Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Vận dụng sơ đồ tư duy vào việc dạy học đọc hiểu văn bản Tấm Cám ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

PHẠM THỊ THU HUYỀN

VẬN DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY VÀO
VIỆC DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
TẤM CÁM Ở TRƯỜNG THPT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

HÀ NỘI - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

PHẠM THỊ THU HUYỀN

VẬN DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY VÀO
VIỆC DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN
BẢN TẤM CÁM Ở TRƯỜNG THPT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học:
ThS. NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG

HÀ NỘI - 2017



LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai đề tài “Vận dụng sơ đồ tư duy vào việc dạy
học đọc hiểu văn bản Tấm Cám ở trường THPT”, tôi đã thường xuyên nhận
được sự giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ
văn, các thầy cô giáo trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn, đặc biệt là cô
giáo hướng dẫn trực tiếp - ThS. Nguyễn Thị Mai Hương.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các
thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, các thầy cô giáo trong tổ Phương pháp dạy
học Ngữ văn đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành khóa luận. Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất của
mình tới ThS. Nguyễn Thị Mai Hương - người thầy đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm khóa luận và hoàn thành công trình
nghiên cứu này.
Con xin cảm ơn bố mẹ đã luôn bên con, yêu thương, quan tâm và hi
sinh cho con, là điểm tựa bình yên để tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho con
trong cuộc sống cũng như trong học tập.
Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Phạm Thị Thu Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của ThS. Nguyễn Thị Mai Hương. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong khóa luận này là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất cứ công trình nào.
Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2017
Sinh viên thực hiện


Phạm Thị Thu Huyền


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
SĐTD

Sơ đồ tư duy

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

THPT

Trung học phổ thông

PPDH

Phương pháp dạy học

SGK

Sách giáo khoa

SGV


Sách giáo viên

Tr

Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
5. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 5
6. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 5
7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
8. Dự kiến đóng góp .......................................................................................... 6
9. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN
DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY VÀO DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TẤM CÁM Ở
TRƯỜNG THPT ............................................................................................. 7
1.1 Cơ sở lý luận về sơ đồ tư duy trong dạy học .............................................. 7
1.1.1 Tư duy và sự phát triển tư duy của con người ......................................... 7
1.1.1.1 Giới thiệu chung về tư duy con người ................................................... 7
1.1.1.2 Đặc điểm tư duy của học sinh trung học phổ thông ........................... 11
1.1.2 Giới thiệu chung về SĐTD ..................................................................... 12
1.1.2.1 Sơ đồ tư duy - một phương tiện dạy học thiết thực ............................. 12
1.1.2.2 Cấu tạo và phân loại sơ đồ tư duy ...................................................... 14

1.1.2.3 Ý nghĩa của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong giáo dục ....................... 17
1.2 Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng sơ đồ tư duy vào dạy đọc hiểu văn bản
Tấm Cám ......................................................................................................... 18
1.2.1 Điều tra, thăm dò ý kiến giáo viên ......................................................... 18


1.2.2 Điều tra, thăm dò ý kiến học sinh .......................................................... 20
1.2.3 Đánh giá chung về thực trạng, tình hình dạy học đọc hiểu văn bản Tấm
Cám có sử dụng sơ đồ tư duy .......................................................................... 21
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 23
Chương 2. DẠY HỌC VĂN BẢN TẤM CÁM TRONG SÁCH GIÁO
KHOA NGỮ VĂN 10 CÓ VẬN DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY ........................ 24
2.1 Vị trí của văn bản Tấm Cám trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Ban cơ bản) .... 24
2.2 Nội dung của văn bản Tấm Cám ............................................................... 24
2.3 Mục đích của việc dạy học văn bản Tấm Cám trong sách giáo khoa Ngữ
văn lớp 10 (Ban cơ bản) .................................................................................. 27
2.4 Yêu cầu về sơ đồ tư duy ............................................................................ 31
2.5 Thiết kế các sơ đồ tư duy khi dạy văn bản Tấm Cám ............................... 31
2.6 Định hướng dạy văn bản Tấm Cám có vận dụng sơ đồ tư duy................. 36
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 38
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM..................................................... 39
3.1 Mục đích thực nghiệm .............................................................................. 39
3.2 Đối tượng thực nghiệm ............................................................................. 39
3.3 Địa bàn thực nghiệm ................................................................................. 39
3.4 Thời gian thực nghiệm .............................................................................. 40
3.5 Nội dung thực nghiệm ............................................................................... 40
3.6 Cách tiến hành thực nghiệm...................................................................... 57
3.7 Kết quả thực nghiệm ................................................................................. 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội tri thức phát triển với những tiến bộ vượt trội của khoa học
thông tin và tri thức hiện đại. Con người là yếu tố trung tâm trong xã hội tri
thức, là chủ thể kiến tạo xã hội.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
khẳng định từ nay đến năm 2020 phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại. Để thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đất nước ta cần
phải có nguồn nhân lực có trình độ học vấn cao.
Từ đó cũng yêu cầu giáo dục phải thay đổi để đáp ứng nguồn nhân lực
có chất lượng cao cho xã hội. Để làm được điều này yêu cầu giáo dục phải áp
dụng các phương pháp dạy học tích cực, hiện đại phù hợp với xu thế đổi mới
của đất nước. Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh được xem là nhiệm vụ vừa cấp thiết vừa trọng
tâm xuyên suốt quá trình đổi mới.
Ngữ văn là một môn học có vị trí quan trọng. Nó là môn học vừa mang
tính công cụ vừa mang tính nghệ thuật hơn nữa lại có tính nhân văn cao.Tuy
nhiên, một thực trạng đáng lưu ý ở đây đó là học sinh đang ngày càng quay
lưng với môn Ngữ văn, không còn coi trọng và hứng thú với môn học này.
Tâm lí học sinh rất ngại học văn bởi các kênh thông tin qua thực hành, áp
dụng, qua quan sát trực tiếp đã thu hút các em. Điều đó đòi hỏi muốn học sinh
học tốt môn Ngữ văn ở trường phổ thông nói chung và phân môn đọc hiểu nói
riêng, người giáo viên cần phải chú trọng đến phương pháp dạy học, phải tìm
tòi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức, biện pháp dạy học mới,
hiện đại, sinh động để đưa học sinh đến với môn học này một cách tự giác và
bằng niềm say mê thực sự.


1


Ngày nay có rất nhiều hình thức dạy học mới nhưng vận dụng sơ đồ tư
duy được xem là một trong những phương tiện hiện đại, gắn liền với đặc điểm
nhận thức trong tư duy con người. Hiện nay, phương tiện dạy học này đã
được sử dụng rộng rãi và cũng tạo hiệu quả học tập khá cao. Bởi lẽ nó tạo ra
những thuận lợi nhất định cho quá trình nhận thức và tư duy của học sinh giúp
học sinh ghi nhớ rất hiệu quả. Không chỉ vậy, việc vận dụng sơ đồ tư duy còn
giảm nhẹ áp lực học tập của người học. Vận dụng sơ đồ tư duy vào quá trình
dạy học Ngữ văn nói chung và dạy đọc hiểu nói riêng sẽ giúp cho học sinh
không chỉ có cơ hội lĩnh hội tri thức và thực sự rung động trước cái đẹp thông
qua hình tượng nghệ thuật mà trên cơ sở đó, các em biết khái quát chúng để
rèn luyện nhằm tạo ra năng lực riêng cho bản thân.
Tấm Cám là tác phẩm văn học nghệ thuật xây dựng hình tượng bằng
ngôn từ. Mục đích của việc dạy bài Tấm Cám là nhằm giúp học sinh hiểu
được cuộc đấu tranh quyết liệt giữa thiện và ác, sức trỗi dậy mãnh liệt của con
người trước sự vùi dập của kẻ ác, qua đó thấy được ước mơ và sự khẳng định
của nhân dân về chiến thắng của thiện trước ác, “ác giả ác báo”. Lý thuyết là
thế nhưng nhìn chung khi bắt đầu bài giảng thì người giáo viên còn gặp khá
nhiều khó khăn: lượng kiến thức khổng lồ, trừu tượng… Nhiều giáo viên chưa
xác định đươc phương pháp dạy học cho mình, vẫn tồn tại hình thức thuyết
giảng đơn thuần hay thầy đọc trò ghi khiến học sinh vốn đã không mấy hứng
thú với môn Ngữ văn nay lại càng không quan tâm đến bài đọc hiểu. Cũng vì
thế hiệu quả của giờ học không cao.
Nhận thức được tầm quan trọng của phân môn đọc hiểu trong chương
trình trung học phổ thông cũng như hướng tới việc đổi mới phương pháp
dạy học đọc hiểu nói riêng, dạy học Ngữ văn nói chung nên chúng tôi chọn
đề tài: “Vận dụng sơ đồ tư duy vào việc dạy học đọc hiểu văn bản Tấm

Cám ở trường THPT” với hy vọng góp một phần nhỏ vào việc đổi mới
dạy văn bản Tấm Cám trong chương trình lớp 10 của THPT.

2


2. Lịch sử vấn đề
Hiện nay, SĐTD là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến, được coi như
một phương tiện hiện đại trong dạy và học.SĐTD còn được gọi là bản đồ tư
duy, hay là mindmap. Cha đẻ của SĐTD là giáo sư người Anh - Tony Buzan.
Ông đã giới thiệu thứ phương tiện giáo dục này vào khoảng những năm 60
của thế kỉ XX. Khi nghiên cứu về quá trình nhận thức và những yếu tố giúp
con người ghi nhớ kiến thức khoa học, Tony Buzan đã phát hiện ra sức mạnh
của ghi nhớ, của tư duy khi hệ thống những kiến thức bằng những đường nét
và hình ảnh. Từ nhận thức này, Tony Buzan đã hình thành và sáng tạo ra cho
nhân loại một phương tiện ghi nhớ hữu hiệu - SĐTD. SĐTD là phương tiện
kết nối mang tính đồ họa có tác dụng lưu trữ, sắp xếp và xác lập ưu tiên đối
với mỗi loại thông tin trên giấy. Mỗi SĐTD là khởi nguồn tiềm năng của bộ
não diệu kì.
Với những đóng góp về SĐTD, thế giới biết đến Tony Buzan qua các
công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Sơ đồ tư duy trong công việc (Mindmaps
at word), Lập sơ đồ tư duy (How to mind map), Sơ đồ tư duy trong kinh
doanh: Cách mạng hóa tư duy và lề lối kinh doanh của bạn (Tony Buzan và
Chirs Griffiths), Bản đồ tư duy cho trẻ thông minh,… Trong những công trình
của mình, Tony Buzan đã cho chúng ta nhận thấy rõ sự tương thích giữa
SĐTD với cấu tạo,chức năng và hoạt động của não bộ.
Sau Tony Buzan, cũng có khá nhiều tác giả đã nghiên cứu và ứng dụng
về SĐTD. Từ kinh nghiệm bản thân và những ưu điểm vượt trội của SĐTD so
với các biện pháp học tập khác mà các tác giả đã viết lên những cuốn sách nổi
tiếng đem đến cho người đọc những cái nhìn đa chiều, phong phú, sâu rộng về

cách thức và hiệu quả của việc sử dụng SĐTD. Tiêu biểu là: Bobide Porter
với hai cuốn sách: “Phương pháp học tập siêu tốc”, “Phương pháp tư duy siêu
tốc”; Adamkho với ba cuốn sách: “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế”, “Làm chủ tư
duy thay đổi vận mệnh”, “Con cái chúng ta đều tài giỏi”.

3


Tại Việt Nam, vào tháng 3 năm 2006, chương trình Thời sự Đài truyền
hình Việt Nam đã thực hiện một phóng sự về hoạt động nghiên cứu ứng dụng
và phổ biến SĐTD của nhóm tư duy mới (New Thinking Group - NTG) khi
nhóm đang thực hiện dự án “Ứng dụng công cụ hỗ trợ tư duy - Bản đồ tư
duy” cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội và đã được nhiều người ủng hộ.
Ở các nước phát triển, SĐTD đã được ứng dụng vào việc dạy và học từ
rất sớm.Tuy nhiên, ở Việt Nam thì phương pháp này còn khá mới mẻ. Phải
bước sang năm 2011 -2012, việc ứng dụng SĐTD trong dạy và học mới
được triển khai một cách rộng rãi, thường xuyên được đánh giá thông qua dự
giờ, các giờ thao giảng, thi giáo viên giỏi. Trong giáo dục ở nước ta,
Ts. Trần Đình Châu và Ts. Đặng Thị Thu Thủy là hai tác giả đầu tiên tiến
hành nghiên cứu và tìm cách đưa phương pháp sử dụng SĐTD vào giảng
dạy tại Việt Nam. Nhắc đến Ts. Trần Đình Châu và Ts. Đặng Thị Thu Thủy,
chúng ta phải kể đến cuốn sách “Dạy tốt học tốt các môn học bằng bản đồ tư
duy” (Dùng cho GV, sinh viên sư phạm, HS THCS và THPT) do chính hai
người biên soạn. Cuốn sách đã đáp ứng đúng tinh thần của khoa học giáo
dục: khi nghiên cứu phải sâu sắc, kĩ lưỡng nhưng khi phổ biến phải đơn
giản, rõ ràng.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều luận văn, khóa luận nghiên cứu về SĐTD
và sự hữu dụng của nó trong dạy học. Có thể kể tới một số công trình tiêu
biểu như luận văn: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học văn học sử ở trường
THPT” của tác giả Phạm Thị Uyên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, “Sử

dụng bản đồ tư duy vào dạy học phần văn học dân gian (Chương trình Ngữ
văn 10 - Ban cơ bản)” của tác giả Trần Thu Thủy trường Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh,… hay một số sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu và
vận dụng SĐTD vào trong dạy học Ngữ văn có hiệu quả như: “Sử dụng bản
đồ tư duy trong dạy học văn học sử ở trường THPT Ngọc Hồi” của cô giáo

4


Nguyễn Thị Anh Nguyệt, “Sử dụng bản đồ tư duy vào dạy học Ngữ văn 9”
của cô giáo Vũ Thị Bình Ngọc,…
Kế thừa những thành tựu đã đạt được trong việc nghiên cứu về SĐTD và
những tác dụng của nó vào hoạt động dạy học ở trường, khóa luận này bước
đầu xem xét sự vận dụng phương tiện dạy học này vào dạy học một bài đọc
hiểu là bài Tấm Cám nhằm tìm ra cách tổ chức dạy học đọc hiểu đạt hiệu quả.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra một hướng sáng tạo cho việc tổ chức
các hoạt động dạy học cho môn Ngữ văn nói chung và cho bài học Tấm Cám nói
riêng nhằm kích thích nhu cầu học tập, sáng tạo cho HS khi học đọc hiểu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Gắn với nội dung khóa luận, việc nghiên cứu đề tài này hướng tới các
nhiệm vụ sau:
- Tổng quát các vấn đề lý thuyết về SĐTD và bài Tấm Cám.
- Đề xuất cách vận dụng SĐTD khi dạy học bài Tấm Cám.
- Thực hiện nhằm bước đầu đánh giá kết quả đề xuất.
5. Đối tượng nghiên cứu
Gắn với nội dung đề tài, khóa luận xác định đối tượng nghiên cứu là sơ
đồ tư duy được vận dụng trong quá trình giáo dục.
6. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung xem xét cách dạy học bài Tấm Cám có vận dụng

SĐTD.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài làm cơ sở lý luận như:
các tài liệu hướng dẫn dạy học, các tài liệu về SĐTD và ứng dụng SĐTD
trong dạy học …
7.2. Phương pháp điều tra khảo sát

5


Khảo sát, tìm hiểu thực tiễn việc xây dựng và sử dụng SĐTD trong
thực tiễn dạy học ở trường THPT trong đó có môn Ngữ văn.
7.3. Phương pháp thực nghiệm
Trong quá trình điều tra, khảo sát dựa vào đó tiến hành làm giáo án
thực nghiệm. Dùng giáo án thực nghiệm để lên lớp và đánh giá hiệu quả đạt
được, ưu - nhược điểm khi sử dụng SĐTD vào bài dạy.
8. Dự kiến đóng góp
Vận dụng SĐTD vào dạy học bài Tấm Cám, nếu được sử dụng và triển
khai hợp lý sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Kích thích HS học tập sáng tạo.
Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường phổ thông.
9. Bố cục khóa luận
Tôi triển khai khóa luận này theo bố cục 3 phần:
Mở đầu
Nội dung
Kết luận
Phần nội dung bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc vận dụng sơ đồ tư duy
vào dạy đọc hiểu văn bản Tấm Cám ở trường THPT.

Chương 2: Dạy học văn bản Tấm Cám trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 có
vận dụng sơ đồ tư duy.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

6


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
SƠ ĐỒ TƯ DUY VÀO DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TẤM CÁM
Ở TRƯỜNG THPT
1.1 Cơ sở lý luận về sơ đồ tư duy trong dạy học
1.1.1 Tư duy và sự phát triển tư duy của con người
1.1.1.1 Giới thiệu chung về tư duy con người
Theo từ điển Tiếng Việt: Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận
thức, đi sâu vào nhận thức và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng
những hinh thức, như biểu tượng,khái niệm, phán đoán và suy lý. [13, 1011]
Tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh
thần, đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua
hoạt động vật chất, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng
xử tích cực với nó.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam - tập 4: Tư duy là sản
phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc biệt - bộ não con
người. Tư duy phản ánh tích cực hiện thực khách quan dưới các khái niệm, sự
phán đoán, lý luận.
Trong cuộc sống, con người thường phải suy nghĩ để tìm ra những cách
giải quyết nhằm vượt qua được những khó khăn trước thực tại và đạt được
mục đích của bản thân một cách tốt nhất. Nói cách khác, con người thường
xuyên phải tư duy. Từ đó có thể nhận thấy, tư duy xuất hiện trong quá trình

sản xuất xã hội của con người. Trong quá trình đó, con người so sánh các
thông tin, dữ liệu thu được từ nhận thức cảm tính hoặc các ý nghĩ với nhau.
Trải qua các quá trình khái quát hóa và trừu tượng hóa, phân tích và tổng hợp

7


để rút ra các khái niệm, phán đoán, giả thuyết, lý luận,… Kết quả của quá
trình tư duy bao giờ cũng là sự phản ánh khái quát các thuộc tính, các mối liên
hệ cơ bản, phổ biến, các quy luật không chỉ ở một sư vật riêng lẻ mà còn ở
nhóm sự vật nhất định. Vì vậy, tư duy bao giờ cũng là sự giải quyết vấn đề.
Nghiên cứu về tư duy của con người, các nhà khoa học đã tìm ra tư duy
con người có những đặc điểm cơ bản sau:
Đầu tiên chúng ta phải nhắc đến tính gián tiếp - đây là một trong những
đặc trưng cơ bản nhất của hoạt động tư duy. Con người không nhận thức thế
giới một cách trực tiếp mà thường biểu hiện hoạt động nhận thức ấy một cách
gián tiếp. Tính gián tiếp được thể hiện ở việc con người sử dụng ngôn ngữ để
tư duy. Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể ghi lại các kết quả nhận thức
và kinh nghiệm của bản thân đã thu được sau một quá trình tư duy. Chẳng hạn
như khi giải một bài toán thì trước hết chúng ta phải biết được yêu cầu, nhiệm
vụ của bài tập đó và bắt đầu nhớ lại những công thức, định lí có liên quan.
Trong quá trình giải bài tập đó, con người đã dùng ngôn ngữ để thể hiện các
quy tắc, định lí và rút ra được cả kinh nghiệm cho bản thân sau mỗi lần giải
toán đó. Bên cạnh ngôn ngữ, tính gián tiếp còn được thể hiện qua việc con
người sử dung công cụ, phương tiện để tư duy. Chẳng hạn như thông qua các
máy móc mà con người có thể dự báo được thời tiết. Như vậy, nhờ có tính
gián tiếp mà tư duy của con người đã mở rộng, không giới hạn khả năng nhận
thức của con người.
Nhắc đến hoạt động của tư duy, một trong những đặc trưng không thể
không kể tới đó là tính trừu tượng và khái quát của tư duy. Khác với nhận

thức cảm tính, tư duy không nhận thức sự vật, hiện tượng một cách cụ thể và
riêng lẻ. Trên cơ sở những thuộc tính bản chất chung của nhiều sự vật, hiện
tượng, con người có thể khái quát những sự vật, hiện tượng riêng lẻ nhưng có
những thuộc tính chung thành một nhóm, một loại, một phạm trù. Nói cách

8


khác, tư duy mang tính trừu tượng và khái quát. Chẳng hạn như khi nói về
khái niệm “cái mũ”, con người thường tập trung vào những thuộc tính cơ bản
của sự vật này: hình dáng, chất liệu và công dụng. Từ đó, con người có thể
khái quát thành hệ hiểu biết với những đặc trưng như đó là đồ vật, có hình
tròn, được làm bằng vải, dùng để che nắng hay trang trí,… Tất cả đều xếp vào
một nhóm “cái mũ”.
Mặc dù được tạo thành từ kết quả hoạt động thực tiễn nhưng tư duy có
tính độc lập tương đối. Saukhi xuất hiện, sự phát triển của tư duy còn chịu ảnh
hưởng của toàn bộ tri thức mà nhân loại đã tích lũy được trước đó (lao động
quá khứ kể cả lao động chân tay và lao động trí óc được tích lũy). Tư duy
cũng chịu ảnh hưởng, tác động của các lý thuyết, quan điểm tồn tại cùng thời
với nó. Mặt khác, tư duy cũng có logic phát triển nội tại riêng của nó, đó là sự
phản ánh đặc thù logic khách quan theo cách hiểu riêng gắn với mỗi người.
Tính độc lập của tư duy vừa làm cho nó có được tính tích cực, sáng tạo trong
quá trình tìm kiếm tri thức mới nhưng cũng vừa là điều kiện nguồn gốc làm
cho tư duy dần dần xa rời hiện thực khách quan. Để khắc phục mặt trái này
của tư duy, người ta thường sử dụng thực tiễn để kiểm tra, kiểm nghiệm tính
đúng đắn của tư duy.
Nghiên cứu tư duy của con người, các nhà khoa học còn nhận thấy tư
duy có mối quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. Nhu cầu giao tiếp của con người
là điều kiện cần để phát sinh ngôn ngữ. Kết quả tư duy được ghi lại bởi ngôn
ngữ.Ngay từ khi xuất hiện, tư duy đã gắn liền với ngôn ngữ và được thực hiện

thông qua ngôn ngữ. Vì vậy, ngôn ngữ chính là cái vỏ hình thức của tư duy. Ở
thời kì sơ khai, tư duy được hình thành thông qua hoạt động vật chất của con
người và từng bước được ghi lại bằng các kí hiệu từ đơn giản cho đến phức
tạp, từ đơn lẻ đến tập hợp, từ cụ thể đến trừu tượng. Hệ thống các kí hiệu đó
thông qua quá trình xã hội hóa và trở thành ngôn ngữ. Sự ra đời của ngôn ngữ

9


đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của tư duy và tư duy cũng bắt đầu phụ
thuộc vào ngôn ngữ. Ngôn ngữ với tư cách là hệ thống tín hiệu thứ hai trở
thành công cụ giao tiếp chủ yếu giữa con người với con người, phát triển cùng
với nhu cầu của nền sản xuất xã hội cũng như sự xã hội hóa lao động.
Cuối cùng nhắc đến tư duy, người ta thường đặt nó trong mối quan hệ
với nhận thức cảm tính. Có thể nói, nhận thức cảm tính là một cơ sở, một
bước để con người tư duy. Tư duy phải dựa vào nhận thức cảm tính, dựa trên
tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm và cơ sở trực quan sinh động để nảy
sinh tình huống có vấn đề. Nhận thức cảm tính là một khâu của mối liên hệ
trực tiếp giữa tư duy với hiện thực, là cơ sở của những khái quát kinh nghiệm
dưới dạng những khái niệm, quy luật,… là chất liệu của những khái quát hiện
thực theo một nhóm, một lớp, một phạm trù mang tính quy luật trong quá
trình tư duy. Lênin thường nói: “Không có cảm giác thì không có quá trình
nhận thức nào cả.” Ngược lại, tư duy và những kết quả của nó ảnh hưởng
mạnh mẽ, chi phối khả năng phản ánh của nhận thức cảm tính: làm cho khả
năng cảm giác của con người tinh vi hơn, nhạy bén hơn, làm cho tri giác của
con người mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa.
Từ những hiểu biết về tư duy, chúng ta có thể đưa ra những kết luận sư
phạm cần thiết:
- Phải coi trọng việc phát triển tư duy cho HS bởi lẽ không có khả năng
tư duy thì học sinh không thể học tập và rèn luyện được.

- Muốn kích thích HS tư duy thì phải đưa HS vào những tình huống có
vấn đề và tạo cơ hội cho học sinh độc lập, sáng tạo giải quyết tình huống có
vấn đề.
- Việc phát triển tư duy phải được tiến hành song song và thông qua
truyền thụ tri thức. Mọi tri thức đều mang tính khái quát, nếu không tư duy thì
không thể tiếp thu và không vận dụng được những tri thức đó.

10


- Việc phát triển tư duy phải gắn với việc trau dồi ngôn ngữ vì có nắm
vững ngôn ngữ thì mới có phương tiện để tư duy có hiệu quả.
- Tăng cường khả năng trừu tượng và khái quát hóa trong tư duy.
- Việc phát triển tư duy phải gắn liền với việc rèn luyện cảm giác, tri
giác, năng lực quan sát và trí nhớ. Nếu thiếu những tài liệu cảm tính thì tư duy
không thể diễn ra được.
Như vây, việc vận dụng SĐTD trong quá trình dạy và học là một trong
những biện pháp giúp HS có thể hình thành lộ trình chiếm lĩnh tri thức trên cơ
sở hoạt động của tư duy trong não bộ.
1.1.1.2 Đặc điểm tư duy của học sinh trung học phổ thông
HS THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ
lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên được tính
từ 15 đến 25 tuổi và được chia làm hai thời kỳ:
 Thời kỳ từ 15 đến 18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên.
 Thời kỳ từ 18 đến 25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (thanh niên
sinh viên).
Lứa tuổi HS THPT thuộc giai đoạn đầu. Đối với HS THPT trong giai
đoạn này thì hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo nhưng yêu cầu cao
hơn nhiều đối với tính tích cực và độc lập trí tuệ của các em. Muốn lĩnh hội
được sâu sắc các môn học, các em phải có một trình độ tư duy khái niệm, tư

duy khái quát phát triển đủ cao.
Lứa tuổi HS THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ.
Do cơ thể các em đã được hoàn thiện đặc biệt hệ thần kinh phát triển mạnh
tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ.
Cảm giác và tri giác của các em đã đạt tới mức độ người lớn. Quá trình
quan sát gắn liền với tư duy và ngôn ngữ. Khả năng quan sát một phẩm chất
cá nhân cũng bắt đầu phát triển ở các em. Tuy nhiên, sự quan sát ở các em

11


thường phân tán, chưa tập trung cao vào một nhiệm vụ nhất định, trong khi
quan sát một đối tượng vẫn còn mang tính đại khái, phiến diện đưa ra kết luận
vội vàng không có cơ sở thực tế.
Trí nhớ của HS THPT cũng phát triển rõ rệt. HS đã biết sử dụng nhiều
phương pháp ghi nhớ chứ không chỉ ghi nhớ một cách máy móc. Sự chú ý của
HS THPT cũng phát triển. Chẳng hạn như HS có thể tập trung chú ý vào tài liệu
mà mình không hứng thú nhưng có thể hiểu được ý nghĩa quan trọng của nó.
Hoạt động tư duy của HS THPT cũng phát triển mạnh. Các em đã có khả
năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng
lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát triển cao giúp cho các em
có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các em thích khái quát,
thích tìm hiểu những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng
ngày, của những tri thức phải tiếp thu,… Năng lực tư duy phát triển đã góp
phần nảy sinh hiện tượng tâm lý mới, đó là tính hoài nghi khoa học.
Nhìn chung, tư duy của HS THPT phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ
linh hoạt và nhạy bén hơn. Các em có khả năng phán đoán và giải quyết vấn
đề một cách rất nhanh. Tuy nhiên, ở một số HS vẫn còn nhược điểm là chưa
phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng
nghe theo cảm tính. Chính vì thế, GV cần hướng dẫn, giúp đỡ HS tư duy một

cách tích cực, độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối
cùng. Việc phát triển khả năng nhận thức của HS trong dạy học là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của người GV.
Với nhận thức trên, chúng tôi cho rằng việc vận dụng SĐTD trong dạy
học sẽ mang lại hiệu quả lợi ích thiết thực cho HS ở lứa tuổi này.
1.1.2 Giới thiệu chung về SĐTD
1.1.2.1 Sơ đồ tư duy - một phương tiện dạy học thiết thực
Khi đánh giá về các hoạt động trong đời sống của con người, các nhà
tâm lý học đã đề cao vai trò của trí nhớ. Con người không có trí nhớ thì không

12


có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì sẽ không thích nghi được với môi
trường xung quanh, không thể thực hiện bất kì hoạt động nào và cá nhân cũng
không thể hình thành. Để có trí nhớ tốt, con người buộc phải rèn luyện. Và
một trong những cách ghi nhớ nhanh, đầy đủ và sáng tạo đó là sử dụng SĐTD
- công cụ vạn năng cho bộ não.
Khi tìm hiểu về SĐTD, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều cách hiểu về
SĐTD. Có nhà nghiên cứu cho rằng: SĐTD là một sơ đồ nhằm trình bày một
cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá
nhân hay nhóm về một chủ đề. SĐTD có thể viết trên giấy, trên bảng hoặc thực
hiện trên máy tính. Cũng có người nhấn mạnh: SĐTD là hình thức ghi chép sử
dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Hay SĐTD là một
biểu đồ được sủ dụng để thể hiện từ ngữ, ý tưởng, nhiệm vụ hay các mục đích
được liên kết và sắp xếp tỏa tròn quanh từ khóa hay ý trung tâm…
Tuy nhiên, những cách hiểu trên vẫn chưa thể hiện được đầy đủ những
đặc trưng cơ bản về phương tiện dạy học hiện đại này. Theo Tony Buzan cha đẻ của SĐTD nhận định: Bộ não người không tư duy theo lối trình tự và
tuần tự mà theo cách lan tỏa như mọi hình dạng tự nhiên hệ tuần hoàn, hệ
thần kinh trong cơ thể con người, các nhánh của thân cây và những đường gân

trên chiếc lá. Đây chính là cách tư duy của não. Để tư duy hiệu quả, não cần
có một công cụ có khả năng phản ánh dòng tư duy tự nhiên ấy. Đó chính là
SĐTD. Nói đến SĐTD người ta thường nói tới một phương tiện kỹ thuật được
tạo ra trên cơ sở của hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý
tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề…
bằng cách kết hơp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Như
vậy có thể khẳng định: SĐTD là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu
sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các
nhánh, các ý tưởng được liên kết với nhau khiến SĐTD có thể bao quát được

13


các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng. Tính hấp dẫn của hình ảnh, âm
thanh,… gây ra những kích thích rất mạnh mẽ lên hệ thống rìa của não giúp
cho việc ghi nhớ được lâu bền và tạo ra những điều kiện thuận lợi để vỏ não
phân tích, xử lí và rút ra kết luận hoặc xây dựng mô hình về đối tượng
nghiên cứu.
Các nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh SĐTD là một công cụ tổ chức tư
duy nền tảng, có thể miêu tả nó mà một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa
từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức
năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. SĐTD
được vẽ dưới dạng một tế bào não và có công dụng kích thích não làm việc
nhanh chóng, hiệu quả một cách tự nhiên. Từ việc quan sát những đường gân
trên lá hay nhánh cây, chúng ta có thể thấy SĐTD của tự nhiên sao chép hình
dạng của các tế bào não, phản ánh cách chúng được tạo ra và kết nối. SĐTD
có thể xem là công cụ tư duy mang tính tự nhiên được phác thảo từ nguồn
cảm hứng và tính hiệu quả của những cấu trúc tự nhiên.
SĐTD được coi là sự lựa chọn cho trí óc hướng tới lối suy nghĩ mạch
lạc. Việc lập SĐTD giúp con người sử dụng cả hai bán cầu não nhờ đó mà

khả năng trí tuệ và sáng tạo của người học cũng sẽ được tăng cường. Trong
quá trình dạy học, SĐTD chính là phương tiện giúp HS chủ động, tích cực
chiếm lĩnh kiến thức, tạo hứng thú học tập và phát huy khả năng sáng tạo,
giúp HS ghi nhớ nhanh, sâu và lâu hơn kiến thức. Tuy nhiên, chúng ta cần
phải sử dụng SĐTD một cách linh hoạt để giờ dạy đạt được hiệu quả cao nhất.
1.1.2.2 Cấu tạo và phân loại sơ đồ tư duy
Theo Tony Buzan: SĐTD là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc,
hình ảnh để mở rộng và đào sâu ý tưởng. Cấu tạo của nó rất đơn giản. Nó bao
gồm: Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ
đề. Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính.

14


Phát triển nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ cho mỗi ý
chính. Sự phân nhánh cứ liên tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung
tâm thì các ý càng chi tiết cụ thể.
Với đặc điểm cấu tạo như trên, để thiết kế một SĐTD, chúng ta cần
thực hiện các bước sau:
Bước 1: Xác định từ khóa (Key Word) - đây là những từ quan trọng tập
trung chủ đề một cách cô đọng nhất nên phải ngắn gọn, súc tích.
Bước 2: Vẽ chủ đề trung tâm. Đó là những từ, cụm từ thể hiện chủ đề
được vẽ ở chính giữa tờ giấy.
Bước 3: Vẽ thêm các nhánh cấp 1 tỏa ra từ chủ đề trung tâm. Đây là
các ý chính làm rõ chủ đề. Đây là những nhánh của SĐTD chúng sẽ giúp bạn
liên kết các thông tin lại với nhau. Khi vẽ vạch liên kết nên vẽ đường cong
hơn là đường thẳng, màu sắc nên nổi bật vì chúng hấp dẫn hơn với mắt và dễ
ghi nhớ hơn đối với não.
Bước 4: Vẽ thêm các nhánh cấp 2, cấp 3,… để thể hiện rõ hơn nội
dung của các nhánh trước. Các nhánh phụ sẽ vẽ bằng nét nhỏ hơn để dễ phân

biệt với các nhánh chính. Có thể chú thích các từ ngữ cần thiết hoặc điền số
thứ tự vào các nhánh nếu bạn muốn sắp xếp theo thứ tự quan trọng hoặc thứ
tự các nhánh phải xem nếu thông tin yêu cầu phải theo tuần tự. Các nhánh tạo
thành một cấu trúc các nút liên hệ chặt chẽ với nhau.
Bước 5: Hoàn thiện SĐTD. Ở bước này, người viết có thể thêm các
hình ảnh giúp cho các ý quan trọng thêm nổi bật, thêm sức hấp dẫn cho
SĐTD cũng như giúp chúng ta dễ ghi nhớ hơn.
Với các bước trên, chúng tôi tường minh cấu tạo của SĐTD qua hình
ảnh dưới đây:

15


Hình 1
Với cấu tạo sơ giản như trên, các nhà khoa học cũng đã xác định và
phân loại SĐTD nhằm tạo ra sự thuận lợi cho người sử dụng phương tiện giáo
dục hiện đại này. Theo Adam Khoo, có 3 loại SĐTD giúp con người có thể
sắp xếp kiến thức học tập hiệu quả:
Đầu tiên là SĐTD theo đề cương (SĐTD tổng quát): loại SĐTD này
mang một cái nhìn tổng quát về toàn bộ môn học. Lập SĐTD theo đề cương
sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về số lượng kiến thức của mỗi
môn học. Từ đó ta có thể xác định được số lượng kiến thức phải chuẩn bị
cho kì thi.
Tiếp theo là SĐTD theo chương: đây là loại SĐTD có thể cụ thể hóa
những kiến thức mà ta phải học trong từng chương. Chúng ta có thể lập SĐTD
cho từng chương trong chương trình. Đối với các chương có lượng kiến thức từ
10 đến 12 trang thì ta có thể thâu tóm lượng kiến thức đó trong cùng một

16



SĐTD. Còn đối với những chương có lượng kiến thức dài từ 20 trang trở lên
thì ta cần lập SĐTD trên nhiều trang giấy. Và một điều cần lưu ý là khi chúng
ta lập SĐTD theo chương, người lập không nên chỉ giữ lại các ý chính mà cần
bổ sung thêm những chi tiết hỗ trợ quan trọng khác. Đôi khi chúng ta có thể
kèm theo các bảng dữ liệu, các đồ thị hay các loại biểu đồ nếu cần thiết.
Cuối cùng là SĐTD theo đoạn văn: đối với loại SĐTD này chúng ta cần
lưu ý có thể vẽ SĐTD cho từng đoạn văn nhỏ trong SGK để tóm tắt nội dung
chính của mỗi đoạn và phát triển thêm nhiều ý chi tiết hơn. Việc làm này sẽ
giúp chúng ta tiết kiệm thời gian khi ôn tập, học bài vì khi nhìn vào SĐTD
chúng ta có thể nắm được những thông tin cần thiết mà không cần đọc lại
đoạn văn đó.
1.1.2.3 Ý nghĩa của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong giáo dục
Từ thực tế giáo dục hiện nay, chúng ta có thể nhận thấy trong quá trình
học tập vẫn còn tồn tại hiện tượng một số HS học hành rất chăm chỉ nhưng
thành tích học tập vẫn kém. Các em thường học bài nào biết bài đấy, học trước
quên sau và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng
những kiến thức học trước đó vào phần sau. Phần lớn số HS khi đọc sách hoặc
nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức
trọng tâm vào trí nhớ của mình. Do vậy, việc sử dụng SĐTD trong quá trình
dạy học là điều cần thiết, sẽ giúp các em có một cách học tốt. Phát huy được
tính độc lập, chủ động, sáng tao và phát triển tư duy. SĐTD giúp chúng ta tư
duy nhiều chiều. Đó là một công cụ giúp học tập hiệu quả thông qua việc vận
dụng não phải và não trái giúp người học tiếp thu bài nhanh hơn, hiểu bài kĩ
hơn và nhớ được nhiều chi tiết hơn. Từ đó, ta thấy việc sử dụng SĐTD trong
giáo dục mang lại nhiều lợi ích thiết thực như: giúp HS nắm kiến thức một cách
tổng quát mà logic mạch lạc, tiết kiệm thời gian công sức, ghi nhớ nhanh, lâu
và sâu kiến thức hơn, kích thích óc sáng tạo cũng như khiếu hội họa,…

17



Đối với việc dạy học đọc hiểu thì việc sử dụng SĐTD sẽ giúp HS
chiếm lĩnh bài học một cách tổng thể. GV sẽ hướng dẫn HS đi từ kiến thức
tổng quát của bài - trọng tâm bài học và sẽ là trung tâm của SĐTD. Từ đó,
GV sẽ giúp HS tìm ra những nội dung kiến thức xoay quanh chủ đề đó và
phát triển thành các ý. Khi nhìn vào sơ đồ, HS có thể nắm được đâu là ý chính
và đâu là ý phụ của bài học. Không chỉ vậy, việc sử dụng SĐTD vào dạy học
đọc hiểu sẽ giúp HS dần hình thành tư duy mạch lạc, hiểu biết sâu sắc vấn đề
và có cách nhìn khoa học, hệ thống. Sử dụng SĐTD kết hợp với các PPDH
tích cực khác như diễn giảng, vấn - đáp, hoạt động nhóm,… có tính khả thi
cao góp phần nâng cao chất lượng dạy học đọc hiểu văn bản ở trường THPT.
1.2 Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng sơ đồ tư duy vào dạy đọc hiểu văn
bản Tấm Cám
1.2.1 Điều tra, thăm dò ý kiến giáo viên
Để có cơ sở thực tiễn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát nghiên cứu thực
trạng dạy và học đọc hiểu nói chung và thực tế dạy văn bản Tấm Cám nói
riêng có vận dụng SĐTD trong nhà trường THPT hiện nay. Đối tượng được
tiến hành khảo sát là các giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại trường
THPT Cao Bá Quát (Gia Lâm - Hà Nội).
Để có thể nắm bắt được ý kiến của đội ngũ chủ thể định hướng các hoạt
động dạy và học, chúng tôi biên soạn phiếu điều tra và thăm dò ý kiến cho 9
GV trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn với hệ thống gồm 6 câu hỏi:
Câu 1: Các thầy cô thường sử dụng phương phá nào trong quá trình dạy học?
Phương pháp diễn giảng

1/9

Phương pháp vấn đáp, đàm thoại


3/9

Phương pháp sử dụng SĐTD

2/9

Phương pháp khác

3/9

18


×