Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Phong tục hôn nhân của dân tộc Lô Lô ở Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 60 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**********

NGUYỄN THỊ NGỌC QUYÊN

PHONG TỤC HÔN NHÂN CỦA DÂN
TỘC LÔ LÔ Ở CAO BẰNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ TÍNH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp “ Phong tục hôn nhân của
dân tộc Lô Lô ở Cao Bằng” tôi xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo
đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu
và rèn luyện tại Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị
Tính là người đã hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình
tôi thực hiện đề tài này.
Khóa luận được hoàn thành, song không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía Thầy, Cô và
các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017
Sinh viên


Nguyễn Thị Ngọc Quyên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận này
là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị
Tính. Kết quả thu được là hoàn toàn trung thực và không trùng với kết quả
nghiên cứu của những tác giả khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình
trong khóa luận này.

Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Ngọc Quyên


DANH MỤC VIẾT TẮT
NXB : Nhà xuất bản
Tr : Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4

7. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 4
NỘI DUNG ....................................................................................................... 5
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ Ở MIỀN NÚI
PHÍA BẮC ........................................................................................................ 5
1.1. Sơ lược về dân tộc Lô Lô ........................................................................... 5
1.1.1. Nguồn gốc ............................................................................................... 5
1.1.2. Địa bàn cư trú .......................................................................................... 7
1.1.3. Nhà cửa ................................................................................................... 7
1.1.4. Hoạt động sản xuất ................................................................................ 10
1.1.5. Ngôn ngữ và chữ viết ............................................................................ 11
1.1.6. Tổ chức xã hội ....................................................................................... 13
1.2. Khái quát về văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng ............................................. 14
1.2.1. Đặc điểm văn hóa .................................................................................. 14
1.2.1.1. Trang phục ......................................................................................... 14
1.2.1.2. Ẩm thực .............................................................................................. 18


1.2.1.3. Văn hóa lễ hội dân gian...................................................................... 20
1.2.2. Đặc điểm về tôn giáo, tín ngưỡng ........................................................ 24
Chương 2. GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐẶC SẮC VỀ PHONG TỤC HÔN NHÂN
CỦA DÂN TỘC LÔ LÔ ................................................................................. 28
2.1. Văn hóa hôn nhân và gia đình .................................................................. 28
2.2. Quan niệm về hôn nhân truyền thống trong việc lựa chọn vợ, chồng ..... 29
2.3. Các nghi lễ cưới hỏi và giá trị văn hóa tộc người qua hôn nhân ............ 34
2.3.1. Các nghi lễ............................................................................................. 34
2.3.2. Giá trị văn hóa tộc người qua hôn nhân ................................................ 39
2.4. Biển đổi và thực trạng trong hôn nhân của dân tộc Lô Lô ...................... 40
2.4.1. Những biến đổi về quan niệm ............................................................... 40
2.4.2. Thực trạng hôn nhân của dân tộc Lô Lô .............................................. 42
2.5. Giải pháp ................................................................................................. 45

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa tộc người, thống nhất trong đa
dạng. Vì vậy tìm hiểu nghiên cứu văn hóa Việt Nam nói chung, nghiên cứu
văn hóa tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam nói riêng, đều có ý
nghĩa lí luận và thực tiễn cao.
Người Lô Lô ở miền núi phía Bắc Việt Nam là một trong 54 tộc người
của dân tộc Việt Nam, có nhiều yếu tố văn hóa tộc người rất đặc sắc, đã và
đang thu hút sự quan tâm sâu sắc của nhiều nhà nghiên cứu nhằm tìm hiểu về
bản sắc văn hóa của người Lô Lô đồng thời góp phần tìm hiểu làm rõ hơn về
hôn nhân truyền thống của dân tộc này.
Hôn nhân là một trong những thành tố quan trọng làm nên giá trị văn
hóa trong phong tục tập quán của dân tộc Lô Lô nói riêng và các dân tộc ở
Việt Nam nói chung, góp phần làm phong phú cho kho tàng văn hóa dân tộc.
Cao Bằng – nơi có đường biên giới giáp với Trung Quốc, đây là vùng
giữ vị trí đặc biệt quan trọng về nhiều mặt trong lịch sử dân tộc và là cái nôi
của cách mạng Việt Nam. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, Cao
Bằng đã tích lũy được một bề dầy lịch sử - văn hóa rất đa dạng và phong phú.
Đồng thời đây cũng là địa điểm cộng cư của nhiều dân tộc anh em: Kinh, Tày,
Nùng, Mông, Lô Lô, Dao… Các dân tộc này sinh sống xen kẽ nhau tạo thành
một khối đoàn kết thống nhất, lại mang đến cho tỉnh Cao Bằng một nền văn
hóa tộc người đặc sắc. Người Lô Lô ở nơi đây có đời sống văn hóa phong phú
và đa dạng mang bản sắc riêng nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu đúng
mức.
Hiện nay quá trình hội nhập kinh tế, giao lưu văn hóa giữa các tộc người

đã và đang làm cho văn hóa của người Lô Lô ở Cao Bằng có những biến động
mạnh.

1


Trước những tác động của kinh tế, của giao lưu tiếp biến văn hóa, Đảng
và Nhà nước ta đã đề ra những đường hướng phát triển văn hóa trong tình
hình mới: bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam theo hướng “tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc”
Vì những lý do trên, tôi xin được lựa chọn
“Phong tục hôn nhân của dân tộc Lô Lô ở Cao Bằng” làm khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã được thừa hưởng những kết quả
nghiên cứu của những người đi trước đề cập đến vấn đề nghiên cứu một cách
trực tiếp hay gián tiếp ở những khía cạnh khác nhau.
Đầu tiên là cuốn Dân tộc Lô Lô ở Việt Nam, Khổng Diễn - Trần Bình,
Nxb Thông tấn, (2011). Đây là cuốn sách chuyên khảo hoàn chỉnh về người
Lô Lô ở Việt Nam, chủ yếu là người Lô Lô ở Hà Giang, ở Bảo Lâm, Bảo Lạc
(Cao Bằng). Cuốn sách đã nghiên cứu rõ về môi trường tự nhiên, nguồn gốc
lịch sử, dân số, đời sống kinh tế, tổ chức xã hội, văn hóa vật chất - tinh thần
của người Lô Lô ở Việt Nam.
Tiếp theo là cuốn Hôn nhân và gia đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam,
Nhiều tác giả, Nxb văn hóa dân tộc, (2012).
Và một số bài nghiên cứu, báo, tạp chí …
Tạp chí VHNT số 362, “Hôn nhân cổ truyền của người Lô Lô ở
Bảo Lạc – Cao Bằng”, tháng 8-2014, Tác giả : Mông Thị Xoan
caobangtv.vn, “Đám cưới của người Lô Lô”

vanhien.vn, “Biến đổi trong hôn nhân của người Lô Lô”

2


Đây là tổng quát kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về người dân
tộc Lô Lô, đó là những gợi ý quý báu, tạo điều kiện thuận lợi để tôi thực hiện
luận văn của mình.
Hôn nhân truyền thống của cộng đồng người Lô Lô ở Việt Nam nói
chung và ở các tỉnh miền núi nói riêng đã được nhiều nhà khoa học, nhà
nghiên cứu các thế hệ sinh viên thuộc lĩnh vực văn hóa – xã hội cùng với các
học giả trong nước tìm hiểu. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này mới
chỉ tập trung vào nghiên cứu về tổ chức văn hóa xã hội. Những công trình
nghiên cứu về văn hóa của người Lô Lô ở Cao Bằng trong đó có hôn nhân
truyền thống thì ít được quan tâm.
Để góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, dựa trên các
nghiên cứu của các tác giả đi trước, tôi cố gắng làm rõ những vấn đề về
truyền thống và những biến đổi của hôn nhân và gia đình của người Lô Lô
trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu điều kiện sinh sống và đặc trưng văn hóa của cộng đồng người
Lô Lô ở Cao Bằng
Khảo sát, nghiên cứu, về hệ thống các nghi lễ trong tập quán hôn nhân
truyền thống của người Lô Lô ở Cao Bằng. Tìm ra ý nghĩa của các nghi lễ đó.
Nghiên cứu những biến đổi của các tập quán trong hôn nhân người Lô
Lô ở Cao Bằng hiện nay, chỉ ra những nguyên nhân của sự biến đổi. Xác định
những giá trị văn hóa đích thực trong hôn nhân của người Lô Lô ở Cao Bằng;
tìm kiếm khuyến nghị và giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị trong
hôn nhân truyền thống của người Lô Lô.
4. Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc nghiên cứu, giúp bạn đọc hiểu biết được về dân tộc Lô
Lô trên nhiều phương diện. Đồng thời nhằm mục đích giúp bạn đọc hiểu biết

3


rõ về giá trị văn hóa trong hôn nhân truyền thống của dân tộc Lô Lô ở miền
núi phía Bắc nói chung và ở Cao Bằng nói riêng. Giúp cho bạn đọc hiểu và
nhận thức đúng đắn hơn về hôn nhân, góp phần nâng cao hiệu quả công cuộc
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Qua đó khẳng định sức sống lâu bền của
giá trị văn hóa, bảo tồn và phát huy một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc.
Đồng thời góp phần bổ sung thêm nguồn tư liệu lịch sử địa phương cho
quá học tập, nghiên cứu của cá nhân tôi.
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Phong tục hôn nhân của dân tộc Lô Lô
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phong tục hôn nhân của dân tộc Lô Lô ở Cao Bằng
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thực địa.
Phương pháp liên ngành.
Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp.
Phương pháp truy vấn thông tin qua internet.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mởi đầu, nội dung, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát chung về dân tộc Lô Lô ở miền núi phía Bắc
Chương 2: Giá trị văn hóa đặc sắc về phong tục hôn nhân
của dân tộc Lô Lô


4


NỘI DUNG
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ Ở MIỀN NÚI
PHÍA BẮC
1.1. Sơ lƣợc về dân tộc Lô Lô
1.1.1. Nguồn gốc
Nguồn gốc lịch sử:
Người Lô Lô ở Việt Nam có quan hệ nguồn gốc thân thích với người Di
ở Trung Quốc. Tuy vẫn còn tranh luận về thời điểm người Lô Lô đến Việt
Nam, nhưng theo tiến sĩ Mai Thanh Sơn, Trưởng phòng Dân tộc học và Nhân
học (Viện Khoa học Xã hội vùng Trung bộ, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam) các nhà dân tộc học đều thống nhất: “Người Lô Lô thuộc ngữ
tộc Tạng – Miến, ngữ hệ Hán – Tạng. Đấy là cộng đồng cư dân sinh sống chủ
yếu ở vùng Tây Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam. Khác biệt dễ nhận thấy
nhất là người Lô Lô vốn là cư dân sống ở miền núi. Sau rất nhiều biến động
lịch sử ở miền Tây Nam Trung Quốc thì họ di cư đến Việt Nam, trở thành cư
dân của Việt Nam. Sống ở miền núi, cách ứng xử của họ dựa trên kinh
nghiệm, tri thức thích ứng được với vùng cao núi đá”.
Dân tộc Lô Lô hay người Di theo cách gọi ở Trung Quốc (tiếng Trung:
彝族, bính âm: Yìzú, âm Hán Việt: Di tộc), là một trong số 54 dân tộc của
Việt Nam, cũng là một trong số các dân tộc thiểu số của Thái Lan, Lào và
Trung Hoa.
Dân tộc Lô Lô có nguồn gốc là dân tộc của Vương quốc Nam Chiếu,
sinh sống ở vùng Tứ Xuyên, Trung Hoa. Căn cứ theo tài liệu sử sách, sau khi
Vương quốc Nam Chiếu suy tàn, một nhóm dân tộc Nam Chiếu đã di cư sang
Việt Nam. Nhóm dân tộc Nam Chiếu này chính là tổ tiên của người Lô Lô ở
Việt Nam ngày nay.


5


Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thì năm Mậu Thìn (1508), người Lô Lô ở
Vân Nam tràn vào vùng Thủy Vĩ thuộc Hưng Hóa. Người Lô Lô đến Việt
Nam được chia làm nhiều đợt. Người Lô Lô đến khai phá vùng đất Đồng
Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang trước tiên.
Vào thế kỉ XVIII, dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh Khổng Mìn, cùng 5-6
nghìn người Lô Lô đã đến vùng đất Mèo Vạc làm ăn sinh sống. Cùng thời
gian này có một thủ lĩnh đến khai phá vùng đất thuộc tỉnh Lai Châu. Có một
bộ phận người Lô Lô ở vùng Đồng Văn sau này đã di chuyển sang vùng Cao
Bằng để sinh sống. Đó là số người Lô Lô ở hai huyện Bảo Lạc và Bảo Lâm
( Cao Bằng) ngày nay. 1, 29  31
Người Lô Lô luôn tự hào rằng tổ tiên họ đã đến khai phá miền đất biên
giới của Tổ quốc. Đó là Đồng Văn (Hà Giang) và Bảo Lạc (Cao Bằng).
Theo truyền thuyết kể lại rằng: Người Lô Lô có 7 anh em, 3 người rời
quê hương Po Hạ (Trung Quốc) di cư sang Việt Nam tìm đất làm ăn rồi trên
đường đi 1 người bị lạc, 2 người đến Đồng Văn (Hà Giang) đầu tiên, thì một
người ở lại Đồng Văn, một người sang vùng tây nam Bảo Lạc (Cao Bằng)
nay thuộc đất 2 xã Mông Ân và Nam Quang, họ ra sức khai khẩn đất đai, xây
dựng gia đình và là tổ tiên của người Lô Lô ngày nay. Câu truyện đầy màu
sắc, huyền thoại nhưng khẳng định người Lô Lô có mặt ở Bảo Lạc và Đồng
Văn từ rất sớm ít nhất cũng khoảng hơn 300 năm. Họ là người có công đầu
tiên khai khẩn đất hoang ở vùng này.
Dân tộc Lô Lô (các tên gọi khác: Màn Dì, Mùn Di, Mùn Chì, La La, Qua
La, Lu Lộc Màn, Ô Man, Di Nhân, Di Gia…( theo tiếng Lô Lô, Mùn, Màn có
nghĩa là người; Chì, Dì hoặc Di là tên dân tộc))
Nhóm địa phương: Lô Lô Hoa ở Hà Giang và Lô Lô Đen ở Cao Bằng.


6


1.1.2. Địa bàn cư trú
Ở Việt Nam, Lô Lô là một trong sáu dân tộc ( Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si
La, Phù Lá, Lô Lô) của nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến thuộc họ Hán – Tạng.
Theo số liệu của cuộc “Tổng cục điều tra dân số và nhà ở” năm 1999
trong cả nước dân tộc Lô Lô có 3.307 người, tập trung đông nhất ở ba tỉnh là:
Cao Bằng (1.936 người), Hà Giang (1.244 người) và Lai Châu (88 người).

1; 23
Dân số: 4.541 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)  7 
Địa bàn cư trú: Người Lô Lô sống ở huyện Đồng Văn, Mèo Vạc thuộc
tỉnh Hà Giang, huyện Bảo Lạc thuộc tỉnh Cao Bằng và huyện Mường Khương
thuộc tỉnh Lào Cai.
Người Lô Lô ở Cao Bằng đến nay vẫn giữ được vẹn nguyên các phong
tục văn hóa đặc sắc, từ trẻ nhỏ đến người già trong bản vẫn sử dụng trang
phục truyền thống. Với nhiều nét đặc sắc cổ truyền, bí ẩn, ít người biết đến,
văn hóa dân tộc Lô Lô được ví như một kho báu chưa được khai quật.
Theo tài liệu dân tộc học, hiện nay cả nước chỉ có khoảng 3.000 hộ dân
tộc Lô Lô với dân số trên 10 nghìn người, trong đó Hà Giang có khoảng 1.000
hộ, Cao Bằng hơn 2.000 hộ tập trung ở 4 xã Kim Cúc, Hồng Trị, Cô Ba
(thuộc huyện Bảo Lạc) và xã Đức Hạnh thuộc huyện Bảo Lâm; chủ yếu là
dân tộc Lô Lô đen. Rất khó tìm hiểu văn hóa người Lô Lô vì họ sống trên núi
cao, ngôn ngữ bản địa, truyền khẩu trong cộng đồng.
1.1.3. Nhà cửa
Ở Việt Nam, người Lô Lô về cơ bản có ba loại hình nhà ở chính: nhà nền
đất (người Lô Lô ở Hà Giang), nhà sàn (người Lô Lô ở Cao Bằng và Hà
Giang) và nhà nền nửa sàn nửa đất (hiện nay không còn nữa).
Họ sinh sống trong những ngôi nhà có nhiều cấu trúc khác nhau, tùy

thuộc vào điều kiện tự nhiên của từng địa phương và khả năng kinh tế của
7


mỗi hộ gia đình. Đó là các loại nhà : sàn hay nền đất; tường xây bằng gạch
hay tường trình bằng đất; thưng bằng ván hay bằng phiên tre, mái lợp ngói
hay lợp cỏ gianh…
Sự thay đổi trên không chỉ về cấu trúc và nguyên vật liệu nhà ở mà cả về
kiến trúc, cách bố trí sử dụng mặt bằng sinh hoạt.
Loại hình nhà sàn
Nhà sàn là loại nhà truyền thống của người Lô Lô ở nước ta. Cấu trúc
ngôi nhà khá đơn giản, chủ yếu là nhà tạm, cột chôn sâu xuống đất, chỉ ở
được vài ba năm là phải tu sửa, lợp lại mái. Trước kia họ chọn sống trong nhà
sàn một là do xưa kia nhiều rừng nên rất dễ kiếm các loại nguyên vật liệu làm
nhà như tre, gỗ, nứa, cỏ gianh…; hai là, dân cư thưa, rừng còn nhiều, thú dữ
cũng nhiều nên ở nhà sàn an toàn hơn ở nhà đất.
Hiện nay mặc dù có nhiều biến đổi, ngôi nhà trệt lại được cho là thuận
tiện hơn, nhưng ở nhiều nơi như Xín Cái – Mèo Vạc – Hà Giang và các xã
thuộc Bảo Lạc, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng nhà sàn của người Lô Lô vẫn
tồn tại phổ biến.
Nhà sàn ở đây thì nền nhà và cấu trúc kiên cố hơn, cột được kê trên hòn
đá tảng (phà xăng), vách (tù phùy) thưng bằng gỗ, sàn bằng gỗ hay tre, mái
lợp cỏ gianh hay ngói máng… Về mặt bằng dưới gầm sàn được sử dụng làm
bếp lò nấu cám lợn, nhốt gia súc, gia cầm, để cối xay giã gạo và là nơi cất giữ
nông cụ cùng các loại đồ đạc khác trong gia đình; sàn là mặt bằng chính để
ăn ở, ngủ nghỉ và thực hiện các sinh hoạt, đồng thời sàn cũng là nơi cất giữ
lương thực và các loại đồ gia dụng quan trọng.
Ở Cao Bằng người Lô Lô có trên 80 hộ dân, ở khá tập trung, mỗi làng từ
20 đến 25 nóc nhà. Nhà cửa được sắp xếp theo một trật tự chung đó là dựa
lưng vào núi, nhìn ra thung lũng nên tương đối thoáng mát. Nhìn từ ngoài vào


8


có vẻ không khác mấy so với nhà của người Hmông nhưng khi quan sát cách
thức bố trí, sử dụng không gian trong nhà thì mới thấy sự khác biệt.
Đối diện với với cửa chính là bàn thờ tổ tiên, đặt sát vách, được làm
bằng những miếng gỗ hoặc mo tre vẽ mặt hình nhân, tượng trưng cho các thế
hệ tổ tiên được thờ. Đây có lẽ cũng là nét độc đáo có riêng ở dân tộc này.
Cũng giống như người Tày, Nùng kiến trúc nhà của người Lô Lô là nhà gỗ
hoặc nhà đất có 3 gian và không có chái. Gian chính để thờ tổ tiên và tiếp
khách, nhà được làm bằng gỗ dựa trên các kèo gỗ từ 3 đến 5 hàng chân,
những vỉ kèo được liên kết với nhau bằng những đòn tay ngang dọc; gian giữa
có nóc gọi là Xà Đốc, khi dựng Xà Đốc họ thường xem ngày lành tháng tốt để
gia đình đầm ấm, làm ăn phát đạt.
Loại hình nhà nền đất
Nhà nền đất của người Lô Lô chỉ thấy có ở Hà Giang. Nhà nền đất của
họ phổ biến có cấu trúc dạng vì kèo 4 cột và 1 cột trốn. Nhà thường chỉ có 3
gian, cũng có khi là 4 – 5 gian. Theo người Lô Lô ở Hà Giang trong nhà vợ
hay chồng đã chết mới được ở loại nhà 2 chái, nếu không thì chỉ được làm 1
chái.
Nhà trệt của người Lô Lô thường cao hơn so với nhà trệt của người
Hmông và người Dao. Nhà có tường đất, mái lợp ngói âm dương, rạ, cỏ
gianh… tương đối cao ráo, thoáng mát, vừa đảm bảo đủ ánh sáng, vừa có gác
xép giống như tầng sàn của nhà sàn để làm chỗ cất giữ lương thực cùng với
nhiều loại đồ đạc trong gia đình.
Khi chuẩn bị xong các vật liệu xây cất nhà, người Lô Lô thường chọn
một nơi đất tốt và chọn hướng cho hợp tuổi người chủ định làm nhà. Họ phải
quy chiếu các tiêu chí: tiền, hậu, tả, hữu, trước hết phải tìm tổ sơn, dò long
mạch theo thế đất để tìm chỗ “tụ khí tàng phong” sau đó cho bảy hạt gạo chôn

xuống đấy, ba ngày sau mở ra, thấy hạt gạo nở, không bị kiến gặm và di

9


chuyển thì nơi đó có sinh khí và làm nhà tốt. Khi dựng cột cũng như lợp mái,
người Lô Lô đều xem ngày giờ và làm lễ cầu an để trong quá trình làm nhà
tránh được những bất trắc xảy ra.
Mỗi làng thường có chung một khu rừng thiêng, cấm kỵ chặt phá.
Người Lô Lô ở Cao Bằng cũng như ở Hà Giang đều thờ cúng ma cửa (co
cho khưng) tại cửa chính và cho rằng ma cửa có nhiệm vụ canh giữ cửa, cùng
với các loại ma nhà khác bảo vệ cuộc sống yên lành ở trong nhà. Một trong
những biểu hiện của việc thờ cúng này là trong những ngày tết, nhất là tết
Nguyên Đán họ có thắp hương ở chỗ cửa ra vào.
Người Lô Lô rất kiêng để đồ uế tạp lên ban thờ, sợ ma quở trách. Cũng ở
gian giữa dành bố trí để tiếp khách và kê giường ngủ cho khách. Khi không
có khách thì chỉ ông chủ và những con trai lớn của gia đình mới được ngủ ở
đây. Họ rất kiêng không được mang đồ uế tạp qua cửa chính.
Trước đây họ kiêng không cho phụ nữ, nhất là khách lạ ngồi ở giữa của
chính, vì họ sợ như thế sẽ reo rắc uế tạp, làm ma của phật ý gây ốm đau cho
con cháu trong nhà. Hiện nay thì không còn phổ biến nữa.
1.1.4. Hoạt động sản xuất
Người Lô Lô trồng lúa nước trên ruộng bậc thang. Ngoài ra cũng còn
trồng ngô trên nương rẫy. Chăn nuôi gia đình được chú trọng và là một nguồn
thu nhập đáng kể. Người Lô Lô biết buôn bán.
Người Lô Lô theo chế độ phụ hệ, chung sống trong đại gia đình nhiều
thế hệ. Người Lô Lô chủ yếu là làm ruộng nương, khai thác vùng đồi núi để
trồng trọt, đời sống nghèo khó và không ổn định. Nhận thức về việc khai khẩn
những vùng đồi, núi dốc chủ yếu làm nương thành đất định canh và phát triển
thành ruộng bậc thang giúp đắc lực cho việc xóa đói giảm nghèo, đời sống

đồng bào đã khá hơn trước. Cùng với nông nghiệp ruộng nước, làm nương

10


trên núi, nhiều gia đình còn có những mảnh vườn để trồng rau cung cấp cho
bữa ăn hàng ngày.
Trong thực tế hầu như mọi hoạt động mưu sinh trong trong hệ thống
nông lịch của họ đều xoay quanh hoạt động trồng trọt.
Giống cây trồng gồm có: Lúa nếp, lúa tẻ, sắn và chiếm đến 50% diện
tích là trồng các loại ngô…
Người Lô Lô có một chu trình canh tác khép kín, ít biến động và dựa
hoàn toàn vào khí hậu, chế độ thủy văn nơi họ sinh sống. Họ canh tác cây
trồng chủ yếu vào mùa mưa - nóng khoảng từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch.
Người Lô Lô ở Hà Giang do địa hình núi đá chiếm đa số diện tích nên
có 2 loại nương là nương xếp đá và nương hốc đá.
Còn ở Cao Bằng ruộng nước là chủ yếu họ dùng sức trâu hoặc bò để cày
bừa.
Bên cạnh đó, để cải thiện và tăng thêm nguồn thu nhập cho gia đình,
người Lô Lô còn làm các công việc như chăn nuôi, săn bắt, hái lượm, đánh
cá…
Do địa bàn cư trú của dân tộc Lô Lô là ở vùng sâu vùng xa nên trước đây
nghề thủ công và hoạt động trao đổi, buôn bán kém phát triển đa số là tự cung
tự cấp, đủ để sử dụng. Hiện nay do quá trình hội nhập nên cuộc sống ở nơi
đây cũng đã đầy đủ và phát triển hơn.
Mùa khô là thời gian dành cho các hoạt động có tính cộng đồng: lễ hội,
cúng bái, cưới xin, làm nhà, thăm hỏi lẫn nhau, tu sửa mồ mả…
1.1.5. Ngôn ngữ và chữ viết
Từ xa xưa người Lô Lô đã có chữ viết riêng, thường được viết trên da
thú và gỗ. Tuy nhiên, những tài liệu này đang mất dần, chỉ còn sót lại rất ít mà

người trẻ cũng không biết đọc.

11


Ngôn ngữ và chữ viết: Tếng nói của người Lô Lô thuộc nhóm ngôn ngữ
Tạng - Miến, ngữ hệ Hán - Tạng, gần với ngôn ngữ Miến hơn. Người Lô Lô
đã có dạng chữ viết riêng (chữ tượng hình) nhưng nay đã bị mai một.
Người Lô Lô có chữ viết từ rất sớm, qua các di chỉ khảo cổ học ở núi
Tam Sơn tỉnh Tứ Xuyên và ở Chu Khẩu Điếm Bắc Kinh… nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng chữ của người Lô Lô có trước chữ Trung Quốc cổ. Hiện tại các
bộ chữ của người Lô Lô ở Việt Nam đã bị mai một, kể cả các thầy cúng trước
đây vẫn sử dụng, nhưng nay không còn ai biết đến chữ viết của người Lô Lô
nữa.
Tại huyện Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng một vài cụ già còn giữ lại được một số
di vật văn tự quý giá đó nhưng chính các cụ cũng không đọc nổi, nên chưa
dám khẳng định đó là chữ xưa kia của người Lô Lô.
Trong thực tế tiếng nói của người Lô Lô có sự khác nhau chút ít giữa
người Lô Lô Hoa ở Hà Giang với Lô Lô Đen ở Cao Bằng.
Ví dụ:
TIẾNG LÔ LÔ Ở HÀ GIANG

TIẾNG LÔ LÔ Ở CAO BẰNG

TT

TIẾNG VIỆT

1


Nắng

Mùa pị

Pì é

2

Buổi sáng

Mùa pheng

Mồ nạ

3

Quả chuối

Go pằng

Cằm pọ

4

Con trai

Xá pủa

Pọa a


5

Con gái

Xá mì

Mì a


Giới trẻ người Lô Lô hiện nay hầu hết biết và sử dụng chữ quốc ngữ,
tiếng phổ thông trong mọi quan hệ xã hội ở nơi công sở hoặc với các tộc
người ngoài cộng đồng.

12


1.1.6. Tổ chức xã hội
Trong gia đình: Vì theo chế độ phụ hệ nên người đàn ông giữ vai trò
quan trọng nhất trong gia đình, có thể là ông, bố, con trai lớn trong nhà. Chỉ
có những người đàn ông mới được thắp hương, đến gần bàn thờ, đảm nhiệm
công việc cúng bái trong gia đình, được ngồi chính giữa ở mâm cơm…
Ngoài xã hội: Mọi quyền hành hầu như đều tập trung vào người trưởng
làng. Ông là người đứng ra giải quyết các công việc chung, kế thừa và duy trì
các luật tục, quy ước của làng. Duy trì trật tự an ninh trong làng, tổ chức dân
làng bảo vệ đất đai và các nguồn lợi thiên nhiên của làng, giám sát việc sử
dụng đất canh tác của từng gia đình…
Trong xã hội người Lô Lô, ngoài trưởng làng, mỗi dòng họ đều có một
người đứng đầu, gọi là thầu chư (trưởng dòng họ) với nhiệm vụ thờ cúng tổ
tiên dòng họ và phải là người hiểu sâu về tập quán, biết cúng bái. Những
người này đóng vai trò quan trọng đối với việc tự quản, hướng dẫn các gia

đình thành viên thực hiện các nghi lễ, chủ trì các lễ cúng dòng họ, đám ma,
đám cưới, làm nhà mới, dàn xếp các vụ việc xích mích trong nội bộ dòng họ
hay giữa người dòng họ mình với người ngoài dòng họ… Do vậy, chính họ là
những người có tác dụng giữ gìn mối liên kết giữa các dòng họ, đảm bảo sự
đoàn kết trong dòng họ, kế thừa và giữ gìn phong tục tập quán của tộc người
Lô Lô.
Ngoài ra lớp người già trong xã hội Lô Lô cũng có vai trò rất quan trọng
trong cộng đồng làng. Đó là những người có nhiều kinh nghiệm trong sản
xuất, hiểu biết sâu về phong tục tập quán nên luôn được dân làng kính trọng
và học hỏi. Họ không chỉ có nhiệm vu dạy bảo con cháu về cách làm ăn, biết
sống theo tập quán tộc người, biết tiến hành các lễ nghi theo phong tục mà
còn được tham gia đóng góp ý kiến khi trong làng hay trong dòng họ có công
việc chung, có những vấn đề cần đưa ra giải quyết.

13


1.2.Khái quát về văn hóa, tôn giáo tín ngƣỡng
1.2.1. Đặc điểm văn hóa
1.2.1.1. Trang phục
Y phục nữ
Dân tộc Lô Lô từ lâu đời nay phụ nữ thường mặc quần hoặc váy màu
đen, áo ngắn có trang trí nhiều hoa văn với nhiều màu đỏ, hồng, trắng, vàng,
xanh da trời… Bộ y phục cổ truyền của người Lô Lô gồm: khăn, áo, dây lưng,
quần, váy, xà cạp và tạp dề hay còn gọi là tấm che phía ngoài váy hoặc quần.
Khăn ( quoay chế)
Phụ nữ Lô Lô ở tỉnh Cao Bằng sử dụng hai loại khăn, đó là khăn trắng
và khăn đen. Khăn trắng được làm từ vải mộc tự dệt, dài 100 cm, rộng 20 cm;
khăn đen ( cũng có thể màu chàm) được khâu từ vải tự dệt, dài 100 cm, rộng
50 cm. Khi đội, họ đội khăn trắng trước bằng cách quấn xung quanh đầu, sau

đó khăn đen gấp làm ba theo chiều dài rồi quấn lên đầu 2 vòng và buộc phía
sau, nếu còn thừa thì bỏ thõng xuống lưng. Như vậy phụ nữ ở đây phải đội
một lúc hai chiếc khăn với hai màu sắc khác nhau.
Đáng chú ý là hai chiếc khăn này không thêu thùa, trang trí hoa văn và
cũng không gắn các tua màu ở hai đầu khăn như phụ nữ Lô Lô ở Hà Giang. Lí
do là vì phụ nữ Lô Lô ở Cao Bằng vẫn duy trì tập quán trồng bông dệt vải và
làm chàm nên hiện nay vẫn theo phong tục quấn khăn trắng ở trong, đội khăn
đen hoặc chàm ra ngoài.
Áo (sang mì piảng)
Phụ nữ Lô Lô Đen ở Cao Bằng mặc áo ngắn cổ vuông, xẻ ngực, cài khuy
vải màu hoặc bằng đồng, trang trí ít hoa văn. Áo của phụ nữ Lô Lô ở huyện
Bảo Lạc và Bảo Lâm trang trí hoa văn ở hai ống tay áo, phần sống lưng, nẹp
ngực và mép gấu, mỗi bên ống tay áo có thêu và đáp các vòng vải nhiều màu
sắc khác nhau, phần sống lưng áo được thêu những hoa văn hình hoa hay hình

14


vuông nhỏ nhưng bố cục sao cho thành 3 hay 4 hình vuông lớn hơn xếp dài
theo lưng áo bằng các màu đỏ, vàng, trắng, hồng.
Người Lô Lô ở Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng vẫn dệt vải thủ công và dùng
những bộ trang phục dân tộc truyền thống. Khác với phụ nữ Lô Lô Đen, phụ
nữ Lô Lô Hoa chủ yếu là mặc áo cánh, cổ tròn, xẻ ngực, quần ống què có
trang trí hoa văn.
Quần (sang mì lo)
Phụ nữ Lô Lô ở Cao Bằng và Hà Giang đều mặc quần màu đen hoặc
chàm, dạng chân què, dài đến mắt cá chân, không có túi, cạp lá tọa hoặc luồn
dây, không thêu thùa hay khâu ghép vải màu trang trí.
Kiểu quần mặc trong lễ hội thì ống rộng hơn khoảng 35 – 40 cm, thậm
chí còn rộng hơn, cạp cao từ 6 – 10 cm, mặt trước và mặt sau quần được trang

trí hoa văn ở vị trí khá tương xứng nhau.
Tạp dề (thu su)
Trước đây phụ nữ của dân tộc Lô Lô dùng tạp dề khá đơn giản chỉ là một
miếng vải hình chữ nhật hoặc hình thang cân, hẹp dần về phía cạp.
Khi đeo tạp dề, họ để một đầu cạp ở chỗ ngang rốn phía trước mặt, sau
đó quấn đầu kia vòng qua sau lưng như kiểu mặc váy quấn và quấn về phía
trước mặt, sau đó buộc dây thắt lưng ra ngoài. Mảnh tạp dề có chiều ngang từ
70 cm đến 100 cm, còn chiều dọc từ 50 cm đến 60 cm, do đó khi mặc tạp dề
dài đến gần bắp chân.
Tạp dề có đặc điểm là phần giáp với cạp và một phần nhỏ ở giữa không
trang trí hoa văn, còn lại các phần khác đều được trang trí rất nhiều hoa văn
khác nhau bằng cách thêu hoặc ghép những miếng vải màu đỏ, hồng, vàng,
trắng, xanh, họ đính các tua sợi màu, hạt cườm hay những đồng tiền kẽm dọc
theo đáy và hai cạnh.

15


Nhưng hiện nay chỉ có phụ nữ dân tộc Lô Lô ở Hà Giang vẫn dùng tạp
dề còn phụ nữ ở Cao Bằng thì không còn dùng nữa.
Dây lưng (thu su pi)
Ở Cao Bằng, dây lưng của phụ nữ Lô Lô làm bằng vải màu chàm rộng
50 cm, dài khoảng 100 cm, giống như chiếc tạp dề ngắn nhưng không trang trí
hoa văn.
Phụ nữ Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang thì sử dụng 4 chiếc dây lưng
mỏng và nhỏ, có trang trí các tua sợi hay len màu hồng, vàng và xanh ở các
đầu dây, cũng có trường hợp dây lưng làm bằng vải đen hay chàm mà hai đầu
được thêu và gắn những tua chỉ xanh đỏ sặc sỡ.
Xà cạp (thí ly)
Xà cạp của phụ nữ Lô Lô thường làm bằng vải hoa màu hơi tối hay vải

màu đen hoặc chàm. Xà cạp có đặc điểm là được khâu thành ống giống như
ống chân. Đầu dưới của xà cạp được luồn dây chun, còn đầu trên thì buộc
dây.
Xà cạp của phụ nữ Lô Lô được trang trí khá đẹp. Nhất là dây buộc tuy
nhỏ nhưng được trang trí các tua sợi hay len màu hồng, vàng, và xanh.
Váy (dung)
Phụ nữ Lô Lô thường mặc váy trong những ngày lễ hội, đặc biệt khi chết
họ cũng được mặc váy khi khâm liệm. Váy được may dạng hình ống hoặc
quấn khá rộng, dài qua đầu gối người mặc, váy chiết li hai phần (dưới cạp và
gần đầu gối). Nếu là váy quấn, phía 2 đầu của cạp có khâu thêm dây bằng vải
để buộc vào bụng khi mặc. Váy của họ không trang trí hoa văn.
Giày
Thường ngày phụ nữ Lô Lô ít đi giày nhưng trong ngày lễ, tết cổ truyền
hoặc trong những ngày trời lạnh họ có đi giày vải. Trước đây, họ có tập quán
làm giày từ vải đã được nhuộm chàm, nhưng từ lâu họ bỏ tập quán này và đi

16


mua giày ở chợ để đi. Hiện nay trong những ngày lễ, phụ nữ Lô Lô thường đi
loại giày vải nhung đen có quai hậu của Trung Quốc, còn ngày thường thì đi
dép nhựa. Riêng các cụ già thì vẫn thường đi chân đất.
Bộ trang phục nữ giới của dân tộc Lô Lô khá là đẹp, được làm rất công
phu, trang trí các loại hoa văn như: Hoa văn hình học (hình tam giác, hình
vuông), hình quả thảo quả, hình chim “ngó bá ... thể hiện trình độ, khiếu thẩm
mỹ tinh tế của đồng bào. Với sắc màu nóng đậm, bộ trang phục nữ Lô Lô
được kết hợp với những đồ trang sức bằng bạc, nhôm có sắc trắng, sáng lấp
lánh... cho thêm phần duyên dáng.
Y phục nam
Đàn ông Lô Lô mặc bộ y phục (áo, quần, mũ và khăn)

Mũ và khăn
Trước đây đàn ông Lô Lô thường đội khăn dài, giống như khăn của phụ
nữ, màu chàm hay màu đen, dài khoảng 200 cm, rộng 24 cm, có đính nhiều
tua màu và thêu trang trí hoa văn ở 2 đầu. Khi đội thì quấn quanh đầu như đội
khăn xếp của người Việt xưa kia. Hiện nay lớp người già và trung niên
thường đội mũ nồi hay mũ dạ, mũ lưỡi trai của Trung Quốc, còn lớp thanh
niên thì để đầu trần.
Áo (sang pỏ pìang)
Đàn ông Lô Lô ở Cao Bằng mặc loại áo 5 thân được làm từ vải chàm tự
dệt, giống như áo của phụ nữ người Nùng, khoét nách, xẻ tà, cổ tròn và có hò,
cài khuy về nách phải. Khuy áo gồm 4 chiếc bằng đồng hay nhựa, trong đó
một chiếc cài ở phía dưới cổ, chiếc thứ hai cài ở ngực, chiếc thứ ba cài ở nách
và chiếc thứ tư cài ở chỗ xẻ tà. Áo khá dài, tà áo phía trước được cắt ngắn đến
chỗ xẻ tà rồi khâu một cái túi ở phía trên. Trên áo của họ chỉ có một túi,
không thêu hoa văn hay dáp vải màu.

17


Quần (sang pỏ lo)
Đàn ông Lô Lô mặc loại quần giống như quần của đàn ông người Nùng
hoặc người Hmông. Quần màu đen hay chàm, cạp lá tọa, ống rộng, dài đến
mắt cá chân, không có túi. So với áo thì việc cắt may quần còn đơn giản hơn
nhiều. Hiện nay, nhiều người đàn ông Lô Lô ưa thích mặc loại quần bộ đội
hoặc quần Âu.
Giày, dép
Trước đây đàn ông Lô Lô đi loại giày giống như giày của phụ nữ, do
chính họ tự làm hoặc đi mua ở chợ. Hiện nay, đàn ông Lô Lô có tuổi thường
đi loại giày vải ba ta đế bằng cao su do các nhà máy giày sản xuất, thanh niên
đi giày như thanh niên người Kinh. Có nhiều người, kể cả nam hay nữ thích

đi dép nhựa. Trong những ngày hè hay lúc đi lao động họ thường hay đi chân
đất.
Ngày nay, cùng với sự phát triển, đổi thay của nông thôn miền núi, các
gia đình người Lô Lô cũng đã mua sắm được các trang thiết bị như xe máy, ti
vi, máy xay xát… mua sắm được nhiều quần áo. Đối với đàn ông, trang phục
thường được mua ở chợ, mỗi bộ quần áo trên dưới 100 nghìn đồng, nhưng với
phụ nữ, vẫn giữ được nét đẹp truyền thống từ những bộ trang phục của dân
tộc, với giá trị bằng cả con bò.
1.2.1.2. Ẩm thực
Người Lô Lô chủ yếu ăn ngô bằng cách xay thành bột đồ chín. Bữa ăn
phải có canh. Họ thường dùng bát và thìa bằng gỗ.
Nguồn lương thực của người Lô Lô chủ yếu là các sản phẩm từ trồng trọt
như lúa, ngô, khoai, sắn… Chỉ có một số rất ít được tìm kiếm từ trong rừng
như củ mài, củ nâu… Do đặc điểm của điều kiện tự nhiên thì phần lớn người
Lô Lô ở Hà Giang thường hay ăn ngô, còn người Lô Lô ở Cao Bằng thì ăn
gạo là chính.

18


Những món ăn mà người Lô Lô chế biến: mèn mén, cơm ngô, bánh ngô,
cơm, cháo… người Lô Lô rất thích ăn đồ nếp nhất là xôi nhiều màu, bánh
dầy, bánh trưng, bánh rán, bánh sừng bò… Những loại bánh này rất cần thiết
khi thực hiện một số nghi lễ và làm quà lúc đi thăm hỏi nhau.
Nguồn thực phẩm của người Lô Lô chủ yếu là các sản phẩm chăn nuôi
và tự gieo trồng. Họ nuôi khá nhiều gà, lợn, vịt, ngan, dê, bò… với mục đích
để cung cấp thực phẩm hàng ngày, cho các nghi lễ và khi gia đình có khách
tới thăm. Ngoài chăn nuôi họ còn gieo trồng thêm nhiều loại rau và cây ăn
quả như đậu, mướp, bầu, bí, rau bào, rau rền, rau cải…Chúng đã góp phần cải
thiện bữa ăn hàng ngày của người Lô Lô.

Những món ăn trong ngày thường:
Chế biến từ tinh bột: cơm tẻ, cơm ngô, xôi, cơm tẻ đồ, mèn mén ( mù
phu), cơm lam…
Chế biến từ thực phẩm: thịt, cá, trứng, đậu, lạc, vừng, nhộng… được chế
biến theo nhiều cách khác nhau tùy theo sở thích và điều kiện của từng gia
đình, có các dạng phổ biến như xào, nấu, luộc, hầm, rán, nướng… Với rau, củ
, quả thì có các dạng như luộc, xào, hấp, nấu…
Những món ăn trong dịp tết và lễ: Ngoài một số món ăn đã được kể ở
trên, trong dịp tết Nguyên Đán, tết tháng Bảy âm lịch, lễ cưới, lễ vào nhà
mới… người Lô Lô còn chế biến nhiều món ăn khác như đánh tiết canh, thịt
quay, nướng… và làm bánh trôi (pẻ po), bánh rán (mù dủ trò), bánh trưng (mù
chiang), bánh dày (mù phí thông)…
Đồ uống: Người Lô Lô rất thích uống rượu, chủ yếu là loại riệu tự cất,
trong nhà hầu hết ai cũng biết uống rượu. Rượu là đồ uống được người Lô Lô
sử dụng nhiều trong những ngày tết và lễ, nhất là khi gia đình có công việc.
Đặc biệt trong những ngày tết khi cúng tổ tiên, làm lễ vào nhà mới hay trong
đám cưới, đám ma… nhất thiết phải có rượi để bày lên bà cúng.

19


×