Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) Ở VÙNG KINH TẾ BẮC BỘ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 105 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

LÊ HỒNG NHUNG

THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
(FDI) Ở VÙNG KINH TẾ BẮC BỘ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60340410

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ MINH LUẬN

Hà Nội, tháng 12 năm 2014


2

2

LỜI CAN ĐOAN
Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận
văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Hồng Nhung



3

3

BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐTNN
FDI
GDP
MNC
TNC
WTO

Đầu tư nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
Công ty đa quốc gia (Multinational Corporation)
Công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation)
Tổ chức Thương mại thế giới (World Trade Organization)


4

4

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: So sánh số dự án FDI ở 3 vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam

43


giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.2: Vốn FDI đăng ký và vốn FDI thực hiện ở vùng kinh tế Bắc Bộ giai

44

đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.3: So sánh tổng vốn FDI đăng ký ở 3 vùng kinh tế trọng điểm của

45

Việt Nam giai đoạn 2006-2012
Biểu đồ 2.4: Qui mô dự án FDI tại 3 vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam giai

46

đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu FDI theo ngành phân theo số dự án ở vùng kinh tế Bắc Bộ

47

giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu FDI theo ngành phân theo vốn đăng ký ở vùng kinh tế Bắc

48

Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.7: Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư phân theo số dự án ở vùng

50


kinh tế Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.8: Sáu quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn FDI đăng ký trên 2 tỷ USD ở

51

vùng kinh tế Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.9: Cơ cấu FDI phân theo địa bàn đầu tư ở vùng kinh tế Bắc Bộ giai

52

đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.10: Tốc độ tăng GDP của khu vực FDI và vùng kinh tế trọng điểm

53

Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.11: Tỷ lệ GDP của các thành phần kinh tế so với GDP vùng kinh tế

54

Bắc Bộ giai đoạn 2003-2013
Biểu đồ 2.12: Vốn đầu tư của khu vực FDI và tổng vốn đầu tư xã hội ở vùng

55

kinh tế Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.13: Thu ngân sách từ khu vực FDI và tổng thu ngân sách vùng kinh

56


tế Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.14: So sánh tốc độ và tỷ lệ thu ngân sách từ khu vực FDI với tổng

57

thu ngân sách vùng kinh tế Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.15: Giá trị xuất khẩu so với vốn thực hiện của khu vực FDI tại một

58

số tỉnh, thành phố vùng kinh tế Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013


5

5

Biểu đồ 2.16: Giá trị sản xuất công nghiệp khu vực FDI so với Giá trị sản xuất

59

và Giá trị sản xuất công nghiệp vùng kinh tế Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.17: Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực FDI so với

60

giá trị sản xuất và giá trị sản xuất công nghiệp Vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.18: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp theo thành phần ở Vùng


61

kinh tế trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.19: Cơ cấu giá trị sản xuất theo thành phần ở Vùng kinh tế trọng

61

điểm Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.20: Số lao động và lao động công nghiệp của khu vực FDI ở Vùng

62

kinh tế trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.21: Tốc độ tăng số lao động và lao động công nghiệp của khu vực

63

FDI ở Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013
Biểu đồ 2.22: Tỷ lệ lao động công nghiệp so với số lao động đang làm việc

65

trong khu vực FDI ở Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn 2006-2013


6

6

MỤC LỤC



7

7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động đầu tư luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng,
phát triển của mỗi quốc gia. Vốn đầu tư là động lực cho nền sản xuất, là yếu tố
tạo nên sự vận động cho nền kinh tế. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển
như Việt Nam, vốn đầu tư đóng vai trò ngày càng quan trọng. Với những hạn chế
của một quốc gia đang phát triển trong khi nhu cầu vốn để phục vụ phát triển
kinh tế, xã hội rất lớn, Việt Nam không chỉ tiến hành kêu gọi vốn từ các doanh
nghiệp, cá nhân trong nước mà từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay luôn không
ngừng tìm kiếm và tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ bên ngoài. Với quy
mô vốn lớn, kinh nghiệm quản lý và trình độ khoa học công nghệ cao, nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) luôn được
chào đón ở hầu hết các quốc gia. Ý thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu
tư, văn kiện Đại hội Đảng XI khi đề cập đến đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh,
bền vững đã tái khẳng định “tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp
dụng các hình thức thu hút đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài,
phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực cho phát triển”.
Việc tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoàicần ưu tiên phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm nhằm phát huy lợi thế của khu vực cũng như thế mạnh
của vốn FDI. Trong số 4 vùng kinh tế trọng điểm hiện nay của cả nước, vùng
kinh tế Bắc Bộ đóng vai trò quan trọng, đầu tàu đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của cả nước. Việc thu hút và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trở thành hoạt

động mang tính tất yếu trong quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Bên
cạnh việc tạo ra những ưu đãi chung để thu hút các nhà đầu tư vào Việt Nam,
Chính phủ và các cơ quan quản lý hoạt động đầu tư cũng xây dựng những chính
sách nhằm thu hút FDI vào các khu vực trọng điểm. Với những thuận lợi sẵn có
về tự nhiên, kinh tế, xã hội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có nhiều cơ hội để
phát huy lợi thế của vùng, đồng thời khẳng định vai trò trong tiến trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Việc thu hút vốn FDI vào các tỉnh thành phố thuộc khu vực kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ đã diễn ra và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế
hoạt động thu hút vốn FDI ở Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ chưa thực sự là
một kênh hiệu quả cho vùng phát triển xứng tầm, còn cần rất nhiều nỗ lực của
cấp Nhà nước cũng như cấp địa phương. Đề tài luận văn thạc sĩ “Thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở vùng kinh tế Bắc Bộ Việt Nam” sẽ góp
phần đưa ra bức tranh đối với hoạt động thu hút, sử dụng vốn FDI của vùng, qua
đó nhiều vấn đề sẽ được nghiên cứu, đánh giá.
2. Tình hình nghiên cứu của luận văn


8

8

- Đề tài luận văn này chưa được nghiên cứu cụ thể đối với cơ quan quản lý chuyên
ngành về FDI như Bộ KHĐT, các đề án của Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ đặt ra vấn
đề phát triển đối với các vùng kinh tế mà không đi sâu vào đối với từng vùng kinh
tế trọng điểm như Bắc Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long… trong việc thu hút FDI.
- Các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cũng chỉ nêu lên các
vấn đề nhỏ đối với địa phương mình, mà không có những nghiên cứu tổng thể
đối với toàn vùng.
- Các đề tài nghiên cứu khoa học như luận văn, luận án, khóa luận: Đánh giá thu

hút FDI đối với các địa phương như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, chưa có đề tài nào
khác đề cập đến thu hút FDI vào vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
3. Mục đích, mục tiêu của nghiên
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu vấn đề trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời
gian tới là thực sự cần thiết. Đề tài: “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI ở vùng kinh tế Bắc Bộ Việt Nam” nhằm mục đích là góp một tiếng nói có
căn cứ khoa học với các cơ quan QLNN có trách nhiệm đối với vấn đề thu hút
FDI vào Việt Nam nói chung, vào Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Việt Nam nói
riêng với mong muốn làm cho hoạt động FDI có hiệu lực và hiệu quả hơn.
3.2.Mục tiêu nghiên cứu
Với mục đích lớn nói trên, bản luận văn này nhằm các mục tiêu cụ thể, khả
thi sau đây:
- Xây dựng được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thu hút FDI vào vùng
kinh tế trọng điểm trong một quốc gia.
- Có được bản đánh giá có cơ sở khoa học và thực tiễn về sự phát triển và
đóng góp của khu vực FDI trong từng giai đoạn phát triển thời gian qua của
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đánh giá việc hoạch định và triển khai các mục
tiêu, chính sách thu hút FDI trong bối cảnh cụ thể của từng thời kỳ để xác định
những mặt được, những mặt chưa được và nguyên nhân, rút ra các bài học kinh
nghiệm trong việc hoạch định chính sách cũng như tổ chức thực thi chính sách.
- Phân tích khả năng thu hút và nhu cầu sử dụng vốn FDI trong bối cảnh phát
triển mới để từ đó đề xuất các giải pháp để thu hút và quản lý FDI trong thời gian
tới đối với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
4. Đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu


9

9


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các chính sách thu hút vốn FDI do Chính phủ và
các cơ quan có thẩm quyền ban hành và thực hiện.
Giới hạn về không gian: Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ bao gồm 7 tỉnh
thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương và
Quảng Ninh, Thông báo số 108/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ ngày 30
tháng 7 năm 2003 và Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội về việc bổ
sung và điều chỉnh địa giới hành chính các tỉnh thành phố trong khu vực kinh tế
Bắc Bộ.
Giới hạn về thời gian: luận văn tập trung nghiên cứu tình hình thu hút vốn
FDI của khu vực kinh tế Bắc Bộ từ 2003 (sau khi có bổ sung 3 tỉnh vào khu vực
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và có quy mô như hiện nay) cho đến nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của Luận văn:
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Do hạn chế về thời gian và điều kiện, đồng
thời do các số liệu và thông tin liên quan đến đề tài tương đối phổ biến, có thể
tìm thấy trên internet và sách báo nên tác giả đã sử dụng cách tiếp cận này;
Phương pháp tiếp cận hệ thống: Phân tích tình hình thu hút FDI vào khu vực
trọng điểm Bắc Bộ trong tương quan với cả nước;
- Phương pháp phân tích số liệu chuỗi thời gian số liệu được xử lý từ 2003 đến nay
nên tác giả phân tích sự biến động của chuỗi số liệu trong dòng thời gian để thấy
được sự thay đổi, tác động của vốn FDI tới các yếu tố liên quan;

- Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như phân tích
SWOT, tổng hợp, thống kê.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học và thực tiễn về thu hút FDI vào vùng kinh tế
trọng điểm;

Chương 2: Thực trạng thu hút, sử dụng FDI của vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ;


10

10

Chương 3: Quan điểm và giải pháp thu hút FDI vào vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ.

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT FDI
VÀO VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
1.1. Lý luận chung về đầu tư trực
tiếp nước ngoài và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Sau chiến tranh thế giới thứ II, đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct
Investment – FDI) đã không ngừng tăng lên. Sự gia tăng dòng vốn FDI đã trở thành
một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế hiện đại. Cho đến nay, đã có rất nhiều định
nghĩa khác nhau về FDI, tùy theo mục đích nghiên cứu cũng như góc độ nghiên cứu
của chủ thể.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), FDI được định nghĩa là:
“Một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một
nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt
tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh
hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó”.



11

11

Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cũng đưa ra
định nghĩa về FDI như sau:
“Một đầu tư được coi là đầu tư trực tiếp khi phần sở hữu của nhà đầu tư đủ để cho
phép kiểm soát công ty, còn trong khi đầu tư chỉ cho nhà đầu tư được hưởng khoản
thu nhập nhưng không cho quyền kiểm soát đối với công ty, nói chung được coi là
đầu tư gián tiếp”.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa về FDI như sau:
“FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản
ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương
diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn
trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở
kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công
ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty”.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm:
“Một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp
nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất
10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực
tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”.
Tuy nhiên không phải tất cả các quốc gia nào cũng đều sử dụng mức 10%
làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong
doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành
quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư
gián tiếp.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào được Chính phủ Việt Nam

chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên
doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này”.
Luật Đầu tư sửa đổi năm 2005 không đưa ra định nghĩa cụ thể về đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Thay vào đó, Luật chỉ đề cập đến khái niệm Đầu tư nước ngoài.
Theo đó, khái niệm Đầu tư nước ngoài được hiểu như sau:
“Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư” và “Đầu tư


12

12

trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt
động đầu tư”.
Mặc dù còn có nhiều cách diễn đạt khác nhau về định nghĩa FDI, song có thể
thấy, hầu hết các tổ chức, các nhà kinh tế đều thừa nhận và thống nhất về khái niệm
FDI ở hai điểm: quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh và quyền sở hữu khống chế
của các nhà đầu tư nước ngoài. Quyền kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh
doanh chính là lợi thế mà các nhà đầu tư trực tiếp có được so với các nhà đầu tư
gián tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, quyền kiểm soát kinh doanh lại chịu ảnh hưởng
nhất định bởi tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu hay quyền sở hữu khống chế của các
nhà đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu của các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài là yếu tố quyết định đến tính chất trực tiếp của các nhà đầu tư nước
ngoài trong việc đưa ra các quyết định đầu tư và quản trị doanh nghiệp, được qui
định bởi luật pháp của từng nước. Đối với nhiều nước trong khu vực, nhà đầu tư
nước ngoài chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số
lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên
nước ngoài nhỏ hơn 49%; 51% cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi
đó, Luật đầu tư của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn

nước ngoài và qui định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của
dự án.
Từ những khái niệm và phân tích trên đây, tác giả thống nhất với khái
niệm về FDI như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước
ngoài đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào nước tiếp nhận đầu tư để
có được quyền sở hữu và quản lý một thực thể kinh tế hoạt động lâu dài ở nước
đó với mục tiêu thu lợi nhuận.
1.1.1.2. Đặc điểm của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Như vậy, qua định nghĩa trên cho thấy bản chất của đầu tư trực tiếp nước
ngoài là đầu tư, là hoạt động tìm kiếm lợi nhuận bằng con đường kinh doanh của
chủ đầu tư nước ngoài. Bởi thế, đầu tư trực tiếp nước ngoài mang đầy đủ những đặc
trưng của đầu tư nói chung. Ngoài ra, nó còn có thêm một số đặc điểm quan trọng
khác so với các hình thức đầu tư khác như sau:


13

13

Thứ nhất, FDI là loại hình chu chuyển vốn quốc tế trong đó chủ sở hữu vốn
đầu tư là người nước ngoài, tiến hành hoạt động đầu tư ở nước ngoài, có nghĩa là
doanh nghiệp tiếp nhận vốn FDI không thuộc quốc gia của chủ đầu tư. Đặc điểm
này có liên quan đến các khía cạnh về quốc tịch, luật pháp, ngôn ngữ, phong tục tập
quán,... là các yếu tố làm tăng thêm tính rủi ro và chi phí đầu tư của các nhà đầu tư
nước ngoài.
Thứ hai, FDI gắn liền với việc di chuyển các yếu tố đầu tư ra khỏi biên giới
quốc gia. Các yếu tố đầu tư có thể là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình
công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị …), tài sản vô
hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài
chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Ngoài ra, hoạt động FDI còn

bao gồm cả hoạt động chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, cơ chế bảo hộ
quyền sở hữu của nhà đầu tư. Do đó, đối với từng loại tài sản khác nhau đòi hỏi
nước tiếp nhận đầu tư phải có những cơ chế, chính sách bảo hộ quyền của chủ đầu
tư sao cho phù hợp với tính chất và đặc điểm của từng loại.
Thứ ba, FDI được thực hiện thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh
nghiệp mới ở nước ngoài, mua lại từng phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt
động hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp.
Điều này cho thấy tính đa dạng của các hình thức và phương thức đầu tư FDI.
Thứ tư, quyền quản lý doanh nghiệp FDI phụ thuộc vào mức độ góp vốn của
chủ đầu tư vào vốn pháp định. Tỷ lệ sở hữu vốn khống chế này do pháp luật của
từng nước qui định và là yếu tố quyết định tính chất trực tiếp trong việc đưa ra các
quyết định đầu tư và quản trị doanh nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó,
FDI sẽ là người chủ sở hữu hoàn toàn hoặc đồng chủ sở hữu với một tỷ lệ góp vốn
nhất định, đủ mức khống chế và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động của doanh
nghiệp. Trong trường hợp góp 100% vốn pháp định, nhà đầu tư nước ngoài có toàn
quyền quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đảm bảo
tỷ lệ sở hữu ở mức khống chế còn là cơ sở để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài trở thành những chi nhánh của các công ty ở nước đầu tư. Đây là yếu tố làm
tăng tính chất toàn cầu của mạng lưới các công ty đi đầu và tạo cơ sở để các công ty


14

14

đó thực hiện hoạt động chu chuyển vốn, hàng hoá trong nội bộ công ty, tránh được
hàng rào thuế quan, tiết kiệm chi phí giao dịch.
Thứ năm, FDI chủ yếu là hoạt động đầu tư của tư nhân với mục tiêu cơ bản
là lợi nhuận. Vì thế, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI phần
lớn là những lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận cao.

Thứ sáu, FDI gắn liền với các hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên
quốc gia (TNCs). Đây là những tập đoàn có hệ thống các chi nhánh sản xuất ở
nước ngoài, có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ, nhãn hiệu sản phẩm có uy tín và
danh tiếng trên toàn cầu; đội ngũ các nhà quản lý có trình độ cao, có khả năng
điều hành các hoạt động sản xuất và phân phối trên toàn cầu, có năng lực cạnh
tranh cao. Các nước đang phát triển có thể tiếp cận với các công ty xuyên quốc gia
thông qua hoạt động FDI để thu hút nguồn vốn lớn, công nghệ nguồn, công nghệ
hiện đại, trình độ quản lý, cải thiện năng lực cạnh tranh,…
Thứ bảy, FDI là loại hình đầu tư trực tiếp và dài hạn. Do đó, vốn FDI là
nguồn vốn tương đối ổn định, bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước ở các
nước đang phát triển. FDI không phải là vốn vay nên nước tiếp nhận vốn không
phải lo trả nợ và FDI cũng ít chịu sự chi phối, ràng buộc bởi mối quan hệ chính trị
giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư như vốn ODA.
1.1.1.3. Các hình thức đầu tư FDI
Hiện nay, luồng vốn FDI của các quốc gia và vùng lãnh thổ vào Việt Nam
không ngừng tăng lên. Luồng vốn này được Việt Nam tiếp cận theo nhiều hình
thức khác nhau.
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hay nhiều bên
(các bên hợp doanh) quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh để
tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam mà không thành lập pháp nhân. Các hợp
đồng thương mại và hợp đồng kinh tế có tính chất trao đổi hàng hóa như giao
nguyên liệu lấy sản phẩm. Mua thiết bị trả chậm bằng sản phẩm không thuộc
hình thức đầu tư này.
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết
giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước



15

15

ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác
với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà
đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Khác với hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng liên doanh làm hình
thành một pháp nhân mới. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật
Việt Nam.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoàioanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là
doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập
tại Việt Nam, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.

Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
BOT/ BTO/ BT
- Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT)
BOT là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một
thời gian nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công
trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
- Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO)
BTO là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng
xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ
dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất
định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
- Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT)

BT là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà
đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều
kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận
hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT.
Công ty cổ phần có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Công ty cổ phần có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là công tydo nhà đầu
tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc là công
ty Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.


16

16

Công ty mẹ - con
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp muốn mở rộng sản
xuất kinh doanh có thể thành lập công ty con, đầu tư vốn, tài sản vào công ty con
để mở rộng và phát triển thị trường theo ngành, chiến lược mà mình đã lựa chọn.
Một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác nếu thuộc một
trong các trường hợp sau đây (Khoản 15, Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005):
- Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông đã phát hành của
công ty đó;
- Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp bổ nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên Hội
đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty đó;
- Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của công ty đó.
Mua lại và sáp nhập (M&A)
M&A là hoạt động giành quyền kiểm soát doanh nghiệp, bộ phận doanh
nghiệp thông qua việc sở hữu một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đó.
Hiện nay, hoạt động M&A ngày càng trở nên phổ biến và nó đã trở thành

một xu thế mới ngày càng phát triển mạnh mẽ và hình thành rõ ràng tại Việt
Nam. Hình thức đầu tư thông qua M&A của các doanh nghiệp Nhật Bản hướng
đến thị trường Việt Nam là một xu thế tất yếu.Tổng nguồn vốn đầu tư vào các
thương vụ M&A tại Việt Nam ngày càng nhiều về số lượng, chất lượng và quy
mô. Ở một mặt nào đó, hoạt động này đang được xem như là một động lực và
hình thức mới mẻ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Ở Việt Nam, M&A là một hình thức đầu tư trực tiếp và được quy định tại
Điều 21, Khoản 6 Luật Đầu tư năm 2005: “Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và
mua lại doanh nghiệp”.
1.1.1.4. Tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác vài ba thập kỷ
nhưng đã nhanh chóng xác lập vị trí của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế. FDI
trở thành một xu thế tất yếu của lịch sử, một nhu cầu không thể thiếu của mọi
nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển, những nước công nghiệp
mới hay những nước trong khối các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC và những
nước phát triển cao.
Về bản chất, FDI là sự thiết lập về quyền sở hữu về tư bản của công ty
một nước ở một nước khác; có sự kết hợp quyền sở hữu với quyền quản lí các


17

17

nguồn vốn đã được đầu tư; có kèm theo quyền chuyển giao công nghệ và kỹ
năng quản lí; có liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc
gia; gắn liền với sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại
quốc tế.
Với ý nghĩa đó, FDI đóng vai trò quan trọng đối với cả nước đầu tư và
nước tiếp nhận đầu tư. Hoạt động này có tính hai mặt, có cả tác động tiêu cực và

tác động tích cực đối với nước đầu tư cũng như nước tiếp nhận đầu tư.
Trước hết đối với nước đi đầu tư (nước chủ đầu tư) FDI có những tác
động chủ yếu sau:
Tác động tích cực
Trong trường hợp thị trường vốn trong nước đã bão hòa hoặc tỷ suất sinh
lợi của đồng vốn trong nước ở mức thấp, đầu tư ra nước ngoài là một phương án
tốt, được các nhà đầu tư yêu thích lựa chọn nhằm tối đa hóa khả năng sinh lời
của đồng vốn.
Một phần lợi nhuận khai thác được ở nước ngoài sẽ được chuyển về nước
của chủ đầu tư, góp phần tăng GNP, tăng tổng tài sản của quốc gia đó.
Đầu tư nước ngoài mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm nguyên
liệu, cả công nghệ và thiết bị trong khu vực mà họ đầu tư cũng như trên thế giới.
Do khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ, thị trường
tiêu thụ rộng lớn nên có thể mở rộng quy mô, khai thác được lợi thế kinh tế của
quy mô từ đó có thể nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm.
Tránh được các hàng rào bảo hộ mậu dịch và phí mậu dịch của nước tiếp
nhận đầu tư bằng cách thông qua FDI chủ đầu tư hay doanh nghiệp nước ngoài
xây dựng được các doanh nghiệp của mình nằm trong lòng nước thi hành chính
sách bảo hộ.
Tác động tiêu cực
Khi các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư ra nước ngoài thì trong nước
sẽ mất đi khoản vốn đầu tư, khó khăn hơn trong việc tìm nguồn vốn phát triển
cũng như giải quyết việc làm. Do đó trong nước có thể dẫn tới nguy cơ suy thoái,
vì thế mà một số nước chủ nhà không đưa ra chính sách khuyến khích cho việc
đầu tư ra nước ngoài.


18

18


Đầu tư ra nước ngoài thì doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro
hơn trong môi trường mới về chính trị, sự xung đột vũ trang của các tổ chức
trong các quốc gia hay những tranh chấp nội bộ của quốc gia hay đơn thuần chỉ
là sự thay đổi trong chính sách và pháp luật của quốc gia tiếp nhận… Tất cả
những điều đó đều khiến cho các doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng mất tài
sản cơ sở hạ tầng. Do vậy mà họ thường phải đầu tư vào các nước ổn định về
chính trị cũng như trong chính sách và môi trường kinh tế.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì hoạt động FDI cũng có cả những tác
động tích cực và tác động tiêu cực:
Tác động tích cực
Nhờ nguồn vốn FDI mà có thể khai thác tốt nhất các lợi thế về tài nguyên
thiên nhiên, vị trí địa lí. Bởi các nước tiếp nhận thì thường là nước đang phát
triển có tài nguyên song không biết cách khai thác hoặc khai thác và sử dụng
không hợp lý.
Do nhà đầu tư nước ngoài là người trực tiếp điều hành và quản lí vốn nên
họ có trách nhiệm cao, thường đưa ra những quyết định có lợi cho họ. Vì thế họ
có đảm bảo hiệu quả của vốn FDI.
Tạo điều kiện để khai thác được nguồn vốn từ bên ngoài do không quy
định mức vốn góp tối đa mà chỉ quyết định mức vốn góp tối thiểu cho nhà đầu
tư. Do đó, trong một số hình thức đầu tư như liên doanh liên kết, vốn FDI có thể
được xem như một nhân tố thúc đẩy nguồn vốn trong nước vận động, tạo động
lực tăng trưởng kinh tế đối với nước tiếp nhận.
Thông qua việc hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài hay cạnh tranh với
doanh nghiệp nước ngoài và tiếp thu được kỹ thuật công nghệ hiện đại, thậm chí
có cơ hội tiếp thu được kinh nghiệm quản lí kinh doanh của họ.
Tạo điều kiện để tạo việc làm, tăng tốc độ tăng trưởng của đối tượng bỏ
vốn cũng như tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, qua đó nâng cao
đời sống nhân dân.
Khuyến khích doanh nghiệp trong nước tăng năng lực kinh doanh, cải tiến

công nghệ mới nâng cao năng suất chất lượng, giảm giá thành sản phẩm do phải


19

19

cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, mặt khác thông qua hợp tác với nước
ngoài có thể mở rộng thị trường thông qua tiếp cận với bạn hàng của đối tác
đầu tư.
Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực kể trên, nước tiếp nhận đầu tư cũng phải
đối diện với một số tác động tiêu cực mà vốn FDI có thể mang lại trong quá trình
mở cửa nền kinh tế.
Nếu không có quy hoạch cụ thể và khoa học, tình trạng đầu tư tràn lan kém
hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên có thể bị khai thác bừa bãi, dẫn tới ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng
Môi trường chính trị trong nước có thể bị ảnh hưởng, các chính sách trong
nước có thể bị thay đổi do khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư thường có các biện
pháp vận động quan chức địa phương theo hướng có lợi cho mình.
Hiệu quả của đầu tư phụ thuộc vào nước tiếp nhận: có thể phải tiếp nhận từ
các nước đi đầu tư những công nghệ, thiết bị lạc hậu không phù hợp với nền kinh
tế, gây ô nhiễm môi trường.
Các lĩnh vực và địa bàn đầu tư phụ thuộc vào sự lựa chọn của nhà đầu tư
nước ngoài mà không theo ý muốn của nước tiếp nhận. Do vậy việc bố trí cơ cấu
đầu tư sẽ gặp khó khăn, tạo ra sự phát triển mất cân đối giữa các vùng.
Giảm số lượng doanh nghiệp trong nước do quá trình cạnh tranh nên nhiều
doanh nghiệp trong nước bị phá sản.
Ảnh hưởng tới cán cân thanh toán quốc tế do sự di chuyển của các luồng
vốn cũng như luồng hàng hoá ra vào trong nước.

Ngày nay hầu hết việc đầu tư là của các công ty đa quốc gia vì thế các
nước tiếp nhận thường bị thua thiệt, thất thu thuế hay các liên doanh sẽ phải
chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do các vấn đề chuyển nhượng
giá nội bộ của các công ty này.
1.1.2. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.2.1. Khái niệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thuật ngữ “thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài” được sử dụng ngày càng
phổ biến và rộng rãi trong bối cảnh các dòng đầu tư quốc tế có sự lưu chuyển
liên tục và rộng khắp giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Tuy


20

20

nhiên, chưa có một định nghĩa hay một khái niệm chính thức nào được thống
nhất khi đề cập đến “thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài”.
Trong thực tế, các quốc gia, địa phương tiến hành thu hút đầu tư nước
ngoài bằng cách đưa ra những cam kết, ưu đãi về thuế, cơ sở hạ tầng, nguồn
nhân lực,… nhằm tạo ra những thuận lợi để hấp dẫn các doanh nghiệp nước
ngoài bỏ vốn đầu tư vào quốc gia hay địa phương mình.
Một cách chung nhất, có thể hiểu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bao
gồm tất cả những chính sách, biện pháp, yếu tố thuộc về kinh tế, thương mại,
đầu tư, tự nhiên được tạo ra hoặc chỉ ra cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhằm tạo
ra những thuận lợi để các nhà đầu tư quyết định bỏ vốn hoặc tiếp tục đầu tư thêm
vốn vào quốc gia/ địa phương mình.
Hiện nay, hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện ở
cả cấp độ quản lý nhà nước và địa phương. Ở cấp độ quản lý nhà nước, thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được các cấp lãnh đạo nhà nước tiến hành
trong các chuyến công du, gặp gỡ các nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức các

chương trình xúc tiến đầu tư nhằm kêu gọi vốn đầu tư. Ở trong nước, hoạt động
này thường được giao cho một cơ quan chuyên trách trực thuộc bộ quản lý lĩnh
vực đầu tư. Hoạt động này cũng được phân cấp về các địa phương. Theo đó, các
địa phương tùy theo đặc điểm và tình hình kinh tế - xã hội của địa phương mình
để tạo ra đặc trưng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư hoặc đưa ra những danh mục
ưu đãi, cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
1.1.2.2. Cơ chế thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Để hấp dẫn, thu hút được thêm nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, cơ quan
quản lý cấp trung ương và địa phương của nước tiếp nhận đầu tư thường nỗ lực
đưa ra ưu đãi, thuận lợi, những thay đổi trong chính sách để thuyết phục các nhà
đầu tư quyết định đầu tư vào nước mình, địa phương mình.
(1) Cải cách các thủ tục hành chính và các quy định pháp lý đối với hoạt
động đầu tư
Môi trường pháp lý và chính sách cải cách thủ tục hành chính có vai trò quan
trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Xây dựng và duy trì một thể
chế chính trị ổn định, pháp luật đồng bộ, thủ tục đầu tư minh bạch, đồng thời đưa


21

21

ra những chính sách khuyến khích, đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư chính là
những yếu tố thuyết phục nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào một quốc gia.
Bên cạnh đó, cần xây dựng môi trường kinh doanh theo hướng tích cực, hiện đại,
tiếp cận với xu thế chung của thế giới, cho thấy mức độ hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới.
(2) Thuế và ưu đãi đầu tư
Thuế và các khoản phí luôn là yếu tố mà các doanh nghiệp xem xét khi quyết
định đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên thế giới, những “thiên

đường thuế” như British Virgin Islands (BVI), Quần đảo Cayman,… luôn là địa
chỉ yêu thích của các nhà đầu tư trong việc thành lập doanh nghiệp và tiến hành
hoạt động thương mại, đầu tư….
Việc phân tích và đưa ra được mức thuế phù hợp (bao gồm thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
nhập khẩu…) sẽ tạo ra sức hút lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Với mức
thuế suất và các phụ phí được công khai và ở mức độ hợp lý, nhà đầu tư có cơ sở
để phân tích và lựa chọn cơ hội kinh doanh.
(3) Chính sách về đất đai
Với mục tiêu bỏ vốn đầu tư lâu dài tại một quốc gia, bất kỳ nhà đầu tư nào cũng
đều xem xét đến chính sách đất đai quốc gia đó dành cho các nhà đầu tư. Những
yếu tố liên quan như các quy định về thời gian cho thuê, mức phí cho thuê, đền
bù và giải phóng mặt bằng… là cơ sở để các nhà đầu tư xem xét khi quyết định
đầu tư hay mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đưa ra những ưu đãi, cũng
như tạo những thuận lợi cho các nhà đầu tư thuê mặt bằng và sử dụng mặt bằng
đó vào hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ là những yếu tố đáng kể thuyết phục
các nhà đầu tư nước ngoài.
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng của quốc gia, địa phương tiếp nhận đầu tư là một trong những yếu
tố đầu tiên các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến. Do đó, đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng là một trong những ưu tiên đầu tư của chính phủ các nước cũng như cơ
quan quản lý địa phương trong quá trình thu hút, hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài.
(5) Phân cấp quản lý đầu tư
Quản lý hoạt động đầu tư thuộc nhóm những yếu tố vĩ mô khiến các nhà đầu tư
cân nhắc khi quyết định đầu tư. Việc phân cấp, giao một phần quản lý hoạt động
đầu tư cho địa phương góp phần làm cho các thủ tục liên quan đến hoạt động đầu
tư diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn. Địa phương quản lý hoạt động đầu tư
cũng sẽ sâu sát hơn, nhiều cơ hội tiếp cận nhà đầu tư, nắm bắt tình hình và giải
quyết vấn đề nhanh hơn.

(6) Cơ chế giải quyết xung đột lợi ích giữa nước tiếp nhận FDI và nhà đầu tư
Xung đột giữa nước tiếp nhận vốn đầu tư và nhà đầu tư là điều khó tránh khỏi
trong kinh doanh. Tuy nhiên, cách tiếp cận, cơ chế giải quyết xung đột lại là một
trong những yếu tố tạo sức hấp dẫn cho nơi địa phương, quốc gia đó. Giải quyết


22

22

xung đột một cách hợp lý, theo cơ chế minh bạch, bảo đảm quyền lợi hợp pháp
của nhà đầu tư sẽ là những yếu tố thuyết phục để nhà đầu tư tiếp tục mở rộng hoạt
động và những nhà đầu tư mới quyết định bỏ vốn vào hoạt động kinh doanh tại
đây.
(7) Đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ
Công nghiệp phụ trợ được hiểu là những ngành sản xuất các yếu tố đầu vào bổ
sung cho các ngành sản xuất chính trong nền kinh tế. Trước đây, với việc sản
xuất theo quy mô khép kín, mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ có khả năng cung cấp
một sản phẩm hoàn chỉnh, công nghiệp phụ trợ chỉ đóng vai trò nhỏ trong nền
kinh tế. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế trên quy mô toàn cầu, quá trình
chuyên môn hóa diễn ra một cách mạnh mẽ và sâu sắc giữa các nền kinh tế, mỗi
một quốc gia, vùng lãnh thổ chỉ tập trung vào sản xuất một giai đoạn, bộ phận
nhất định của sản phẩm, vai trò của công nghiệp phụ trợ ngày càng trở nên quan
trọng. Với sự hỗ trợ này, quá trình sản xuất của các nền kinh tế diễn ra một cách
thuận lợi, khai thác triệt để lợi thế so sánh của vùng. Tuy nhiên, điều này cũng
đòi hỏi các quốc gia và vùng lãnh thổ khi hình thành, xây dựng nền sản xuất theo
hướng chuyên môn hóa cũng cần lưu ý đến sự phát triển của hệ thống các ngành
công nghiệp hỗ trợ. Sự phát triển của hệ thống công nghiệp phụ trợ cũng dần trở
thành yếu tố quan trọng trong thu hút đầu tư. Chính phủ các quốc gia trong quá
trình hình thành các khu kinh tế trọng điểm, đóng vai trò đầu tàu của nền sản

xuất, cũng cần xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Điều này
không chỉ góp phần tạo thuận lợi cho sản xuất trong nước, tăng tính cạnh tranh
mà còn đóng vai trò là yếu tố quan trọng trong thu hút đầu tư cả trong và ngoài
nước. Sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ cũng cho thấy trình độ
phát triển của nền sản xuất. Với một nền sản xuất có tính chuyên môn hóa cao,
tham gia sâu vào chuỗi sản xuất trên quy mô toàn cầu, các ngành công nghiệp
phụ trợ càng có nhiều cơ hội để phát triển. Do đó đầu tư cho công nghiệp phụ trợ
là một trong những chính sách quan trọng để tăng cường thu hút đầu tư từ trong
và ngoài nước vào vùng kinh tế trọng điểm.
1.2. Lý luận chung về vùng kinh tế trọng điểm
1.2.1. Khái niệm vùng kinh tế trọng điểm
Trước đây, khái niệm vùng kinh tế hay vùng kinh tế - xã hội được các nước
sử dụng phổ biến trong quá trình nghiên cứu hoạt động kinh tế theo phạm vi lãnh
thổ quốc gia. Nội dung của vùng kinh tế thường gắn với các điều kiện địa lý cụ
thể, có các hoạt động kinh tế - xã hội tương thích trong điều kiện kỹ thuật – công
nghệ nhất định. Do đó, theo cách hiểu thông thường, vùng kinh tế trọng điểm là
vùng tập trung lớn về công nghiệp và thương mại, dịch vụ nhằm thu hút nhiều
nguồn đầu tư trong và ngoài nước, kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, đặc biệt là
ngành công nghiệp.


23

23

Nhiều nước trên thế giới phân chia lãnh thổ quốc gia thành các vùng kinh
tế - xã hội để hoạch định chiến lược, xây dựng các kế hoạch phát triển, xây dựng
hệ thống cơ chế, chính sách vĩ mô để quản lý vùng nhằm đạt được mục tiêu
chung phát triển của đất nước. Ví dụ, những năm 1980, Nhật Bản chia lãnh thổ
quốc gia thành 5 vùng, Pháp chia thành 8 vùng. Đầu những năm 1990, Canada

cũng phân chia lãnh thổ quốc gia thành 4 vùng kinh tế để phát triển.
Hiện tại ở Việt Nam định nghĩa vùng kinh tế của các học giả Liên Xô
trước đây vẫn được sử dụng, trong số đó có định nghĩa của Alaev như sau:
“Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân, có
những dấu hiệu sau: chuyên môn hoá những chức năng kinh tế quốc dân cơ bản;
tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ qua lại giữa các bộ
phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của
vùng…, coi vùng như là hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ chức trong bộ máy
quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân” [theo Nguyễn Xuân Thu, Nguyễn Văn
Phú (Đồng chủ biên) 2006: 20].
Trong quy hoạch tổng thể nền kinh tế của Chính phủ, khu kinh tế trọng
điểm được hiểu là khu vực bao gồm một số tỉnh/thành phố “có khả năng đột
phá, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với tốc độ cao
và bền vững, tạo điều kiện nâng cao mức sống của toàn dân và nhanh chóng đạt
được sự công bằng xã hội trong cả nước”.
Từ năm 1976 đến nay, tuỳ theo đặc điểm của từng thời kỳ, Việt Nam đã
đưa ra các hệ thống vùng kinh tế khác nhau, chẳng hạn như hệ thống 7 vùng
nông lâm nghiệp, sau đó là hệ thống 8 vùng giai đoạn 1976-1980; hệ thống 4
vùng lớn và 7 tiểu vùng thời kỳ 1981-1985; hệ thống 8 vùng và 3 vùng kinh tế
trọng điểm từ năm 1986; và giai đoạn hiện nay (kể từ năm 2009) là hệ thống 6
vùng kinh tế lớn và 4 vùng kinh tế trọng điểm.
Sáu vùng kinh tế lớn bao gồm:
(1). Vùng Trung Du và Miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc) gồm các
tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang,
Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hoà Bình;


24

24


(2). Vùng Đồng Bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm
các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam
Định, Hà Nam, Ninh Bình, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh.
(3). Vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ (còn gọi là Duyên hải
miền Trung) và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm các tỉnh: Thanh Hoá,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận.
(4). Vùng Tây Nguyên gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đak Lak, Đak
Nông và Lâm Đồng.
(5). Vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, gồm các
tỉnh, thành phố: thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình
Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang.
(6). Vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm các tỉnh, thành phố: Cần Thơ,
Hậu Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang,
Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.
Bốn vùng kinh tế trọng điểm gồm:
(1). Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, gồm 7 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh
và Quảng Ninh;
(2). Vùng kinh tế trọng điểm phía nam gồm 8 tỉnh, thành phố trực trung
ương: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương,
Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang;
(3) Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương là: Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định;
(4) Vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long gồm 4 tỉnh, thành
phố: Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau.
1.2.2.Đặc điểm của vùng kinh tế trọng điểm
Vùng kinh tế trọng điểm là một bộ phận cấu thành của lãnh thổ quốc gia
(bao gồm một số tỉnh, thành phố nhất định) hội tụ được các điều kiện, yếu tố và

tiềm năng (điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội,..) thuận lợi để phát triển


25

25

với tư cách là vùng động lực, là đầu tàu có khả năng lôi cuốn, tác động lan tỏa
theo hướng tích cực đến các vùng và tiểu vùng khác, cũng như toàn bộ đất nước.
Vùng kinh tế trọng điểm cũng có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
• Bao gồm phạm vi của nhiều tỉnh, thành phố có đặc điểm khá tương
đồng nhau (về vị trí, điều kiện tự nhiên, tiềm năng, thế mạnh...). Số lượng và
phạm vi lãnh thổ của mỗi vùng kinh tế có thể thay đổi theo thời gian, tùy thuộc
vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
• Hội tụ đầy đủ các điều kiện thuận lợi, tập trung tiềm lực kinh tế và có vị
thế hấp dẫn các nhà đầu tư, thể hiện ở sự phát triển vượt trội về kết cấu hạ tầng
(giao thông, mạng lưới điện, viễn thông); về chất lượng nguồn nhân lực, về trình
độ phát triển kinh tế;
• Có tỷ trọng lớn trong tổng GDP của quốc gia, có khả năng tạo ra tốc độ
phát triển nhanh cho cả nước và có thể hỗ trợ cho các vùng khác;
• Có khả năng tạo tích lũy đầu tư để tái sản xuất mở rộng; đồng thời có
thể tạo nguồn thu ngân sách lớn cho đất nước. Trên cơ sở đó, vùng kinh tế trọng
điểm không những tự đảm bảo nguồn tài chính cho mình, mà còn có khả năng hỗ
trợ cho các vùng khác;

Có khả năng thu hút những ngành công nghiệp mới và các ngành dịch vụ then
chốt, để rút kinh nghiệm về mọi mặt cho các vùng khác trong phạm vi cả nước. Từ
đây, tạo ra những tác động lan tỏa tới các vùng và tiểu vùng xung quanh.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào vùng kinh tế
trọng điểm

Đầu tư vào những khu vực có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên cũng
như kinh tế xã hội thường mang lại hiệu quả cao cho các nhà đầu tư. Do đó, các
nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm đầu tư vào
những khu vực kinh tế có nhiều thuận lợi, đặc biệt là những vùng kinh tế được
xem là trọng điểm. Đây là một thực tế khách quan bởi vùng kinh tế trọng điểm
không chỉ có những thuận lợi về các yếu tố tự nhiên mà còn có ý nghĩa chính trị
xã hội đặc biệt quan trọng đối với quốc gia. Đầu tư vào khu vực này thường có
nhiều thuận lợi hơn, giảm thiểu được những rủi ro và khó khăn trong quá trình
đầu tư.


×