Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Yếu tố trữ tình trong thể loại nhật kí văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 67 trang )

chgtr

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***************

LÝ THỊ XUÂN

YẾU TỐ TRỮ TÌNH TRONG THỂ LOẠI
NHẬT KÍ VĂN HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận Văn học

Người hướng dẫn khoa học

ThS. HOÀNG THỊ DUYÊN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận
tình của cô giáo - Thạc sĩ Hoàng Thị Duyên - Tổ lí luận văn học, cùng các thầy cô
giáo trong khoa Ngữ Văn - Trường ĐHSP Hà Nội 2 em đã hòa thành tốt khóa luận
của mình.
Qua đây em xin trân trọng cảm ơn tới cô giáo hướng dẫn cùng toàn thể các
thầy cô giáo và các bạn đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho em trong suốt quá
trình thức hiện khóa luận này. Mặc dù có nhiều cố gắng song với trình độ kiến thức
còn hạn chế của người viết, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ các thầy cô giáo và các bạn sinh
viên để bài khóa luận được hoàn thiện hơn.


Em xin chân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 04 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Lý Thị Xuân


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình học tập và nghiên
cứu của tôi dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo - Thạc sĩ Hoàng Thị
Duyên.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi có tham khảo những tài liệu có liên
quan đã được hệ thống trong mục tài liệu tham khảo. Kết quả thu được là hoàn toàn
trân thực và không có trong một đề án nghiên cứu nào.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 04 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Lý Thị Xuân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 6
6. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................... 6
7. Cấu trúc của khóa luận ........................................................................................ 6

NỘI DUNG ............................................................................................................ 6
CHƯƠNG 1: YẾU TỐ TRỮ TÌNH TRONG VĂN HỌC VÀĐÔI NÉT VỀ
THỂ LOẠI NHẬT KÍ VĂN HỌC ........................................................................ 6
1.1. Biểu hiện của yếu tố trữ tình trong nhật kí văn học văn học .............................. 7
1.1.1. Khái niệm ...................................................................................................... 7
1.1.2. Biểu hiện ....................................................................................................... 7
1.1.2.1. Độc thoại nội tâm........................................................................................ 7
1.1.2.2. Trữ tình tình ngoại đề ................................................................................. 8
1.1.2.3. Giọng điệu .................................................................................................. 8
1.2. Về thể loại nhật kí............................................................................................. 9
1.2.1. Khái niệm nhật kí .......................................................................................... 9
1.2.2. Dạng thức tồn tại của nhật kí ....................................................................... 10
1.2.2.1. Chủ yếu viết bằng văn xuôi ....................................................................... 11
1.2.2.2. Có thể tồn tại dưới dạng tập thơ ................................................................ 11
1.2.2.3. Có thể tồn tại dưới dạngthư điện tử ........................................................... 11
1.2.3. Một vài đặc điểm của thể loại nhật kí ........................................................... 12
1.2.4. Sự hình thành và phát triển của thể loại nhật kí ............................................ 14
1.2.5. Sự hình thành và phát triển của thể loại nhật kí ở Việt Nam ......................... 15
1.2.5.1. Nhật kí trong giai đoạn từ đầu thế kỉ XVIII đến trước năm 1930 ............... 15
1.2.5.2. Nhật kí trong giai đoạn 1930 - 1945 .......................................................... 16
1.2.5.3. Nhật kí giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954) ........................... 16
1.2.5.4. Nhật kí trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
thống nhất nước nhà (1955 - 1975) ........................................................................ 16


1.2.5.5. Nhật kí trong giai đoạn sau 1975 đến nay.................................................. 16
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ TRỮ TÌNH TRONG THỂ LOẠI
NHẬT KÍ VĂN HỌC .......................................................................................... 18
2.1. Biểu hiện qua việc khắc họa nội tâm nhân vật ................................................. 18
2.1.1. Qua tâm trạng của người trong cuộc ............................................................ 18

2.1.2. Qua tình yêu người chiến sĩ ......................................................................... 23
2.1.3. Qua sự giằng xé giữa khát vọng sống cá nhân và trách nhiệm công dân ....... 26
2.1.4. Qua ngôn ngữ độc thọai ............................................................................... 29
2.2. Biểu hiện qua nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên.......................................... 32
2.2.1. Qua cái nhìn về thiên nhiên.......................................................................... 32
2.2.2. Qua bút kết hợp giữa gợi và tả ..................................................................... 34
2.3. Biểu hiện qua những suy tư của tác giả ........................................................... 36
2.3.1. Suy tư về cải cách ruộng đất ........................................................................ 36
2.3.2. Suy tư về chế độ xã hội ................................................................................ 39
2.3.3. Suy tư về chiến tranh ................................................................................... 40
2.4. Biểu hiện qua triết lí trữ tình ngoại đề ............................................................. 43
2.4.1. Trữ tình ngoại đề qua sứ mạng và số phận con người................................... 43
2.4.2. Trữ tình ngoại đề qua việc lên án mặt trái của con người trong chiến tranh .. 45
2.5. Biểu hiện qua sắc thái giọng điệu .................................................................... 48
2.5.1. Giọng điệu trữ tình mượt mà, sâu lắng ......................................................... 49
2.5.2. Giọng điệu suy tư triết lí .............................................................................. 51
2.5.3. Giọng điệu trăn trối, di chúc ........................................................................ 54
2.6. Biểu hiện qua kết cấu linh hoạt và tự do của nhật kí........................................ 56
2.6.1. Là những ghi chép nhanh, linh hoạt ............................................................. 56
2.6.2. Mang tính tổng hợp...................................................................................... 57
2.6.3. Là những ghi chép dở dang, không trọn vẹn ................................................ 58
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhật kí là loại có tính chất riêng tư nhằm việc ghi chép lại những sự việc, bày tỏ
những tình cảm, cảm xúc, tâm sự riêng tư thầm kín nhưng từ trước tới nay nhật kí
thường ít được chú ý hơn so với các tiểu loại khác như phóng sự, hồi kí, truyện kí...

Ít được chú ý không phải bởi giá trị của nó nhỏ mà từ trước tới nay số lượng nhật kí
được xuất bản và đến taybạn đọc quá ít. Sự ít ỏi về số lượng tác phẩm ấy cũng tỉ lệ
thuận với mối quan tâm của bạn đọc và giới nghiên cứu cũng bởi vậy lí thuyết về
nhật kí vẫn còn trống. Thực trạng ấy đòi hỏi cần phải có có sự quan tâm chú ý hơn
nữa đến thể loại nhật kí.
Là một thể loại ra đời khá muộn trong nền Văn học Việt Nam. So với các thể
loại khác như tiểu thuyết, truyện, thơ thì nhật kí ra đời muộn hơn và chưa đạt được
nhiều thành tựu nên chưa tạo được sự quan tâm của bạn đọc và giới nghiên cứu. Vì
vậy lí thuyết về thể loại nhật kí trong văn học Việt Nam hiện nay còn rất nhiều
khoảng trống cần được bù đắp kịp thời để góp phần làm phong phú thêm diện mạo
nền văn học dân tộc. Tuy nhiên trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định hay đời
sống đặc biệt của một cá nhân nào đó, nhật kí có một vai trò đặc biệt mà không thể
loại nào có thể thay thế được. Vì lẽ ấy nên nhật kí được rất nhiều nhà văn, nhiều
người sử dụng để bộc lộ chân tình những tâm sự riêng tư, để kí thác những suy nghĩ
khó giãy bày. Đó chính là những góc khuất chân thực nhất của đời sống tâm hồn
con người mà không một thể loại nào có thể thay thế được.
Xuất hiện trong dòng văn học viết với đề tài chiến tranh, thể loại nhật kí được biết
đến như một sự mới mẻ và chân thực. Đặc biệt từ sau “cơn sốt” nhật kí, nhiều cuốn
nhật kí viết trong thời chiến được công bố rộng rãi và đã thu hút được sự đón nhận
đông đảo từ phía bạn đọc. Từ đây văn học Việt Nam đã mang một diện mạo mới kể
từ khi có sự ra đời và góp mặt của của thể nhật kí chiến tranh. Qua những ghi chép
tỉ mỉ, chỉ tiết, người viết đã đem đến cho thế hệ sau biết về chiến tranh một cách
chân thực, sống động về những gian khổ, mất mát hi sinh của thế hệ cha anh đã
sống và chiến đấu vì độc lập của Tổ quốc. Hơn thế đó lại là những trang viết của

1


những người trong cuộc, chính họ đã có mặt trong cuộc chiến, trực tiếp sống và
chiến đấu cho nên những di bút của họ vừa chân thực và chính xác, tỉ mỉ và chi tiết

vừa ghi chép sự thật vừa bày tỏ, phô diễn những trạng thái cảm xúc chủ quan của
người viết trong cõi riêng tư, người đọc đã khám phá ra nhiều điểm còn tiềm ẩn, đã
vén lên được những bức màn bí mật về cuộc sống mà không cần che đậy, trang
điểm như Nhật kí Đặng Thùy Trâm, Nhật kí Nguyễn Văn Thạc, Nhật kí chiến
trường… đều là những tiếng lòng thành thật của chính tác giả viết trong các nhật kí
giữa một thời gian khổ và oanh liệt… Vì lẽ đó nên việc nghiên cứu về Yếu tố trữ
tình trong thể loại nhật kí văn học vừa mang ý nghĩa lí luận vừa mang ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc.
Chọn nghiên cứu về Yếu tố trữ tình trong thể loại nhật kí văn học, chúng tôi rất
mong muốn được góp phần vào việc tìm hiểu một cách chuyên sâu hơn Yếu tố trữ
tình của thể loại nhật kí chiến tranh Việt Nam, một số đặc điểm nổi bật của thể loại
nhật kí và vị trí của thể loại này trong tiến trình phát triển của nền văn học dân tộc.

2.Lịch sử vấn đề
Nhật kí vốn là thể loại mang tính chất riêng tư. Vì vậy có thể nói trước năm 1986,
số lượng những cuốn nhật kí chiến tranh không nhiều và chưa thu hút được sự quan
tâm của bạn đọc cũng như giới nghiên cứu. Trong các công trình nghiên cứu về thể
loại, nhật kí chỉ được điểm mặt sơ lược với định nghĩa và một số đặc trưng cơ bản,
chứ chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu bản chất của thể loại nhật kí, đặc
biệt là Yếu tố trữ tình của thể loại nhật kívăn học. Những công trình nghiên cứu với
qui mô lớn hầu như không có, việc đưa vào chương trình học ở các cấp học, các bậc
học cũng chưa thấy được đề cập đến. Trước năm 2005, số lượng tác phẩm nhật kí
xuất hiện trong văn học Việt Nam rất ít. Năm 2005, sau sự kiện “trở về” từ nước Mĩ
của cuốn Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, một loạt các cuốn nhật kí, thư từ thời chiến
được xuất bản như là một trào lưu, một “cơn sốt” trong văn học thì nhật kí dần nhận
được sự quan tâm của độc giả cuãng như giới nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay
số lượng tác phẩm nhật kí vẫn là những con số rất khiêm tốn. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân nhật kí chưa thật sự thu hút được sự quan tâm của nguời đọc.

2



Và đó cũng là lí do vì sao việc nghiên cứu nhật kí dưới góc độ đặc trưng thể loại
cũng chưa được chú trọng. Hiện nay, việc nghiên cứu nhật kí như là một thể loại
văn học mang tính qui mô như nhiều thể loại văn học khác cũng chưa có. Thật ra,
các nhà nghiên cứu văn học chưa có sự quan tâm nhiều đến vấn đề vềthể loại của
nhật kí. Trong một số năm gần đây, khái niệm về nhật kí với tư cách như là một thể
loại văn học mới được đề cập đến trong các cuốn sách Lí luận văn học, song dung
lượng nội dung nói về nhật kí trong các sách cũng chưa nhiều.Cuốn “Từ điển thuật
ngữ văn học” [12] của tập thể các tác giả có thể coi là một trong những cuốn sách
đầu tiên trong văn học Việt Nam đã nhắc đến thể loại nhật kí với tư cách là “Một
thể loại văn học thuộc loại hình kí” [12].
Bên cạnh đó thể loại nhật kí còn được nhắc đến ở một số bài viết và các công trình
nghiên cứu khác. Trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX, giáo sư Phan Cự Đệcó
quan điểm đồng nhất với giáo sư Trần Đình Sử khi nhắc đến thể loại nhật kí với tư
cách là một tiểu loại của loại hình kí “Nhật kí ghi chép ghi chép những sự việc và
cảm nghĩ về bản thân, về cuộc đời diễn biến theo ngày tháng. Nhật kí thiên về tâm
tình hơn là sự kiện. Một tập nhật kí có ý nghĩa văn học khi thể hiện được một thế
giới tâm hồn, qua sự việc và tâm trạng cá nhân toát lên những vấn đề xã hội rộng
lớn” [2; 432]. Hiện nay, nhật kí đã nhận được sự quan tâm của khá nhiều độc giả,
nhà nghiên cứu, phê bình văn học.Từ những năm 2005 trở lại đây. Sau thành công
vang dội của Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật kí Đặng Thùy Trâm thì những cuốn
nhật kí chiến tranh đã được tập hợp và phát hành rộng rãi, thu hút được sự quan tâm
lớn của công chúng và giới nghiên cứu. Tạo nên một “cơn sốt” trong đời sống văn
học Việt Nam đương đại, một số cuốn nhật kí và tên tuổi tác giả gắn liền với nhật kí
đó được nhiều trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông, trường Trung
cấp, trường Cao đẳng, trường Đại học, nhiều cơ quan, nhiều đơn vị bộ đội… phát
động phong trào học tập các tấm gương liệt sĩ - tác giả của những cuốn nhật kí đã hi
sinh. Sự xuất hiện của một loạt các cuốn nhật kí trong khoảng ba năm (2005 - 2008)
đã thu hút được sự quan tâm của số đông bạn đọc ở mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề

khác nhau. Nhà thơ, nhà báo Đặng Vương Hưng, người sử dụng rất hiệu quả tư liệu

3


viết tay cá nhân cho những bài báo của mình cho biết “Tôi nhận ra rằng mỗi bức
thư, trang nhật kí của những con người bình thường là một kho tàng vô giá của
cuộc sống, đặc biệt đối với người làm báo, viết văn”[26]. Nhà sử học Dương Trung
Quốc khẳng định “Hiện tượng nhật kí chiến tranh cũng cho thấy chúng ta chưa
quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo tồn kí ức, lâu nay chúng ta rất quan tâm đến
bảo tồn những di tích vật thể mà quên mất rằng kí ức cũng là một di sản phi vật thể.
Nhất là với thực tiễn lịch sử đất nước ta, với cuộc chiến tranh hào hùng như vậy, thì
mỗi một con người đi vào cuộc chiến tranh đó đều có thể là những pho sử liệu rất
quí”[26]. Hiện nay, những công trình nghiên cứu và những bài viết về nhật kí
chiến tranh ở Việt Nam còn mang tính chất lẻ tẻ, rải rác trên một số trang báo phát
hành hoặc trên một số trang web ở báo điện tử… Tuy vậy, tất cả các bài báo đó đều
có sự đánh giá cao về những đóng góp của nhật kí chiến tranh đối với tiến trình phát
triển văn học của dân tộc, đối với đời sống tinh thần của con người vào thời
điểm cuốn nhật kí đó được ra mắt công chúng. Đóng góp lớn nhất mà những cuốn
nhật kí được viết trong thời kì đất nước có chiến tranh mang lại cho nền văn học
Việt Nam chính là giá trị tư liệu nhiều mặt về cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp
và cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩxâm lược của dân tộc Việt Nam liên tục trong
suốt gần ba chục năm. Nhưng nếu xét một cách toàn diện thì những bài viết này mới
chỉ mang tính chất là những bài viết thể hiện suy nghĩ, đánh giá, nhận xét ở mức độ
cơ bản về từng cuốn nhật kí; nếu là những đánh giá chung về nhật kí chiến tranh thì
đó cũng mới chỉ là những đánh giá mang tính tổng thể về giá trị của thể loại này
trên phương diện lịch sử hoặc trong lĩnh vực văn học. Những bài nghiên cứu về
nhật kí chiến tranh có tính chất chuyên sâu xuất hiện rất ít. Có thể nói nghiên cứu về
nhật kí chiến tranh bước đầu chỉ dừng lại ở việc giới thiệu sách và khai thác thông
tin bên lề tác phẩm, chứ chưa có công trình nghiên cứu văn học cụ thể nào nghiên

cứu chuyên sâu về thể loại nhật kí nói chung, về Yếu tố trữ tình trong thể loại nhật
kívăn họcnói riêng. Nhìn chung, qua khảo sát và tìm hiểu, chúng tôi thấy các công
trình, bài nghiên cứu còn sơ sài. Cho nên việc nghiên cứu sâu hơn về Yếu tố trữ tình
trong thể loại nhật kí văn học là một việc làm cần thiết. Có thể nói khóa luận của

4


chúng tôi là một hướng đi khá mới mẻ trong việc nghiên cứu về Yếu tố trữ tình
trong thể loại nhật kí văn học cũng như đóng góp về thể loại của dòng sách này. Vì
thế luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong hội đồng và các thầy cô
giáo cho ý kiến đóng góp để bài khóa luận được hoàn thiện hơn.

3. Đối tượng và phạm vinghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Yếu tố trữ tình trong thể loại nhật kí văn học
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khóa luận này, chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu 4 cuốn Nhật kí nổi bật nhất
của 4 tác giả mà theo tôi các tác phẩm này hội tụ đầy đủ những yếu tố nằm trong
nội dung của đề tài: Nhật kí Đặng Thùy Trâm(Liệt sĩ - Anh hùng Đặng Thùy Trâm);
Mãi mãi tuổi hai mươi(Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc); Nhật kí chiến trường(Liệt sĩ Anh hùng Dương Thị Xuân Quý); Nhật kí (gồm 3 tập của Liệt sĩ - Nguyễn Huy
Tưởng)
Ngoài ra, trong khóa luận chúng tôi còn tìm hiểu, tham khảo một số sáng tác của
các tác giả khác để có căn cứ làm rõ vấn đề mà khóa luận trình bày.

4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về Yếu tố trữ tình trong thể loại nhật kí văn học, chúng tôi
hướng tớiviệc hiểu về tâm hồn của một thế hệ những chiến sĩ tham gia cuộc
chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ ác liệt của thế kỉ XX, đồng thời cũng khám

phá những giá trị nghệ thuật ẩn chứa trong các cuốn nhật kí.
Nghiên cứu các cuốn nhật kí chiến tranh cũng hướng tới việc nhìn nhận,
kiểm chứng văn học trong chiến tranh của Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận sẽ đi sâu vào nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của Yếu tố trữ tình
trong thể loại nhật kí văn học ở những phương diện như: Biểu hiện qua việc khắc
họa nội tâm nhân vật; Nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên; Những suy tư của tác
giả;Trữ tình ngoại đề; Sắc thái giọng điệu; Kết cấu linh hoạt và tự do của nhật kí.

5


Dựa trên cơ sở lí luận về Yếu tố trữ tình trong thể loại nhật kí văn họckhóa luận
mong góp phần làm sáng tỏ hơn những biểu hiện của Yếu tố trữ tình trong thể loại
nhật kí văn học qua một số những yếu tố, tín hiệu nghệ thuật của các cuốn nhật kí.

5. Phương pháp nghiên cứu
Triển khai đề tài, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được vận dụng đểtìm
hiểu, cắt nghĩa, lí giải những đặc điểm về nội dung và hình thức của nhật kí chiến tranh.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Trong quá trình tìm hiểu những đặc trưng
cơ bản của nhật kí, phương pháp này được vận dụng để so sánh, đối chiếu nhật kí
với những thể loại khác nhằm tìm ra sự khác biệt, đặc trưng của nhật kí.
- Bài viết cũng được thực hiện từ góc nhìn thi pháp học để xem xét, đánh giá
các yếu tố thuộc về hình thức nghệ thuật theo những tiêu chí thi pháp, trong thể nhật
kí về đề tài chiến tranh.

6. Đóng góp của khóa luận
Nhật kí chiến tranh là một thể loại khá mới mẻ. Do vậy những đóng góp của nhật kí
chiến tranh cho dòng văn học viết về đề tài chiến tranh nói riêng và văn chương

Việt Nam nói chung dường như vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Với đề tài Yếu
tố trữ tình trong thể loại nhật kí văn học,chúng tôi mong muốn luận văn sẽ mang lại
cái nhìn toàn diện về những đóng góp của thể loại nhật kí chiến tranh trong đời sống
văn học Việt Nam cũng như giá trị nhân văn cao cả mà dòng sách này mang đến.

7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của bài viết được
triển khai trong hai chương
Chương 1: Yếu tố trữ tình trong văn học và đôi nét về thể loại nhật kí văn học
Chương 2: Biểu hiện của yếu tố trữ tình trong thể loại nhật kí văn học

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: YẾU TỐ TRỮ TÌNH TRONG VĂN HỌC VÀĐÔI NÉT
VỀ THỂ LOẠI NHẬT KÍ VĂN HỌC

6


1.1. Biểu hiện của yếu tố trữ tình trong nhật kí văn học văn học
1.1.1. Khái niệm
Trữ tình là một phương thức cơ bản của sáng tác nghệ thuật, có nội dung
phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện những ý nghĩ, xúc cảm, tâm trạng riêng của
con người trước cuộc sống. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm trữ tình.
Theo từ điển thuật ngữ văn học trữ tình (tiếng Pháp-lyrique) “Là phương thức tái
hiện đời sống” và “được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học”[12, 385].
“Phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con
người luôn cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình
đối với thế giới và nhân sinh”[12, 373]. Trong Dẫn luận nghiên cứu văn học,
Khalizev viết“Tính trữ tình là một tâm trạng xúc cảm cao cả được thể hiện qua
ngôn từ của tác giả, người kể chuyện và nhân vật” [7; 204], và “Cái chủ yếu của

trữ tình là những suy tư và và miêu tả có suy tư màu sắc xúc cảm” [10; 323].

1.1.2. Biểu hiện
Từ các khái niệm trên ta có thể thấy yếu tố trữ tình trong văn học được biểu
hiện ở nhiều phương diện nhưng về cơ bản chúng được biểu hiện rõ nhất ở một số
yếu tố sau

1.1.2.1. Độc thoại nội tâm
Độc thoại nội tâm là thủ pháp khám phá chiều sâu con người bên trong nhân
vật. Theo chiết tự, độc thoại có nghĩa là “Tự nói một mình” là hình thức giao tiếp
chỉ có một bên, không bị tác động, chi phối bởi ngôn cảnh của một cuộc thoại, là lời
tự nhủ, tự mình nói với mình của các nhân vật. Nếu đối thoại là hình thức giao tiếp
sử dụng hình thức nói năng giữa người này với người khác thì độc thoại là dạng
giao tiếp đặc biệt của ngôn ngữ nhân vật, là hình thức nói với chính mình. Mà qua
lời độc thoại đó người tiếp nhận ngôn bản (người đọc) có thể hiểu được tâm trạng
nhân vật dù đó chỉ là kiểu ý nghĩ - tư duy bằng ngôn ngữ thầm. Đây là thủ pháp khá
phổbiến trong các tác phẩm văn học.

7


1.1.2.2. Trữ tình tình ngoại đề
Trữ tình ngoại đề là một hình thức ngôn ngữ của tác giả kiêm người trần
thuật, mang tính biểu cảm cao so với trần thuật tự sự. Lời trữ tình ngoại đề chính là
phần mà tác giả thể hiện ngoài nội dung của tác phẩm. Với các thể loại truyện ngắn,
tiểu thuyết hay trữ tình thì các đoạn trữ tình ngoại đề xuất hiện đúng với chức năng
và ranh giới của nó, thường tách riêng ra ngoài sự miêu tả để nhằm bình luận đánh
giá về đối tượng khác nhưng được công bố công khai, đó được coi như là một cách
tác giả tự xây dựng hình tượng của mình đến gần hơn với độc giả với tư cách là
người trò chuyện thân cận, là hình thức sử dụng ngôn ngữ đặc biệt và qua đó tác

giả có thể dễ dàng xâm nhập vào thế giới tâm hồn của bạn đọc, cũng có thể như
những lời tâm sự (nhận xét, đánh giá) đối với nhân vật hình tượng trong tác phẩm
nhằm gợi ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc.
Trong quan hệ với tác giả, trữ tình ngoại đề trực tiếp thể hiện tư tưởng tác
giả, giúp cho việc xây dựng hình tượng tác giả như một người trò chuyện tâm giao
với độc giả. Do đó, trữ tình ngoại đề là phương tiện giúp soi sáng nội dung tư tưởng
của tác phẩm: bộc lộ đầy đủ và trực tiếp hơn thái độ, sự đánh giá nhân vật, cũng như
quan niệm nhân sinh của tác giả. Qua trữ tình ngoại đề, người ta thấy trực tiếp hình
tượng tác giả. Trữ tình ngoại đề thường là xuất hiện khi tác giả miêu tả một cảnh
vật, một hiện tượng, một nhân vật nào đó, tiếp đến là những lời bình luận, đánh giá,
đặc biệt là thổ lộ “Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung;
Những người bạc ác tinh ma, Mình làm mình chịu kêu mà ai thương; Chữ tâm kia
mới bằng ba chữ tài; Tu là cõi phúc, tình là dây oan” (Truyện Kiều - Nguyễn Du).
Trữ tình ngoại đề chính là điểm giao thoa giữa thể loại tự sự và trữ tình.Tính ước lệ
của xúc cảm ngôn từ thi ca khiến trữ tình ngoại đề thường phổ biến ở các tiểu thuyết
bằng thơ, truyện thơ hoặc những tác phẩm văn xuôi mang tính biểu cảm cao.

1.1.2.3. Giọng điệu
Giọng điệu là một phương biểu hiện tiêu biểu của chủ thể tác giả. Các nhà
nghiên cứu Việt Nam cho rằng “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ

tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên
phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” [12]. Như vậy,

8


điểm nổi bật của giọng điệu là qua nó, nhà văn thể hiện thái độ, tư tưởng, tình cảm
của chính mình.


1.2. Về thể loại nhật kí
Dưới nhiều góc độ khác nhau của đời sống hiện thực, văn học bằng thế mạnh
của mình đã phản ánh, khai thác đời sống hiện thực dưới nhiều phương diện khác
nhau, khai thác triệt để mọi khía cạnh của cuộc sống cũng như những cung bậc cảm
xúc của thế giới tâm hồn con người trong sự đa dạng muôn màu làm nên sự phong
phú trong tâm hồn trước hiện thực đời sống xã hội.Thế giới khách quan được nhìn
qua thế giới chủ qua của tác giả,hiện thực sinh động được phản ánh cụ thể độc đáo
trong tác phẩm văn chương. Để có thể hoàn thành tốt sứ mạng của mình, văn học
nghệ thuật không chỉ mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mà còn phản ánh hiện
thực cuộc sống một cách đa dạng với nhiều thể loại phong phú như thơ, tiểu thuyết,
truyện ngắn, kịch, phóng sự… Mỗi một thể loại lại có thế mạnh riêng làm nên sức
hấp dẫn của văn chương. Nhật kí cũng là một loại hình có sức hút lớn đối với các
nhà văn, giới nghiên cứu cũng như bạn đọc. Là một biến thể của loại hình kí, nhật kí
mang những đặc điểm chung của thể loại, đồng thời cũng có những nét riêng độc
đáo góp phần làm nên sự phong phú đa dạng của văn chương nghệ thuật.

1.2.1. Khái niệm nhật kí
Trong văn học Việt Nam, nhật kí xuất hiện chưa nhiều. Trước thời điểm 2005,
số lượng nhật kí chỉ đếm trên đầu ngón tay. Bởi lẽ đó, thể loại nhật kí được đề cập
hết sức sơ lược, khái quát và cũng chỉ giới hạn trong một số mục nhỏ của bài viết,
của giáo trình, công trình chứ chưa trở thành đối tượng nghiên cứu của công trình
nghiên cứu độc lập. Thậm chí, khái niệm nhật kí như một thể loại văn học cũng mới
được nhắc đến trong cuốn giáo trình Lí luận văn học xuất bản gần đây. Có thể nói,
một trong những công trình đầu tiên đề cập đến nhật kí như một thể loại văn học là
cuốnTừ điển thuật ngữ văn học[12] của tập thể các tác giả. Trong mục “Kí” các tác
giả đã định nghĩa về thể kí “Một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và
văn học, gồm nhiều thể chủ nếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, kí sự, nhật
kí tùy bút…”[12;137]. Đến mục nhật kí, các tác giả đưa ra định nghĩa “Một thể loại

9



thuộc loại hình kí. Nhật kí là hình thức tự sự ở ngôi thứ nhất được thực hiện dưới
dạng những ghi chép hằng ngày theo thứ tự ngày tháng về những sự kiện của đời
sống mà tác giả hoặc nhân vật chính là người trực tiếp tham gia hay chứng kiến,
khác với hồi kí, nhật kí thường ghi lại những sự kiện, những cảm nghĩ”[12; 200].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học[12] thì nhật kí “Là một thể loại thuộc loại hình kí”,
là một dạng biến thể của kí hiện đại. So với các thểloại khác như tiểu thuyết, thơ…thì
kí xuất hiện muộn hơn, tận thế kỉ XVIII khi có sự gia tăng chú ý đến thế giới nội tâm
của con người, khi xuất hiện nhu cầu tự bộc bạch, tự quan sát thì thể loại này mới
xuất hiện ở Châu Âu và phát triển cực thịnh vào thế kỉ XIX. Ở Việt Nam, thể kí ra
đời muộn, có thể lấy điểm mốc cho sự xuất hiện của thể loại này ở thời Lý- Trần với
Vũ trung tùy bút và Thượng kinh kí sự. Cũng như ở phương Tây, thể kí ở Việt Nam
cũng được coi là thể loại mở đường dẫn tới sự phát triển rực rỡ của chủ nghĩa hiện
thực trong văn học nghệ thuật. Qua nhiều giai đoạn lịch sử, kí cũng có những biến thể
cho phù hợp với xu thế phát triển của văn học. Nhật kí chính là một dạng biến thể của
kí hiện đại bên cạnh hồi kí, tùy bút, tản văn, phóng sự…
Trong Từ điển văn học (bộ mới) [4] định nghĩa nhật kí là “Loại văn ghi chép sinh
hoạt thường ngày. Trong văn học, nhật kí là hình thức trần thuật từ ngôi thứ nhất số
ít, dưới dạng những ghi chép hàng ngày có đánh số ngày tháng(…) bao giờ cũng
chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, những gì đã nếm trải, thể nghiệm; nó ít hồi cố; được
viết ra chỉ cho bản thân người ghi chứ không tính đến việc được công chúng tiếp
nhận”[4; 1257]. Trong cuốn giáo trình Lí luận văn học, tập 2: Tác phẩm và thể loại
văn học do Trần Đình Sử chủ biên [5] định nghĩa “Nhật kí là thể loại kí ghi chép sự
việc, suy nghĩ, cảm xúc hàng ngày của chính người viết, là những tư liệu có giá trị
về tiểu sử và thời đại của người viết”[12;261]
Như vậy, có thể nói rằng, nhật kí chính là những ghi chép của cá nhân về những sự
kiện, những cảm xúc, suy nghĩ trước những sự kiện xảy ra trong ngày hay trong thời
điểm gần mang tính chân thực và độ tin cậy cao.


1.2.2. Dạng thức tồn tại của nhật kí
Cũng giống như dạng thức tồn tại của một số thể loại văn học, dạng thức tồn
tại của nhật kí rất đa dạng.

10


1.2.2.1. Chủ yếu viết bằng văn xuôi
Thông thường nhật kí thường được viết bằng văn xuôi, người viết thường sử
dụng ngôn ngữ để ghi lại và không chịu qui định về số câu, số chữ hay những qui
định về vần, điệu như trong thơ ca, người viết tự do viết theo cảm xúc, suy nghĩ và
có thể xuống dòng chuyển đoạn và khi hết câu thì chấm ở cuối dòng. Đây là dạng
thức tồn tại chủ yếu và cũng là phổ biến nhất của thể loại nhật kí, tiêu biểu như:
Nhật kí Đặng Thùy Trâm của Đặng Thùy Trâm; Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn
Văn Thạc; Nhật kí chiến trường của Dương Thị Xuân Quý; Nhật kí chiến tranh của
Chu Cẩm Phong; Nhật kí Nguyễn Ngọc Tấn; Nhật kí chiến dịch của Nguyễn Thành
Vân; Nhật kí của Nguyễn Huy Tưởng… Tất cả đều được viết bằng văn xuôi. Tuy
nhiên do đặc điểm của thể loại nhật kí là tính riêng tư nên đôi khi có trường hợp có
người làm giả nhật kí hoặc mượn hình thức của nhật kí để sáng tác. Bởi vậy trong
dạng thức văn xuôi nhật kí còn xuất hiện như một truyện ngắn hoặc tiểu thuyết như
Nhật kí công chúa của tác giả người Anh - Meg, tiểu thuyết Nhật kí son môi của tác
giả Vũ Phương Thanh…

1.2.2.2. Có thể tồn tại dưới dạng tập thơ
Bên cạnh dạng thức văn xuôi, nhật kí còn được mượn hình thức của nó để
sáng tác thơ ca tiêu biểu là cuốn Nhật kí trong tù của Nguyễn Ái Quốc, Nhật kí
trong tù thực chất là một tập thơ nhưng tác giả đã mượn hình thức của nhật kí đề
sáng tác, Nhật kí chìm tàu của Nguyễn Ái Quốc, Chàng ngốc của Doxtoiepki… Đây
là dạng thức tồn tại thứ hai của thể loại nhật kí.


1.2.2.3. Có thể tồn tại dưới dạngthư điện tử
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa kĩ thuật và công nghệ điện tử nên
phần nhiều con người chuyển sang một dạng khác của nhật kí đó là nhật kí điện tử
như: Blog cá nhân, Zalo, Facebook, Instagram, Line, Zingme, Viber…Nguyên nhân
là do cuộc sống hiện đại cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, con người tiếp
xúc và làm việc với máy móc, công nghệ điện tử nhiều nên việc sử dụng nhật kí
điện tử trở nên phổ biến đồng thời khả năng lưu giữ tốt hơn. Đây là dạng thức tồn
tại thứ ba của nhật kí.

11


1.2.3. Một vài đặc điểm của thể loại nhật kí
Từ các dạng thức tồn tại nêu trên của nhật kí, xét một cách tổng thể thì đặc
trưng của thể loại nhật kí nói chung và nhật kí văn học nói riêng có những đặc điểm
cơ bản sau.
1. Là một biến thể của kí, nhật kí mang những nét đặc điểm chung nhất của kí, đồng
thời lại có những đặc điểm riêng biệt làm nên nét độc đáo của thể loại. Với thể kí thể loại được coi là sự can thiệp trực tiếp của nghệ thuật vào đời sống xã hội thì đặc
điểm nổi bật nhất của nhật kí là khả năng ghi chép tỉ mỉ, trung thực, chính xác diễn
biến của những sự việc hiện tượng xảy ra xung quanh người viết. Nhật kí cũng vậy,
dù là nhật kí văn học hoặc nhật kí ngoài văn học đều coi trọng tính chân thực, đáng
tin cậy của sự kiện được ghi chép lại. Vì một cuốn nhật kí trước hết là sự giao lưu
của người viết với chính bản thân họ, bao giờ cũng ghi lại những điều đã xảy ra,
nếm trải, thử nghiệm. Với các nhật kí ngoài văn học thì tính xác thực là yếu tố quan
trọng hàng đầu chẳng hạn một cuốn nhật kí công tác hay nhật kí khoa học đòi hỏi
một sự chính xác cao hay với nhật kí riêng tư yếu tố bí mật là yếu tố quan trọng vì
nó là những lời bộc bạch tâm sự của chủ thể không hướng tới mục đích quảng bá
nên những điều viết ra luôn chân thực. Còn trong nhật kí văn học để mang tính hiện
đại cho những vấn đề có ý nghĩa lớn thì bản thân việc ghi chép phải có sự chân thực
mới thu hút được sự quan tâm của độc giả cũng như xã hội, người viết luôn có ý

thức lựa chọn những sự kiện tiêu biểu nhất, có ý nghĩa nhất với việc thể hiện tính
nhiều mặt của đời sống xã hội hoặc có tác động mạnh mẽ đến cảm xúc, đến suy
nghĩ của người viết để đưa vào trang viết. Ví dụ như nhật kí Ở rừng của Nam Cao
là những ghi chép chân thực những ngày tháng gian khổ mà đầy ý nghĩa trong
những ngày đầu hoạt động cách mạng của nhà văn, đó cũng là những gian khổ và
thách thức của các văn nghệ sĩ. Tác phẩm thành công bởi nó chứa đựng những cảm
xúc chân thành của người viết thể hiện tư tưởng, tình cảm và cái nhìn bao quát mọi
sự vật, sự việc.
2. Nhật kí là lời tâm sự bộc bạch, chia sẻ lúc cô đơn của tác giả hoặc nhân vật. Vì
thế có thể nói nhật kí là thể loại mang tính chất riêng tư, tính chân thật và đời
thường “Với tư cách là những ghi chép cá nhân, trong nhật kí, người viết có thể tự

12


do trình bày suy nghĩ, quan điểm, tình cảm và thái độ trước một sự thật” [26; 215].
Riêng tư chính là lí do tồn tại của nhật kí, là yếu tố hấp dẫn của thể loại văn học đặc
biệt này, vì nó liên quan đến những tâm tư, tình cảm, bí mật của cá nhân, đặc biệt là
những nhân vật được xã hội quan tâm.Trong nhật kí tính “ghi việc” luôn kết hợp
chặt chẽ với việc bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của con người. Nhật kí được viết không
phải mục đích xã hội mà là do nhu cầu tự thân của người viết, nhu cầu thổ lộ những
cảm xúc riêng tư và giúp người viết ghi lại những cảm xúc, sự việc của chính mình.
Đến lượt nó nhật kí lại quay lại phục vụ chính tác giả đã sinh ra mình, giúp họ nhớ
lại, hồi tưởng lại những sự kiện, tâm trạng mình đã từng trải nghiệm. Tóm lại nhật
kí mang tính chất riêng tư, giãy bày xuất hiện khi con người có nhu cầu được giải
tỏa cảm xúc, suy nghĩ và những điều không thể nói.
3. Điều khác biệt giữa nhật kí so với các cuốn nhật kí thông thường là hoàn cảnh ra
đời, nhật kí thường được ra đời trong những hoàn cảnh đặc biệt, viết trong những
phút giây con người giáp mặt với sự sống và cái chết, nỗi cô đơn, biệt li, tan vỡ, bất
hạnh, là những dòng ghi chép vội vàng lúc, ngắt quãng lúc giải lao sau bao cuộc hành

quân vất vả… Vì vậy nó luôn là những tâm sựđể gửi gắm lòng mình. Nhật kí Nguyễn
Ngọc Sơn viết trong những ngày tháng anh mang trọng bệnh. Căn bệnh suy thận mãn
tính luân rình rập cướp đi mạng sống của chàng trai mới ngoài 20 tuổi. Cô đơn và
khủng hoảng, Sơn tìm đến nhật kí, những điều không thể thổ lộ cùng ai, Sơn trút vào
cả nhật kí, những người xung quanh chỉ thấy Sơn cười rất lạc quan và luôn cặm cụi
làm việc. Trong nhật kí của anh, qua những dòng tâm sự đẫm nước mắt, người đọc lại
thấy một Nguyễn Ngọc Sơn suy sụp, hoảng loạn và tuyệt vọng trước án tử hình của
bệnh tật đang treo lơ lửng trên đầu “Sao, tôi bị sao thế này? Có lẽ tôi sắp chết rồi
chăng? Những cơ tê cứng đã bắt đầu xâm lấn cơ thể, từ dưới lên trên, có những chỗ
đã chẳng có cảm giác gì nữa. Nước mắt lại chảy ra rồi, cuộc đời ơi tôi sao chết trẻ
thế này? Bao nhiêu phấn đấu chả nhẽ để tan như bong bóng xà phòng? Không! Tôi
chưa muốn chết, ai cứu tôi với” [11;27]. Bởi vậy nhật kí luôn là lời thổ lộ lúc cô đơn,
là nơi chứa đựng những bí mật riêng tư không thể nói ra.

13


4. Nhật kí là thể loại độc thoại, tự mình nói với mình vì thế nhân vật chính, nhân vật
trung tâm luôn là bản thân người viết ở ngôi thứ nhất. Đó là chủ thể của những nỗi
niềm tâm sự, những cảm nhận, là người trong cuộc chứng kiến sự việc xảy ra và ghi
chúng lại“Sáng hôm nay tôi tỉnh dậy sớm và không ngủ được. Tôi đi đặt một cuốn
“Thơ Thơ” của Xuân Diệu, mua một cuốn “Trung Quốc Sử cương”, một tập
“Đường thi”, một quyển “Bà Chúa chè” mà không đủ nghị lực mà sách nữa” (
Nhật kí Nguyễn Huy Tưởng).“Nhật kí là những ghi chép hằng ngày về những điều
mắt thấy tai nghe”[1; 214]. Những điều mắt thấy tai nghe được ghi lại ấy nhất thiết
phải là những chuyện liên quan đến cuộc sống cá nhân người viết, có ý nghĩa tác
động cụ thể nhất định đến họ. Bởi vậy nhật kí bao giờ cũng là ngôi kể thứ nhất,
chính điều này góp phần tạo nên sự hấp dẫn của nhật kí cá nhân. Người đọc luôn
chờ đợi ở nhật kí những chuyện bí mật nhất của cá nhân người viết không thể nói ra
nhưng lại được bộc lộ ra rõ ràng, không che đậy, không giấu diếm trong những ghi

chép đó. Bởi vậy trong sáng tác văn học, nhiều khi tác giả sử dụng hình thức nhật kí
như một thủ pháp nghệ thuật để tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm.
5. Một đặc điểm nữa của nhật kí đó là lời văn của nhật kí là sự ngắn gọn, tự
nhiên bởi nó là lời nói bên trong, là tiếng nói nội tâm về những sự việc riêng tư,
những tâm sự thầm kín. Vì thế lời văn thường kết hợp linh hoạt giữa tự sự và trữ
tình, giữa ngôn ngữ đời thường và giọng văn trữ tình mượt mà.
6.Thông thường, nhật kí được viết bằng văn xuôi. Thế nhưng đôi lúc nhật kí lại
xuất hiện như là một truyện ngắn: Nhật kí người điên của LỗTấn, hay có thể được
thể hiện dưới hình thức một tập thơ: Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.

1.2.4. Sự hình thành và phát triển của thể loại nhật kí
Ở nhiều nước trên thế giới, thể loại nhật kí đã phổ biến từ rất lâu và thực sự
nhật kí đã được coi là một thể loại văn học. Trong bài Về lối văn nhật kí đăng trên
báo Phụ Nữ tân văn, số 150, ra ngày 23/6/1932, Phan Khôi cho biết là ở Trung Hoa,
từ mấy trăm năm nay, việc viết nhật kí đã khá phổ biến; riêng ở Nhật, nhật kí xuất
hiện sớm hơn nữa “Vào thời trung cổ của họ, từ một ngàn năm nay, mà cũng đã có
nhiều bản nhật kí truyền đạt đến bây giờ” [24]. Phan Khôi ước mong là người Việt

14


Nam hãy tập thói quen ghi chép nhật kí. Ông còn khẳng định “Nhật kí, không nói
quá có lẽ nó là cái thước để đo trình độ văn minh của một dân tộc” [24]. Ở Nhật,
nhật kí được gọi là Nikki Bungaku, thể loại này xuất hiện rất sớm trong giai đoạn
đầu đời sống văn học trung đại. Hiện nay, cuốn nhật kí cổ nhất còn được lưu giữ là
cuốn Tosa Diary (Nhật kí Tosa) của Kino Tsurayuki được viết vào khoảng năm
935; nhiều cuốn nhật kí nổi tiếng từ thời trung cổ được dịch ra tiếng Anh: Sara
Shina Nikki (Khi tôi băng qua chiếc cầu của những giấc mơ) - viết vào khoảng thế
kỉ XI, cuốn Nhật kí thơ Nhật Bản, Nhật kí của người phụ nữ Nhật cao quý… Nhật
kí ở Nhật Bản ngày xưa được chia thành hai loại. Loại đầu, viết bằng chữ Hán, toàn

là nhật kí công vụ, chuyên ghi chép những sự kiện xảy ra hàng ngày trong cung
đình, chỉ có ý nghĩa sử liệu. Loại thứ hai, viết bằng chữ Nhật, chú trọng vào tâm
tình và đời sống riêng tư, rất có ý nghĩa văn học. Ở đây, nội dung và giá trị của các
cuốn nhật kí rõ ràng là có quan hệ mật thiết đến vấn đề văn tự. Ở phương Tây, thể
tài nhật kí xuất hiện rất sớm trong đời sống văn học và thực sự đã có nhiều đóng
góp đáng kể cho văn học.
Ở Việt Nam thể loại nhật kí xuất hiện khá muộn so với các thể loại khác như
thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết… Tuy nhiên nhật kí cũng đã bắt đầu manh nha từ
khoảng thế kỉ XVIII. Sự hình thành và phát triển của thể loại nhật kí ở Việt Nam về
cơ bản được chia theo một số giai đoạn như sau.

1.2.5. Sự hình thành và phát triển của thể loại nhật kí ở Việt Nam
1.2.5.1. Nhật kí trong giai đoạn từ đầu thế kỉ XVIII đến trước năm 1930
Ở Việt Nam thể loại nhật kí xuất hiện khá muộn. Tuy nhiên nhật kí đã bước
đầu manh nha trong nền văn học dân tộc giai đoạn từ đầu thế kỉ XVIII đến trước
năm 1930. Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác được đánh là là đỉnh cao của thể kí
thời trung đại. Qua tác phẩm ta nhận thấy sự tài tình của tác giả khi kết hợp đồng
thời nhiều tiểu loại của kí như du kí, nhật kí, hồi kí… Như vậy đặc điểm của kí đã
bắt đầu xuất hiện trong những tác phẩm kí thời trung đại. Ta cũng thấy một số đặc
điểm của kí xuất hiện thơ Cao Bá Quát, khi làm thơ thường ghi rõ ngày nào, làm gì,
ở đâu… tiêu biểu như các tác phẩm Thanh minh nhật cảm tác, Đêm mười bảy dưới

15


trăng viết vội thư gửi bạn họa Trần Ngộ Hiên… Sự manh nha này góp phần định
hướng, tạo tiền đề cho sự xuất hiện và phát triển của nhật kí trong giai đoạn sau.

1.2.5.2. Nhật kí trong giai đoạn 1930 - 1945
Trong giai đoạn này thể loại nhật kí cũng đã bắt đầu xuất hiện nhưng chưa

nổi bật. Cũng đã có nhà văn viết nhật kí nhưng giai đoạn này chưa nhận được sự
quan tâm của độc giả.

1.2.5.3. Nhật kí giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
Đây là giai đoạn nhật kí bắt đầu phát triển và ghi lại dấu ấn của mình trong
quá trình phát triển của nền văn học Việt Nam. Chiến tranh chính là mảnh đất màu
mỡ làm nảy sinh đội ngũ các nhà văn chuyên và không chuyên viết về nhật kí, từ đó
tạo nên thành tựu to lớn của thể loại này. Các tác phẩm nhật kí tiêu biểu trong giai
đoạn này như cuốn Nhật kí Ở rừng (1948) của Nam Cao, Một tháng đi theo pháo
binh (1948) của Hoài Thanh, Nhật kí của Nguyễn Huy Tưởng… Bên cạnh đó còn
có nhật kí của những nhà văn không chuyên như những trang nhật kí của Phan Phú
- chính trị viên đại đội một đơn vị chủ lực được lưu lại trong cuốn sổtay của Tô
Hoài, nhật kí của Lê Nguyên - Đại đội trưởng Đại đội 156, sư đoàn 308…

1.2.5.4. Nhật kí trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
đấu tranh thống nhất nước nhà (1955 - 1975)
Đây là giai đoạn nhật kí tiếp tục phát triển và vươn tới đỉnh cao với nhiều
cuốn nhật kí để lại giá trị to lớn cả về mặt tư liệu lẫn nghệ thuật. Các nhật kí được
sáng tác bởi đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp tiêu biểu như Chu Cẩm Phong, Dương
Thị Xuân Quý, Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyễn Minh Châu… Người viết không chuyên
trong giai đoạn này xuất hiện nhiều hơn trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp,
tiêu biểu như Nhật kí Đặng Thùy Trâm của Đặng Thùy Trâm, Mãi mãi tuổi hai
mươi của Nguyễn Văn Thạc, nhật kí của Nguyễn Văn Giá, nhật kí của Vũ Xuân….

1.2.5.5. Nhật kí trong giai đoạn sau 1975 đến nay
Sau năm 1975, đặc biệt là từ những năm gần đây nhật kí càng trở nên phổ
biến và gần gũi với con người hơn. Con người ngày càng có nhu cầu ghi chép
những gì xảy ra xung quanh, ghi chép lại những cảm xúc của bản thân và nhật kí

16



chính là nơi mỗi cá nhân kí gửi những điều riêng tư đó. Có một điều đặc biệt hơn so
với giai đoạn trước là bên cạnh những trang nhật kí được lưu lại trong cuốn sổ tay
thì ngày nay, phần nhiều con người chuyển sang một dạng khác của nhật kí đó là
nhật kí điện tử như Blog cá nhân, Zalo, Facebook, Viber, Instagram, Zingme,
Line…Nguyên nhân là do cuộc sống hiện đại cùng với sự phát triển của khoa học kĩ
thuật, con người tiếp xúc và làm việc với máy móc nhiều nên việc sử dụng nhật kí
điên tử trở nên phổ biến đồng thời khả năng lưu giữ tốt hơn.

17


CHƯƠNG 2:BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ TRỮ TÌNH
TRONG THỂ LOẠI NHẬT KÍ VĂN HỌC
2.1.Biểu hiện qua việc khắc họa nội tâm nhân vật
Nhật kí cá nhân là lời thổ lộ của con người lúc cô đơn nên không chỉ ghi
chép sự việc hàng ngày mà còn ghi lại suy nghĩ cảm xúc của chính người viết. Bởi
thế, nội dung của nhật kí chiến tranh không chỉ ghi chép chân thực về đất nước, con
người Việt Nam trong chiến tranh mà còn thể hiện tư tưởng tình cảm của người viết
- những người chiến sĩ đang hằng ngày, hằng giờ đối diện với kẻ thù trước hiện thực
chiến trường ác liệt, đặc biệt là những suy nghĩ, tâm tư tình cảm không thể bộc lộ,
không thể thể hiện ra bên ngoài. Nơi lửa đạn ấy, họ suy nghĩ gì về sự sống và cái
chết, về niềm tin và trách nhiệm. Tất cả những điều ấy đều được thổ lộ, giãy bày
trong nhật kí.

2.1.1. Qua tâm trạng của người trong cuộc
Đáp lại lời kêu gọi của đất nước, hàng vạn trái tim tràn đầynhiệt huyết tuổi
trẻđã hăng hái xung phong ra trận, bỏ lại sau lưng là sách vở và mái trường, là hạnh
phúc sum vầy bên gia đình người thân, bạn bè… hồ hởi khoác trên mình chiếc ba lô

lên đường đến chiến trường khốc liệt - nơi thiếu thốn, hi sinh, đói khổ, bệnh tật luôn
hiện hữu. Trong văn học viết về đề tài chiến tranh, hình tượng người lính giữa chiến
trường luôn được miêu tả thật đẹp, với những phẩm chất sáng ngời, anh dũng, hiên
ngang, xả thân vì lí tưởng cách mạng, không mảy maytrăn trở, bận lòng bởi tình
riêng. Những cuộc chia li giữa người ở lại hậu phương và người ra chiến trận “chói
người sắc đỏ”. Tâm trạng của thế hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” là “Lòng
phơi phới dậy tương lai”.Trường sơn, nơi đạn bom kẻ thù trút xuống nhiều nhất lại
là nơi hẹn hò, gặp gỡ, là một nơi địa chỉ của tình yêu. Hạnh phúc cứ nảy nầm, đơm
hoa kết trái từ trong gian khổ, ngặt nghèo từ trong khói bom đạn lửa. Thế nhưng, đó
chỉ là cái nhìn một chiều trong cảm hứng lãng mạn để động viên tinh thần người ra
trận, kích thích ý chí và nhiệt tình cách mạng. Chiến trường khốc liệt, bom đạn trút

18


xuống điên cuồng, biết bao hiểm nguy luôn rình rập người lính từng giây, tình phút.
Sống trong không khí ấy con người không thể lúc nào cũng lạc quan, phơi phới dẫu
cho có gan dạ, anh dũng, thấm thía lí tưởng cách mạng. Qua những những dòng tâm
sự của người lính trong nhật kí chiến tranh những tâm tư sâu kín, những tư tưởng,
tình cảm, suy nghĩ không thể biểu lộ ra ngài được thể hiện một cách rõ nét và chân
thực nhất.
Trước tiên là những đau đớn, âu lo bởi sự tàn khốc của chiến tranh. Bao cái
chết của bạn bè, đồng đội của nhân dân gieo vào lòng người lính nỗi hãi hùng và cả
sự xót xa khi nghĩ đến bản thân mình. Nhật kí Đặng Thùy Trâm thổ lộ những tâm
sự chân thực đến ứa máu về nỗi đau xót, tủi buồn của chiến tranh trong máu lửa. Là
một chiến sĩ - bác sĩ quân y gan dạ và dũng cảm, chị không hề run sợ khi đối mặt
với kẻ thù nhưng từ trong sâu thẳm tâm hồn trong giây phút riêng tư nhất, sống thật
với mình nhất chị lại cồn lên nỗi buồn tủi. Chứng kiến bao hi sinh, mất mát diễn ra
liên tiếp, chị liên tưởng đến bản thân mình và cảm thấy đau xót vô hạn trong dự cảm
chẳng lành. Chị hay nghĩ đến cái chết sẽ đến với mình trong nay mai, mỗi khi nghĩ

đến chị lại nhớ tới mẹ rất nhiều, thương mình, thương mẹ đến xé lòng. Trong cơn
đau đớn có cả sợ hãi nữa. Cái chết tới dễ dàng đến phi lí, mạng sống của con người
trong chiến tranh mong manh đến tội nghiệp. Trong Đặng Thùy Trâm luôn trở đi trở
lại nỗi ám ảnh: Rất có thể chỉ ít phút nữa thôi hoặc mình hoặc người thân của mình
sẽ ngã xuống “Lấy gì để đảm bảo rằng em sẽ còn sống cho đến ngày chiến
thắng!”[18; 79]. “Mình vẫn cười vui với em nhưng trong lòng xót xa biết mấy. Có
thể đây cũng thể đây là lần cuối cùng ta gặp nhau” [18; 164]. Đây cũng là tâm trạng
chung của những tác giả nhật kí chiến tranh. Có cả những lúc chị thấy dội lên cảm
giác hoang mang. Đó là cảm giác không thể tránh khỏi của con người từng chứng
kiến bao tổn thất, thương vong của đồng đội trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, chị
thấy nhói lòng, dằn vặt “Từ đây đến ngày chiến thắng không xa nữa, nhưng đoạn
đường ấy bao nhiêu là xương máu hở các đồng chí thân yêu?” [18; 150]. Và chị đã
lí giải những đau đớn lo âu, dằn vặt, sợ hãi trong mình “Ôi! Ai mà hiểu được giá trị
của từng giây phút của cuộc sống hôm nay quý báu đến mức nào không? Một phút

19


sống là một phút chiến đấu phục vụ Cách mạng. Tôi muốn vô tư nhiều điều đó
không thể nào được, vô tư làm sao khi máu đồng chí của mình vẫn nhỏ ướt đường
đi?” [18; 220]. Đây cũng là tâm trạng chung của những tác giả trong các cuốn nhật
kí chiến tranh trực tiếp chiến đấu với kẻ thù. Không ai có thể vô tư giữa chiến
trường ác liệt. Những căng thẳng, xót xa ấy là có thật.
Bên cạnh đó còn là nỗi tủi cực khi nghĩ đến những mất mát, thiệt thòi của bản
thân do chiến tranh gây ra. Là con người đầy ý thức về bản thân nên Đặng Thùy
Trâm cảm thấy đau đớn khi tình yêu, tuổi trẻ và ước vọng của mình dần bị lụi đi bởi
chiến tranh, cơ hội tìm đến hạnh rất mong manh của chị đau dớn đến lặng người:
“Thêm một tuổi đời, vậy là cái tuổi ba mươi đâu còn xa nữa. Vài năm nữa thôi mình
sẽ trở thành một chị cán bộ già dặn đứng đắn. Nghĩ đến nó mình thoáng thấy buồn.
Tuổi xuân của mình đã qua đi trong khói lửa, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc

trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn
cái sáng ngời trong đôi mắt căng mọng khi cuộc đời còn ở độ tuôi hai mươi?
Nhưng… Tuổi hai mươi của thời nay đã phải dẹp lại những ước mơ và hạnh phúc
mà lẽ ra họ phải có…” [18;206]. Những xót xa quặn thắt cho số phận trong nhật kí
Đặng Thùy Trâm luôn đi cùng nỗi cô đơn thăm thẳm giữa chiến trường khốc liệt.
Chiến tranh đã khiến chị không được sống cùng những người thân yêu, ruột thịt,
bao nhiêu người gắn với chị trên mảnh đất Đức Phổ ác liệt cũng lần lượt ra đi. Đặng
Thùy Trâm luôn đau đớn, run rẩy trước những chia li. Cuộc chia li nào cũng đẫm
nước mắt, cảm giác cô đơn cứ trỗi dậy, tái tê. Trái tim nhạy cảm và yêu thương của
chị luôn run lên trong những dự cảm chẳng lành. Đối mặt với những lần “tử biệt”,
Đặng Thùy Trâm đau xót, hãi hùng “Hường ơi! Hường đã chết rồi sao? Mình nghe
tin mà bàng hoàng như cơn ác mộng(...) Xương máu đã chất cao như một ngọn núi
căm thù sừng sững trước mắt chúng ta”[18 ; 40].“Chị Hai về mang tin buồn: Anh
Dũng đã chết vì Mĩ bắt sống và giết tại chỗ. Đau xót biết chừng nào!”. [18; 68],
“Khiêm đã hi sinh rồi! Nghe tin mình bàng hoàng mà không tin là sự thực” [18;
73]. Rất nhiều lần chị tự động viên mình phải cứng rắn và bình tĩnh để vượt qua
nhưng nỗi đau xót và cô đơn vẫn nặng trĩu. Tuy cái chết không được miêu tả nhiều

20


×