ phụ nữ đã
tiêm phòng đủ mũi, uống viên sắt chiếm khá cao (85,9% và 73,9% theo thứ tự). Tỷ
lệ phụ nữ được tư vấn về xét nghiệm HIV tự nguyện hay đã đi xét nghiệm HIV tự
nguyện còn thấp (26,4% và 13,9%) [21],
Kết quả phỏng vấn 978 phụ nữ có chồng tại hai tỉnh Thừa Thiên Huế và
Vĩnh Long cho thấy, 89,0% phụ nữ cho rằng trong lần mang thai gần đây nhất họ
đã đến CSYT để khám thai trong đó 62,0% đã khám thai ít nhất 3 lần; 91,0% đã
sinh tại cơ sở y tế trong đó 57,0% sinh tại bệnh viện tuyến huyện và tỉnh; 35% phụ
nữ khám thai tại các CSYT tư nhân nhưng chỉ có 11,0% sinh tại đây. Nghiên cứu
cũng cho thấy, nhóm phụ nữ làm nông nghiệp, có thu nhập thấp, có hơn 2 con và
sống tại các khu vực nông thôn có xu hướng sử dụng các dịch vụ tại Trạm Y tế
(TYT) nhiều hơn so với các nhóm khác [41].

Kết quả kiểm kê số liệu số sách tại 200 Trạm Y tế của 30 huyện thuộc 5 tỉnh
Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Kon Turn và Gia Lai cho thấy: Tỷ lệ phụ nữ đẻ năm
2010 được khám thai ít nhất 3 lần trong một thai kỳ còn thấp (49,5%), cao nhất ở
Kon Turn (62%) và thấp nhất ở Điện Biên (41,4%). Tỷ lệ phụ nữ đẻ được tiêm
phòng uốn ván từ 2 mũi trở lên đạt 77,7%, cao nhất ở
Kon Tum (88,1%) và thâp nhât ở Điện Biên (67,8%). Tỷ lệ phụ nữ đẻ trong nghiên
cứu được cán bộ y tế đã qua đào tạo về chăm sóc thai sản của Trạm Y tế, nhà hộ
sinh, của bệnh viện đỡ đạt 54,9%, cao nhất ở Sơn La (72,5%) và thấp nhất ờ Lai
Châu (33,6%) [36].
Kết quả điều tra cuối kỳ tại 7 tỉnh tham gia Chương trình quốc gia cho thấy
tỷ lệ khá cao phụ nữ biết cần phải đi khám thai ít nhất 3 lần trong một thai kỳ
(90,4%) và phụ nữ đẻ được khám thai 3 lần trở lên (84,8%). Tỷ lệ phụ nữ có thai
tiêm phòng uốn ván đủ mũi đạt 68,6%. Tỷ lệ phụ nữ sinh con tại CSYT là 86,6%
và tỷ lệ phụ nữ đẻ được CBYT đỡ là 88,6%. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng,


2
3
kiến thức của phụ nữ về LMAT vẫn còn hạn chế. Đa số phụ nừ được phòng vấn
mới nêu được hai dấu hiệu nguy hiếm trong thời gian mang thai là “đau bụng”
(56,6%) và “chảy máu” (59,3%) [36].
Kết quả Điều tra ban đầu Dự án hỗ trợ y tế vùng duyên hải Nam Trung bộ
cho thấy, có 81,6% số phụ nữ đang nuôi con nhỏ nhất năm 2009 được phỏng vấn
đã đi khám thai từ 3 lần trở lên; 90,8% được tiêm phòng đầy đủ trong lần mang
thai gần đây nhất. Phần lớn phụ nữ được phỏng vấn trong nghiên cứu cho biết họ
đã đến cơ sở y tế nhà nước đổ đò trong lần sinh con vừa rồi. Nhiều nhất là bệnh
viện (BV) huyện (40,2%), tiếp đến là TYT xã (23%), BV tỉnh (22,7%) [41],
Nghiên cứu tại 4 tỉnh Điện Biên, Hòa Bình, Thanh Hóa và An Giang năm
2011 cho kết quả như sau: 91,9% phụ nữ đang nuôi con dưới 3 tuối được phỏng
vấn biết đúng về số lần cần khám thai trong một thai kỳ và 89,5% đã đi khám thai

từ 3 lần trở lèn trong lần mang thai con nhỏ nhất. 92,3% phụ nữ và vợ của nam
giới được phỏng vấn đà sinh con nhỏ nhất tại CSYT và 92,7% được CBYT đỡ
trong lần sinh con đó [34].
Trong đời sống xã hội hiện nay, vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản trong
cộng đồng đang ngày càng được quan tâm một cách sâu rộng. Tuy nhiên, do nhiêu
yêu tô khách quan (điêu kiện kinh tê, xã hội) cũng như chủ quan (ý thức của người
dân và cả những người làm công tác chuycn môn), các nội dung của vấn đề này
vẫn chưa trở thành những kiến thức được phố cập trên diện rộng. Do vậy, trên thực
tế vẫn còn rất nhiều trường hợp thiệt hại về sức khỏe và tính mạng đáng tiếc do
thiếu hiểu biết. LMAT là một trong 8 nội dung của sinh khỏe sinh sản (bao gồm:
Làm mẹ an toàn, Kế hoạch hóa, Nạo phá thai, Hiếm muộn vô sinh, Sức khỏe sinh
sản vị thành niên, Sức khóc phụ nữ cao tuổi và Điều trị dự phòng các bệnh đường
sinh dục). Đây là nội dung được đề cập đến đầu tiên trong chương trình giáo dục
sức khóe sinh sản. Đó là các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức


2
4
khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, nhằm giảm tối thiểu tình trạng tử vong mẹ và tử
vong sơ sinh. Chính vì vậy, từ năm 1987, các nội dung giáo dục LMAT đã được Tổ
chức Y tế thế giới (WHO) và nhiều nước quan tâm, ngày càng trở thành nội dung
quan trọng của chiến lược chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em toàn cầu. Diễn biến
sức khỏe của người phụ nữ trong giai đoạn mang thai có ảnh hưởng sâu sắc đến sự
phát triển của thai nhi, của em bé trong giai đoạn sơ sinh. Như: tình trạng thiếu
máu nặng ớ mẹ sẽ dần đến trẻ có thể bị ngạt, bị chết lưu hoặc nhẹ cân; hay điều
kiện thiếu vệ sinh khi đẻ rất có thế dần đến việc trẻ sơ sinh bị uốn ván, bị nhiễm
khuấn v.v... Phụ nữ trong giai đoạn mang thai rất cần được hướng dẫn về chế độ
dinh dưỡng và ăn kiêng hợp lý, về cách điều trị các bệnh không thể trì hoãn (như
sốt rét, giun móc...), về việc bổ sung các chất cần thiết (như sắt, acid folic), về việc
phát hiện sớm thai nguy cơ và việc ticm phòng uốn ván.

LMAT còn bao gồm cả khâu chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh ngay sau sinh.
Phụ nữ ngay sau sinh cần được theo dõi đố phát hiện sớm nhằm xử trí kịp thời đối
với các tai biến như băng huyết, nhiễm trùng, sản giật... Ngoài ra, họ còn cần được
hướng dẫn về chế độ dinh dưỡng nhằm đảm bảo dinh dưỡng cho cả mẹ và con; và
một điêu rât quan trọng là khâu kê hoạch hóa gia đình
nhằm nâng cao chất lượng sức khỏe bà mẹ, tránh thai ngoài ý muốn hoặc các
bệnh liên quan đến bộ phận sinh dục. Người mẹ và người chăm sóc trẻ cũng
cần được hướng dẫn cách chăm sóc trẻ sơ sinh như việc cho bú sữa mẹ sớm
ngay trong vòng 30 phút sau sinh, cách phòng chống nhiễm khuẩn các bệnh
như viêm phế quán phổi, nhiễm trùng rốn, viêm mắt sơ sinh v.v... LMAT
nhằm bảo đảm sức khỏe và chất lượng sống cho cả người mẹ và trẻ, giảm tai
biến, giảm tử vong, muốn đạt được hiệu quả cần phải có sự phối hợp thực
hiện của cả người dân và cơ quan chuyên môn. Theo đó, người dân cần nâng
cao ý thức về việc chăm sóc đúng cách đối với phụ nữ mang thai và thai phụ


2
5
ngay sau sinh; cơ quan chuyên môn cần thực hiện một cách đầy đủ và kịp thời
các khâu hướng dẫn, chăm sóc thai phụ, sản phụ.
1.4.

Cơ sở và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sán tại Việt Nam.
••••

Trong những năm qua công tác CCSSK nhân dân nói chung và công tác
CSSKSS nói riêng đã đạt được những thành tích đáng khích lệ. Hệ thống các dịch
vụ chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ trẻ em, KHHGĐ được mở rộng, với chất lượng
ngày càng cao, tình hình sức khoe bà mẹ trẻ em được cải thiện đáng kể. Theo số
liệu thống kê của Bộ Y tế và Tổng cục Thống kê, trong thời gian từ 1990 đến 2002

tỷ lệ tử vong mẹ giảm từ 200/100.000 trẻ đẻ sống xuống còn 91/100.000. Tỷ suất
chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm từ 45,1% xuống còn 26% năm 2000 [7], [31], Tuy đã
đạt được những kết quả đáng kể nhưng trên thực tế công tác CSSKSS cũng còn
những tồn tại cần khắc phục. Kết quá điều tra cơ bản về dịch vụ CSSKSS tại 12
tỉnh UNFPA tài trợ cho thấy một số thực trạng về cung cấp dịch vụ CSSKSS cần
phải được quan tâm [36],
1.4.1. Cơ sở hạ tâng, trang thiêt bị, thuôc thiêt yêu phục vụ chăm sóc sức
khỏe sinh sàn.
Đối chiếu với những quy định trong chuấn quốc gia, kết quả điều tra tại 12
tỉnh UNFPA tài trợ cho thấy cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, thuốc thiết yếu phục vụ
CSSKSS còn chưa đầy đủ. Phần lớn các TYT xã không có đủ 6 phòng, chỉ có 37%
TYT có ít nhất 4 phòng. Nhiều TYT không có phòng khám phụ khoa và phòng
KHHGĐ. Trang thiết bị và dụng cụ thiết yếu cho CSSKSS ở các TYT còn thiếu
nhiều, trung bình số bộ dụng cụ đầy đủ (7 bộ) cho mồi TYT thấp hơn nhiều so với
chuẩn quốc gia. Trang thiết bị phòng chống nhiễm khuấn chưa đầy đủ, không có
kính bảo hộ cho người cung cấp dịch vụ. Thuốc thiết yếu phục vụ CSSKSS tại các
trạm y tế xã không được cung cấp đầy đủ, phần lớn không có đủ 10 nhóm thuốc
thiết yếu, các loại thuốc trong mỗi nhóm cũng không đầy đủ hoặc quá hạn sử dụng;


×