TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
XÌN THỊ XUYÊN
THÂN PHẬN TRẺ THƠ TRONG
TIỂU THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI
CỦA MA VĂN KHÁNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS.
Nguyễn Thị Tuyết Minh - giảng viên khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm
khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các
thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã cung cấp kiến thức về văn học và
tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Những kiến
thức đó sẽ tạo tiền đề cho tôi trong suốt quá trình học tập và công tác sau này.
Để hoàn thành khóa luận này tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của
gia đình, bạn bè, những ngƣời thân là điểm tựa vững chắc để tôi hoàn thành
tốt nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Xìn Thị Xuyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự
hƣớng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong đề tài này là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất cứ
công trình nghiên cứu nào. Những tài liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận
xét, đánh giá đƣợc chính tác giả thu thập từ những nguồn khác nhau có ghi
trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kì sự sai lệch nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Xìn Thị Xuyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................... 5
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 5
6. Đóng góp của khóa luận............................................................................ 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG ................................................................ 7
1.1. Thể loại tiểu thuyết trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại ....... 7
1.2. Ma Văn Kháng và hành trình sáng tác tiểu thuyết ................................. 9
1.2.1. Tiểu sử Ma Văn Kháng ................................................................... 9
1.2.2. Hành trình sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng .................... 11
1.3. Đề tài trẻ thơ trong sáng tác của Ma Văn Kháng và tiểu thuyết Côi cút
giữa cảnh đời............................................................................................... 13
Chƣơng 2. SỰ THỂ HIỆN THÂN PHÂN TRẺ THƠ TRONG TIỂU
THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI CỦA MA VĂN KHÁNG ............... 17
2.1. Thân phận trẻ thơ côi cút trong đời sống gia đình .............................. 17
2.2. Thân phận trẻ thơ trong nhà trƣờng ..................................................... 22
2.3. Thân phận trẻ thơ trƣớc những nghịch cảnh ngang trái của xã hội ..... 27
Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THÂN
PHẬN TRẺ THƠ TRONG TIỂU THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI
CỦA MA VĂN KHÁNG ................................................................................ 33
3.1. Nghệ thuật kể chuyện .......................................................................... 33
3.2. Ngôn ngữ .............................................................................................. 36
3.3. Giọng điệu ............................................................................................ 38
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ma Văn Kháng là cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Ông là một trong số ít các nhà văn viết khỏe, viết đều trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Cho đến nay, Ma Văn Kháng đã có gần 200 truyện ngắn, 13 cuốn tiểu
thuyết và 4 truyện viết cho thiếu nhi. Từ đó, ông đã tạo cho mình một phong
cách riêng, chỗ đứng riêng trong nền văn học nƣớc nhà. Đặc biệt, Ma Văn
Kháng là cây bút có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đổi mới văn xuôi sau
1986, với những tác phẩm mở đầu nhƣ Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng
trong vườn (1985). Ông không tìm cách đƣa ra những tuyên ngôn nghệ thuật
mang tính chất “gây chấn động” nhƣ những nhà văn khác (Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải), mà chọn cho mình cách chiến đấu thầm lặng bằng
những bƣớc đi vững chắc với những tác phẩm từ đó góp sức, góp thành tựu
cho sự nghiệp đổi mới văn xuôi sau 1986 nói riêng và cho nền văn học dân
tộc nói chung.
Ma Văn Kháng là nhà văn chuyên viết cho ngƣời lớn, nhƣng ông cũng
gặt hái đƣợc nhiều thành công khi thử sức với những tiểu thuyết dành cho
thiếu nhi. Trong đó, phải kể đến Côi cút giữa cảnh đời, tiểu thuyết đƣợc xuất
bản vào năm 1989 và vinh dự nhận giải thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2012. Âm hƣởng của toàn câu chuyện nhƣ một tiếng thở dài
não ruột, cuộc sống ngổn ngang, còn nhiều thân phận xứng đáng đƣợc hƣởng
hạnh phúc lại bị đọa đầy vùi dập. Nhƣng họ vẫn tồn tại bởi“sự sống chẳng
bao giờ chán nản”.
Văn học thiếu nhi là một bộ phận của nền văn học dân tộc. Mặc dù ra
đời sau và phát triển muộn hơn các bộ phận văn học khác nhƣng văn học
thiếu nhi đã có những đóng góp quan trọng trong đời sống văn học cả về mặt
nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Tuy nhiên, việc mô tả - nhận diện - cắt
1
nghĩa - định giá bộ phận văn học này vẫn chƣa đƣợc nhiều. Để có một sự tổng
kết chính xác, đầy đủ, khách quan, khoa học và công bằng đối với một hiện
tƣợng, một trào lƣu, một bộ phận hay một giai đoạn văn học các nhà nghiên
cứu nhận thấy vừa phải có những tiếp cận đa chiều vừa phải có một độ lùi
thời gian cần thiết. Trong hành trình lâu dài của việc đánh giá văn học thiếu
nhi, những nhận xét, đánh giá đều là những sự chuẩn bị quan trọng và thiết
yếu. Do vậy, bản thân chúng tôi từ lâu đã rất quan tâm đến văn học thiếu nhi
cũng mong muốn đƣợc đóng góp một phần khiêm tốn của mình vào công việc
chung đó.
Từ những lí do trên chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: Thân
phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sẽ góp phần bổ sung một cái nhìn mới về
thân phận của những đứa trẻ trong tiểu thuyết viết về thiếu nhi của Ma Văn
Kháng.
2. Lịch sử vấn đề
Năm 2012, cuốn tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời xuất bản vào năm
1989 nhận giải thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật. Sau khi ra đời,
tiểu thuyết này đã thu hút sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu, phê bình
trong đó phải kể đến:
Nhà nghiên cứu Phong Lê trong cuốn Vẫn chuyện Văn và Người đã
nhận xét:“Côi cút giữa cảnh đời viết cho lứa tuổi thiếu nhi. Cuốn sách chất
đầy những đau khổ, oan khiên lên thân phận ba bà cháu còm cõi, bơ vơ. Nếu
chỉ là đau khổ và oan khiên thì chỉ làm nảy ở người đọc sự oan ức, phẫn nộ,
người ta mím môi, nghiến răng. Nhưng để làm rơi được giọt nước mắt thì
phải có một cái gì đó khác, hoặc cao hơn sự căm giận, sự phẫn nộ. Có đó chỉ
có thể khơi gợi được ở cái thiện, cái đẹp và tình người. Chưa thể nói ở đây
cái thiện, tình người đã thắng, đã vượt lên được cái ác, đã đè bẹp được những
2
tâm địa tối tăm. Nhưng nó đã có thể tồn tại mà không bị vùi dập. Và tôi nghĩ
đó là chiến thắng của tác giả… Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục sâu vào
sự tối tăm oan khổ đó như nhiều cuốn sách khác. Nhưng thật lạ ông lại đưa
con người vào quỹ đạo những tình cảm nhân hậu, tốt lành. Có thể nói, đó là
một hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa. Cái hiệu quả thanh lọc này vốn dành cho
nghệ thuật; và dường như cũng chỉ có một nghệ thuật đích thực… Cuốn sách
mạnh mẽ đẩy ta vào giữa dòng sống hôm nay với cảm hứng lớn là cảm hứng
sự thật, và khát vọng bao trùm là khát vọng dân chủ; cũng đồng thời cho ta
một sự gắn nối với mạch truyền thống là chủ nghĩa nhân văn và tình thương
yêu con người”. Về nhân vật thiếu nhi trong tiểu thuyết, nhà nghiên cứu
Phong Lê cũng nhận định:“Nhân vật bé Duy cho ta hình ảnh là một sự chống
chọi để vượt lên bao đau khổ, đau khổ mà không quá tầm thường với lứa tuổi
lên mười, mà không cường điệu, giả tạo” [10, tr.193 - 198].
Văn Hồng trong bài viết Chuyện văn, chuyện người đánh giá cao tƣ
tƣởng nghệ thuật sâu sắc của tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời:“Đồng tiền,
quyền lực cũng như các tài sản vật chất khác chung quy chỉ là phương tiện.
Người nào coi đồng tiền, quyền lực là mục đích, người đó sẽ trở thành kẻ ác,
giẫm đạp lên người khác và tự phá hoại cuộc sống của chính mình! Mục đích
của chúng ta cao đẹp biết bao nhiêu, một cuộc sống có nghĩa, có tình, giàu về
vật chất và tinh thần, giàu cho tất cả mọi người, hòa bình và hữu nghị cho tất
cả các dân tộc!” [3, tr.9].
Nhà nghiên cứu Vân Thanh, tác giả cuốn sách Phác thảo văn học thiếu
nhi Việt Nam cho rằng: Cuốn sách thu hút ngƣời đọc ở việc thể hiện cuộc
sống thực đầy cay đắng và cũng không thiếu chất thơ diễn ra quanh ta. Cuốn
sách nêu nhận xét của một số nhà phê bình nhƣ sau: “Cuốn sách thể hiện
cuộc sống như một sự toàn vẹn. Không một cuộc phiêu lưu, không một pha
đuổi bắt…. Ở đây cái hấp dẫn là do tính cách và số phận những con người”
3
(Văn Hồng). “Đọc Côi cút giữa cảnh đời có trang rơi nước mắt, có đoạn
muốn gào lên” (Quần Phƣơng) [15, tr.388].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết Phong cách văn và
đời cho rằng:“Trong văn học thiếu nhi, Ma Văn Kháng đã góp bốn truyện
hay. Tác phẩm tâm huyết về chủ đề này của ông là tiểu thuyết Côi cút giữa
cảnh đời, được tái hiện trên cơ sở thu hút nhiều yếu tố tự truyện, đã được tổ
chức SIDA (Thụy Điển) trao giải thưởng, bởi tác phẩm là tiếng nói xác tín và
truyền cảm bảo hộ quyền sống và nhân cách con người ngay từ khi nó vẫn là
một đứa trẻ non nớt và vụng dại” [17, tr.231].
Chính Ma Văn Kháng, tác giả của cuốn tiểu thuyết đã tự bộc lộ cảm
xúc của mình và đƣa ra những lời nhận xét nhƣ sau:“Tác phẩm mà tôi yêu
thích nhất là cuốn Côi cút giữa cảnh đời . Vì “Cuốn sách đặt con người vào
dòng đời đương đại trong một hiện thực gay gắt và không ít buồn phiền đau
đớn… Côi cút giữa cảnh đời triển khai một cấu trúc gồm một loạt những
gian truân cùng cực của ba bà cháu trong một cuộc vật lộn với thiếu thốn vật
chất, mất mát tình cảm và những ức chế tinh thần. Tôi nghĩ văn học ta đã xây
dựng khá sắc sảo hình tượng người vợ, người mẹ đại diện cho phụ nữ Việt
Nam trong những cơn thăng trầm của lịch sử. Bây giờ tôi muốn có hình ảnh
một người bà rộng lượng, khoan dung thương yêu hết mực, hi sinh hết thảy vì
con, cháu và bền bỉ, ngoan cường, dũng cảm đối mặt với cái xấu, cái ác, là
hiện thân cho lẽ phải, lòng tin và sự can đảm. Trong Côi cút giữa cảnh đời
có hình bóng người mẹ kính yêu của tôi, người bà nội, người bà ngoại của
các con cháu tôi…” [8, tr.247 - 248].
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên mới dừng lại ở những
nhận định chung nhất mà chƣa đi sâu vào tìm hiểu thân phận trẻ thơ. Tiếp thu
gợi ý của những nhà nghiên cứu đi trƣớc, khóa luận của chúng tôi đi sâu
nghiên cứu: Thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma
Văn Kháng.
4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là tiểu thuyết Côi cút giữa ảnh đời
của Ma Văn Kháng, do NXB, Hội Nhà văn ấn hành năm 2012.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ nội dung cụ thể của đề tài và “tính vừa sức” của một khóa
luận tốt nghiệp Đại học, chúng tôi không tìm hiểu toàn bộ những vấn đề trong
tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời mà chỉ tập trung vào bình diện cơ bản: Thân
phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong khóa luận
chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp hệ thống
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
- Phƣơng pháp liên ngành
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đặt tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời trong bối cảnh chung của đổi
mới tiểu thuyết sau 1986.
- Làm rõ thân phận trẻ thơ trong mối quan hệ với gia đình, nhà trƣờng
và các mối quan hệ khác.
- Chỉ ra và phân tích kĩ lƣỡng về tác dụng của một số yếu tố về hình
thức nghệ thuật trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời.
5.2. Mục đích nghiên cứu
- Thấy đƣợc thân phận trẻ thơ trong mối qua hệ gia đình, nhà trƣờng và các
mối quan hệ khác.
5
- Khảo sát tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời để thấy đƣợc điểm độc đáo
của Ma Văn Kháng khi viết về đề tài trẻ thơ.
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận tập trung nghiên cứu về thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết
Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng. Qua đó, khẳng định tài năng nghệ
thuật và vị trí của Ma Văn Kháng trong nền văn học đƣơng đại Việt Nam.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của khóa luận đƣợc triển khai theo ba chƣơng:
Chƣơng 1. Giới thuyết chung
Chƣơng 2. Sự thể hiện thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa
cảnh đời của Ma Văn Kháng
Chƣơng 3. Một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện thân phận trẻ thơ
trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Thể loại tiểu thuyết trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại
Văn học là tấm gƣơng phản chiếu hiện thực chân thực nhất. Mỗi nhà
văn là những “tên mật thám” của tâm hồn sẵn sàng băng qua các đƣờng biên
để tìm cái mới. Điều đó dẫn tới một chân lí“Thời đại nào, văn học đó”. Qủa
vậy, sau 1986 đất nƣớc bƣớc vào công cuộc đổi mới. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định:“Đổi mới đất nước ta, đổi mới có ý
nghĩa sống còn”. Đời sống sau hòa bình với những khó khăn, bộn bề đòi hỏi
các nhà văn phải sáng tác đƣợc những tác phẩm giá trị, phản ánh đƣợc hơi thở
của thời đại. Với tinh thần“cởi trói”,“dân chủ” mà Đảng ta đã khuyến khích,
các nhà văn không còn bị gò bó theo những quy phạm, những khuôn khổ của
giai đoạn trƣớc mà đƣợc thỏa sức sáng tạo, trải nghiệm. Họ luôn trăn trở, chủ
động tìm cho mình một hƣớng đi mới thích hợp với sự vận động của xã hội thời đại và xu hƣớng vận động của bản thân văn học.
Dƣới ánh sáng của Đại hội Đảng lần VI, các nhà văn đã thực sự tìm ra
đƣợc con đƣờng đi cho sáng tác của mình. Điều đó góp phần làm cho văn học
có sự chuyển mình sâu sắc và đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Đời
sống văn học đổi mới một cách toàn diện: nhà văn có sự thay đổi sâu sắc về
quan niệm nghệ thuật, hiện thực về con ngƣời. Điều này khiến cho tác phẩm
của họ có sự thay đổi về chủ đề, cảm hứng sáng tác và các thủ pháp nghệ
thuật góp phần thay đổi thị hiếu thẩm mĩ của ngƣời đọc. Cùng với sự thay đổi
toàn diện của văn chƣơng, tiểu thuyết cũng nỗ lực đổi mới để đáp ứng yêu cầu
của thời đại.
Trƣớc yêu cầu đổi mới, nhiều cây bút tiểu thuyết đã có ý thức cách tân
trong cách nhìn, lối viết và đã cho ra đời “những đứa con tinh thần” thành
công, có giá trị trên cả hai phƣơng diện nội dung và hình thức nghệ thuật.
7
Điều đáng nói là thành phần sáng tác văn học lúc này có sự thay đổi mạnh
mẽ, bên cạnh các nhà văn lão thành, các nhà văn trƣởng thành qua hai cuộc
kháng chiến đã xuất hiện thế hệ của những nhà văn hậu chiến, nhà văn thời kì
đổi mới và thậm chí bao gồm cả những cây bút hải ngoại. Tất cả đã tạo nên
những động lực mới giúp tiểu thuyết Việt Nam vững bƣớc đi lên sánh ngang
tầm thế giới.
Đời sống văn học ngày càng dân chủ, cho phép các nghệ sĩ thỏa sức
bộc lộ sự sáng tạo, đổi mới tƣ duy mà đặc biệt là về mặt tƣ duy thể loại. Nếu
nhƣ tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn trƣớc 1975 thƣờng“cựa quậy” trong cái
khung của thể loại truyền thống là kể lại một câu chuyện sao cho giống với
thực chất, các nhà văn thƣờng khám phá nội dung hiện thực thông qua số
phận nhân vật, qua mối quan hệ giữa nhân vật với hoàn cảnh thì nay tiểu
thuyết sau 1975 đã xuất hiện những sinh thể đầy sức sống, dám chối từ lối
mòn xƣa để vƣơn tới sự thể hện mới mẻ. Sau 1986, không khí đổi mới tiểu
thuyết thực sự tràn vào đời sống xã hội và đời sống văn học, tiểu thuyết có
điều kiện cân bằng lại trạng thái tâm lý con ngƣời. Dòng tiểu thuyết hƣớng
nội tập trung khám phá những bí ẩn, những gì tinh tế nhất trong con ngƣời đã
xuất hiện. Nhà văn Nguyên Ngọc ghi nhận“Văn học chăm chú quan tâm hơn
đến con người với tư cách là một thế giới cá nhân phong phú, phức tạp, đa
dạng, đa chiều, đa tầng trong nhiều mối quan hệ cũng hết sức phức tạp và đa
dạng với toàn xã hội và với chính mình” [13]. Không loại bỏ xu hƣớng
“hướng ngoại” và quan tâm hơn đến xu hƣớng“hướng nội”, tiểu thuyết giai
đoạn này đã đi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, đối thoại với đời sống,
đối thoại với cuộc đời để nắm bắt đƣợc“Cái hôm nay bề bộn, ngổn ngang
bóng tối và ánh sáng” (Nguyễn Khải), đồng thời lặn sâu vào tâm hồn con
ngƣời để lắng nghe tất cả những âm vang của tiếng lòng bí ẩn trong con
ngƣời: có tiếng yêu thƣơng, có lời giận hờn, có cả những quanh co, những
tính toán ngấm ngầm…
8
Có thể nói, chƣa bao giờ những vấn đề về đời sống xã hội mà văn học
quan tâm hiện lên chân thực, sống động mà xót xa nhức nhối đến nhƣ thế ở
trong tiểu thuyết. Các nhà văn đã khai thác đến tầng vỉa của hiện thực đời
sống qua số phận con ngƣời, có khi qua những mảnh vỡ từ bi kịch làm ngƣời.
Vì vậy, ta gặp trong tiểu thuyết hôm nay cái chật hẹp của“cõi nhân gian” và
cái rộng lớn mênh mông sâu thẳm của cõi lòng nhỏ bé, qua số phận của
những con ngƣời. Ngòi bút của các nhà văn đã lột ra mọi sự thật của đời sống
dù cho điều đó làm họ cay đắng đến đâu chăng nữa. Đồng thời thấm vào từng
dòng chữ lại là một tình yêu thƣơng, một niềm tin và sự đòi hỏi rất cao đối
với con ngƣời, một con mắt thấu suốt làm những cái bình thƣờng hằng ngày
hiện lên trong một ánh sáng mới lạ khiến ta không thể nào quên.
Nhƣ vậy, tiểu thuyết sau năm 1986 đã có những bƣớc phát triển vƣợt
bậc và mạnh mẽ, chứng tỏ sức sống mãnh liệt và sức cách tân không ngừng
để tạo nên sự phù hợp với thời đại mới. Và một trong những nhà văn giữ vai
trò chủ đạo trong sự nghiệp ấy là Ma Văn Kháng với những cách tân không
ngừng trong sáng tác của mình.
1.2. Ma Văn Kháng và hành trình sáng tác tiểu thuyết
1.2.1. Tiểu sử Ma Văn Kháng
Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 1 tháng 12 năm
1936, tại làng Kim Liên thuộc Kẻ Chợ, nay thuộc phƣờng Phƣơng Liên, quận
Đống Đa, Hà Nội. Thuở xƣa vùng này nằm ở cửa ngõ phía Nam kinh thành
Thăng Long, một vùng nông thôn lam lũ và nghèo khổ. Mọi ngƣời cần cù và
chịu khó làm ăn nhƣng cuộc sống vẫn không thay đổi. Cho đến khi cách mạng
về thì ngƣời dân đƣợc học hành, làng quê thay đổi da thịt. Cũng vì vậy, Ma Văn
Kháng sớm ý thức đƣợc trách nhiệm của bản thân với đất nƣớc, với cuộc đời.
Ông là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Năm 1950 Ma Văn Kháng học trƣờng Thiếu sinh quân Việt Nam. Từ
1952 - 1954, ông tiếp tục học tại trƣờng Sƣ phạm Khu học xá Nam Ninh
9
(Quảng Tây - Trung Quốc). Năm 1960, Ma Văn Kháng vào học tại trƣờng
Đại học Sƣ phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, ông xung phong lên dạy học ở
Lào Cai, là giáo viên dạy Văn, là hiệu trƣởng trƣờng trung học. Về sau ông
đƣợc tỉnh ủy điều về làm thƣ kí cho Bí thƣ Tỉnh ủy Trƣờng Minh, rồi làm
phóng viên, phó tổng biên tập báo của Đảng bộ Tỉnh. Bí danh Ma Văn Kháng
đƣợc dùng làm bút danh để nói lên sự gắn bó sâu sắc và tình yêu của tác giả
đối với vùng đất mà ông từng hoạt động hơn 20 năm. Sau khi đất nƣớc thống
nhất, từ năm 1976 đến nay ông về công tác tại Hà Nội, từng làm Tổng biên
tập, Phó giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3/1995 là Uỷ viên ban
chấp hành, Uỷ viên Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam khóa V, Tổng biên tập
Tạp chí văn học nƣớc ngoài.
Đinh Trọng Đoàn khi mới ngoài hai mƣơi tuổi với lí tƣởng thời đại và
lòng say mê văn học đã hăm hở đi lên vùng đất mới lạ và cũng rất vất vả, khó
khăn - Lào Cai. Tại đây ông đã dâng hiến tuổi thanh xuân của mình và bạn bè,
để xây dựng, thay đổi vùng đất còn nghèo nàn, lạc hậu này. Cũng chính nơi
đây đã để lại cho ông nhiều kỉ niệm in sâu vào trong từng tác phẩm. Từ khi
chuyển về Hà Nội công tác, Ma Văn Kháng vẫn cống hiến hết sức lực cho văn
học qua nhiều tác phẩm. Xã hội đô thành với rất nhiều bộn bề, bon chen và
phức tạp trở thành nguồn cảm hứng của ông trong giai đoạn này. Ông đã quan
sát cuộc sống rất kĩ, từ dƣới lên trên, từ trên xuống dƣới, từ ngoài vào, từ
trong ra, tất cả đều đƣợc phản ánh, nhào nặn qua ngòi bút của ông để tạo
thành rất nhiều tác phẩm có giá trị.
Cuộc đời Ma Văn Kháng là những chuyến đi, là sự trải nghiệm qua rất
nhiều khó khăn và thăng trầm của lịch sử. Ông cống hiến hết mình, làm việc
hết mình, không biết mệt mỏi để chi chút, chắt lọc từng mẩu nhỏ cuộc đời, tạo
nên những nhân vật độc đáo, giàu cá tính. Có thể nói, Ma Văn Kháng đã toàn
tâm, toàn lực để tạo ra những dòng văn giàu cảm xúc cho những trang tiểu
thuyết của mình.
10
1.2.2. Hành trình sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Năm 1986 đƣợc coi là một dấu mốc đổi mới văn học Việt Nam. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI đã cởi trói cho văn nghệ sĩ, tạo tiền đề cho văn học
Việt Nam bƣớc hẳn sang một thời kì mới, đem lại sự khởi sắc cho các thể
loại. Hàng loạt tiểu thuyết viết theo khuynh hƣớng nhận thức lại ra đời, đƣa
ngƣời đọc ra khỏi những lối mòn cũ của tƣ duy: Thời xa vắng (Lê Lự), Mùa
lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Bến không chồng (Dƣơng Hƣớng)…
Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng cũng có những bƣớc cách tân
theo nhịp vận động và phát triển của văn học. Không phải là ngƣời “mở
đường tinh anh và tài năng” nhƣ Nguyễn Minh Châu, nhƣng là nhà văn có
cảm quan nghệ thuật và ý thức trách nhiệm với đời, Ma Văn Kháng đã góp
phần tạo ra một lực ban đầu để chuyển động đời sống văn học theo hƣớng
mới. Bút danh Ma Văn Kháng xuất hiện đầu tiên với truyện ngắn và những
cuốn tiểu thuyết dày dặn về đề tài miền núi nhƣ Đồng bạc trắng hoa xòe,
Vùng biên ải, Trăng non… Trong những trang viết này, nhà văn miêu tả bức
tranh lịch sử khá toàn diện về đời sống, tập tục sinh hoạt và cuộc đấu tranh
nội tâm giằng xé của đồng bào dân tộc trong cuộc tiểu phỉ, bài trừ thổ ty
phong kiến để đi theo con đƣờng chủ nghĩa xã hội.
Bƣớc sang giai đoạn đổi mới, Ma Văn Kháng chuyển sang đề tài thành
thị, tiếp tục chứng tỏ bản lĩnh của một ngòi bút đã định hình phong cách. Tiểu
thuyết Mưa mùa hạ (1982) đƣợc xem là mốc lịch sử đánh dấu bƣớc chuyển
mình có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình sáng tác của nhà văn. Cuốn tiểu
thuyết ra đời vào những năm tiền đổi mới, nó đƣợc xem nhƣ hồi còi thông
báo cho sự nghiệp đổi mới văn học của nƣớc ta, những năm đầu của thập kỉ
80. Chia tay cảm hứng sử thi, ngòi bút của Ma Văn Kháng hƣớng vào những
đề tài thế sự, đời tƣ. Cuốn tiểu thuyết tái hiện cuộc đấu tranh giữa con ngƣời
và thiên tai. Thể hiện cuộc đụng độ giữa cái xấu và cái tốt.
11
Năm 1985, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn ra đời gây chấn động
dƣ luận. Tác phẩm đi vào khám phá cuộc sống gia đình thành thị những năm
80, giai đoạn xã hội giao thời đang có những biến động. Một gia đình Hà Nội
vốn coi trọng đạo lí, gia giáo nay bị tác động của xã hội đang biến đổi, có
nguy cơ tan rã.
Năm 1989, tiểu thuyết luận đề Đám cưới không có giấy giá thú trình
làng tạo ra một cuộc tranh luận sôi nổi trên báo chí và ở bàn hội nghị. Nhân
vật chính của cuốn tiểu thuyết là Tự, một thầy giáo luôn khắc khoải, dằn vặt
bởi sự sa sút của nhân cách con ngƣời, đầy lo lắng buồn tủi về thế cuộc nhƣng
luôn gắng giữ cho trọn tấm lòng một ngƣời thầy, dành hết tâm lực cho học
trò. Mặc dù là tiểu thuyết luận đề, tác phẩm này vẫn chứa đầy sự sống.
Năm 1999, tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ xuất hiện, lại một lần nữa
tạo nên làn sóng tranh luận sôi nổi của giới nghiên cứu và độc giả yêu văn
chƣơng. Đây là tác phẩm xuất sắc, hội tụ sở trƣờng, thế mạnh của Ma Văn
Kháng, mở ra tiềm năng tự sự mới của tiểu thuyết Việt Nam. Một trong
những mạch chính của truyện là mối tình ghềnh thác, trắc trở của Khiêm và
Hoan. Xoay quanh cuộc đời của hai nhân vật chính là vấn đề của đạo đức
nhân sinh.
Năm 2009, tiểu thuyết Một mình một ngựa đã ra đời. Cuốn tiểu thuyết
tái hiện quãng thời gian nhà văn làm thƣ kí cho Bí thƣ Tỉnh ủy Lào Cai.“Nó
có dáng dấp một tự truyện của tác giả”. Một mình một ngựa, hình tƣợng đầy
cảm hứng kiêu hùng đồng thời hàm chứa mặc cảm cô đơn của mỗi đời ngƣời
trong cuộc sống.
Gần đây nhất (2011), Ma Văn Kháng cho in hai cuốn tiểu thuyết viết về
đề tài hình sự, về ngƣời chiến sĩ công an nhân dân hiến dâng sinh mệnh mình
cho sự nghiệp cao cả diệt trừ cái ác: Bóng đêm và Bến bờ.
Có thể nói , sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng đều bắt nguồn từ cái
nhìn nghệ thuật, tƣ duy nghệ thuật. Nếu nhƣ những trang viết của Ma Văn
12
Kháng trƣớc thập kỉ 80 thể hiện cái nhìn mang tính sử thi thì ở giai đoạn sau
nhà văn chuyển cái nhìn sang thế sự đời tƣ. Cuộc sống trong tác phẩm của
ông hiện lên không chỉ đơn tuyến mà đa tuyến, nhiều chiều, cái xấu xen lẫn
cái tốt, ma quỷ chen lẫn với thánh thần. Ông quan tâm phản ánh số phận con
ngƣời trong nhiều mối qua hệ, nhiều hoàn cảnh khác nhau và cố gắng nắm bắt
mọi khía cạnh của cuộc sống để lột tả nó một cách đầy đủ nhất, toàn vẹn nhất.
Ông đƣợc trao nhiều giải thƣởng, trong đó có giải thƣởng loại B của
Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986 cho tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn.
Giải thƣởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam 1995 cho tập
truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ. Giải thƣởng văn học ASEAN. Giải thƣởng
Nhà nƣớc về Văn học - Nghệ thuật năm 2001. Giải thƣởng Hồ Chí Minh về
Văn học - Nghệ thuật năm 2012 cho tác phẩm Truyện ngắn chọn lọc, Mưa
mùa hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ La Pan Tẩn.
Ma Văn Kháng từng bộc bạch:“Thôi thúc tôi viết là cái đẹp thật xúc
động, thật cao cả, thật khiêm nhường và lớn lao trong những hoàn cảnh đau
buốt nhất. Tôi gửi gắm niềm tin yêu của tôi vào tất cả những cay đắng, xót xa
của thân phận. Bằng cách đó tôi biểu lộ tình yêu với cái đẹp của cuộc sống”
đó cũng chính là quan niệm sáng tác của tác giả.
Ma Văn Kháng là nhà văn lão làng của Văn học Việt Nam đƣơng đại,
đã cống hiến cho nền văn học một khối lƣợng tác phẩm khá lớn, góp phần
quan trọng vào dòng chảy văn chƣơng nƣớc nhà cả về nội dung và nghệ thuật
làm cho văn học trở nên phong phú và đa dạng.
1.3. Đề tài trẻ thơ trong sáng tác của Ma Văn Kháng và tiểu thuyết Côi
cút giữa cảnh đời
Xã hội Việt Nam từ sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhất là từ thời kì
đổi mới của đất nƣớc đã bƣớc vào một giai đoạn mới với những biến đổi to
lớn và sâu sắc. Văn học phản ánh xã hội thông qua các cá nhân nhà văn, vì thế
13
sự phát triển của văn học tuy có tính độc lập nhƣng cũng có mối quan hệ mật
thiết với sự phát triển của xã hội. Truyện viết cho thiếu nhi sau 1975 tuy có
dòng chảy riêng nhƣng cũng không nằm ngoài bức tranh chung của văn học
Việt Nam, nhất là văn xuôi giai đoạn này. Quan sát sự vận động của những
sáng tác truyện cho các em sau 1975, chúng ta có thể chia thành các giai
đoạn: Giai đoạn 1975 - 1985 những tìm kiếm và sự chuẩn bị cho đổi mới và
giai đoạn từ 1986 đến nay. Đây là giai đoạn mở rộng đề tài, đổi mới cách tiếp
cận đời sống và tăng cƣờng khả năng khám phá con ngƣời.
Sự vận động của truyện thiếu nhi sau 1975, phần nào cũng có thể thấy
quy luật chung của mảng văn học này: Truyện viết cho các em sau 1975 vẫn
tiếp tục kế thừa những truyền thống của truyện thiếu nhi trong giai đoạn
trƣớc, khai thác trẻ em trong đời sống lịch sử - cách mạng và trong quan hệ
với nhà trƣờng. Bên cạnh những kế thừa, không hoàn toàn cắt đứt với truyền
thống của truyện thiếu nhi trong giai đoạn trƣớc, truyện thiếu nhi sau 1975 đã
vƣợt lên chiếm lĩnh hiện thực đời sống trẻ em, mở rộng phƣơng tiện khai thác,
khám phá đa dạng, đa chiều.
Ma Văn Kháng là một nhà văn sáng tác chủ yếu cho ngƣời lớn. Nhƣng
ông cũng thành công khi thử sức với những tiểu thuyết dành cho thiếu nhi.
Ma Văn Kháng có một tập truyện với nội dung gần gũi với tuổi thơ, đƣợc
chọn lọc từ hơn hai trăm truyện ngắn của ông. Những trang văn có nhân vật là
trẻ em hoặc những sự việc xoay quanh thế giới tuổi thơ đều đƣợc viết từ
nguồn cảm hứng, niềm yêu mến cuộc sống và lòng yêu thƣơng dành cho con
trẻ của nhà văn. Từ Ông Pồn và chú hổ con, Giấc mơ của bà nội, Hoa gạo
đỏ... cho tới Khu vườn tuổi thơ, Đồng cỏ nở hoa, Kiếm - Chú bé - Con
người... Tất cả những truyện này đều mang âm hƣởng của những số phận lo
toan, vất vả, nhọc nhằn, có hoàn cảnh éo le và chịu nhiều thiệt thòi, nhƣng đó
cũng là những con ngƣời có phẩm chất tốt đẹp và nổi bật hơn cả là lòng nhân
hậu, nết can đảm và ý chí kiên cƣờng.
14
Bỏ lại phía sau giọng điệu gai góc, ƣu tƣ, phiền muộn, truyện ngắn viết
cho trẻ em và viết về trẻ thơ của Ma Văn Kháng vẫn vang lên giọng điệu lạc
quan ƣớc mơ và tình đời cao thƣợng. Bên cạnh đó mĩ cảm của các tác phẩm
mang đậm chất triết lí. Cái đẹp mang tính chất nhân văn là một đặc điểm nổi
bật trong văn viết cho thiếu nhi nói riêng và văn xuôi nghệ thuật của nhà văn
nói chung, bởi vì Ma Văn Kháng “muốn qua nhân vật của mình tạo điều kiện
cho các em được tiếp xúc, trải nghiệm với hiện thực trước mắt khá bề bộn,
ngổn ngang, thậm chí là khắc nghiệt để từ đó các em có được những bài học
về cuộc sống và bước vào cuộc đời một cách vững vàng”.
Tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời đƣợc sáng tác năm 1989, tới nay đã
đƣợc xuất bản tới năm lần. Tiểu thuyết vinh dự nhận giải thƣởng Hồ Chí
Minh về Văn học - Nghệ thuật 2012. Điều đó là minh chứng chân thực nhất
cho giá trị của tác phẩm.
Tiểu thuyết kể về câu chuyện của gia đình họ Lã trƣớc bao nhiêu sóng
gió của cuộc đời và trong những sóng gió ấy đã làm nên con ngƣời cao cả. Đó
là ngƣời bà với tấm lòng bao dung nhân hậu, hy sinh hết mình để bao bọc cho
các con, các cháu. Tấm lòng từ bi, yêu thƣơng của bà trải rộng ra để cứu vớt
những mảnh đời cơ cực. Bà là chân lý sống sáng ngời, là trái tim cao cả, tỏa
ánh nắng ấm áp đến những chân trời giá lạnh của cuộc đời.
Côi cút giữa cảnh đời thì ắt hẳn cũng có những mảnh đời côi cút giống
cái tên của tiểu thuyết. Những mảnh đời ấy là Duy và Thảm cùng những con
ngƣời khác cũng bị xoáy vào cuộc đời khổ cực và mang trong mình những vết
thƣơng. Mặt khác, tác giả cũng không quên hƣớng tác phẩm của mình tỏa
sáng vào những góc khuất của xã hội bằng việc đƣa những nhân vật phản diện
(Luông, Hứng) vào tác phẩm nhƣ một cách để vạch trần sự thối nát, tha hóa
của bộ máy chính quyền trong những ngày “tranh tối tranh sáng” của thời kì
đổi mới. Đây là cái nhìn vừa bao quát, cụ thể lại vừa mạnh dạn của tác giả về
15
vấn đề chính trị vốn nhạy cảm. Cách nhìn nhƣ thế sẽ không có sự “che đậy”
hay “giấu giếm” để từ đó thay đổi sự thật và làm cho con ngƣời đƣợc bảo đảm
quyền hạnh phúc. Đây chính là ý nghĩa sâu sắc mà tác giả muốn phản ánh. Có
thể nói, ra sự đời của tiểu thuyết nhƣ“một bước ngoặt lịch sử” trong sự
nghiệp đổi mới văn chƣơng nói chung và trong sự nghiệp văn học của Ma
Văn Kháng nói riêng mà nhƣ Lƣu Khánh Thơ nhận định: ông là ngƣời
“Khuấy động văn đàn Việt Nam hiện đại”
16
Chƣơng 2. SỰ THỂ HIỆN THÂN PHÂN TRẺ THƠ TRONG
TIỂU THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI CỦA MA VĂN KHÁNG
2.1. Thân phận trẻ thơ côi cút trong đời sống gia đình
Trong nếp sống của ngƣời Á Đông, gia đình có vai trò rất lớn trong việc
giáo dục, bồi dƣỡng nhân cách cho con ngƣời. Khi viết truyện cho thiếu nhi, Ma
Văn Kháng đặc biệt quan tâm đến tình cảm gia đình. Gia đình là nơi hạnh phúc
nhất và an toàn nhất đối với trẻ em. Trong những tác phẩm của ông, thân phận
của những trẻ trong cuộc sống gia đình hiện lên khá rõ nét.
Dẫu biết rằng, những nụ cƣời mang lại hạnh phúc lớn nhất là nụ cƣời
của những đứa trẻ, nhƣng bản thân chúng lại không thể mang lại cho đời
những nụ cƣời trọn vẹn khi mà chúng phải trải qua những chuỗi dài bất hạnh
đã hóa thành bi kịch của cuộc đời và bé Duy là một cuộc đời nhƣ thế. Cha
nhập ngũ ngay từ khi Duy mới chào đời, mà đi lại bặt tin tức. Duy ở với mẹ
và bà, cuộc sống vẫn bình yên cho đến một ngày mẹ Duy bỏ lại hai bà cháu
để đi theo ông lái xe tải nọ. Duy vẫn còn là một đứa trẻ, chƣa nhận thức đƣợc
cảnh ngộ của mình lúc ấy, và cũng không hiểu đƣợc nỗi đau của mẹ phải gánh
chịu trong những năm tháng không biết tin tức gì về cha: “Trông, nghe rõ
nhưng tôi thật không hiểu nổi nỗi khổ của mẹ tôi có hình sắc gì, nó là thế
nào? Tôi ngẩn ra một lúc rồi lại tiếp tục chơi bi một mình giữa nhà” [7, tr.2].
Những chuỗi dài bi kịch của cuộc đời Duy có lẽ bắt đầu từ đây, Duy
còn quá nhỏ mà phải chịu sự thiếu hụt tình cảm của cha và mẹ. Rồi những
tháng ngày tiếp theo của em sẽ ra sao? Từ khi sinh ra, Duy chƣa một lần đƣợc
cảm nhận hơi ấm của ngƣời cha vào những đêm đông, chí ít những lúc đó em
còn có bà và mẹ, nhƣng từ hôm mẹ bỏ đi chỉ còn hai bà cháu: “Sớm nào cũng
vậy, đã định dậy rồi, nhưng thấy tôi co ro trong chiếc chăn đơn mỏng, bà lại
nằm xuống đưa tay vỗ nhè nhẹ lưng tôi. Khốn khổ, bà thương tôi, đứa cháu
vẫn còn mẹ và có thể cha nó chưa chết, thế mà bỗng chốc trở nên côi cút” [7,
17
tr.12]. Mẹ ra đi, điều đầu tiên Duy cảm nhận là cái lạnh trong mỗi giấc ngủ,
Duy nhớ lại ngày còn mẹ: “Mọi đêm tôi nằm giữa, một bên là mẹ, một bên là
bà giữa cái ấm áp và vui vẻ quen thân” [7, tr.24]. Một đứa trẻ có cả cha lẫn
mẹ nhƣ Duy, bỗng chốc trở thành côi cút. Vì “mồ côi” cha ngay từ ngày mới
sinh, “mồ côi” mẹ từ ngày chƣa vào mẫu giáo khiến Duy “mồ côi” thêm cả
niềm hạnh phúc của tuổi thơ mà đáng lẽ ra cậu cũng đƣợc hƣởng nhƣ bao đứa
trẻ khác.
Nếu Duy đã là một bi kịch thì Thảm, em của Duy lại càng thảm thiết
hơn. Thảm có một sự khởi đầu không đƣợc vẹn toàn nhƣ bao đứa trẻ khác. Cô
Quỳnh sinh ra em trong sự hối hận, đau khổ. Và khi cô nhận ra sai lầm ấy thì
đã quá muộn màng. Sinh Thảm ra vẫn còn trứng nƣớc và cũng chƣa kịp đặt
tên, cô Quỳnh đã mang đứa bé về quê nhà, gửi lại mẹ già và ra đi trong nƣớc
mắt. “Cô tôi đi. Lạ sao, lúc ấy trời nhả mưa, y như hôm mẹ tôi bỏ nhà đi theo
ông lái xe tải” [7, tr.104]. Em Thảm sinh ra gần nhƣ một con số không tròn
trịa, em không biết cha là ai, em không có ấn tƣợng về cha. Em có mẹ nhƣng
những phút giây hạnh phúc ấy chỉ vỏn vẹn mấy ngày. Rồi mẹ lại bỏ em mà ra
đi, ngay cái tên em cũng chƣa có. Cái tên Thảm đƣợc đặt ngay giữa tiếng
khóc của em, “Cháu có tội tình gì đâu. Tôi lấy họ nhà tôi đặt cho cháu vậy.
Còn tên cháu, đặt là Thảm cô ạ. Thảm thiết quá, cô ơi!” [7,tr.109]. Thảm sinh
ra chỉ đƣợc bú sữa mẹ ít ngày, còn những ngày về sau em đƣợc nuôi nấng
hoàn toàn nhờ vào sữa bú chực của các cô, các chị có con nhỏ trong phƣờng
“Nhưng không phải hôm nào cũng gặp may. Có hôm chẳng gặp được bà nào,
như hôm nay, trời làm mưa gió, bà đành bế em Thảm về không” [7, tr.118].
Nhà hai bà cháu vốn nghèo lại xuất hiện thêm cái Thảm. Khó khăn lại
càng chồng chất lên thêm khi Thảm lại là một đứa trẻ còn trứng nƣớc, nó
hoàn toàn không có sức chống đỡ với những khó khăn vì thế những bi kịch
xảy đến với nó là điều không thể tránh khỏi.
18
Một đứa trẻ sinh ra cần nhất là mẹ, ấy vậy mà mẹ nó lại bỏ đi. Thêm
một đứa trẻ bị bỏ rơi, thêm một bất hạnh, thêm một bi kịch. Tất cả những gì
Thảm làm đƣợc là khóc và có hàng trăm lí do để em khóc. Thảm xa mẹ, thiếu
hơi sữa, cô Quyên thƣơng tình nhƣng cũng không thể giúp đƣợc gì. Tôi tin
rằng bạn đọc không thể không xúc động khi tác giả miêu tả tiếng khóc của em
Thảm khi nó mới ba tháng tuổi“Em Thảm hay tủi thân lắm. Em khóc nhiều
hơn những đứa trẻ khác. Em khóc suốt cữ, và tiếng khóc cũng khác những
đứa trẻ khác. Có khi đang ngủ, em tự dưng mím môi, rồi nhếch miệng hự hự
mấy tiếng rất ảo não… Em đang ngủ bỗng dưng bừng thức với tiếng khóc hờn
dỗi kéo dài khoảng gần một tiếng đồng hồ” [7, tr.114]. Em khóc vì nhớ hơi
sữa. Em khóc vì đói. Em khóc vì tủi thân. Em khóc vì sợ. Thế giới trẻ thơ là
cả một vùng trời bí ẩn, Thảm cũng là một điều bí ẩn nhƣ thế. Và kì lạ nhất là
Thảm còn thở dài. “Chính em Thảm, cái sinh linh bé nhỏ tội nghiệp, hình như
cũng cảm thấy cái hẩm hiu, trớ trêu của số phận mình” [7, tr.113]. Một hôm
Duy đã run cả ngƣời khi nghe thấy bà đang bế Thảm bỗng thảng thốt: “-Sao
lại thở dài thế, cháu!” [7, tr.113]. Than ôi! Một đứa trẻ lại biết thở dài, lại
mang theo một nỗi buồn trầm ngâm nhƣ của ngƣời lớn vậy. Thở dài là những
lời than không lời khi ngƣời ta thấy mệt mỏi, chán chƣờng. Vậy mà một đứa
trẻ thay vì vui tƣơi, vô lo, vô nghĩ đúng nhƣ lứa tuổi thì nó lại thở dài. Nghe
tƣởng chừng mà xót xa quá.
Nhƣng rồi khó khăn mới chỉ bắt đầu, những ngày tiếp theo mới thật sự
là thử thách cam go, quyết liệt. Tất cả ập đến với em nhƣ một cơn ác mộng
kéo dài. Đó là những trận ốm triền miên, chúng nối đuôi nhau lấy dần đi sự
sống của Thảm. “Tháng mười em Thảm tôi lại bị sốt viêm họng. Tháng mười
một em sốt siêu vi trùng. Liên tiếp trận ông chưa qua, trận bà đã tới” [7,
tr.122]. Và đã có rất nhiều trùng nọ, khuẩn kia tìm đến em mà hành hạ, mà
làm em đau đớn, kiệt cùng.“Bệnh bại liệt với những di chứng không thể tránh
19
khỏi. Bệnh bạch hầu gây trụy tim mạch. Lao màng não. Ho gà” [7, tr.122].
Tất cả đều là bệnh của con nhà nghèo. Và rồi còn chƣa kẻ đến hàng tá bệnh
mà đứa trẻ nào cũng phải trải qua nhƣ một món nợ đời. Thảm đã có lúc tƣởng
chừng nhƣ không qua khỏi “Em Thảm tôi hôn mê bằn bặt, mặt nhợt không
còn hạt máu” [7,tr.130]. Thảm, một đứa trẻ sinh ra không cò gì bất hạnh hơn
khi thiếu thốn tình yêu thƣơng của cả cha lẫn mẹ, vậy mà em, sinh linh bé nhỏ
ấy còn phải chống chọi với biết bao nhiêu bệnh tật.
Thảm vƣợt qua giai đoạn khó khăn nhất ở tuổi ấu nhi. Vào tuổi thứ ba
của cuộc đời, em mới tập đi và bập bẹ nói những tiếng đầu tiên. Em lớn
nhanh, dễ nuôi, khác với những đứa trẻ cùng lứa, em chẳng đòi hỏi gì cả.
Thảm nhanh nhẹn, thông minh, hay nói, hay chuyện, rất đáo để. Nhƣng hơn
tất cả, dù trong hoàn cảnh nào nó cũng nhớ mẹ. Với mẹ tuy xa cách từ nhỏ
nhƣng hình nhƣ vẫn có một sợi dây liên kết vô hình không thể hình dung nổi
giữa Thảm và ngƣời mẹ yêu dấu, bất chấp không gian xa cách và thời gian
đằng đãng. Trong sâu thẳm tâm hồn nó cũng có lúc nhớ mẹ đến nhƣờng nào.
Nếu nhƣ lúc nhỏ nó nhớ hơi sữa, giờ đây khi nhận thức đƣợc mọi thứ xung
quanh thì nó nhớ mẹ thực sự, nó nhớ mẹ trong sự vô vọng mà không đƣợc vỗ
về, à ơi, thế nên trông nó lại càng đáng thƣơng “Đã có lúc tôi thấy mắt nó
ngẩn ngơ theo đuổi một bóng hình mơ màng. Đã có khi tôi thấy nó lặng đi
trong đau đáu tơ tưởng” [7, tr.215]. Trong sâu thẳm tâm hồn nó cũng có lúc
nhớ mẹ đến nhƣờng nào. Có lần nó ngủ dậy kể với Duy “Đêm qua em mê
thấy mẹ em về” [7, tr.215]. Nhƣng đến bao giờ mẹ nó mới về? Những tháng
ngày tiếp theo em chỉ biết sống trong hi vọng và chờ đợi.
Cũng nhƣ anh Duy, Thảm sống rất tình cảm. Em gắn bó với bà bằng
chiều sâu hiếm có, không phải là tình bà cháu ruột thịt thông thƣờng mà còn
là mối quan hệ của hai phần một cơ thể. Với bà, nó không chỉ có lòng kính
yêu mà bà còn là linh hồn sống động tỏa sáng trong tâm hồn em. Bé Thảm đã
20
bù đắp những thiếu hụt trong tính cách của Duy, em cùng Duy - hai đứa trẻ
tội nghiệp lớn lên trong vòng tay yêu thƣơng của bà, cùng bà vƣợt qua những
tháng ngày khó khăn. Cuộc đời của em dƣờng nhƣ chìm vào vực thẳm, bà vừa
là bà nội vừa là bà ngoại của hai đứa trẻ “Bà là bà mụ đỡ nâng trong linh hồn
chúng cháu. Bà là phật bà. Hay chính bà là cô tiên giáng trần, đã che chở
cưu mang chúng cháu bằng tình thương yêu và các phép màu huyền nhiệm,
thần kì!” [7, tr.229].
Bà có sức mạnh lớn lao toát ra từ tình thƣơng, trí tuệ nhạy bén từng trải.
Nhƣng vƣợt lên tất cả đó là sự cứng cỏi, không cam chịu thất bại và tình yêu
thƣơng vô bờ bến của bà dành cho con cháu. Bà đã theo sát, nâng đỡ, đã đền
bù cho những thiếu thốn tinh thần của đứa cháu nội. Bà có mặt kịp thời trong
những tình huống khó khăn, đau khổ của Duy trƣớc dòng đời... Bà chính là
tấm gƣơng về nghị lực sống, về lòng bao dung, nhân hậu để Duy nhìn vào đó
mà học tập để vững vàng và sống tốt hơn. Bà cũng là điểm tựa tinh thần, là
nơi nuôi dƣỡng niềm tin để Duy luôn có một niềm hi vọng, luôn mong chờ sự
trở về của bố, sự thức tỉnh của mẹ và ngày tái ngộ của gia đình trong tƣơng
lai. Không chỉ có thế, bà còn gắn các cháu với huyết mạch cội nguồn để các
các cháu biết thấu hiểu, biết yêu thƣơng và biết tự hào về những ngƣời thân,
về gốc rễ của mình. Bà giúp Thảm và Duy ý thức đƣợc rằng ngƣời thân của
các em trùng trùng lớp lớp những con ngƣời mạnh mẽ... Nhờ có bà, hai em đã
biến buồn đau, mất mát trong cuộc sống thành những niềm vui nho nhỏ,
những kỉ niệm ấm áp bên ngƣời bà có lòng nhân hậu, bao dung và che chở.
Thảm và Duy nhƣ những mầm cây khỏe mạnh vƣơn lên từ mảnh đất khô cằn
nhất, khốc liệt nhất với những giông bão cuộc đời.
Cùng chung thân phận nhƣ bé Duy, bé Thảm là Lý trong tác phẩm
Chuyện của Lý. Lý đứa trẻ sinh ra phải chịu nhiều thiệt thòi cả vật chất lẫn
tinh thần. Vì “Lý là con không giá thú. Con không cha. Là con hoang. Là một
21